MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN 5
I. TỔNG QUAN VỀ CÁC NGUỒN VỐN TÀI TRỢ CHO PHÁT TRIỂN KINH TẾ 5
1. Tiết kiệm trong nước: 5
2. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài: 5
1. Hỗ trợ phát triển chính thức-ODA( Official Development Assistance). 6
2. Phân loại nguồn vốn ODA 9
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA 10
3.1. Các nhân tố tác động đến nguồn vốn ODA từ phía các nhà tài trợ: 10
3.2. Các nhân tố tác động đến nguồn vốn ODA từ phía nhận tài trợ 11
CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM 12
1. Quy trình vận động, đàm phán và ký kết ODA tại Việt Nam 12
2. Quản lý nhà nước về ODA tại Việt Nam 13
II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM: 14
1. Tình hình thu hút – vận động nguồn vốn ODA tại Việt Nam: 14
2. Tình hình sử dụng và hiệu quả của nguồn vốn ODA tại Việt Nam 18
2.1. Công tác quản lý các dự án ODA còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ 21
2.2. Công tác huy độngODA còn chủ quan và thiếu chiến lược 22
2.3. Công tác triển khai các dự án ODA còn nhiều bất cập: 22
3. Nguyên nhân của những hạn chế 23
3.1. Về phía nhà tài trợ: 23
3.2. Về mặt chủ quan 23
CHƯƠNG III CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM 24
1. Giải pháp thu hút vốn ODA 24
2. Sử dụng 25
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả trong quan hệ với các nhà tài trợ 26
4. Chính sách: 27 5.Đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng 28
6. Con người 28
PHỤ LỤC: Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA 30
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm gần đây, nước ta liên tục đạt được nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực kinh tế chính trị xã hội. Trong năm 2009, tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 5,2%, nguồn lực đầu tư phát triển tăng trong điều kiện kinh tế thế giới suy giảm (tổng vốn đầu tư toàn xã hội bằng 42,2% GDP, tăng 16% so với năm 2008), bảo đảm được ổn định kinh tế vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Trong các nguồn vốn đầu tư cho phát triển xã hội, nguồn viện trợ phát triển chính thức – ODA là một trong những nguồn lực quan trọng góp phần hiện đại hóa và nâng cấp cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, thúc đẩy tiến trình phát triển và hội nhập của Việt Nam.
Việt Nam bắt đầu chính thức nhận được sự hỗ trợ của cộng đồng quốc tế cho mục tiêu phát triển thông qua nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) từ năm 1993. Tuy là quốc gia không phụ thuộc về viện trợ nhưng cũng như các nước đang phát triển khác, ODA là nguồn ngoại lực bổ sung quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển kinh tế xã hội tại Việt Nam. Thật vậy, hơn 60% khối lượng ODA được giải ngân đã đổ vào đầu tư cho cơ sở hạ tầng chính yếu, lĩnh vực được coi là cốt lõi để giúp Việt Nam duy trì mức tăng trưởng cao và giảm nghèo nhiều hơn. Cùng với sự đóng góp cho đầu tư, ODA chảy vào Việt Nam với nhiều chương trình, dự án liên quan đến cải cách thể chế và chính sách, tạo điều kiện cải cách bộ máy hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh, Không những thế, các chương trình liên quan đến giáo dục, sức khỏe và bệnh tật, bình đẳng giới, bảo vệ tài nguyên và môi trường cũng là những nội dung mà ODA đóng góp nhằm thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ tại Việt Nam.
Với gần 17 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA, Việt Nam tỏ ra làm một quốc gia nhận nhiều viện trợ và sử dụng viện trợ tương đối hiệu quả. Tuy nhiên, nếu xét về giá trị giải ngân thực tế, tổng giá trị nguồn vốn ODA đã được giải ngân vẫn chưa tương xứng so với giá trị cam kết của các nhà tài trợ. Năm 2010, Việt Nam chính thức trở
thành nước có thu nhập bình quân đầu người vượt 1.000USD/năm, hay nói cách khác, Việt Nam đã chính thức gia nhập cộng đồng các quốc gia có thu nhập trung bình. Điều này tiếp tục đặt ra nhiều thử thách cho Việt Nam trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà đặt biệt là nguồn ODA – một nguồn vốn giá rẻ.
Chính vì những lý do trên, nhóm đã chọn đề tài “Các nguồn lực đầu tư phát triển kinh tế”. Trong đó, nhóm đặt biệt đi sâu phân tích về nguồn ODA – một trong những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế cho các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, nhóm xin đổi tên đề tài thành “ODA – Một trong những nguồn lực phát triển của Việt Nam” cho phù hợp với nội dung đề tài
Nội dung gồm:
Chương 1: Tổng quan về các nguồn tài trợ cho phát triển kinh tế
Chương 2: Thực trạngvà hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA tại Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ODA tại Việt Nam
32 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3355 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các nguồn tài trợ cho phát triển kinh tế ODA – Một trong những nguồn lực phát triển của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n hợp tác kỹ thuật như
dịch vụ tư vấn, bí quyết thực thi một dự án đầu tư, đóng góp nhân sự trực tiếp thực
hiện dự án.
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA
3.1. Các nhân tố tác động đến nguồn vốn ODA từ phía các nhà tài trợ:
- Mục tiêu chiến lược cung cấp ODA của nhà tài trợ. Trong từng thời kỳ, căn cứ
vào mục tiêu chiến lược mà nhà tài trợ xác định tập trung vào khu vực nào, quốc gia
nào, theo phương thức nào. Nếu mục tiêu chiến lược cung cấp ODA của nước tài trợ
thay đổi thì nó sẽ ảnh hưởng đến quốc gia tiếp nhận về cả cơ cấu nguồn vốn ODA và
cơ chế chính sách quản lý.
- Tình hình kinh tế, chính trị cũng như các biến động bất thường có thể xảy ra ở
phía nhà tài trợ. Khi có những sự biến động bất thường thì chính sách và các quy định
về quản lý ODA cũng có thể thay đổi, dựa vào những đánh giá về các khoản ODA đã
được thực hiện trong thời gian qua của từng nhà tài trợ.
- Bầu không khí quốc tế và sự phát triển các mối quan hệ kinh tế, chính trị giữa
hai phía tài trợ và nhận tài trợ. Nếu bầu không khí và mối quan hệ này mà mang tính
tích cực thì sẽ tạo thuận lợi cho việc giữ vững và mở rộng quy mô nguồn vốn ODA và
cả đối với việc hài hoà thủ tục giữa hai bên và ngược lại.
3.2. Các nhân tố tác động đến nguồn vốn ODA từ phía nhận tài trợ.
- Sự ổn định của thể chế chính trị. Thực tế đã chỉ ra rằng, nếu thể chế chính trị ổn
định sẽ tạo điều kiện cho việc thu hút và quản lý tốt nguồn vốn ODA.
- Mức ổn định kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, đặc biệt là
chính sách tài chính, thuế, mức độ mở cửa của nền kinh tế... cũng có ảnh hưởng rất lớn
đến công tác quản lý. Nếu các chính sách này ổn định trong thời gian dài và hợp lý sẽ
góp phần cho quản lý nguồn vốn ODA tốt và ngược lại, sẽ gây ảnh hưởng đến việc
quản lý nguồn vốn này.
- Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến tổ chức quản lý, sử
dụng nguồn vốn ODA. Nếu các văn bản này ổn định và phù hợp sẽ góp phần cho công
tác quản lý tốt nguồn vốn ODA và ngược lại, sẽ làm ảnh hưởng rất nhiều đến công tác
quản lý nguồn vốn này theo chiều hướng không tốt.
- Trình độ phát triển kinh tế (đặc biệt là trình độ phát triển hệ thống thể chế kinh
tế), các điều kiện có liên quan đến năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ hay tốc độ tăng
trưởng kinh tế qua từng thời kỳ. Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý và cả
người dân về nguồn vốn ODA mà trước hết là các ngành, các cấp, các địa phương, các
cơ sở thụ hưởng trực tiếp... cũng đóng vai trò là các nhân tố có ảnh hưởng rất nhiều
đến công tác quản lý nguồn vốn ODA này của bên nhận tài trợ.
Ngoài ra còn có các nhân tố đặc thù liên quan đến lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng.
Các nhân tố đặc thù này thể hiện ở điều kiện và trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
ODA TẠI VIỆT NAM
I. QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
1. Quy trình vận động, đàm phán và ký kết ODA tại Việt Nam
Trước tiên, nước tiếp nhận xây dựng chiến lược, quy hoạch về thu hút và sử
dụng ODA (chính sách chung về ODA) ở cấp quốc gia để làm cơ sở vận động tài trợ
ODA. Ở bước 2: vận động ODA phải xác định cơ quan đầu mối chủ trì, tổ chức vận
động và điều phối ODA cũng như áp dụng các hình thức vận động phù hợp. Sau khi
có kết quả vận động ODA hay nói khác đi cộng đồng tài trợ đã có những cam kết tài
trợ cụ thể về lĩnh vực cũng như qui mô, bước 3 (chuẩn bị dự án ODA), nước tiếp nhận
chuẩn bị chi tiết dự án ODA với những nội dung như xác định loại hình dự án, chủ
đầu tư, xây dựng nghiên cứu tiền khả thi, nghiên cứu khả thi, thẩm định và phê duyệt
để đàm phán, ký kết điều ước quốc tế về ODA. Sau khi điều ước quốc tế về ODA, quá
trình triển khai thực hiện dự án sẽ có hiệu lực.
Caùc hình thöùc vaän ñoäng ODA bao goàm:
Vaän ñoäng ODA thoâng qua caùc dieãn ñaøn nhö Hoäi nghò thöôøng nieân Nhoùm tö
vaán caùc Nhaø taøi trôï (goïi taét laø hoäi nghò CG). Caùc dieãn ñaøn quoác teá veà ODA cho caùc
khu vöïc, vuøng laõnh thoå cuõng coù theå vaän ñoäng ODA cho töøng quoác gia theo muïc tieâu
phaùt trieån cuûa khu vöïc, vuøng laõnh thoå.
Vaän ñoäng ODA thoâng qua caùc hoaït ñoäng cuûa caùc cô quan ngoaïi giao cuûa
chính phuû nöôùc tieáp nhaän taïi nöôùc ngoaøi hoaëc thoâng qua caùc moái quan heä hôïp taùc
song phöông giöõa nöôùc tieáp nhaän vaø nöôùc taøi trôï, caùc ñaøm phaùn caáp cao giöõa hai
nöôùc ñöôïc thöïc hieän.
Vaän ñoäng ODA thoâng qua Hoäi nghò ñieàu phoái vieän trôï ODA theo ngaønh, lónh
vöïc vaø ñòa phöông. Caùc ngaønh, ñôn vò chuû trì toå chöùc (thuoäc caùc tænh, thaønh phoá tröïc
thuoäc trung öông) tröïc tieáp vaän ñoäng ODA treân cô sôû quy hoaïch veà thu huùt, vaän
ñoäng vaø söû duïng ODA do Chính phuû xaây döïng.
2. Quản lý nhà nước về ODA tại Việt Nam
Kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế vào năm 1993 đến nay,
Chính phủ Việt Nam đã ban hành 4 Nghị định về quản lý ODA (Nghị định 20/CP
(15/3/1994), Nghị định 87/CP (5/8/1997), Nghị định 17/2001/NĐ-CP (4/5/2001) và
Nghị định 131/2006/NĐ-CP (09/11/2006)). Các nghị định sau được hoàn thiện trên cơ
sở thực tiễn thực hiện nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của quan hệ hợp
tác phát triển.
Theo Nghị định 131/2006/NĐ-CP Việt Nam có 4 cấp tham gia vào quá trình quản
lý và thực hiện nguồn vốn ODA (Ban QLDA, Chủ dự án, Cơ quan chủ quản, Cơ quan
quản lý nhà nước về ODA). Các cấp này có chức năng và nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể:
- Ban QLDA: Đơn vị giúp việc cho Chủ dự án trong việc quản lý thực hiện
chương trình, dự án ODA.
- Chủ dự án: Là đơn vị được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý, sử dụng nguồn
vốn ODA và nguồn vốn đối ứng để thực hiện chương trình, dự án theo nội dung đã
được cấp có thẩm quyền phê duyệt, và quản lý, sử dụng công trình sau khi chương
trình, dự án kết thúc.
- Cơ quan chủ quản: Là các Bộ, các cơ quan ngang Bộ, các cơ quan trực thuộc
Chính phủ, các cơ quan Trung ương của tổ chức chính trị xã hội, các tổ chức nghề
nghiệp, các cơ quan trực thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân
dân tối cao và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có chương
trình, dự án.
- Các cơ quan quản lý nhà nước về ODA: Gồm Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,
Ngân hàng nhà nước Việt Nam, Bộ Ngoại giao, Bộ Tư pháp, Văn phòng Chính phủ.
Kinh nghiệm của Việt Nam cho thấy dù quản lý nhà nước theo mô hình tập
trung hay phân cấp thì một nguyên tắc "vàng" là Chính phủ thống nhất quản lý nhà
nước về ODA.
II. TÌNH HÌNH THU HÚT VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM:
1. Tình hình thu hút – vận động nguồn vốn ODA tại Việt Nam:
Năm 1993 được lấy làm mốc kể từ ngày Việt Nam bắt đầu tiếp nhận nguồn viện
trợ phát triển chính thức (ODA) từ các nhà tài trợ song phương, đa phương cũng như
các tổ chức phi chính phủ.
Hiện nay ở Việt Nam có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và
23 nhà tài trợ đa phương, có các chương trình ODA thường xuyên:
- Các nhà tài trợ song phương: Ai-xơ-len, Anh, Áo, Ba Lan, Bỉ, Ca-na-đa, Cô-
oét, Đan Mạch, Đức, Hà Lan, Hàn Quốc, Hungari, I-ta-lia, Luc-xem-bua, Mỹ, Na-uy,
Nhật Bản, Niu-di-lân, Ôt-xtrây-lia, Phần Lan, Pháp, Séc, Tây Ban Nha, Thái Lan,
Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Trung Quốc, Singapo.
- Các nhà tài trợ đa phương :
+ Các định chế tài chính quốc tế và các quỹ: nhóm Ngân hàng Thế giới (WB),
Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Đầu tư
Bắc Âu (NIB), Quỹ Phát triển Bắc Âu (NDF), Quỹ Phát triển quốc tế của các nước
xuất khẩu dầu mỏ OPEC (OFID - trước đây là Quỹ OPEC), Quỹ Kuwait;
+ Các tổ chức quốc tế và liên chính phủ: Ủy ban châu Âu (EC), Cao uỷ Liên hợp
quốc về người tỵ nạn (UNHCR), Quỹ Dân số của Liên hợp quốc (UNFPA), Chương
trình Phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc (UNIDO), Chương trình Phát triển của
Liên hợp quốc (UNDP), Chương trình phối hợp của Liên hợp quốc về HIV/AIDS
(UNAIDS), Cơ quan Phòng chống ma tuý và tội phạm của Liên hợp quốc (UNODC),
Quỹ Đầu tư Phát triển của Liên hợp quốc (UNCDF), Quỹ môi trường toàn cầu (GEF),
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), Quỹ Quốc tế và Phát triển nông nghiệp
(IFAD), Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá của Liên hợp quốc (UNESCO), Tổ
chức Lao động quốc tế (ILO), Tổ chức Nông nghiệp và Lương thực (FAO), Tổ chức Y
tế thế giới (WHO).
Hiện nay, ngân hàng thế giới là cơ quan viện trợ đa phương lớn nhất, Nhật Bản là
quốc gia viện trợ song phương lớn nhất cho Việt Nam. Xét về viện trợ không hoàn lại
thì Pháp là lớn nhất và Đan Mạch là thứ nhì.
Bảng 1: Kết quả cam kêt của các nhà tài trợ
Đơn vị: triệu USD
Nhà tài trợ Cam kết 2009 Cam kết 2010 So sánh (%)
Song phương 2.326,37 3.295,34 41,65
Úc 67,32 98,58 46,43
Canada/CIDA 29,45 26,46 -10,15
Nhật Bản 900 1640 82,22
Hàn Quốc 268,7 270 0,48
Niu Dilân 7,4 8,1 9,46
Na Uy 10 10 0,00
Thụy Sĩ 21,5 21,43 -0,33
Thái Lan 0,45 0,28 -37,78
Hoa Kỳ 128,12 138,18 7,85
EU 893,43 1.082,31 21,14
Áo 5,86 123,57 2.008,70
Bỉ 78,52 26,37 -66,42
CH Séc 3,05 2 -34,43
Đan Mạch 63,7 67,9 6,59
Phần Lan 46,63 49,58 6,33
Pháp 280,96 378,26 34,63
Đức 186 137,89 -25,87
Hungary 0,5 30,37 5.974,00
Ai-rơ-len 25,09 19,59 -21,92
Ý 3,37 17,33 414,24
Lúc-xem-bua 12,7 12,96 2,05
Hà Lan 30,49 31,65 3,8
Tây Ban Nha 60,98 81,38 33,45
Thụy Điển 21,3 20,62 -3,19
Anh 74,34 82,85 11,45
Đa phương 3.328,24 4.518,52 35,36
Ngân hàng phát triển Châu Á 1.566,50 1.479,00 -5,59
Ủy ban Châu Âu 13,98 331,92 2.274,25
Các tổ chức của LHQ 97,76 209,6 114,40
Ngân hàng thế giới 1.660,00 2.498,00 50,48
Tổ chức phi chính phủ quốc tế 250 250 0,00
TỔNG CỘNG 5.914,67 8.063,85 36,34
Bảng 2: Cam kết, ký kết và giải ngân vốn ODA giai đoạn 1993-2005
Đơn vị: Triệu USD
Năm Cam kết Ký kết Giải ngân
1993 1.860,80 816,68 413
1994 1.958,70 2.597,86 725
1995 2.311,50 1.443,53 737
1996 2.430,90 1.597,42 900
1997 2.377,10 1.685,81 1.000
1998 2.192,00 2.444,30 1.242
1999 2.146,00 1.503,15 1.350
2000 2.400,50 1.772,02 1.650
2001 2.399,10 2.427,42 1.500
2002 2.462,00 1.826,17 1.528
2003 2.838,40 1.772,98 1.422
2004 3.440,70 2.569,22 1.650
2005 3.748,00 2.529,11 1.782
Tổng số 32.565,7 24.985.67 15.899,00
Tính đến năm 2006 cam kết ODA đạt 4.44 tỷ USD, tốc độ giải ngân vốn ODA
đạt 1.785 tỷ.
Năm 2007 cam kết ODA đạt 4.45 tỷ USD, tốc độ giải ngân vốn ODA đạt gần 2
tỷ USD, vượt 5 % so với mục tiêu đề ra.Trong 2 năm 2006-2007 đạt gần 9,88 tỷ USD,
bằng 49% dự báo cam kết vốn ODA cho cả thời kỳ 2006-2010 ( 19 tỷ USD)
Cam kết ODA năm 2008 là 5,426 tỉ USD. So với năm 2007, mức cam kết này
tăng 1 tỉ USD, xấp xỉ 20%.Trong đó cam kết viện trợ song phương đạt hơn 2,6 tỷ
USD, cam kết đa phương đạt hơn 2,55 tỷ USD và cam kết của các tổ chức phi
chính phủ quốc tế là 250 triệu USD. Ngân hàng phát triển châu Á ADB, Nhật Bản
và Ngân hàng thế giới là những nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam với hơn 1 tỷ
USD tài trợ.
Vốn ODA cam kết cho Việt Nam trong năm 2009 trị giá tương đương 5,85 tỷ
USD. Giải ngân các nguồn vốn này dự kiến đạt khoảng 3 tỷ USD, trong đó có 300
triệu USD viện trợ không hoàn lại.
Tính đến hết tháng 10/2009, lượng vốn đã được ký kết đạt 3,85 tỷ USD; kế hoạch
giải ngân vốn ODA năm 2009 là 1,9 tỷ USD, Kế hoạch giải ngân (KHGN) vốn ODA
năm 2009 được giao với tổng mức 1.900 triệu USD, trong đó vốn vay là 1.600 triệu
USD và viện trợ không hoàn lại là 300 triệu USD. Về cơ cấu chi, KHGN 2009 dẫn đầu
chi là chi xây dựng cơ bản: 770 triệu USD; tiếp đến là chi cho vay lại: 575 triệu USD;
Chi hành chính sự nghiệp: 325 triệu USD và chi Hỗ trợ ngân sách: 230 triệu USD.
(Nguồn: Tổng hợp báo VN Economy ,Báo điện tử của chính phủ nước Cộng Hòa
Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam…)
Bất chấp tình hình kinh tế thế giới những năm gần đây liên tục có những biến
động lớn, cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 mới đây đã có nhiều tác động
tiêu cực đến tình hình cung cấp nguồn vốn ODA trên thế giới. Tuy nhiên, trước bối
cảnh ấy, Việt Nam vẫn được đánh giá là một điểm đến an toàn của các nguốn vốn
ODA trên thế giới. Cụ thể, vốn ODA của nước ta những năm tiếp tục gia tăng với tốc
độ khá nhanh. Tổng số vốn ODA cam kết cho Việt Nam trong 15 năm qua (1993 -
2008) đã đạt 47,452 tỷ USD. Hết tháng 10/2008, tổng số vốn ODA giải ngân đạt
22,065 tỷ USD, chiếm 52% tổng vốn ODA cam kết và 62,65% tổng vốn ODA đã ký
kết. Mức độ giải ngân nguồn vốn ODA của Việt Nam từ năm 2007-2009 đã có cải
thiện tốt hơn. Gần đây nhất, cam kết ODA năm 2010 dành cho Việt Nam sẽ đạt con số
8 tỷ, lớn nhất kể từ trước tới nay.
Tình hình vay nợ ODA (phần vay ưu đãi)
Tổng nợ vay ODA
GDP
(triệu USD-
theo tỷ giá
bình quân)
Số tiền
(triệu USD)
Tỷ lệ so GDP
(%)
2005 53.105,15 10.938,60 20.60%
2006 60.828,52 12.229,70 20.11%
2007 71.035,35 14.737,32 20.75%
2008 89.293,18 16.291,45 18.24%
30/06/2009 41.832,01 17.252,21 41.24%
2. Tình hình sử dụng và hiệu quả của nguồn vốn ODA tại Việt Nam
Bảng 3: Cơ cấu phân bổ nguồn vốn ODA theo ngành
- Vốn ODA làm thay đổi đáng kể bộ mặt của cơ sở hạ tầng kinh tế:
Cũng giống như các nước đang phát triển khác, Việt Nam thường được nhận
nhiều ODA nhằm mục tiêu cải thiện cơ sở hạ tầng, đặc biệt là trong lĩnh vực giao
thông vận tải, truyền thông và năng lượng.
Hơn 5,4 tỷ USD vốn ODA với 101 dự án do Trung ương quản lý đã và đang
được thực hiện để phát triển ngành giao thông vận tải, chủ yếu tập trung cho đường bộ,
đường biển và giao thông nông thôn.
Vốn ODA đã được sử dụng để khôi phục, nâng cấp và xây dựng mới 3.676km
đường Quốc lộ; khôi phục và cải tạo hơn 1.000km đường tỉnh lộ; Quốc lộ 5, Quốc lộ
1A (đoạn Hà Nội – Vinh; đoạn TP.HCM – Cần Thơ; đoạn TP.HCM – Nha Trang);
làm mới và khôi phục 188 cây cầu, chủ yếu trên các Quốc lộ 1, Quốc lộ 10, Quốc lộ 18
với tổng chiều dài 33,8 km; cải tạo và nâng cấp 10.000 km đường nông thôn và
khoảng 31 km cầu nông thôn quy mô nhỏ; Xây dựng cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ; xây
dựng mới 111 cầu nông thôn với tổng chiều dài 7,36 km (khẩu độ bình quân khoảng
25 – 100m);
Vốn ODA đã đầu tư nâng cấp giai đoạn 1 cho cảng Hải Phòng để có thể bốc xếp
được 250.000 TEV/năm; nâng cấp Cảng Sài Gòn có công suất bốc xếp từ 6,8 triệu
tấn/năm lên 8,5 triệu tấn/năm; xây dựng mới cảng nước sâu Cái Lân; cải tạo cảng Tiên
Sa, Đà Nẵng;
Nguồn vốn ODA đầu tư cho việc phát triển ngành điện hiện chiếm 19% tổng vốn
đầu tư với 7 nhà máy điện lớn (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2, Hàm Thuận – Đa Mi, Sông Hinh,
Đa Nhim, Phả Lại 2, Trà Nóc) có công suất thiết kế chiếm 40% tổng công suất các nhà
máy điện ở Việt Nam. Tổng công suất phát điện tăng thêm do đầu tư bằng nguồn vốn
ODA là 3.403 MW, bằng tổng công suất từ trước cho đến năm 1995. Trong ngành
năng lượng điện, nguồn vốn ODA còn đầu tư và phát triển hệ thống đường dây 500KV
Plâyku-Phú Lâm, đường dây 220Kv Tao Đàn – Nhà Bè, gần 50 trạm biến áp của cả
nước, cải tạo và nâng cấp mạng lước điện thành thị và nông thôn ở trên 30 tỉnh và
thành phố.
Ngoài ra, các nhà tài trợ ODA cũng rất chú trọng đến việc phát triển cơ sở hạ
tầng, mà cụ thể là nguồn ODA đã được tài trợ để nâng cấp tuyến đường sắt Bắc –
Nam, nâng cấp đô thị tại hai thành phố lớn là Hà Nội và TP.HCM, bảo vệ mội trường
(quản lý, xử lý rác và nước thải), phát triển nông thôn, cải thiện các dịch vụ y tế công,
nâng cấp và hiện đại hóa ngành tài chính.
- Nguồn vốn ODA góp phần quan trọng vào sự phát triển cơ sở hạ tầng xã hội:
Tổng nguồn vốn ODA dành cho giáo dục và đào tạo ước khoảng 550 triệu USD
chiếm từ 8,5 – 10% kinh phí dành cho giáo dục và đào tạo của chính phủ, góp phần cải
thiện chất lượng và hiệu quả của công tác giáo dục và đào tạo, tăng cường một bước
cơ sở vật chất kỹ thuật cho việc nâng cao chất lượng dạy và học. Một số dự án tiêu
biểu như cải thiện chất lượng đào tạo tiểu học, trung học và đại học, các dự án đào tạo
nghề,…
Nguồn vốn ODA cũng đã đóng góp cho sự thành công của một số chương trình
xã hội có ý nghĩ như Chương trình dân số và phát triển, Chương trình tiêm chủng mở
rộng, chương trình dinh dưỡng trẻ em, Chương trình nước sạch nông thôn, Chương
trình chăm sóc sức khỏe ban đầu, Chương trình xóa đói giảm nghèo,… Nhờ vậy, thứ
hạng của nước ta trong bảng xếp hạng các quốc gia về Chỉ số Phát triển con người đêu
có cải thiện hằng năm.
ODA không chỉ bổ sung nguồn lực cho các chương trình xã hội mà điều quan
trọng là đã góp phần thay đổi nhận thức và hành vi của con người trong các lĩnh vực
xã hội rộng rãi đòi hỏi có sự tham gia của đông đảo tầng lớp dân cư như Phòng chống
đại dịch HIV/AIDS, Phòng chống Ma túy, mại dâm,…
- Nguồn vốn ODA đã có tác dụng tích cực trong tăng cường năng lực, phát
triển thể chế trên nhiều lĩnh vực, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng pháp
luật, cải cách hành chính,…
Nhiều cơ quan đã được tăng cường năng lực với một lượng lớn cán bộ được đào
tạo và tái đào tạo về khoa học, công nghệ và kinh tế. ODA cũng mang lại những kinh
nghiệm quốc tế có giá trị đối với sự nghiệp phát triển của nhiều lĩnh vực kinh tế, xã
hội, khoa học, pháp luật, công nghệ và bảo vệ môi trường, quản lý nhà nước,…
Với sự hỗ trợ kỹ thuật của ODA, một số bộ luật quan trọng đã được chuẩn bị
đúng hạn và được Chính phủ trình Quốc hội thông qua đáp ứng nhu cầu cải cách thể
chế trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam như Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu,
Luật Phòng chống tham nhũng,…
Việc cải thiện và nâng cao chất lượng trang thiết bị cũng như trình độ khám chữa
bệnh thông qua các dự án viện trợ không hoàn lại tại hai bệnh viện lớn là Bệnh viện
Bạch Mai và Bệnh viện Chợ Rẫy và các dự án hợp tác kỹ thuật trong lĩnh vực y tế của
Nhật Bản cũng đã góp phần nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ y bác sĩ cũng như
trang thiết bị y tế, qua đó cải thiện đời sống nhân dân mà đặc biệt là dân nghèo thành
thị.
Thông qua chương trình tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ giai đoạn 1 do Nhật Bản
tài trợ, Ngân hàng Nhà nước đã hỗ trợ phát triển sản xuất cho hàng trăm doanh nghiệp,
tạo nhiều công ăn việc làm ổn định cho nhân dân. Ngoài số vốn 216 tỷ VND cho vay
lại, các Ngân hàng thực hiện tham gia đóng góp khoảng 130ty3 VND và người vay
cuối cùng góp khoảng 256 tỷ VND, nâng tổng số vốn đầu tư cho nền kinh tế tăng lên
khoảng 602 tỷ VND.
- Nguồn vốn ODA đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển nông nghiệp và
nông thôn, xóa đói giảm nghèo.
Theo số liệu điều tra mức sống dân cư trong thời gian qua cho thấy tỷ lệ dân
nghèo đã giảm từ 58% năm 1993 còn 28,9% vào năm 2002. Và năm 2010 cũng là năm
đánh dấu Việt Nam chính thức vượt qua ngưỡng nghèo khi mức thu nhập bình quân
vượt 1.000USD/năm.
Khoảng 200 dự án với tổng vốn ODA hơn 3 tỷ USD đầu tư cho phát triển Nông
nghiệp và Nông thôn chiếm xấp xỉ 15% vốn ODA cam kết. Các dự án ODA đã góp
phần cung cấp nguồn tín dụng cho nông dân, tạo ra các ngành nghề phụ, phát triển
công tác khuyến nông, khuyến ngư, khuyến lâm, phát triển giao thông nông thôn, cung
cấp nước sạch, phát triển điện lưới sinh hoạt, trạm y tế, trường học.
Điển hình là thông qua viện trợ không hoàn lại của chính phủ Nhật Bản, trên 30
cây cầu trên các trục giao thông huyện lộ và tỉnh lộ đã được cải tạo và xây mới. Thông
qua các dự án sử dụng vốn vay ưu đãi, đã xây mới và nâng cấp hơn 1.700 km tuyến
đường giao thông nông thôn, 13 nhà máy nước và 357 dự án điện. Các dự án này đều
có tầm quan trọng rất lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta.
Bảng 4 : Cơ cấu phân bổ vốn ODA theo vùng miền
Hiệp định ODA ký kết
1993 - 2007 Ngành, lĩnh vực
Tổng Tỷ lệ %
1. Vùng Đồng bằng Sông Hồng 3.500,83 13,69
2. Vùng Trung du miền núi Bắc Bộ 2.063,78 8,07
3. Vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung 3.278,19 12,82
4. Vùng Tây Nguyên 1.132,39 4,43
3. Vùng Đông Nam Bộ 3.995,60 15,62
4. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long 2.394,67 9,36
5. Liên vùng 9.211,33 36,01
Tổng số 25.576,79 100%
III. MỘT SỐ HẠN CHẾ TRONG KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG NGUỒN VỐN
ODA TẠI VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Công tác quản lý các dự án ODA còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ
- Công tác theo dõi, đánh giá tình hình đầu tư ODA chưa đầy đủ, còn nhiều hạn
chế. Đặc biệt là công tác theo dõi, thống kê, kiểm tra và đánh giá hiệu quả của công
trình sau đầu tư còn bỏ ngõ, ngoại trừ các DA vay lại và đang trong thời gian trả nợ.
Kết quả quản lý thường được đánh giá chỉ bằng công trình (mức độ hoàn thành, tiến
độ thực hiện) mà chưa xem xét đến hiệu quả sau đầu tư một khi công trình được đưa
vào vận hành khai thác. Quan điểm và cách làm này gây khó khăn cho việc đánh giá,
định hướng đầu tư từ nguồn ODA tạo nên sự lãng phí và né tránh trách nhiệm của
những bộ phận liên quan.
- Có sự chồng chéo trong thủ tục chuẩn bị và triển khai đầu tư. Theo Bộ Tài
chính, chỉ có 4% lượng vốn ODA áp dụng các quy định về đấu thầu và 3% sử dụng hệ
thống quản lý tài chính công của Việt Nam, còn lại là theo cách thức của nhà tài trợ.
Vì vậy, nhiều dự án cùng một lúc phải thực hiện 2 hệ thống thủ tục, một thủ tục để giải
quyết vấn đề nội bộ trong nước, một thủ tục với nhà tài trợ
- Các địa phương vẫn chưa phát huy được tính chủ động trong việc đề xuất và lựa
chọn những dự án ưu tiên sử dụng vốn ODA, bộc lộ những hạn chế về năng lực
chuyên môn và sự phối hợp kém hiệu quả giữa Sở, ngành ở tất cả các khâu trong chu
trình ODA (xây dựng, thẩm định, tổ chức, quản lý và thực hiện dự án).
- Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý ODA là khá yếu kém chưa đáp ứng được
nhu cầu. Đặc biệt ở các địa phương, đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý ODA chưa
được chuyên môn hóa, ít được bồi dưỡng và không có điều kiện tiếp cận các nguồn
thông tin chuyên biệt.
- Phân cấp quản lý vốn ODA giữa trung ương và địa phương còn nhiều bất cập.
Nguồn ODA là của Chính phủ nước ngoài và các tổ chức quốc tế dành cho Việt Nam
qua Chính phủ nên Chính phủ phải thống nhất quản lý. Song Chính phủ không thể trực
tiếp quản lý toàn bộ các dự án ODA, nên phải có sự phân cấp cho chính quyền địa
phương. Song hiện nay, chúng ta chưa có hệ thống tiêu chí phân cấp rõ ràng, chỉ mới
dựa vào qui mô của dự án để quyết định phân cấp: Chính phủ trực tiếp quản lý các DA
lớn, còn chính quyền địa phương được phân cấp quản lý một số DA qui mô nhỏ. Sự
không rõ ràng trong phân cấp quản lý vốn ODA là một trong những nguyên nhân gây
nên sự chậm trễ và đùn đẩy trách nhiệm lẫn nhau giữa các cấp
2.2. Công tác huy độngODA còn chủ quan và thiếu chiến lược
- Tác động của lạm phát trong các năm gần đây dẫn đến tình trạng thiếu hụt vốn
ODA và vốn đối ứng.
- Chưa có chiến lược vận động và sử dụng ODA một cách rõ ràng và phù hợp
với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
- Do thời hạn vay dài, thời hạn ân hạn dài, lãi suất thấp, áp lực trả nợ chỉ phát
sinh sau thời gian dài sau này nên dễ tạo nên sự chủ quan trong quyết định, lựa chọn
nguồn tài trợ ODA. Ngoài ra, cơ quan đàm phán trực tiếp với nhà tài trợ thường là các
bộ, ngành trong Chính phủ nên chủ đầu tư chưa thấy hết tác động của những điều kiện
khó khăn mà nhà tài trọ ràng buộc.
2.3. Công tác triển khai các dự án ODA còn nhiều bất cập:
- Tình hình thực hiện các dự án (DA) thường bị chậm ở nhiều khâu: chậm thủ
tục, chậm triển khai, giải ngân chậm, tỷ lệ giải ngân thấp. Do vậy, thời gian hoàn thành
dự án kéo dài làm phát sinh các khó khăn, đặc biệt là vốn đầu tư thực tế thường tăng
hơn so với dự kiến và cam kết; đồng thời cũng làm giảm tính hiệu quả của DA khi đi
vào vận hành khai thác.
- Một số dự án thiết kế quá phức tạp với sự tham gia của nhiều Bộ, ngành, địa
phương trong khi năng lực điều phối, quản lý và thực hiện của cơ quan chủ quản lại
hạn chế.
- Một số dự án có chất lượng thiết kế thấp do: (i) Việc thiết kế dựa vào ý tưởng
của nhà tài trợ và vai rò làm chủ chưa cao; (ii) Việc tham vấn các đối tượng thụ hưởng
trong quá trình xây dựng dự án để tranh thủ sự ủng hộ trong giai đoạn thực hiện dự án
sau này chưa được quan tâm đúng mức, …
- Năng lực nhà thầu/tư vấn không đáp ứng được yêu cầu công việc. Ngoài ra, đối
với một số dự án tài trợ theo hình thức viện trợ có ràng buộc xảy ra tình trạng nhà thầu
là công ty của nước cung cấp viện trợ bị phá sản và do đó không thực hiện được hợp
đồng cung cấp dịch vụ đã ký.
- Cơ chế vốn đối ứng giữa Trung ương và địa phương chưa phù hợp.
- Định mức chi phí xây dựng và chi phí quản lý chưa đáp ứng được yêu cầu điều
kiện thị trường.
3. Nguyên nhân của những hạn chế
3.1. Về phía nhà tài trợ:
ODA là nguồn vốn từ nước ngoài nên khi vào Viêt Nam sẽ gặp phải những sự khó
khăn do khác biệt về nhiều mặt như: ngôn ngữ, tập quán, thói quen làm việc, các quy định
về thủ tục, giấy tờ, quy trình…làm mất nhiều thời gian để giải quyết công việc.
Mặt khác, bản thân các nhà tài trợ cũng đặt ra nhiều thủ tục phức tạp, rườm rà.
Qúa trình phê duyệt qua nhiều bước, hồ sơ bị lưu giữ lâu tại văn phòng các nhà tài trợ
ở Việt Nam (do văn phòng đại diện có ít thẩm quyền thường phải xin ý kiến cơ quan
cấp trên ở nước ngoài). Thêm vào đó, tư vấn nước ngoài chậm trễ trong việc hoàn
thành công tác thiết kế dự án, đánh giá kế hoạch và kết quả đấu thầu, thậm trí một số
trường hợp chuyên gia do tư vấn đề cử có năng lực kém, thiếu tinh thần hợp tác xây
dựng hoặc không đủ người như đã cam kết ban đầu và thường xuyên thay đổi nhân sự
chủ chốt làm ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án và tiến độ giải ngân.
3.2. Về mặt chủ quan
- Chưa có quy hoạch ODA sát với tình hình kinh tế xã hội. Chúng ta định hướng
vấn đề ODA chưa sát với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng miền, từng
lĩnh vực trọng tâm và từng thời kỳ. Đối với các địa phương, vấn đề hoạch định chiến
lược; quy hoạch thu hút và sử dụng ODA là hết sức nan giải do có rất ít sự chủ động
của địa phương trong vấn đề này, và năng lực đội ngũ quản lý ODA ở địa phương là
yếu kém chưa đáp ứng được yêu cầu. .
- Cơ sở pháp lý thiếu và chưa đồng bộ. Triển khai dự án rườm rà, liên quan nhiều
cấp bậc, ban ngành, địa phương
- Nhận thức chưa đúng về ODA, thiếu nhân lực giám sát hiệu quả và quản lý
chuyên nghiệp
- Giải phóng mặt bằng chậm, nhiều khó khăn
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ
DỤNG NGUỒN VỐN ODA TẠI VIỆT NAM
Để có thể hình dung những định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý vốn
ODA cần thống nhất một số quan điểm cơ bản sau:
- Về khả năng thu hút vốn ODA trong các năm tới, do Việt Nam đã trở thành
quốc gia đang phát triển có mức thu nhập trung bình với GDP bình quân đầu người đạt
trên 1.000 USD nên một số nhà tài trợ, đặc biệt các nhà tài trợ song phương châu Âu
sẽ điều chỉnh chính sách cung cấp ODA. Khi đó các nhà tài trợ sẽ giảm tài trợ, viện trợ
không hoàn lại, tập trung nhiều hơn vào cung cấp hỗ trợ kỹ thuật, chuyển từ cho vay
ưu đãi chuyển sang cho vay thương mại với lãi suất cao hơn. Liên quan đến vấn đề
này, các chuyên gia nước ngoài cũng đã cảnh báo về bẫy thu nhập trung bình mà Việt
Nam có thể mắc phải, khi phải cân nhắc giữa việc một nước nghèo nhưng nhận được
nhiều viện trợ ưu đãi và một nước tiến lên mức thu nhập trung bình nhưng bị cắt giảm
các khoản viện trợ này.
- ODA không phải là nguồn vốn dễ kiếm, không phải là khoản cho không, nó
phải được nhìn nhận như 1 bộ phận của ngân sách nhà nước. Các cấp quyết định, cơ
quan chủ quản và chủ đầu tư các dự án ODA phải chịu trách nhiệm trước toàn dân -
không chỉ với thế hệ hôm nay mà cả mai sau - về hiệu quả sử dụng nguồn vốn này.
Hơn nữa, nguồn vốn ODA là không chắc chắn. Vì vậy, quốc gia tiếp nhận vốn ODA
không nên quá kì vọng vào nguồn vốn này.
- Hiệu quả quản lý vốn ODA phải được đảm bảo từ 2 phía: nhà tài trợ và quốc
gia tiếp nhận tài trợ.
- Mọi thông tin của quá trình quản lý vốn ODA phải rõ ràng và minh bạch, cần
được cập nhật và công bố công khai một cách thường xuyên
Vai trò của ODA là nguồn lực bổ trợ và xúc tác cho quá trình phát triển. Nhận thức
đúng đắn này sẽ khắc phục tư tưởng thụ động, trông chờ vào viện trợ và giúp phát huy
vai trò chủ động, sáng tạo trong phát triển.
Một số đề xuất nhằm tăng cường tính hiệu quả khả năng thu hút và sử dụng nguồn vốn
ODA tại Việt Nam:
1. Giải pháp thu hút vốn ODA
Mở rộng các quan hệ phi nhà nước. Viện trợ phát triển chính thức bao gồm ba
phương thức: viện trợ không hoàn lại (song phương), cho vay với điều kiện ưu đãi
(song phương) và các hiệp định đa phương. Trong đó, phần viện trợ không hoàn lại
thường dành cho mục tiêu phát triển con người như y tế, cung cấp nước sạch, cải thiện
điều kiện giáo dục ở nhà trường, bảo tồn khai thác các di sản văn hoá dân tộc… Trong
những lĩnh vực này, vai trò của các tổ chức xã hội, đoàn thể, các địa phương các tổ
chức từ thiện và các tổ chức phi chính phủ là rát quan trọng. Vì thế, việc mở rộng quan
hệ phi nhà nước là một điều kiện quan trọng để tìm kiếm được nhiều hơn các nguồn
ODA cũng như các nguồn viện trợ khác.
Xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy và cùng sẻ chia trách nhiệm giữa Việt Nam
và nhà tài trợ sẽ góp phần đảm bảo sự thành công của các chương trình, dự án ODA.
Hướng dẫn lập dự án và triển khai dự án ODA. Để nhận được tài trợ ODA của
các nhà tài trợ thì các địa phương phải xây dựng được các dự án có tính thuyết phục và
có khả năng thực hiện được dự án một cách hiệu quả. Nhưng thường các dự án hỗ trợ
loại này thì đối tượng nhận hỗ trợ thường không đủ khả năng để làm những việc như
trên. Do đó, sự hướng dẫn, giúp đỡ của các cơ quan chuyên trách là hết sức cần thiết
và quyết định đến hiệu quả của chương trình, dự án.
Hoạch định chiến lược vận động và sử dụng vốn ODA phù hợp với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội. Do phụ thuộc khá nhiều vào các yếu tố bất định nên khó có
thể dự kiến chuẩn xác (trong dài hạn) vốn ODA vận động được. Vì vậy, các chương
trình, dự án dự định sẽ đầu tư bằng vốn ODA phải được sắp xếp thứ tự ưu tiên theo
một số phương án với các khả năng khác nhau. Các chương trình dự án có mức ưu tiên
cao cần bố trí nguồn vốn thay thế nếu không vận động được vốn ODA.
2. Sử dụng
- ODA vay kém ưu đãi tập trung dự án quốc gia có nguồn thu và trả nợ chắc
chắn. Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình (MIC)
và theo tập quán tài trợ quốc tế Việt Nam sẽ nhận được ít hơn các nguồn vốn vay ODA
ưu đãi như hiện nay. Trong bối cảnh đó, định hướng chính sách sử dụng nguồn vốn
ODA cần có những thay đổi phù hợp. ODA vốn vay kém ưu đãi sẽ tập trung đầu tư
cho các chương trình, dự án tầm cỡ quốc gia, có nguồn thu và khả năng trả nợ chắc
chắn. Những dự án này phải xây dựng được phương án thu hồi vốn cũng như biện
pháp trả nợ qua các thời kỳ, nghĩa là không được sử dụng hết tất cả các khoản thu nhập
ròng đã có, cần phải giữ một phần để hoàn trả lại vốn, lãi kịp thời nhằm đảm bảo uy
tín quốc tế, đảm bảo nguồn vốn đầu tư sẽ không trở thành khoản nợ xấu trong tương
lai. Ngược lại, các nguồn vốn ưu đãi hơn tập trung vào các lĩnh vực an sinh xã hội,
giáo dục, môi trường.
- Cho vay lại vốn ODA. Để nâng cao trách nhiệm của nơi sử dụng vốn, chính phủ
nên tiếp tục đẩy mạnh việc cho các bộ ngành, địa phương vay lại vốn ODA với lãi
suất ưu đãi. Thứ nhất, giúp cho việc phân bổ ODA đúng mục đích, đưa vốn về đúng
với nơi cần vốn, thiếu vốn hơn vì khi đó cơ quan chủ quản sẽ cân nhắc rất kỹ mục đích
sử dụng, mức độ cần thiết của dự án trước khi quyết định đi vay. Thứ hai, mặc dù lãi
suất nhỏ, tuy nhiên với áp lực trả nợ của một khoản đi vay, chắc chắn trong quá trình
xây dựng dự án, sử dụng vốn và giám sát công trình, phía đi vay sẽ phải đảm bảo hiệu
quả dự án và khả năng trả nợ. Thứ ba, đây cũng tạo ra thêm nguồn thu cho chính phủ
bù đắp các chi phí phát sinh trong quá trình huy động và quản lý nguồn vốn ODA.
- Mở rộng đối tượng được tiếp cận ODA: mở rộng khu vực vùng xa, vùng sâu và
khu vực tư nhân.
Như chúng ta đã biết, hiện nay các nguồn vốn ODA thường tập trung cho khu
vực thành phố lớn (ví dụ: Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thụ hưởng tới gần 1/3
vốn ODA đã ký kết). Điều này thể hiện sự mất cân đối trong phân bổ và sử dụng
nguồn vốn. Trong khi đó, các vùng tỉnh lẻ, miền núi rất cần sự đầu tư từ phía ngân
sách nhà nước, nhất là cho những công trình công cộng để nâng cao dân trí, cải thiện
đời sống sinh sinh hoạt và tinh thần. Ngoài ra, Chính phủ cũng cần kêu gọi khu vực tư
nhân tham gia vì khu vực này có lợi thế về mặt năng động, linh hoạt, kịp thời bắt nhịp
với các cơ hội đầu tư, nhanh nhạy trong thủ tục và quy trình. Một bộ phận tư nhân có
khả năng đáp ứng nguồn vốn đối ứng, làm giảm áp lực vốn đối ứng lên ngân sách nhà
nước, nâng cao trách nhiệm của nhiều bên trong giám sát và điều hành dự án.
Sự tham gia rộng rãi của các đối tượng thụ hưởng vào quá trình tiếp nhận và sử
dụng vốn ODA là yếu tố quan trọng để giúp ODA được sử dụng đúng mục đích và có
hiệu quả cao.
- Xây dựng hệ thống kiểm soát, đánh giá việc sử dụng nguồn vốn ODA.
Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã được thẩm định phê duyệt. Thủ
tục quản lý phải chặt chẽ nhưng phải thuận lợi cho người sử dụng trong việc rút vốn và
sử dụng vốn, không gây phiền hà làm giảm tốc độ giải ngân. Phải đặt các hạn mức sử
dụng và kiểm tra chặt chẽ việc chi tiêu, theo dõi quá trình thực hiện và quản lý giải
ngân dự án.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả trong quan hệ với các nhà tài trợ
Một mặt chúng ta phải chủ động tranh thủ các nhà tài trợ, mặt khác phải tích cực
trong việc đàm phán để làm hài hòa các thủ tục tiếp nhận, quản lý và giải ngân giữa
hai phía, làm giảm sự phức tạp, rườm rà về thủ tục của các nhà tài trợ và kiến nghị các
nhà tài trợ tăng cường quyền hạn cho các văn phòng đại diện tại Việt Nam.
Mặc dầu đã có những nỗ lực nhất định từ phía các nhà tài trợ trong vấn đề thống
nhất thủ tục, nhưng khó có thể hình thành một hệ thống thủ tục chung của các nhà tài
trợ trên phạm vi toàn cầu. Do vậy, đối với các dự án ODA, Chính phủ nên hình thành
qui định hệ thống thủ tục trong nước theo kiểu “khung“, các vấn đề chi tiết cho phép
áp dụng thủ tục và hướng dẫn của nhà tài trợ.
Cần hài hòa giữa lợi ích trong nước và lợi ích của các nhà tài trợ, như: dỡ dần
hàng rào thuế quan bảo hộ nền công nghiệp non trẻ trong nước, tiếp tục miễn thuế thu
nhập cho cá nhân và doanh nghiệp nước ngoài thực hiện dự án ODA, cho phép đầu tư
vào những lĩnh vực hạn chế hoặc có khả năng sinh lời cao…
Xây dựng cơ chế chia sẻ thông tin và phối hợp thực hiện giữa chính phủ và các
nhà tài trợ để có sự gặp nhau giữa kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội, chiến lược phát
triển và những chính sách ưu tiên của Việt Nam với mục đích và điều kiện tài trợ, cũng
như trong việc giám sát và chống tham nhũng ở các chương trình, dự án có sử dụng
nguồn vốn ODA.
4. Chính sách:
- Hoàn thiện môi trường pháp lý: phù hợp, tạo điều kiện, quản lý và giám sát chặt chẽ.
Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện chính sách tổng thể về quản lý, giám sát vay và
trả nợ nước ngoài, được hoạch định trong mối tương quan chặt chẽ với các chính sách
và mục tiêu phát triển kinh tế xã hội ở tầm vĩ mô và vi mô. Việc quản lý vay và trả nợ
nước ngoài phải tính đến các chỉ tiêu cơ bản về nợ nước ngoài như khả năng hấp thụ
vốn vay nước ngoài (tổng nợ nước ngoài/GDP), chỉ tiêu khả năng vay thêm từng năm,
chỉ tiêu khả năng hoàn trả nợ (tổng nghĩa vụ trả nợ/thu nhập xuất khẩu).
Đẩy mạnh công tác chống tham nhũng bằng cách cụ thể hóa Luật phòng chống
tham nhũng và lãng phí, cương quyết xử lý tận gốc và mạnh tay với những vụ việc
tham nhũng.
Đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn và minh bạch quy trình.
Tạo sự đồng bộ về chính sách phân cấp trong quản lý, sử dụng vốn ODA, trước
hết là quy trình, thủ tục theo hướng tăng cường năng lực, quyền hạn cụ thể cho các địa
phương, hoàn chỉnh khung pháp luật về quản lý ODA trong thực hiện các giai đoạn
của một chu trình dự án cũng như thể chế hóa quy trình tổ chức thực hiện phân cấp ở
địa phương và các bộ, ngành. Những thủ tục, quy trình này cần phải thỏa mãn các yêu
cầu sau:
9 Đơn giản hóa, rõ ràng, khoa học, không chồng chéo, thống nhất.
9 Quy định rõ trách nhiệm của từng ngành, từng cấp và của các đối tượng tiếp
nhận và sử dụng ODA.
9 Được tuyên truyền, công khai minh bạch, thường xuyên cập nhật, để tất cả các
cấp, các ngành các địa phương đều thông suốt và thực hiện đúng theo quy
trình. Song song đó, phải quản lý và công khai phân bổ nguồn vốn ODA như
vốn ngân sách nhà nước, tổ chức đấu thầu công khai.
Xây dựng và thực hiện qui trình kỹ thuật dự án theo hướng chuyên nghiệp hóa: từ khi
xác định dự án, chuẩn bị dự án, đánh giá dự án, phê duyệt dự án, đàm phán, kí kết, đấu
thầu, thi công, giám định, đánh giá sau dự án và kiểm toán, mỗi khâu phải được đảm
nhiệm bởi cơ quan chuyên trách. Ban hành hệ thống các hướng dẫn chi tiết trong từng
khâu, từ đó phân định rõ trách nhiệm và quyền hạn của các cấp liên quan. Đặc biệt,
cần có những hướng dẫn cụ thể thực hiện quá trình đánh giá dự án sau hoàn thành. Các
thông tin về quá trình quản lý vốn ODA phải rõ ràng minh bạch, được thông báo đầy
đủ cho nhân dân và các nhà tài trợ.
5. Đẩy nhanh tốc độ giải phóng mặt bằng
Vấn đề đền bù, giải phóng mặt bằng, tái định cư cần được coi là một bộ phận
quan trọng trong kế hoạch thực hiện dự án ODA, vấn đề này không chỉ liên quan đến
lợi ích thiết thân, cuộc sống hiện tại cũng như lâu dài của người dân mà còn liên quan
đến luật pháp, chính sách của nhà nước, chính sách của nhà tài trợ. Trong đền bù luôn
gặp tính hợp pháp của tài sản và việc xử lý vấn đề này không dễ dàng trong tình trạng
xây dựng trái phép, lấn chiếm đất đai phổ biến như hiện nay. Đồng thời việc áp dụng
chính sách tính hợp pháp của tài sản trên thực tế nhiều khi lại mâu thuẫn với chính
sách đảm bảo đời sống của người bị ảnh hưởng bởi dự án sau khi thực hiện tái định cư
không tồi hơn địa điểm cũ của nhà tài trợ. Để tháo gỡ vấn đề này cần phải có sự phối
hợp từ nhều phía ở phía Việt Nam và nhà tài trợ cũng cần xem xét lại việc điều chỉnh
các chính sách của mình cho phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Ngoài ra, có một vấn đề đã nhiều lần được đưa ra đó là chính phủ nên ban hành
khung giá đất đền bù linh hoạt và thỏa đáng trong công tác giải phóng mặt bằng,
nhưng cũng cương quyết xử lý đối với những trường hợp đã được đền bù thỏa đáng
nhưng không chịu di dời. Đồng thời cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa ban quản lý dự
án và chính quyền địa phương trong công tác giải phóng mặt bằng.
6. Con người
Tất cả các vấn đề nêu trên chỉ mang lại hiệu quả khi vấn đề con người được quan
tâm chú trọng. Cùng với cơ chế mở cửa và sự tham gia vào các dự án ODA cùng đối
tác nước ngoài, trình độ của đội ngũ nhân lực chúng ta đã có những tiến triển tốt, tuy
nhiên mới chỉ dừng lại ở một bộ phận nhỏ các cán bộ chủ chốt trên trung ương hoặc
chính quyền tỉnh, thành phố. Chúng ta có thể thu hút vốn tốt ở đầu vào, vì công việc
này do Chính phủ, Bộ Kế hoạch đầu tư chủ trì nhưng khi triển khai dự án, giải ngân
vốn thì còn gặp nhiều khó khăn do nhân lực cấp dưới, nhất là các tỉnh vùng sâu vùng
xa không đáp ứng yêu cầu. Từ đó, giải pháp nguồn nhân lực lại được đặt ra:
- Nâng cao năng lực của đội ngũ thực hiện dự án: nâng cao năng lực làm việc cho
Ban quản lý các dự án; tuyển chọn những người thực sự có năng lực vào các vị trí
giám đốc và điều phối viên dự án; đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ
làm công tác quản lý vốn ODA theo hướng chuyên môn hóa; quan tâm đến vấn đề cán
bộ địa phương nhất là địa bàn vùng sâu vùng xa.
- Cần tăng cường quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các chủ dự án, cũng
như kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng chức quyền để chiếm đoạt tài sản và tiền
vốn của các chương trình, dư án.
- Ngoài ra, vấn đề năng lực cho các đơn vị tư vấn và nhà thầu trong nước cũng
cần được nâng cao để chủ động trong việc triển khai dự án đúng tiến độ.
KẾT LUẬN
Việc huy động và phát huy tối đa các nguồn lực cho phát triển kinh tế luôn là vấn
đề mà mọi quốc gia trên thế giới đều quan tâm. Có thể nói, ODA là một nguồn vốn có
nhiều yếu tố ưu đãi, phù hợp khi được sử dụng vào đầu tư công và hoàn thiện chính
sách, thể chế. Vì vậy, vấn đề khai thác ODA cho sự nghiệp phát triển đất nước là một
nội dung không thể thiếu trong chiến lược huy động mọi nguồn lực cho đầu tư phát
triển của Việt Nam hiện nay cũng như trong giai đoạn sắp tới.
Tuy nhiên, lịch sử về ODA cho thấy có những nước thành công trong sử dụng
ODA nhưng cũng nhiều nước gặp thất bại bởi lẽ ODA thật sự là nguồn vốn vay nước
ngoài, nếu sử dụng không hiệu quả hoặc sai mục đích sẽ tạo nên gánh nặng nợ cho
tương lai trong khi hiện tại nguồn vốn này vẫn không hỗ trợ được cho phát triển kinh
tế. Tuy vậy, thật là sai lầm, nếu các nước nghèo thờ ơ với nguồn vốn này, không tận
dụng tối đa ODA cho đầu tư phát triển nhất là trong giai đoạn đầu xây dựng và hình
thành nên những nền tảng cơ sở hạ tầng kinh tế, hành lang pháp lý rõ ràng và chặt chẽ,
tạo môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư tư nhân và đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiến
trình phát triển của các nước này sẽ chậm lại và sự hội nhập kinh tế, công nghệ với thế
giới dường như ít cơ hội.
Việt Nam là quốc gia không phụ thuộc vào viện trợ nước ngoài nhưng lại là nước
sử dụng viện trợ tương đối thành công. Tuy nhiên, khả năng hấp thụ ODA của Việt
Nam khá chậm và có xu hướng thụt lùi trong khi mức cam kết ODA dành cho Việt
Nam của cộng đồng quốc tế ngày càng tăng. Với nghịch lý này, thêm vào đó là trong
bối cảnh Việt Nam đã thoát khỏi nhóm nước có thu nhập thấp, ODA trở thành một
nhân tố quan trọng góp phần vào tiến trình phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam. Do
vậy, khuynh hướng vận động và hấp thụ ODA của Việt Nam cho mục tiêu phát triển
trong thời gian tới là cơ hội lẫn thách thức mà các nhà kinh tế, các cơ quan quản lý,
chính phủ phải lưu ý và có kế hoạch hành động phù hợp và đúng lúc.
Mặc dù, nhóm hết sức cố gắng nhưng trình độ có hạn nên đề tài không tránh khỏi
những thiếu sót. Tác giả rất mong những góp ý quý báu từ cô.
PHỤ LỤC: Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA
Hiện nay tại Việt Nam cũng như các nước trên thế giới đã và đang áp dụng nhiều
phương pháp đánh giá hiệu quả nguồn vốn đầu tư. Cụ thể như ở Việt Nam có quy
trình rõ ràng quy định về việc phải lập và thẩm định dự án đầu tư để xem xét hiệu quả
trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, ... cùng với khả năng thu hồi vốn và các lợi ích thu
được. Với các dự án cụ thể thì chủ đầu tư có thể dùng một số phương pháp so sánh, đánh
giá hiệu quả đầu tư như nghiên cứu khả thi, phương pháp so sánh giá tương đương,
phương pháp giá trị hiện tại, phương pháp lựa chọn giải pháp. Mỗi phương pháp
đều có một đặc điểm riêng và phạm vi áp dụng phù hợp với từng tiêu chí của chủ đầu tư.
Với các nhà tài trợ quốc tế thì họ cũng có phương pháp đánh giá hiệu quả nguồn vốn
sử dụng tại các quốc gia vay hay nhận tiền viện trợ. Quá trình đánh giá này
thường diễn ra liên tục trong suốt vòng đời của dự án từ giai đoạn ý tưởng, thực hiện đến
giai đoạn hoàn thành dự án đưa vào vận hành sử dụng. Những phương pháp đánh giá
hiệu quả sử dụng vốn này có những điểm giống nhau và khác nhau, thường được thực
hiện chủ yếu bởi ngân hàng thế giới (WB), ngân hàng phát triển châu Á (ADB), các quỹ
viện trợ phát triển và chính phủ các nước phát triển.
Hiện nay có một cách đánh giá chung về hiệu quả sử dụng vốn đang được các
nhà tài trợ cùng thực hiện là đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư ODA
theo tinh thần của Tuyên bố chung Paris về hiệu quả viện trợ (xem phụ lục). Theo
đó, tuyên bố chung Paris về hiệu quả viện trợ đưa ra năm cam kết: Tinh thần làm
chủ, Hài hòa, Sự tuân thủ, Các kết quả và chia sẻ trách nhiệm. Theo cách đánh giá
này thì hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và lợi ích của dự án không chỉ được đánh giá
trên các giá trị vật chất cụ thể do dự án mang lại mà con được đánh giá trên các khía
cạnh phi vật chất như nâng cao năng lực con người, lợi ích dài lâu cho đất nước, tinh
thần tự chủ và tính hòa hợp.
Phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng nguồn vốn đầu tư ODA theo tinh thần của
tuyên bố chung Paris về hiệu quả viện trợ
1. Tinh thần làm chủ: Chính phủ Việt Nam xác định các chính sách phát triển:
- Chính phủ Việt Nam lãnh đạo và thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội
5 năm có tham vấn ý kiến rộng rãi nhằm lồng ghép viện trợ phát triển nước
ngoài vào quy trình lập kế hoạch.
- Chính phủ Việt Nam tăng cường hơn nữa vai trò lãnh đạo trong việc điều
phối viện trợ ở tất cả các cấp.
2. Sự tuân thủ hệ thống quốc gia: Các nhà tài trợ tuân thủ các chiến lược của
Việt Nam và cam kết sử dụng các hệ thống của quốc gia được tăng cường.
- Các nhà tài trợ hỗ trợ phát triển trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
5 năm và các kế hoạch liên quan ở cấp quốc gia, ngành, vùng và các tỉnh,
thành phố. Các nhà tài trợ đối thoại với chính phủ dựa trên chương trình tăng
trưởng và giảm nghèo đề ra trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm.
- Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ thiết lập các khuôn khổ được nhất trí
chung để đưa ra những đánh giá xác thực về hệ thống các quy định và quy
trình thủ tục quốc gia và việc thực hiện những quy địn, thủ tục này.
- Các nhà tài trợ sử dụng hệ thống các quy định và quy trình thủ tục quốc gia
một cách tối đa nhất có thể. Trong trường hợp không khả thi, các nhà tài trợ
cung cấp những hỗ trợ bổ sung nhằm tăng cường hệ thống các quy định và
quy trình thủ tục quốc gia.
- Các nhà tài trợ tránh tạo ra các cơ cấu song trùng để quản lý các chương trình,
dự án viện trợ.
- Các nhà tài trợ giảm dần việc khuyến khích bằng tiền đối với các quan chức
chính phủ hiện đang quản lý các chương trình, dự án viện trợ và không khuyế
khích như vậy đối với các hoạt động trong tương lai. Việt Nam tăng cường
năng lực thể chế với sự hỗ trợ của các nhà tài trợ; Các nhà tài trợ sử dụng
nhiều hơn hệ thống các quy định của chính phủ.
- Chính phủ Việt Nam lồng ghép các mục tiêu xây dựng năng lực vào kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và các kế hoạch ngành, vùng, tỉnh, thành phố
và lãnh đạo thực hiện một chương trình đồng bộ về xây dựng năng lực với sự
hỗ trợ được phối hợp của các nhà tài trợ.
- Chính phủ Việt Nam tiến hành các cải cách như cải cách hành chính công
nhằm thúc đẩy năng lực phát triển lâu dài.
- Chính phủ Việt Nam tiến hành cải cách nhằm đảm bảo rằng khung luật pháp,
các hệ thống quốc gia, các thể chế và quy trình thủ tục về quản lý viện trợ và
các nguồn lực phát triển khác là có hiệu quả, có trách nhiệm và minh bạch.
- Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ cam kết bố trí đủ nguồn lực để hỗ trợ
và duy trì cải cách, xây dựng năng lực trong lĩnh vực đấu thầu, quản lý tài
chính công.
- Các nhà tài trợ dựa ngày càng nhiều hơn vào hệ thồng đấu thầu của Chính
phủ Việt Nam một khi đạt được các tiêu chuẩn được các bên nhất trí. Các nhà
tài trợ dựa ngày càng nhiều hơn vào hệ thống quản lý tài chính công của
Chính phủ Việt Nam một khi đạt được các tiêu chuẩn được các bên nhất trí.
- Chính phủ Việt Nam công bố các báo cáo kịp thời, đầy đủ, rõ ràng, xác thực
về quá trình xây dựng và thực hiện ngân sách.
- Các nhà tài trợ nâng cao tính dự báo về viện trợ trong tương lai thông qua
quyết định công khai làm cho các quá trình viện trợ đưa ra được những cam
kết định hướng xác thực về viện trợ trong khuôn khổ nhiều năm và thực hiện
viện trợ một cách kịp thời, có dự báo trước liên quan tới chu trình ngân sách
của Chính phủ Việt Nam.
- Chính phủ Việt Nam với sự hỗ trợ của các nhà tài trợ, tăng cường năng lực kỹ
thuật chuyên ngành về chính sách để phân tích xã hội và môi trường cũng như
đẩy mạnh ban hành pháp luật.
3. Hài hòa và tinh giản: Các nhà tài trợ thực hiện những hoạt động chu ng và tinh
giản thủ tục.
- Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ cùng nhau xây dựng và sử dụng các
kết quả của các báo cáo như: Đánh giá trách nhiệm giải trình tài chính quốc
gia, Đánh giá chi tiêu công, Đánh giá đấu thầu quốc gia, … Chính phủ Việt
Nam và nhà tài trợ cùng hợp tác về chia sẻ những kết quả đánh giá khác, cũng
như cùng nhau thực hiện nhiều đánh giá hỗn hợp khác.
- Các nhà tài trợ hợp lý hóa các hệ thống và thủ tục của mình bằng cách thực
hiện những hoạt động chung đối với việc lập kế hoạch, thiết kế, thực hiện,
theo dõi, đánh giá và báo các cho chính phủ Việt Nam về hoạt động tài trợ và
về nguồn tài trợ.
- Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ tăng cường sử dụng cách tiếp cận theo
chương trình. Thực hiện tối đa việc phân cấp và ủy quyền cho đơn vị quản lý
viện trợ của nhà tài trợ tại Việt Nam.
4. Quản lý dựa vào kết quả: Quản lý các nguồn lực và cải thiện việc ra các quyết
định hướng tới kết quả.
- Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ cùng sử dụng khuôn khổ đánh giá tình
hình hoạt động định hướng vào các kết quả nhằm tối đa hóa hiệu quả viện trợ
và quản lý việc thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm cũng như
các kế hoạch quốc gia, ngành, vùng, tỉnh, thành phố có liên quan khác.
- Các nhà tài trợ phối hợp các chương trình và các nguồn lực để đạt được các
kết quả sao cho đóng góp được cho Chính phủ và được Chính phủ đánh giá
trong khuôn khổ đánh giá của Chính phủ Việt Nam theo các chỉ tiêu được
thỏa thuận chung.
5. Trách nhiệm chung: Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ đều có trách
nhiệm về các kết quả phát triển.
- Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ cùng đánh giá và tiến hành đánh giá
độc lập thường niên về hình thức thực hiện các cam kết đã thỏa thuận về hiệu
quả viện trợ, về những tiến bộ trong phát triển thông qua cơ chế hiện hành và
cơ chế khách quan đang được nâng cao ở cấp quốc gia.
- Các nhà tài trợ cung cấp kịp thời thông tin toàn diện và công khai về viện trợ
và dự kiến chương trình để chính phủ Việt Nam trình các cơ quan lập pháp và
công bố cho nhân về các báo cáo toàn diện về ngân sách và điều phối viện trợ
có hiệu quả.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các nguồn tài trợ cho phát triển kinh tế- ODA – Một trong những nguồn lực phát triển của Việt Nam.pdf