Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
1. Lợi nhuận kì vọng
1.1 Lí thuyết của Keynes
- Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi vọng sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết của Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết đầu tư của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng thì các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ gửi tiền vào ngân hàng.
- Mặt khác, theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ suất đầu tư của số tiền đầu tư mới. Do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần. Điều này có thể giải thích do các nguyên nhân sau:
Trước hết, khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về vốn tăng dẫn đến sự gia tăng của lãi suất cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi đó, lợi nhuận giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên giảm.
Thứ hai, xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động, phát huy kết quả trong thực tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng, nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh tế. Cung tăng, giá sản phẩm sẽ giảm, chi phí sản xuất xem như ổn định, lúc đó tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm.
Thứ ba, xuất phát từ năng suất lao động. Khi gia tăng vốn đầu tư vào sản xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi lao động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1 đơn vị vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn
so với khi lượng vốn nhiều. Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn cũng giảm dần.
Thứ 4, khi quy mô vốn đầu tư tăng, hiệu quả biên của vốn giảm dần nên các nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư cho tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn mữ lãi suất vốn vay trên thị trường vốn. Khi hiệu quả biên của vốn thấp hơn lãi suất vốn vay, nghĩa là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn chi phí tăng thêm thì các nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. Điểm cân bằng là điểm hiệu quả biên của vốn bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Theo Keynes, tỉ suất lợi nhuận là đại lượng rất khó xác định. Nhưng chính điều đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư quyết định bỏ tiền đầu tư. Do lợi nhuận khó xác định, có thể rất cao nhưng cũng có thể rất thấp, thậm chí có thể âm nên kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng có thể thu được khoản lợi nhuận cao đó. Tuy nhiên, bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra. Đó là tính 2 mặt của hoạt động đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận kì vọng.
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng
1.2.1 Cung – cầu hàng hóa
Trong các giai đoạn của 1 dự án thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư được xem là khâu quan trọng nhất. Việc xác định cung cầu hàng hóa cho sản phẩm của dự án có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư .
Nghiên cứu cầu hàng hóa để đảm bảo sản phẩm bán ra có thể tiêu thụ được. Cầu hàng hoá trước hết phụ thuộc vào sức mua chung của người dân, đó là tỷ lệ tiêu dùng (C) chia cho thu nhập khả dụng của từng người dân (Yd) với tổng số dân cư của địa phương hay của một quốc gia . Như vậy cầu hàng hóa phụ thuộc vào thu nhập, mức sống, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của người dân.
Cung hàng hóa là mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu trong 1 thời điểm nhất định. Trước hết nó phụ thuộc vào khả năng sản xuất xã hội, tức là khả năng cung ứng và kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vốn, công nghệ .Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu và khả năng phân phối, lưu thông hàng hóa.
1.2.2 Mức độ rủi ro
Một trong những đặc điểm của đtpt là thời kì đầu tư kéo dài, nguồn vốn khá lớn, nghĩa là kèm theo với mức độ rủi ro cao. Từ đó nó ảnh hưởng lớn đến yếu tố lợi nhuận kì vọng. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro là rất rộng, ví dụ như những thay đổi không lường trước được của giá cả, công nghệ, Vấn đề là khả năng quản trị rủi ro của doanh nghiệp như thế nào, mức độ phát triển của các dịch vụ hạn chế rủi ro (bảo hiểm, tín dung, ) và quan trọng nhất là sự ổn định của môi trường đầu tư cả về kinh tế, xã hội và chính trị.
1.2.3 Các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất
Với mỗi dự án, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư thì họ phải xác định được các yêu tố đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành khai thác kết quả của dự án sau này, đó bao gồm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Cụ thể là:
- Các điều kiện về nguồn nhân lực: bao gồm cả về chất lượng và số lượng. Khi xem xét nguồn nhân lực ta cần chú ý về khả năng dự báo tốc độ tăng dân số, về tiền lương, về trình độ học vấn và văn hóa của họ
- Nguồn vốn cho hoạt động đtpt: đó chính là khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính và tỷ lệ phân bổ vốn cho hoạt động đầu tư.
- Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào: phụ thuộc vào các chính sách bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng, các mối liên hệ giữa các ngành kinh tế .
- Về trình độ công nghệ: phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công nghệ, khả năng nghiên cứu ứng dụng của đội ngũ khoa học trong nước. Nếu là nhập công nghệ từ nước ngoài thì còn phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học trong nước: họ tiếp thu, triển khai công nghệ đó như thế nào?
- Về cơ sở hạ tầng: phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước, do đó phụ thuộc vào quy hoạch vùng và khả năng ngân sách.
15 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3015 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Câu 4: Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam
Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư
1. Lợi nhuận kì vọng
1.1 Lí thuyết của Keynes
- Lợi nhuận kỳ vọng là khoản lợi nhuận mà chủ đầu tư mong muốn, hi vọng sẽ thu được trong tương lai khi đưa ra quyết định đầu tư. Theo lí thuyết của Keynes, lợi nhuận kì vọng là 1 trong 2 nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến quyết đầu tư của doanh nghiệp. Nếu lợi nhuận kì vọng lớn, nhà đầu tư sẵn sàng bỏ vốn để kinh doanh. Lợi nhuận cao sẽ kích thích nhu cầu đầu tư, ngược lại nếu lợi nhuận kì vọng thấp và nhỏ hơn tiền lãi thu được khi gửi tiền vào các ngân hàng thì các nhà đầu tư sẽ không bỏ tiền vào sản xuất kinh doanh mà thay vào đó, họ gửi tiền vào ngân hàng.
- Mặt khác, theo ông thì hiệu quả biên của vốn đầu tư phụ thuộc vào tỷ suất đầu tư của số tiền đầu tư mới. Do đó vốn đầu tư càng tăng thì hiệu quả biên của vốn giảm dần. Điều này có thể giải thích do các nguyên nhân sau:
Trước hết, khi tăng chi tiêu đầu tư, nhu cầu vốn đầu tư sẽ tăng. Cầu về vốn tăng dẫn đến sự gia tăng của lãi suất cho vay (giá của đồng vốn). Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi đó, lợi nhuận giảm nên tỷ suất lợi nhuận biên giảm.
Thứ hai, xuất phát từ phương diện cung sản phẩm cho thị trường. Khi gia tăng đầu tư và kết quả đầu tư đã đi vào hoạt động, phát huy kết quả trong thực tiễn thì cung sản phẩm sẽ tăng, nghĩa là có nhiều sản phẩm được cung ứng vào nền kinh tế. Cung tăng, giá sản phẩm sẽ giảm, chi phí sản xuất xem như ổn định, lúc đó tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư giảm.
Thứ ba, xuất phát từ năng suất lao động. Khi gia tăng vốn đầu tư vào sản xuất thì sự gia tăng về kĩ thuật, công nghệ, trang thiết bị, cơ sở vật chất cho mỗi lao động cũng giảm dần, nghĩa là khi lượng vốn còn ít thì mỗi sự gia tăng của 1 đơn vị vốn sẽ làm cho năng suất lao động gia tăng nhiều hơn
so với khi lượng vốn nhiều. Năng suất lao động biên giảm dần dẫn đến lợi nhuận biên của vốn cũng giảm dần.
Thứ 4, khi quy mô vốn đầu tư tăng, hiệu quả biên của vốn giảm dần nên các nhà đầu tư chỉ tiếp tục đầu tư cho tới khi hiệu quả biên của vốn còn lớn hơn mữ lãi suất vốn vay trên thị trường vốn. Khi hiệu quả biên của vốn thấp hơn lãi suất vốn vay, nghĩa là lợi nhuận tăng thêm thấp hơn chi phí tăng thêm thì các nhà đầu tư sẽ ngừng việc đưa thêm vốn vào mở rộng sản xuất. Điểm cân bằng là điểm hiệu quả biên của vốn bằng với lãi suất cho vay của ngân hàng.
- Theo Keynes, tỉ suất lợi nhuận là đại lượng rất khó xác định. Nhưng chính điều đó lại thúc đẩy các nhà đầu tư quyết định bỏ tiền đầu tư. Do lợi nhuận khó xác định, có thể rất cao nhưng cũng có thể rất thấp, thậm chí có thể âm nên kích thích các nhà đầu tư bỏ vốn với kì vọng có thể thu được khoản lợi nhuận cao đó. Tuy nhiên, bên cạnh đó, họ cũng phải đối mặt với những rủi ro có thể xảy ra. Đó là tính 2 mặt của hoạt động đầu tư, chấp nhận rủi ro để thu được lợi nhuận kì vọng.
1.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận kì vọng
1.2.1 Cung – cầu hàng hóa
Trong các giai đoạn của 1 dự án thì giai đoạn chuẩn bị đầu tư được xem là khâu quan trọng nhất. Việc xác định cung cầu hàng hóa cho sản phẩm của dự án có vai trò rất lớn ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư .
Nghiên cứu cầu hàng hóa để đảm bảo sản phẩm bán ra có thể tiêu thụ được. Cầu hàng hoá trước hết phụ thuộc vào sức mua chung của người dân, đó là tỷ lệ tiêu dùng (C) chia cho thu nhập khả dụng của từng người dân (Yd) với tổng số dân cư của địa phương hay của một quốc gia . Như vậy cầu hàng hóa phụ thuộc vào thu nhập, mức sống, thói quen tiêu dùng và thị hiếu của người dân.
Cung hàng hóa là mức độ và khả năng đáp ứng nhu cầu trong 1 thời điểm nhất định. Trước hết nó phụ thuộc vào khả năng sản xuất xã hội, tức là khả năng cung ứng và kết hợp các yếu tố đầu vào của sản xuất như lao động, vốn, công nghệ….Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào hàng nhập khẩu và khả năng phân phối, lưu thông hàng hóa.
1.2.2 Mức độ rủi ro
Một trong những đặc điểm của đtpt là thời kì đầu tư kéo dài, nguồn vốn khá lớn, nghĩa là kèm theo với mức độ rủi ro cao. Từ đó nó ảnh hưởng lớn đến yếu tố lợi nhuận kì vọng. Phạm vi ảnh hưởng của rủi ro là rất rộng, ví dụ như những thay đổi không lường trước được của giá cả, công nghệ,… Vấn đề là khả năng quản trị rủi ro của doanh nghiệp như thế nào, mức độ phát triển của các dịch vụ hạn chế rủi ro (bảo hiểm, tín dung,..) và quan trọng nhất là sự ổn định của môi trường đầu tư cả về kinh tế, xã hội và chính trị.
1.2.3 Các nguồn lực đầu vào của quá trình sản xuất
Với mỗi dự án, khi nhà đầu tư quyết định bỏ vốn đầu tư thì họ phải xác định được các yêu tố đảm bảo cho quá trình thực hiện đầu tư cũng như vận hành khai thác kết quả của dự án sau này, đó bao gồm các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Cụ thể là:
- Các điều kiện về nguồn nhân lực: bao gồm cả về chất lượng và số lượng. Khi xem xét nguồn nhân lực ta cần chú ý về khả năng dự báo tốc độ tăng dân số, về tiền lương, về trình độ học vấn và văn hóa của họ…
- Nguồn vốn cho hoạt động đtpt: đó chính là khả năng huy động vốn trên thị trường tài chính và tỷ lệ phân bổ vốn cho hoạt động đầu tư.
- Về nguồn nguyên nhiên liệu đầu vào: phụ thuộc vào các chính sách bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, tốc độ đền bù giải phóng mặt bằng, các mối liên hệ giữa các ngành kinh tế….
- Về trình độ công nghệ: phụ thuộc vào các quy định về chuyển giao công nghệ, khả năng nghiên cứu ứng dụng của đội ngũ khoa học trong nước. Nếu là nhập công nghệ từ nước ngoài thì còn phụ thuộc vào trình độ của đội ngũ cán bộ khoa học trong nước: họ tiếp thu, triển khai công nghệ đó như thế nào?
- Về cơ sở hạ tầng: phần lớn được đầu tư từ ngân sách nhà nước, do đó phụ thuộc vào quy hoạch vùng và khả năng ngân sách.
1.2.4 Thuế
Thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, vừa là công cụ tái phân phối của cải xã hội vừa là công cụ điều tiết phân bổ vốn giữa các ngành, vùng miền. Thuế ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp nên các ưu đãi về thuế thường được sử dụng như 1 biện pháp khuyến khích đầu tư.
Vấn đề ở đây là phải xây dựng một chính sách thuế phù hợp. Bởi nếu ưu đãi quá mức sẽ gây thất thu ngân sách và giảm đầu tư công cộng. Ngược lại, một mức thuế cao sẽ giảm tính cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước cũng như làm gia tăng tình trạng trốn thuế hay buôn lậu
Liên quan đến mối quan hệ giữa đầu tư và lợi nhuận thực tế ta có thể xem xét đến lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ, thể hiện qua phương trình I = f (lợi nhuận thực tế)
Do đó dự án nào đem lại lợi nhuận cao sẽ được lựa chọn. Vì lợi nhuận cao, thu nhập giữ lại cho đầu tư sẽ lớn và mức đầu tư sẽ cao hơn. Nguồn vốn có thể huy động cho đầu tư bao gồm: lợi nhuận giữ lại, tiền trích khấu hao, đi vay các loại trong đó bao gồm cả việc phát hành trái phiếu và bán cổ phiếu. Lợi nhuận giữ lại và tiền trích khấu hao tài sản là nguồn vốn nội bộ của doanh nghiệp, còn đi vay và phát hành trái phiếu, bán cổ phiếu là nguồn vốn huy động từ bên ngoài. Vay mượn thì phải trả nơ, trường hợp nền kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, doanh nghiệp có thể không trả được nợ và lâm vào phá sản. Do đó việc đi vay khôn phải là hấp dẫn, trừ khi có ưu đãi. Cũng tương tự, việc tăng vốn đầu tư bằng phát hành trái phiếu cũng không phải là biện pháp hấp dẫn, còn bán cổ phiếu để tài trợ cho đầu tư chỉ được các doanh nghiệp áp dụng khi hiệu quả của dựa án đầu tư là rõ ràng và thu nhập do dự án đem lại trong tương lai sẽ lớn hơn chi phí đã bỏ ra.
Chính vì vậy, theo lí thuyết quỹ đầu tư nội bộ thì doanh nghiệp thường chọn biện pháp tài trợ cho đầu tư từ các nguồn vốn nội bộ và chính sự gia tăng của lợi nhuận sẽ làm cho mức đầu tư của doanh nghiệp lớn hơn.
2. Lãi suất tiền vay
Vốn là một yếu tố quan trọng trong hoạt động đầu tư, do đó với tư cách là chi phí sử dụng vốn (hay giá của vốn) thì lãi suất ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu tài chính của dự án. Các nhà đầu tư thường vay tiền để đầu tư và lãi suất phản ánh giá của khoản tiền vay mượn đó. Nếu giá vay tiền (giá của vốn) cao hơn tỉ suất lợi nhuận bình quân thì nhà đầu tư sẽ cắt giảm quy mô đầu tư và ngược lại.
Cần phân biệt các loại lãi suất: lãi suất cơ bản (do ngân hàng nhà nước quy định,các tổ chức tài chính không được cho vay với lãi suất lớn hơn 150% so với lãi suất cơ bản); lãi suất cho vay sản xuất, cho vay tiêu dùng, cho vay đầu tư tài chính, lãi suất tái cấp vốn. Sự chênh lệch giữa các loại lãi suất góp phần điều tiết sự phân bổ vốn trong nền kinh tế.
Lãi suất danh nghĩa phụ thuộc trước hết vào cung – cầu vốn vay trên thị trường. Cung vốn chính là tổng tiết kiệm quốc dân, được xác định bằng tổng thu nhập quốc dân trừ đi tiêu dùng. Lãi suất được điều chỉnh để tạo ra sự cân bằng trên thị trường vốn. Ngoài ra lãi suất cũng chịu ảnh hưởng của sự điều tiết của ngân hàng nhà nước thông qua chính sách tiền tệ như lãi suất cơ bản, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu, tỉ lệ dự trữ bắt buộc.
Lãi suất thực tế không chỉ phụ thuộc vào lãi suất danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào tỉ lệ lạm phát.
Trong đó r là lãi suất thực tế; i là lãi suất danh nghĩa; π là tỷ lệ lạm phát
Chủ đầu tư sẽ chỉ quyết định đầu tư khi IRR của dự án lớn hơn lãi suất thực tế. Do đó khi lãi suất tăng sẽ có ít dự án đầu tư hơn, nhu cầu đầu tư sẽ giảm.
Đồ thị:
D
i
I
O
i0
i1
I0
I1
Hình 1: Lãi suất tiền vay là biến nội sinh của hàm cầu đầu tư
Tuy nhiên lãi suất thấp hơn thì sẽ có nhiều dự án có IRR thấp được triển khai, tức là các dự án ít hiệu quả, độ rủi ro cao. Khi đó nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh do tổng đầu tư tăng nhưng kết cục có thể dẫn đến lạm phát cao, chính phủ buộc phải thực thi các biện pháp kiểm soát tiền tệ, các dự án có hiệu quả thấp sẽ bị lỗ nếu tiếp tục vay vốn, nhiều dự án sẽ bị phá sản, nền kinh tế lại rơi vào suy thoái. Ngoài ra nếu lãi suất trong nước thấp hơn lãi suất thế giới thì có thể vốn đầu tư trong nước sẽ chảy ra nước ngoài do đó không làm tăng tổng đầu tư trong nước.
Do đó cần cân nhắc thận trọng khi điều tiết chính sách tiền tệ - lãi suất.
3. Tốc độ phát triển của sản lượng quốc gia
Đây là một chỉ tiêu vĩ mô ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều yếu tố khác.
- Nhu cầu về sản lượng sản phẩm hay việc thay đổi sản lượng là nhân tố ảnh hưởng đến việc tăng hay giảm qui mô vốn đầu tư.
Ví dụ: Khi GDP tăng nhanh sẽ làm tăng thu nhập của người dân, do đó vừa kích thích tiêu dùng lại vừa làm tăng tiết kiệm.
Khi tiêu dùng tăng thì tổng cầu cũng tăng; tiết kiệm tăng thì cung vốn tăng làm giảm lãi suất, kích thích đầu tư.
Hơn nữa, khi toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng sẽ tạo ra tâm lí hướng về đầu tư.
Quá trình này sẽ tạo ra hiệu ứng “số nhân”, tức là: một sự tăng thêm ban đầu trong sản lượng sẽ làm đầu tư và sản lượng tiếp tục tăng thêm nhiều lần.
- Tốc độ tăng sản lượng và tốc độ tăng vốn đầu tư không giống nhau, vấn đề này được đề cập trong lý thuyết gia tốc vốn đầu tư .Theo lý thuyết này, để sản xuất ra một đơn vị đầu ra cho trước cần phải có một lượng vốn đầu tư nhất định. Tương quan giữa sản lượng và vốn đầu tư có thể được biểu diễn theo công thức: x = K/Y (*)
Trong đó
K: vốn đầu tư tại thời kỳ nghiên cứu
Y: sản lượng tại thời kì nghiên cứu
x: hệ số gia tốc đầu tư
Từ công thức thức trên ta suy ra: K = x * Y
Như vậy nếu x không đổi thì khi qui mô sản lượng sản xuất tăng dẫn đến nhu cầu vốn đầu tư tăng theo và ngược lại. Theo công thức trên thì sản lượng phải tăng liên tục mới làm cho đầu tư tăng cùng tốc độ hoặc không đổi so với thời kì trước.
Đặc điểm của lí thuyết gia tốc đầu tư:
- Phản ánh quan hệ giữa sản lượng với đầu tư. Nếu x không đổi trong kì kế hoạch thì có thể sử dụng công thức để lập kế hoạch khá chính xác.
- Phản ánh sự tác động của tăng trưởng kinh tế đến đầu tứ. Khi kinh tế tăng trưởng cao, sản lượng nền kinh tế tăng , cơ hội kinh doanh lớn, dẫn đến tiết kiệm tăng cao và đầu tư tăng nhiều.
Tuy nhiên, nó còn có 1 số hạn chế :
Thứ nhất, ở đây giả định quan hệ giữa sản lượng và đầu tư là cố định. Thực tế đại lượng này (x) luôn biến động do sự tác động của nhiều nhân tố khác.
Thứ hai, thực chất lí thuyết đã xem xét sự biến động của đầu tư thuần (NI) chứ không phải sư biến động của tổng đầu tư do sự thay đổi của sản lượng. Thật vậy, từ công thức (*) ở trên có thể viết:
Tại thời điểm t: Kt =x . Yt (1)
Tại thời điểm (t-1): Kt-1 = x . Yt-1 (2)
Lấy (1) trừ (2) ta có :
Kt –Kt-1 = x.Yt –x.Yt-1 = x.(Yt –Yt-1)
Trong đó.(Yt –Yt-1) là đầu tư ròng và bằng (It – D), với D là khấu hao
Do đó, (It – D) = (Yt –Yt-1) = x.(Yt – Yt-1) = x.∆Y
Và đầu tư ròng : ∆I = x.∆Y
Như vậy theo lí thuyết này thì đầu tư ròng là hàm của sự gia tăng sản lượng đầu ra. Nếu sản lượng tăng, đầu tư ròng tăng (lớn hơn x lần).
Nếu sản lượng giảm, đầu tư thuần sẽ âm.
Nếu tổng cầu về sản lượng trong thời gian dài không đổi, đầu tư ròng sẽ bằng không. Khi .∆Y = 0 thì ∆I = 0
Thứ ba, theo lí thuyết này thì toàn bộ vốn đầu tư mong muốn đều được thực hiện ngay trong cùng 1 thời kì. Điều này không đúng vì nhiều lí do, chẳng hạn như do việc cung cấp các yếu tố có liên quan đến vốn đầu tư không đáp ứng, do cầu vượt quá cung…Do đó, lí thuyết gia tốc đầu tư tiếp tục được hoàn thiện qua thời gian. Theo lí thuyết đầu tư sau này thì vốn đầu tư mong muốn được xác định như là một hàm của mức sản lượng hiện tại và quá khứ, nghĩa là quy mô đầu tư mong muốn được xác định trong thời gian dài hạn.
4. Chu kì kinh doanh
- Thế nào là chu kì kinh doanh? Đó là những dao động của nền kinh tế xung quanh xu thế tăng trưởng dài hạn, bao gồm cả những thời kì tăng trưởng nhanh xen kẽ với những thời kì suy thoái của nền kinh tế.
0 t
Hình I.5. Chu kỳ kinh doanh
- Ở mỗi thời kỳ khác nhau của chu kỳ kinh doanh sẽ phản ánh các mức chi tiêu đầu tư khác nhau.
Khi nền kinh tế đang đi lên thì đầu tư tăng, vì sao?
Theo lý thuyết tính kinh tế của quy mô, trong những điều kiện nhất định thì việc gia tăng quy mô sản lượng sản xuất ra có thể giúp cho chủ đầu tư tiết kiệm chi phí sản xuất, gia tăng đầu tư.
Mặt khác, khi chu kỳ kinh doanh ở vào thời kỳ đi lên, quy mô của nền kinh tế mở rộng, nhu cầu đầu tư của toàn bộ nền kinh tế cũng như của các doanh nghiệp tư nhân gia tăng. Ngược lại, khi chu kì kinh doanh ở vào thời kì đi xuống, qui mô nền kinh tế thu hẹp, nhu cầu đầu tư của nền kinh tế và các doanh nghiệp tư nhân thu hẹp lại.
Khi nền kinh tế đi xuống thì tổng đầu tư giảm, nhưng xét từng nhà đầu tư lại chưa chắc đã giảm?
Thật vậy, không phải lúc nào sự tăng hay giảm chi tiêu của các doanh nghiệp cũng thuận chiều với xu hướng lên xuống của chu kì kinh doanh của toàn bộ nền kinh tế. Bởi vì mặc dù nền kinh tế suy thoái nhưng các doanh nghiệp vẫn đầu tư phát triển sản phẩm mới thay thế sản phẩm cũ khi sản phẩm cũ đã mất chỗ đứng trên thị trường hoặc đã kết thúc một chu kì sống, hoặc cũng có một số doanh nghiệp đầu tư vào các thị trường ngoài nước trong khi nền kinh tế của quốc gia đang trên đà đi xuống.
5. Đầu tư của Nhà nước
Trong tổng đầu tư xã hội bao gồm đầu tư của nhà nước và đầu tư của doanh nghiệp.
Các dự án đầu tư từ nguồn vốn của nhà nước không nhằm mục đích thu lợi mà tác dụng trợ giúp, điều tiết, định hướng cho đầu tư của toàn xã hội. Thông qua ngân sách, chính phủ có thể đầu tư phát triển mạng lưới giao thông, viễn thông, cơ sở hạ tầng, các khu công nghiệp…điều này nhằm cải thiện môi trường đầu tư, khuyến khích các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp đầu tư vào các vùng, ngành theo quy hoạch của chính phủ, hướng nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nguồn vốn đầu tư nhà nước bao gồm nguồn vốn từ ngân sách nhà nước, nguồn vốn tín dụng đtpt của nhà nước và nguồn vốn đtpt của doanh nghiệp nhà nước.
Ở nước ta hiện nay các doanh nghiệp nhà nước vấn giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, nguồn vốn của họ chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, tổng vốn vay từ các ngân hàng thương mại và từ nước ngoài. Vì vậy mỗi động thái trong hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp này đều có tác động ít nhiều đến các hành vi của các chủ đầu tư khác trong nền kinh tế. Nói cách khác, đầu tư nhà nước dẫn đường cho đầu tư của tư nhân, của các doanh nghiệp đi sau.
Đầu tư nhà nước chịu ảnh hưởng của các yếu tố như thâm hụt ngân sách, nợ nước ngoài, các quy hoạch kinh tế xã hội, tỷ lệ thất thoát, tham nhũng, tốc độ giải ngân vốn, các thủ tục khi sử dụng vốn nhà nước.
6. Môi trường đầu tư
Có thể nói môi trường đầu tư như một chất xúc tác ban đầu cho quyết định bỏ vốn của nhà đầu tư, sự cải thiện môi trường đầu tư có ảnh hưởng vô cùng quan trọng và tác động tích cực đến nền kinh tế, làm tăng nguồn vốn đầu tư và tăng chi tiêu đầu tư toàn xã hội.
Môi trường đầu tư bao gồm nhiều yếu tố, tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến hiệu quả đầu tư. Có thể nói đến hai khái niệm:
- Môi trường cứng: bao gồm các yếu tố liên quan đến cơ sở hạ tầng kĩ thuật phục vụ cho sự phát triển kinh tế, ví dụ như hệ thống thông tin liên lạc, cơ sở hạ tầng giao thông,…
- Môi trường mềm: bao gồm hệ thống thủ tục hành chính, dịch vụ pháp lý liên quan đến hoạt động đầu tư, hệ thống tài chính – ngân hàng…
Cơ sở hạ tầng ở đây mang tính tiên phong, định hướng, xúc tác cho các hoạt động đầu tư, nó mở đường cho các hoạt động kinh tế xã hội phát triển. Vì vậy cần chú ý đến công tác đầu tư chuẩn bị hệ thống cơ sở hạ tầng để thu hút các nhà đầu tư, tạo cho họ sự tin cậy để bỏ vốn đầu tư.
Một môi trường đầu tư ổn định cả về kinh tế, xã hội và chính trị sẽ thúc đẩy các nhà đầu tư bỏ vốn để đầu tư phát triển. Trong đó, việc đưa ra các chính sách nhằm tăng lòng tin cho các nhà đầu tư cần được chính phủ quan tâm. Chính sách và hành vi của chính phủ có ảnh hưởng mạnh thông qua tác động của nó đến chi phí, rủi ro và các rào cản cạnh tranh.
7. Thuế thu nhập doanh nghiệp(bỏ)
Đây là loại thuế đánh vào lợi nhuận của doanh nghiệp, doanh nghiệp sẽ phải chia sẻ với chính phủ một phần lợi nhuận của mình, nhưng với họ đầu tư vẫn hợp lí, vẫn tiếp tục tăng đầu tư khi giá thuê tư bản ( lãi suất thực tế của vay vốn tư bản đầu tư) cao hơn chi phí tư bản và sẽ cắt giảm đầu tư khi giá thuê thấp hơn chi phí tư bản.
Tuy loại thuế đánh vào lợi nhuận theo cách này không làm thay đổi động cơ đầu tư nhưng lại cản trở đầu tư vì các doanh nghiệp phải trích khấu hao dựa trên chi phí lịch sử, tức là phần trích khấu hao được tính trên cơ sở giá mua tư bản ban đầu. Trong thời kì lạm phát, chi phí thay thế lớn hơn chi phí lịch sử nên thuế thu nhập doanh nghiệp có xu hướng đánh giá quá cao lợi nhuận, thậm chí vẫn đánh thuế ngay cả khi lợi nhuận của doanh nghiệp bằng không, từ đó làm cho việc chi tiêu vào đầu tư trở nên ít hấp dẫn hơn, cản trở hoạt động đầu tư.
Bên cạnh đó thì việc miễn thuế đầu tư lại là một quy định trong luật thuế nhằm mục tiêu khuyến khích đầu tư. Phần miễn thuế đầu tư sẽ làm giảm mức thuế mà doanh nghiệp phải nộp khi chi tiêu cho đầu tư, họ sẽ dành khoản tiền đó để mua hàng đầu tư mới, nói cách khác sẽ làm giảm chi phí đầu tư thực tế của mỗi đơn vị tư bản. Như vậy miễn thuế đầu tư làm giảm chi phí đầu tư và tăng chi tiêu đầu tư.
Thuế thu nhập ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động đầu tư của doanh nghiệp nên chính phủ cần đưa ra chính sách thuế hợp lý nhằm khuyến khích và nâng cao hiệu quả của chi tiêu đầu tư nhưng vẫn phải đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
III/ Một số vấn đề về kích cầu đầu tư
1. Thế nào là kích cầu?
Kích cầu đầu tư là tổng hợp tất cả các biện pháp chính sách, các công cụ pháp lý được sử dụng một cách có hệ thống và đồng bộ nhằm thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong một giai đoạn hay thời kì nhất định.
2.Ý nghĩa của kích cầu đầu tư
Kích cầu đầu tư có vai trò vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, nhất là một nước đang phát triển như Việt Nam. Ở các nước dang phát triển hiện nay tồn tại "cái vòng luẩn quẩn" với đặc điểm là : thu nhập thấp – tích lũy thấp – trình độ công nghệ lạc hậu – năng suất thấp, và cần các biện pháp kích cầu đầu tư để phá vỡ nó, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Có những biện pháp kích cầu đầu tư cụ thể và thích hợp sẽ làm tăng lượng vốn đầu tư toàn xã hội, tăng nhu cầu đầu tư xây dựng và cải thiện mức sống của người dân. Đầu tư tăng sẽ làm tăng tổng cung, kích cầu tiêu dùng. Đầu tư vừa là yếu tố duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế. Vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả sẽ có tác động đến tăng trưởng kinh tế, góp phần chuyển dịch cơ cấu theo ngành, vùng lãnh thổ và theo thành phần kinh tế. Đầu tư nước ngoài còn thu hút khoa học công nghệ hiện đại, làm thay đổi bộ mặt của toàn bộ nền kinh tế, cải thiện các vấn đề xã hội. Như vậy kích cầu đầu tư có tác dụng rất quan trọng ở mỗi quốc gia, và mang tính tất yếu trong chiến lươc phát triển kinh tế xã hội dài hạn.
3. Các biện pháp kích cầu đầu tư
Để có các biện pháp thu hút vốn đầu tư hiệu quả cần nhận thức sâu sắc và đầy đủ các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu đầu tư đã trình bày ở phần trên, từ đó đề ra các mục tiêu, quy hoạch phát triển kinh té xã hội và các biện pháp cụ thể.
Theo quan điểm của Keynes, để kích cầu đầu tư chính phủ có thể tác động vào nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu đầu tư là lãi suất và các nhân tố ảnh hưởng gián tiếp song không kém phần quan trọng là thuế, chi phí sản xuất, môi trường đầu tư...
- Đối với yếu tố lãi suất, ngân hàng trung ương có thể thông qua các chính sách giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, giảm lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu... nhằm giảm lãi suất tiết kiệm và lãi suất tiền vay.
- Các biện pháp thu hút đầu tư dân doanh trong nước
- Các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước
- Các biện pháp phát triển thị trường tài chính tạo ra nhiều kênh huy động vốn, chú trọng công tác thẩm định và quản lí, sử dụng vốn nhằm đảm bảo hiệu quả của các dự án đầu tư.
- Kích thích tiêu dùng, khuyến khích các hoạt động xuất khẩu
- Ổn định môi trường đầu tư cả về kinh tế, xã hội và chính trị. Về kinh tế, cần chú ý đến vấn đề lạm phát và chế độ tỷ giá. Các chính sách nhằm hỗ trợ các nhà đầu tư, các doanh nghiệp để họ yên tâm bỏ vốn đầu tư.
- Với chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp, nhà nước có thể tác động đến yếu tố này theo hai hướng. Đó là giảm thuế thu nhập doanh nghiệp nhằm làm tăng lợi nhuận thực tế, từ đó gia tăng quỹ nội bộ và tăng nguồn đầu tư của doanh nghiệp hoặc là miễn, giảm thuế đối với các khoản lợi nhuận dùng để tái đầu tư của doanh nghiệp.
Mỗi tác động đều có tính hai mặt, có thể là tích cực đối với yếu tố này nhưng lại là tiêu cực với yếu tố kia, và đôi khi bản thân các yếu tố cũng có tác động qua lại lẫn nhau. Vì vậy cần cân nhắc thận trọng khi đưa ra các quyết định can thiệp. Mục tiêu cuối cùng của kích cầu đầu tư là tăng trưởng kinh tế nhưng phải đảm bảo cả về mặt văn hóa, xã hội.
II-Thực trạng kích cầu đầu tư ở Việt Nam giai đoạn 2001 đến nay:
1.Kích cầu đầu tư trong nước:
Chính sách thuế:Từ 1/1/2009, thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) sẽ chính thức hạ xuống còn 25%. Dù một số muốn giữ nguyên mức thuế TNDN 28% hiện hành vì lo sợ giảm thu ngân sách,nhưng theo UB Thường vụ Quốc hội, việc giảm thuế suất này sẽ tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, góp phần thu hút đầu tư trong nước và nước ngoaì. Đây cũng là định hướng trong Chiến lược cải cách thuế đến năm 2010.Năm 2001,Chính phủ áp dụng thuế giá trị gia tăng(VAT).VAT là một loại thuế gián thu, được đánh vào người tiêu dùng cuối cùng, mặc dù chủ thể đem nộp nó cho cơ quan thu là các doanh nghiệp.Với sự gia đời của thuế gián thu,gánh nặng về thuế lên doanh nghiệp đã giảm đi đáng kể.
Chính sách tín dụng: trong một thời gian dài, chúng ta áp dụng lãi suất cho vay TDĐT là 5,4%/năm (giai đoạn 1999-2003); lãi suất 6,6% (giai đoạn 2003-2004); lãi suất 7,8%/năm (giai đoạn 2004-2006); lãi suất 8,4%/năm và 9%/năm (giai đoạn 2006-2008); đến tháng 8/2008, mới nâng lên 11,4%/năm và 12%/năm tương ứng với đầu tư cơ sở hạ tầng, vùng miền khó khăn và các ngành nghề, địa bàn còn lại. Lãi suất cho vay TDXK là 8,7%/năm, đó là mức lãi suất quá thấp trong một thời gian dài; đến tháng 8/2008, do lạm phát tăng cao mới nâng lên là 14,4%/năm. Đối với những dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn và dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; dự án tại các xã thuộc Chương trình 135, mức lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước sẽ thấp hơn 0,6%/năm cho cả đồng Việt Nam và ngoại tệ. Riêng lãi suất cho vay kiên cố hóa kênh mương, hạ tầng nông thôn, hạ tầng vượt lũ đồng bằng sông Cửu Long là 0%/năm.Từ đầu năm 2008 đến nay, lãi suất thị trường liên tục tăng cao;có thời điểm lãi suất huy động trên thị trường trong khoảng từ 17,5%/năm – 19%/năm. Như vậy, với các mức lãi suất cho vay nêu trên thì ngay cả khi áp dụng lãi suất quá hạn bằng 150% lãi suất trong hạn thì vẫn thấp hơn lãi suất huy động trên thị trường rất nhiều.
Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 22/2003/QĐ-BTC về cơ chế tài chính trong việc sử dụng quỹ đất tạo vốn cho xây dựng kết cấu hạ tầng. Hiện nay, Bộ Tài chính đang được giao giúp Chính phủ hoàn tất các công việc sửa đổi, bổ sung Nghị định 43/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước theo hướng xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc tiếp cận vốn vay ưu đãi, điều chỉnh mức lãi suất, đơn giản hóa các quy trình thủ tục, điều chỉnh lại đối tượng được vay ưu đãi cho phù hợp với những quy định mới nhất của Nghị định 35/2002/NĐ-CP (sửa đổi, bổ sung Nghị định 51/1999/NĐ-CP). Việc thành lập Quỹ hỗ trợ phát triển như một tổ chức tài chính nhà nước phi lợi nhuận, thực hiện chính sách hỗ trợ đầu tư phát triển của Nhà nước sẽ tăng cường mạnh mẽ các hình thức hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tiếp cận tín dụng nhà nước trong các lĩnh vực Nhà nước khuyến khích đầu tư. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đã hoàn tất dự thảo đề án thành lập Ngân hàng Hỗ trợ xuất khẩu và đã triển khai lấy ý kiến đóng góp của các bộ, ngành trong cả nước
Hàng loạt các văn bản pháp quy, thông tư, hướng dẫn của các bộ, ngành liên quan đến các vấn đề về đất đai, lao động, tiền lương, xúc tiến thương mại và đầu tư... đã lần lượt được ban hành. Có thể nói, chưa bao giờ như trong một khoảng thời gian ngắn vừa qua, nhiều văn bản pháp quy đã ra đời nhưng đều nhằm một mục đích thống nhất là tháo gỡ những vướng mắc, cản trở để đẩy mạnh hơn nữa nhịp độ phát triển của khu vực đầu tư tư nhân.
Cùng với các cơ quan trung ương, các tỉnh ủy, thành ủy đều đã ra nghị quyết về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế tư nhân trên cơ sở những điều kiện cụ thể của địa phương mình. Tiếp theo đó, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố đã cụ thể hóa những nội dung lãnh đạo của cấp ủy, xây dựng chương trình hành động nhằm thực hiện có hiệu quả các nghị quyết của Đảng. Hầu hết các tỉnh, thành đều tiến hành cải cách thủ tục hành chính, có nơi đã thực hiện cơ chế "một cửa" trong việc cấp chứng chỉ hành nghề, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh và quản lý ngành nghề kinh doanh theo quy định của Luật Doanh nghiệp và chủ trương phân cấp quản lý của Chính phủ để tạo điều kiện khuyến khích đầu tư trong nước. Tỉnh Bình Dương là một điển hình tốt trên lĩnh vực này.
Các tỉnh, thành phố đều đã công bố công khai quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội để thu hút vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài. Một số địa phương còn có các biện pháp cụ thể hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp lập hồ sơ dự án, các cơ quan chức năng giúp cung cấp thông tin về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội tạo thuận lợi cho các nhà doanh nghiệp trong việc lựa chọn phương án và địa điểm đầu tư. Nhiều tỉnh có chương trình xúc tiến đầu tư rất thiết thực và hiệu quả, có các hình thức phong phú để tổ chức tiếp xúc, gặp gỡ, trao đổi, đối thoại giữa các cơ quan chức năng, các nhà hoạch định chính sách với các nhà doanh nghiệp. Nhiều vấn đề vướng mắc trong cơ chế đã được nêu ra và đề xuất các giải pháp tháo gỡ từ những cuộc đối thoại thẳng thắn và cởi mở này. Riêng Thành phố Hồ Chí Minh 6 tháng tổ chức một lần.
Hầu hết các tỉnh, thành phố đều có chính sách xây dựng các khu công nghiệp tập trung, khu công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp, cụm tiểu thủ công nghiệp, cụm làng nghề để huy động tối đa các nguồn vốn cho đầu tư phát triển, tạo thuận lợi về mặt bằng sản xuất cho doanh nghiệp. Trong một thời gian ngắn Bắc Ninh đã hình thành quy hoạch phát triển chung của toàn tỉnh, cùng với những biện pháp thiết thực ưu đãi đầu tư cho các làng nghề, các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh. Một số tỉnh như Long An, Quảng Ngãi cũng có những giải pháp thích hợp đối với đất của tư nhân đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đang được dùng làm mặt bằng sản xuất, kinh doanh.
Ngoài các biện pháp hỗ trợ xây dựng kết cấu hạ tầng, nhiều tỉnh, thành phố còn thiết lập trang web site để giới thiệu, cung cấp thông tin thị trường trong nước và thế giới cho doanh nghiệp. Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư mới trên 310 tỉ đồng để xây dựng mạng liên kết giữa các cơ quan, ban, ngành, doanh nghiệp và công dân phỏng theo mô hình chính phủ điện tử, thực hiện đăng ký kinh doanh qua mạng, vừa rút ngắn được thời gian, tiết kiệm chi phí, vừa hạn chế tối đa những hành vi sách nhiễu, gây phiền hà của các quan chức chính quyền.
Nhiều tỉnh, thành phố tìm tòi những hình thức đa dạng, hiệu quả nhằm hỗ trợ doanh nghiệp tổ chức đào tạo nghề, chuyển giao và áp dụng công nghệ, xúc tiến thương mại, hỗ trợ xuất khẩu. Tỉnh Hòa Bình có nhiều sáng kiến trong việc khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển mạng lưới dạy nghề và giới thiệu việc làm, hỗ trợ các tổ chức và cá nhân hình thành các trung tâm dạy nghề, tập huấn nghiệp vụ triển khai thực hiện Luật Doanh nghiệp. Đến nay, có trên 500 lượt người là các nhà doanh nghiệp và các cán bộ quản lý cấp cơ sở tham gia các khóa học như vậy. Ví dụ tỉnh Hà Tây đã tổ chức đào tạo nghề cho hơn 35 ngàn lượt người trong một thời gian tương đối ngắn.
Tuy vậy, bên cạnh nhiều tỉnh, thành phố rất năng động trong việc thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ, thậm chí còn cung cấp thêm nhiều ưu đãi khác căn cứ vào điều kiện cụ thể của địa phương mình, thì vẫn còn không ít địa phương chưa thực sự "bắt tay vào cuộc". Trong số đó, đáng chú ý nhất là nhận thức chưa đầy đủ, chưa thấu đáo của một bộ phận cán bộ và nhà doanh nghiệp về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc khuyến khích đầu tư. Do đó, hành động còn cầm chừng hoặc không đầy đủ, kém hiệu quả... Tất cả đã làm hạn chế kết quả việc thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ. Theo thống kê chưa đầy đủ, có 17/23 biện pháp của Chương trình hành động phải hoàn thành trong quý 3 năm 2003, thì đến hết tháng 9 mới có 5 biện pháp hoàn thành, 7 biện pháp còn triển khai giang dở, 5 biện pháp còn lại chưa được triển khai. Điều mong mỏi của các nhà doanh nghiệp là phải sớm có một cơ quan đầu mối chịu trách nhiệm quản lý nhà nước đối với khu vực kinh tế tư nhân nhưng vẫn chưa được đáp ứng.
Một thực tế nữa là, các cơ chế chính sách đã được ban hành, nhưng chậm được triển khai thực hiện, nhất là trong vấn đề tạo mặt bằng sản xuất, kinh doanh, phát triển kết cấu hạ tầng thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Chủ trương đúng đắn của Chính phủ về việc thành lập Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ mới chỉ dừng lại ở ý tưởng và dự án, hiện chưa có địa phương nào xây dựng được Quỹ này. Lý do chính là các tỉnh, thành phố đều lúng túng chưa rõ mô hình tổ chức, quy chế hoạt động cụ thể. Ngoài ra, theo quy định của Bộ Tài chính, Quỹ phải có vốn điều lệ tối thiểu là 30 tỉ đồng, trong đó Nhà nước góp vốn tối đa 30%, số còn lại địa phương "tự lo". Đối với các địa phương có nguồn thu ngân sách dồi dào thì điều đó còn có thể thực hiện được, nhưng những địa phương (đang chiếm số đông) có nguồn thu hạn chế, chủ yếu còn dựa vào sự cấp phát của ngân sách trung ương thì đây là vấn đề nan giải. Nhiều ý kiến cho rằng, có vấn đề về tính khả thi ngay trong việc ban hành văn bản pháp quy về Quỹ này.
Hiện còn thiếu các văn bản hướng dẫn chi tiết, hoặc có nhưng chưa đồng bộ, như chính sách ưu đãi, chính sách khuyến công. Có chủ trương chưa thực hiện được vì còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành. Một số văn bản không còn phù hợp với thực tế cuộc sống, như các quy định thi hành Luật Đất đai. Thêm vào đó, sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong việc thực hiện Chương trình hành động của Chính phủ chưa tốt nên tiến độ không đạt được như mục tiêu đã đề ra.
Thủ tục vay vốn tín dụng và ưu đãi đầu tư chưa được cải tiến đáng kể như tinh thần của Nghị quyết 14 của Đảng đã nêu. Trên thực tế, cơ chế hiện nay chưa đảm bảo môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Điều này thể hiện từ nhận thức của các công chức và có cả trong một bộ phận dân cư đến hành vi đối xử trong từng vụ việc, từng hoạt động cụ thể và trong một số văn bản pháp quy điều chỉnh các quan hệ kinh tế - tài chính, nhất là trong chính sách về đất đai và tín dụng, trong thực tế thi hành các chính sách và pháp luật.
Bên cạnh đó,liên quan đến kích cầu đầu tư, Thủ tướng nêu lên sự cần thiết của các hình thức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu công trình, huy động tối đa các nguồn vốn, bảo đảm vốn đối ứng cho ODA, vốn cho công trình giao thông và thủy lợi miền núi, vốn cho các doanh nghiệp đổi mới thiết bị, xây dựng các cơ sở sản xuất các mặt hàng công nghiệp thiết yếu….
2.Kích cầu đầu tư nước ngoài:
Sự ra đời của Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đã tạo môi trường pháp lý cao hơn để thu hút vốn ĐTNN vào Việt Nam Nhằm cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo "một sân chơi" bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; tăng cường sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động đầu tư, năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Đầu tư có hiệu lực từ ngày 01/7/2006 và thay thế Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích đầu tư trong nước.Luật Đầu tư nước ngoài đã thực sự trở thành “đòn bẩy” quan trọng trong việc thu hút ĐTNN vào Việt Nam trong 20 năm qua, đảm bảo cho việc thực hiện chủ trương thu hút ĐTNN của Đảng và Nhà nước để phát triển kinh tế-xã hội đất nước ta vừa qua.
Cho tới nay, công tác quản lý hoạt động ĐTNN ở địa phương, nhất là các địa phương có nhiều doanh nghiệp ĐTNN đã đi vào nề nếp, theo trình tự hợp lý, đã được đơn giản hóa,…được cộng đồng doanh nghiệp đánh giá có nhiều đổi mới, góp phần cải thiện môi trường đầu tư-kinh doanh của địa phương.
Bên cạnh đó, các Bộ, ngành và UBND cấp tỉnh đã phối hợp chặt chẽ trong quá trình thực hiện các nội dung quản lý hoạt động ĐTNN, từ thẩm định cấp GCNĐT đến hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan tổ chức tập huấn, trao đổi nghiệp vụ và hỗ trợ các địa phương từ việc tổ chức hội nghị, hội thảo vận động xúc tiến, xây dựng danh mục dự án kêu gọi đầu tư, ban hành văn bản hướng dẫn về ĐTNN tại địa bàn,…. đưa hoạt động quản lý ĐTNN ở các địa phương đi vào nề nếp. Mô hình “một cửa, liên thông”, cách làm “trải thảm đỏ đón nhà đầu tư” tiếp tục xuất hiện và có tác động lan toả rộng khắp trong cả nước, đã góp phần nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng vốn ĐTNN vào Việt Nam.
Nước ta duy trì được ổn định chính trị xã hội, an ninh được đảm bảo, được đánh giá là địa bàn đầu tư an toàn, đồng thời kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tạo hình ảnh tích cực đối với các nhà đầu tư. Nền kinh tế tăng trưởng cao, thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư quốc tế, nhất là về khả năng mở rộng dung lượng thị trường trong nước của trên 80 triệu dân.
Công tác chỉ đạo điều hành của Chính phủ, của các Bộ, ngành và chính quyền địa phương đã tích cực, chủ động hơn (đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá, hỗ trợ nhà đầu tư giảm chi phí sản xuất, tiếp tục thực hiện việc cải cách hành chính, quan tâm hơn tới việc tháo gỡ khó khăn cho việc triển khai dự án).
Thực hiện các chuyến viếng thăm cấp cao gắn với quảng bá rộng rãi hình ảnh Việt Nam và vận động đầu tư - xúc tiến thương mại và du lịch. Chính vì vậy, mà hiệu quả đã được nâng dần với kết quả minh chứng là nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã vào tìm kiếm cơ hội đầu tư và ký kết số lượng lớn dự án quy mô lớn, mở đầu cho làn sóng đầu tư mới lần 2 vào Việt Nam.
Từ năm 2000 đến 2003, dòng vốn ĐTNN vào Việt Nam bắt đầu có dấu hiệu phục hồi chậm. Vốn đăng ký cấp mới năm 2000 đạt 2,7 triệu USD, tăng 21% so với năm 1999; năm 2001 tăng 18,2% so với năm 2000; năm 2002 vốn đăng ký giảm, chỉ bằng 91,6% so với năm 2001, năm 2003 (đạt 3,1 tỷ USD), tăng 6% so với năm 2002. Và có xu hướng tăng nhanh từ năm 2004 (đạt 4,5 tỷ USD) tăng 45,1% so với năm trước; năm 2005 tăng 50,8%; năm 2006 tăng 75,4% và năm 2007 đạt mức kỷ lục trong 20 năm qua 20,3 tỷ USD, tăng 69% so với năm 2006, và tăng hơn gấp đôi so với năm 1996, năm cao nhất của thời kỳ trước khủng hoảng.
Vốn tăng thêm chủ yếu tập trung vào các dự án thuộc lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng, đạt khoảng 40,6% trong giai đoạn 1991-1995 ; 65,7% trong giai đoạn 1996-2000, khoảng 77,3% trong thời kỳ 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 80,17% và 79,1% tổng vốn tăng
Việc tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất thực hiện chủ yếu tại các vùng kinh tế trọng điểm nơi tập trung nhiều dự án có vốn ĐTNN: Vùng trọng điểm phía Nam chiếm 55,5% trong giai đoạn 1991-1995 ; đạt 68,1% trong thời kỳ 1996-2000 và 71,5% trong giai đoạn 2001-2005. Trong 2 năm 2006 và 2007 tỷ lệ tương ứng là 71% và 65%. Vùng trọng điểm phía Bắc có tỷ lệ tương ứng là 36,7%; 20,4% ; 21,1% ; 24% và 20%.
Qua khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản -JETRO tại Việt Nam có trên 70% doanh nghiệp ĐTNN được điều tra có kế hoạch tăng vốn, mở rộng sản xuất tại Việt Nam. Điều này chứng tỏ sự tin tưởng và an tâm của nhà ĐTNN vào môi trường đầu tư-kinh doanh tại Việt Nam.
Từ mức quy mô vốn đăng ký bình quân của một dự án cũng tăng lên.Quy mô vốn đăng ký trên 3,4 triệu USD/dự án trong thời kỳ 2001-2005. Điều này cho thấy đa phần các dự án cấp mới trong giai đoạn 2001-2005 thuộc dự án có quy mô vừa và nhỏ. Trong 2 năm 2006 và 2007, quy mô vốn đầu tư trung bình của một dự án đều ở mức 14,4 triệu USD, cho thấy số dự án có quy mô lớn đã tăng lên so với thời kỳ trước, thể hiện qua sự quan tâm của một số tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào một số dự án lớn (Intel, Panasonic, Honhai, Compal, Piaggio....).
Cả nước hiện có 154 KCN được thành lập với tổng diện tích đất tự nhiên gần 33.000 ha, phân bổ trên 55 địa phương.Các dự án đầu tư công nghiệp đang có xu hướng tăng nhanh tại các KCN-KCX. Các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài trong KCN, KCX đa dạng về hình thức đầu tư.
Tuy những năm đầu thi hành Luật Đầu tư nước ngoài, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN được hưởng chính sách ưu đãi của Nhà nước, nhưng cũng đã tích cực đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua việc thu nộp ngân sách tăng dần qua các năm và bắt đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD từ năm 2005 (đạt 1,29 tỷ USD, tăng 39,5% so với năm trước và chiếm 12% tổng thu ngân sách nhà nước, vượt mục tiêu đề ra tại Nghị quyết 09 (10%).Giai đoạn 2001-2005 khu vực doanh nghiệp ĐTNN đã nộp ngân sách hơn 3,6 tỷ USD, tăng gấp hơn 2 lần 5 năm trước. Năm 2006 con số trên đạt 1,4 tỷ USD, bằng cả 5 năm 1996-2000. Năm 2007, dự kiến thu ngân sách đạt 1,576 tỷ USD, tăng 7% so với năm trước.
Đồng thời, khu vực kinh tế có vốn ĐTNN cũng tạo việc làm và thu nhập ổn định cho một bộ phận dân cư, tính từ 1988 đến cuối 2007 có trên 1,26 triệu lao động trực tiếp, chưa kể số lao động gián tiếp.
* Những tồn tại, hạn chế:
- Tư duy kinh tế chậm đổi mới:Chưa tạo lập đồng bộ các loại thị trường theo nguyên tắc thị trường.Thực tế xử lý các vấn đề cụ thể ở nhiều Bộ, ngành và địa phương vẫn còn phân biệt rất khác nhau giữa đầu tư trong nước và ĐTNN, chưa thực sự coi ĐTNN là thành phần kinh tế của Việt Nam. Điều đó thể hiện ngay từ khâu quy hoạch sản phẩm, phân bổ các nguồn lực phát triển kinh tế (lao động, đất đai, vốn…) cũng chưa thực sự cho phép ĐTNN tham gia. Việc xử lý tranh chấp kinh tế giữa các bên cũng thiên về bảo vệ quyền lợi cho phía Việt Nam. Trong những thời điểm khó khăn, ta tranh thủ vốn ĐTNN nhưng khi điều kiện thuận lợi lại có xu hướng không khuyến khích ĐTNN mà để trong nước tự làm; những biểu hiện này có tác động làm nản lòng nhà ĐTNN.
- Hệ thống luật pháp, chính sách về đầu tư tuy đã được sửa đổi, bổ sung nhưng vẫn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Một số Bộ, ngành chậm ban hành các thông tư hướng dẫn các nghị định của Chính phủ.
- Môi trường đầu tư-kinh doanh nước ta tuy được cải thiện nhưng tiến bộ đạt được còn chậm hơn so với các nước trong khu vực, trong khi cạnh tranh thu hút vốn ĐTNN tiếp tục diễn ra ngày càng gay gắt.
- Định hướng chiến lược thu hút vốn ĐTNN hướng chủ yếu vào lĩnh vực công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu nhưng sự liên kết, phối hợp giữa các doanh nghiệp ĐTNN với doanh nghiệp trong nước còn yếu nên giá trị gia tăng trong một số sản phẩm xuất khẩu (hàng điện tử dân dụng, dệt may) còn thấp. Nhiều tập đoàn công nghiệp định hướng xuất khẩu đầu tư tại Việt Nam buộc phải nhập khẩu phần lớn nguyên liệu đầu vào vì thiếu nguồn cung cấp ngay tại Việt Nam.
- Công tác quy hoạch còn có những bất hợp lý, nhất là quy hoạch ngành còn nặng về xu hướng bảo hộ sả n xuất trong nước, chưa kịp thời điều chỉnh để phù hợp với các cam kết quốc tế.
-Nước ta có xuất phát điểm của nền kinh tế thấp, quy mô nền kinh tế nhỏ bé; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội yếu kém; các ngành công nghiệp bổ trợ chưa phát triển; trình độ công nghệ và năng suất lao động thấp, chi phí sản xuất cao. Chính sách, biện pháp để khuyến khích huy động tốt nguồn lực trong nước và ngoài nước vào phát triển kinh tế, xã hội còn nhiều hạn chế.
- Sự phối hợp trong quản lý hoạt động ĐTNN giữa các Bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ. Đánh giá tình hình ĐTNN vẫn nặng về số lượng, chưa coi trọng về chất lượng, còn bệnh thành tích trong cơ quan quản lý các cấp.
- Tổ chức bộ máy, công tác cán bộ và cải cách hành chính chưa đáp ứng yêu cầu phát triển trong tình hình mới. Năng lực của một bộ phận cán bộ, công chức làm công tác kinh tế đối ngoại còn hạn chế về chuyên môn, ngoại ngữ, không loại trừ một số yếu kém về phẩm chất, đạo đức, gây phiền hà cho doanh nghiệp, làm ảnh hưởng xấu đến môI trường đầu tư-kinh doanh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các nhân tố ảnh hưởng đến chi đầu tư và tình hình kích cầu đầu tư ở Việt Nam.doc