MỤC LỤC
Mở đầu
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
II- LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
III- PHẠM VI NGHIÊN CỨU
IV- NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
V- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
VI- CẤU TRÚC TIỂU LUẬN:
NỘI DUNG:
Chương I:
GIỚI THUYẾT VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH VÀ SỰ XUẤT HIỆN CÁI TÔI
TRỮ TÌNH TRONG THƠ MỚI.
1.1- Khái niệm cái tôi trữ tình
1.1.1- Cái tôi
1.1.2- Cái tôi trữ tình
1.1.3- Các phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình trong thơ ca.
1.2- Sự xuất hiện cái tôi trữ tình trong Thơ mới.
1.2.1- Cơ sở xã hội cảu sự xuất hiện cái tôi trữ tình trong Thơ mới.
1.3- Giới thiệu chung về sự đóng góp của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới.
Chương II:
CÁC SẮC THÁI CẢM NHẬN VỀ CÁC TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN DIỆU.
2.1- Xuân Diệu – Một cái tôi độc đáo, tích cực thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống.
2.2- Xuân Diệu – Hồn Thơ cô đơn ngay chính giữa cuộc đời.
Chương III:
CÁC HÌNH THỨC THỂ HIỆN CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ XUÂN DIỆU.
3.1- Cái tôi trữ tình nhập thân vào đối tượng phản ánh
3.2- Cái tôi được biến hóa qua nhiều hình ảnh.
3.3- Sự đồng nhất của cái tôi trữ tình với thiên nhiên.
KẾT LUẬN:
Tài liệu tham khảo
A- Phần mở đầu
I- LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Hơn nữa thể kỷ đã trôi qua, kể từ ngày phong trào Thơ mới ra đời (1932) và cũng chừng ấy thời gian để cho người yêu thơ đọc và suy ngẫm. Đến hôm nay, Thơ mới vẫn nguyên giá trị và khẳng định vị thế của mình đối với nền thơ ca Việt Nam nói riêng cùng như đối với tiến trình văn học Việt Nam nói chung. “ Chỉ cần giả sử nếu không có Thơ mới cũng không có Thế Lữ, Lưu Trọng Lự, Xuân Diệu, Huy Cận, Hà Mặc Tử, Chế Lan Viên, Nguyễn Bính, Anh Thơ . thì thơ ca sẽ nghèo đi bao nhiêu, sẽ mất đi rất nhiều hương sắc và thiếu đi nhiều mặt để cho một nền thơ ca dân tộc đạt đến tính hiện đại” (1), “Thơ mới là một bước phát triển quan trọng xét về mặt nào đó là cả một cuộc cách mạng trong tiến trình của thơ ca Việt Nam, đưa thơ cổ điển Việt Nam đạt đến hiện đại cả về mặt biểu hiện cũng như cảm hứng thơ ca” (2).
Chỉ trong vòng 15 năm phát triển, Thơ mới đã có những thành tựu lớn góp phần to lớn đối với sự phát triển của nền thơ ca nói riêng và nền văn học dân tộc nói chung.
Một trong những thành tựu nổi bật của thơ ca nói chung và Thơ mới nói riêng là cái tôi trữ tình. Đây là một lĩnh vực được giới phê bình nghiên cứu rất quan tâm nhưng vẫn còn nhiều thú vị cần khám phá.
“Thơ mới là thưo của cái Tôi ” (Lê Đình Kỵ) cái tôi trữ tình với tư cách là hạt nhân của thể loại trữ tình ngày càng được chú ý và khảo sát ở nhiều góc độ.
Cái tôi trữ tình không phải chỉ đến Thơ mới mới xuất hiện nhưng cách biểu hiện của cái tôi trữ tình trong Thơ mới đã mang sắc thái riêng của các nhà thơ.
Riêng đề tài này chúng tôi sẽ đi nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ của Xuân Diệu trước cách mạng tháng tám 1945.
Xuân Diệu ra đời như một đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Hơn bất cứ nhà thờ nào khác, ông đã bộc lộ trong thơ một cái tôi trữ tình phong phú và độc đáo. Tìm hiểu phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình đó cũng là một hướng tiếp cận với thế giới nghệ thuật riêng Xuân Diệu nhằm qua đó hiểu rõ hơn bút pháp và phong cách của nhà thơ.
Trong toàn bộ sáng tác của Xuân Diệu trước 1945, thơ tình yêu là mảng đề tài ông chú tâm nhiều nhất và đồng thời nó cũng đem lại cho thơ ông một giọng điệu riêng. Hơn bất cứ lĩnh vực nào khác trong thế giới thơ trước cách mạng. Cái tôi trữ tình của nhà thơ Xuân Diệu đã bộc lộ một cách đầy đủ và trọn vẹn trước hết và chủ yếu qua mảng lớn những bài thơ về tình yêu.
(1) Vũ Thanh Việt, Thơ mới lãng mạn những lời bình, “NXBVHTT, H 2000, trang 73”
(2) Vũ Thanh Việt, “Thơ mới lãng mạn những lời bình”, NXBVHTT, H 2000, trang 74
Vấn đề này đã có nhiều người nghiên cứu. Tuy nhiên ở đây chúng tôi đi sâu vào cái tôi trữ tình với những phong cách thẩm mĩ hoàn toàn hiện đại.
Xuân Diệu là nhà thơ lớn với những tác phẩm được đưa vào chương trình phổ thông. Tìm hiểu thêm về cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu là để nắm chắc, bồi dưỡng thêm nhiều kiến thức bổ ích của chương trình đại học làm cơ sở phục vụ cho tương lai giảng dạy của chúng tôi.
II- LỊCH SỬ VẤN ĐỀ:
Xung quanh khái niệm cái tôi trữ tình có nhiều ý kiến bàn luận:
Vũ Tiến Long: “Nửa thế kỷ thơ Việt ” khái quát được quy luật vận động của thơ trữ tình Việt Nam nửa thế kỷ qua. Khái quát bộ mặt của thơ Việt Nam với kiểu cái tôi trữ tình mới ca ngợi cuộc sống và sự hoà nhập cuộc sống.
Lê Lưu Oanh: “Cái tôi trữ tình qua một số hình tượng thơ 1975-1990”. Khái quát bản chất chủ quan của thể loại trữ tình và khái niệm cái tôi trữ tình.
Riêng thơ mới thì không thể không kể đến công trình nghiên cứu của Hoài Thanh – Hoài Chân “Thi nhân Việt Nam”. Theo Hoàn Thanh – Hoài Chân thì một trong những đóng góp của Thơ mới đó là cái tôi.
Ngày thứ nhất . chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam nó thật lỡ ngỡ. Và từ đây cái tôi được nhắc đến với nhiều dáng vẻ (Hà Minh Đức).
Lê Đình Ky cũng khẳng định “Thơ mới là thơ của cái tôi ”. Riêng về tác gia Xuân Diệu thì có một số bài viết nghiên cứu về cái tôi trữ tình trong thơ ông của một số tác giả như Lê Quang Hưng, Lưu Khánh Thơ.
Các công trình, các bài viết nghiên cứu về tôi trữ tình nói chung và phương thức biẻu hiện cái tôi chữ tình trong thơ xuân diệu nói riêng là chỗ dưạ, tài liệu tham khảo không thể thiếu giúp chúng tôi nghiên cứu thêm về đề tài này.
42 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6555 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các sắc thái cảm nhận về các tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
danh này sang địa danh khác vì thế làm mất đi cá tính cụ thể của một hoàn cảnh cụ thể, diện mạo duy nhất của cái tôi dân gian là cái chung.
b. Cái tôi trữ tình trong thơ cổ điển.
Trong thơ trung đại, có rất nhiều quan điểm – theo quan điểm truyền thống bản chất con người bắt nguồn từ mối quan hệ cộng đồng, làng xã và cá nhân không thể tách rời mối quan hệ ấy.
Văn học chủ yếu phát ngôn trên tư cách siêu cá nhân với những vấn đề của gia đình, dòng tộc, giai cấp, dân tộc. Điều này tạo nên kiểu nhà thơ cổ điện, phi ngã.
Biểu hiện đầu tiên của cái tôi trữ tình phi ngã là không xuất hiện đại từ nhân xưng. Theo I. Sli xê vich: “Nó vô nhân xưng” vô quan hệ vì “Cái âm thanh phát ra từ lòng nhà thơ chính là hồi âm của cái chung nội tại là cái tôi không cần mang một dấu hiệu giới hạn, một dấu hiệu cá tính nào vì nó biểu hiện mình bằng phạm trù, phổ quát”. Chẳng hạn, Nguyễn Trãi thể hiện lòng yêu nước thương đời qua hình tượng cây tùng – cây tùng là biểu tượng cho những phẩm chất chuẩn mực đó được xác định của người quân tử.
Trong văn học trung đại ý thức về cá nhân cá tính có xuất hiện nhưng tồn tại trong những quy tắc luật lệ khuôn mẫu mà ta gọi là tính quy phạm. Cái tôi trữ tình chủ yếu là cái tôi vũ trụ. Mỗi sự việc hình ảnh đều mang ý nghĩa triết lý về quan hệ giữa con người và vũ trụ. Pham trù chính là tình cảnh, cảnh tình, cảnh sự, nhất là trong sự tương thân, tương hỗ với thiên nhiên, vũ trụ. Các nhà thơ luôn đi tìm sự hài hoà giữa cái hữu hạn và vô cùng, giữa nhất thời và vĩnh cửu, quá khứ và thực tại, thực – hư, động – tĩnh con người không tách mình khỏi vũ trụ mà từ những bí ẩn của vũ trụ con người gián tiếp bộc lộ những bí ẩn của tâm hồn vì thế biểu hiện tình cảm xã hội là gián tiếp, kín đáo.
Về sau, cái tôi xoá bỏ dần tính phi ngã quy phạm để bộc lộ tính chất tự nhiên đó là sự xuất hiện trong văn học trung đại Việt Nam nhưng Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Cao Bá Quát...con người đã đối diện với chính mình, nói về mình.
c. Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn:
Bản chất của thơ lãng mạn là tiếng nói của cái tôi cá nhân. Kiểu nhà thơ lãng mạn song hành với sự tự ý thức cá nhân như là một cá thể độc đáo riêng biệt, nó không chống lại cái nhìn duy lý của chủ nghĩa cổ điểm, cái tôi cũng có khi là cá nhân tự biểu hiện, khép kín và cô đơn. Chất lãng mạn trong thơ lãng mạn nằm ở cách cảm, cách nghĩ, sự biểu hiện thế giới và con người một cách đặc thù. Đó chính là cái tôi nằm ở trung tâm cảm nhận làm nguyên tắc thế giới quan.
Thơ lãng mạn là thơ của tâm hồn, tâm hồn ấy đã thoát ra khỏi tính quy phạm và nó đã bộc lộ hết mình để “ Tâm hồn tiếp xúc trực tiếp với ngoại giới” đồng thời thơ lãng mạncũng lấy tâm hồn làm trung tâm, nó không ưa cái thực tầm thường mà thích những tưởng tượng khác thường, bằng mộng ảo, hoài niệm hoặc bằng tôn giáo, lịc sử, truyền thuyết chỉ với mục đích là tự khẳng định mình, khẳng định sự tự do của mình. Tuy thế, đã là một người tự do thì sẽ tồn tại những mặt mạnh vừa có sự kiêu hãnh nhưng cũng không tránh khỏi sự yếu đuối bơ vơ, cô đơn, buồn sầu, làm cho tâm hồn ấy vừa phong phú, phức tạp và cũng rất tinh tế trong sáng nghệ thuật.
d. Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng:
Gắn liền với hoàn cảnh lịch sử, với yêu cầu lịch sử, văn học lúc này đặt vấn đề dân tộc lên trên hết vì thế theo dòng lịch sử, cái tôi trữ tình bộc lộ chủ yếu trên các vấn đề dân tộc, lịch sử.
Các nhà thơ cách mạng luôn đứng trong những sự kiện lớn của đất nước, với tư thế dân tộc, lịch sử, thời đại, giai cấp. Họ hiện diện với trách nhiệm trước cuộc đời hiện tại, khẳng định niềm tin vào tương lai của dân tộc. Cái tôi lúc này mang một sinh khí rất mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ từ bỏ cái tôi cá nhân để riêng tư hoà vào cái chung dân tộc.
Thơ cách mạng là thơ của cái tôi mới, cái tôi cộng đồng. Chủ thể không còn là cái tôi riêng mà là một phạm trù đa thức đó là một cá nhân không lặp lại hoặc là một nhóm người cùng chung ý chí, nguyện vọng có thể là toàn bộ xã hội nói chung. Trong cái tôi mỗi người có cả một hệ thống cái tôi khác nhau, trong quá trình tự nhận thức trước cuộc sống, cái tôi nào đó được lựa chọn, vượt lên tự khẳng định, cái tôi lúc này đã là cái tôi công dân xã hội, hướng về tình cảm chung của cộng đồng, cái tôi hoà hợp vào cái ta cộng đồng mà khi giao tiếp thường được xưng “ta”, “ chúng ta”. Nó khác với cái tôi cá nhân phân biệt người này với người khác, cái tôi khẳng định sự chung sức chung lòng cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước.
1.2 sự xuất hiện cái tôi trữ tình trong Thơ mới.
1.2.1 Cơ sở xã hội của sự xuất hiện cái tôi trữ tình trong Thơ mới:
Cái tôi có mầm mống trong thơ ca từ sớm nhưng do điều kiện khách quan và chủ quan mà nó chưa thể phát triển thành một quan niệm văn học. Qua bao thế kỷ tồn tại nhưng nền văn học dân tộc chưa thể làm xuất hiện một nghệ sỹ, một bài thơ chuyên nghiệp ( theo đúng nghĩa hiện đại của từ này) mà chỉ là những nhà nho làm văn chương nên nó bị chi phối bởi thú văn học nhà nho.
Đến đầu thế kỷ XX, đặc biệt là những năm 1930 có những biến động to lớn trong lòng thành thị Việt Nam, tầng lớp tiểu tư sản đông lên về số lượng, họ dường như không có gì gắn bó với ý thức vệ phong kiến vì họ hầu hết chịu ảnh hưởng của nhà trường đế quốc “ Cửa khổng sân trình” không chi phối được họ trong khi đó sinh hoạt đô thị tư sản hoá rất mạnh, họ tiếp xúc với văn hoá phương tây, đặc biệt là văn hoá Pháp, dần dần nảy sinh ở họ những suy nghĩ mới. Họ bừng tỉnh về ý thức cá nhân. Cái tôi tư sản, tiểu tư sản xuất hiện nó tấn công rất hăng vào lễ giáo, vào ý thức hệ phong kiến đã từng trói buộc tinh thần, tình cảm con người từ hàng ngànđời nay văn thơ đã trở thành địa hạt để cái tôi tự khẳng định mình. Thơ ca là nơi có thể là nói đầy đủ tiếng lòng của họ, họ tuyên bố “ Tình chúng ta đã đổi mới, thơ chúng ta cũng phải đổi mới”.
Yêu cầu đổi mới thi ca chính là yêu cầu khẳng định cái tôi, yêu cầu giải phóng tình cảm, cá tính của cái tôi. Thơ mới ra đời trong hoàn cảnh thoái trào cách mạng, tầng lớp tiểu tư sản hoang mang dao động, mất phương hướng, mất lẽ sống, vì vậy họ quay lưng lại cuộc chiến tranh chính trị chuyển dần sang đấu tranh trên lĩnh vực văn hoá. Thơ ca trở thành nơi lựa chọn để “chạy trốn ”, thoát ly cuộc đời, vừa để nguôi quên thực tại vừa như có thể giải phóng và phát triển cá nhân. Trong khi “ Chạy trốn ” như thế, họ thấy mình vẫn có đóng góp cho dân tộc nên trong thơ mới nhu cầu khẳng định và nhu cầu thoát ly gần như tồn tại song song.
Nếu nhu cầu khẳng định đưa thơ mới đến sự tin tưởng, thái độ nhập cuộc, lòng yêu đời thì thoát ly đưa đến nỗi buồn, nỗi cô đơn và ngày càng có xu hướng xây cao tháp ngà nghệ thuật. Trên thực tế, Thơ mới đã tìm được nhiều con đường thoát ly: Vào cõi tiên (Thế Lữ), vào tình yêu (Xuân Diệu), về đồng quê ( Nguyễn Bính, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ...), vào tôn giáo ( Hàm Mặc Tử), vào vũ trụ ( Huy cận).
Cũng trong thời kỳ này văn học có nhu cầu đổi mới theo hướng hiện đại hoá. Một số nhà thơ đã thấy sự khủng hoảng tiêu điều của thi đàn với loại thơ nhìn mất sinh khí ( Thơ Đường cuối mùa), họ dũng cảm đổi mới thơ ca của mình ( Tản Đà, Trần Tuấn Khải), Nhưng đó chỉ là những cố gắng lẻ tẻ và phải đến Thơ mới, thì mới có cuộc cách mạng trong thơ ca để chuyển từ thơ trung đại sang thơ hiện đại, từ thơ điệu ngâm sang thơ điệu nói và cái ta phi ngã đã dần nhường chỗ cho cái tôi cá nhân thơ mới.
1.3 Giới thiệu chung về sự đóng góp của Xuân Diệu trong phong trào Thơ mới.
Xuân Diệu (1916 - 1985) là một tác giả lớn, có vị trí quan trọng trong nền văn học Việt Nam hiện đại. Hơn nửa thế kỷ cần biết ông đã để lại cho đời một di sản văn học đồ sộ với nhiều thể loại khác nhau ....tác phẩm của ông được bạn đọc nhiều thế hệ đón nhận và yêu thích, nhiều tác phẩm được chọn để giảng dạy trong nhà trường. Từ trước đến nay việc nghiên cứu tìm hiểu tác giả Xuân Diệu đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu.
Ngay từ khi mới xuất hiện trên thi đàn Xuân Diệu đã lọt vào “ mắt xanh” của những người có tên tuổi và uy tín trong giới văn nghệ sỹ. Mặc dù cách nhìn nhận và đánh giá của các tác giả có những điểm khác nhau nhưng nhìn chung các bài viết đều thống nhất đánh giá cao vai trò và vị trí hàng đầu của Xuân Diệu đối với phong trào Thơ mới.
Trong bài viết đầu tiên giới thiệu Xuân Diệu năm 1937, Thế Lữ người đi tiên phong của phong trào thơ mới đã có những nhận xét chuẩn xác, biểu hiện sự trân trọng đối với một tài năng của đất nước “ thơ của ông không phải là “văn chương ” nữa, đó là lời nói, là tiếng reo vui hay năn nỉ, là sự chân thành cảm xúc, hoặc là những tình ý rạo rực biến lẫn trong những âm thanh...Xuân Diệu, nhà thi sẽ của tuổi xuân, của lòng yêu và của ánh sáng”.
Bài viết về Xuân Diệu trong thi nhân Việt Nam ( 1942) của Hoài Thanh cho rằng thơ Xuân Diệu là nguồn sống dạt dào chưa từng có, là “ nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới....”.
Lịch sử phát triển của phong trào Thơ mới có ba chặng ( 1932 – 1935, 1936 – 1939, 1940 - 1945). Xuân Diệu xuất hiện trên thi đàn ở chặng thứ 2 vào lúc mà thơ mới phát triển đến đỉnh cao.
Trong nửa sau những năm ba mươi, lá cờ đầu của phong trào Thơ mới được chuyển qua tay Xuân Diệu và với sự xuất hiện của Xuân Diệu thì ông được xem là chủ soái của phong trào Thơ mới. Cùng với các nhà Thơ mới cùng thời kỳ ( Huy Cận, Tế Hanh...) họ đã làm thành dòng chính của Thơ mới thời kỳ này.
Xuân Diệu – nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, tiêu biểu đầy đủ nhất cho thời đại, cái tôi đã thực sự được giải phóng. Nó không còn dáng vẻ bỡ ngỡ, dè dặt trước đó, mà nó phát biểu hết sức thành thật, táo bạo những cảm xúc, khát khao của trái tim đang tràn đầy, cháy bỏng của nó. Thơ Xuân Diệu là khát sống, khát yêu đến cuồng nhiệt. Con người ấy muốn uống cạn một cách vồ vập cái ly tràn đầy sự sống nhưng đồng thời, Xuân Diệu hiểu rất rõ sự trôi chảy của thời gian, sự tàn phai của tuổi trẻ, nỗi bất trắc của cuộc đời vì vậy con người yêu sống nồng nàn ấy, luôn vội vàng, dục dã, để tận hưởng cuộc sống.
“Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm”
Khát vọng yêu và khát vọng giao cảm với cuộc đời là một thái độ nhân sinh tích cực ông quả quyết không chấp nhận cuộc sống tẻ nhạt, vô nghĩa trong thơ Xuân Diệu thoát lên một nhu cầu mãnh liệt là được cảm thông, chia sẻ. Con người rất có ý thức về bản ngã ấy không phải là một cái tôi khép kín mà là cái, tôi luôn mơ ra với cuộc đời, khát khao được hoà điệu cùng cuộc sống với lòng khát sống, khát yêu và khát khao giao cảm ấy là động lực, biến, Xuân Diệu thành nhà thơ tình cờ lớn. Bởi vì trên đời không có gì làm cho con người ta cảm thấy được sống đầy đủ, trọn vẹn, mãnh liệt bằng tình yêu, và có niềm giao cảm nào gần gũi, tuyệt vời hơn khi người ta yêu ? .
Một tình yêu đích thực, chân thành, táo bạo rất đỗi trần trục, đậm sắc dục nhưng thật lý tưởng, đòi hỏi trước hết là sự giao hoà tuyệt đối của hai tâm hồn. Lời thơ nồng nàn, đầy nhục cảm thể hiện niềm khao khát giao cảm trọn vẹn về linh hồn của con người, trong cái cuộc đời lạnh lùng đẩy mỗi cá nhân vào một hòn đảo cô đơn đó. Bi kịch của tâm hồn Xuân Diệu cũng chính ở đó. Muốn hiến dâng tâm tình chân thành, si mê, thèm khát sự giao cảm với đời nhưng cuộc đời đáp lại ông bằng sự thờ ơ, lạnh lẽo.
“ Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu nhưng càng đi sâu càng thấy lạnh ” (Hoài Thanh).
Là người tiêu biểu đầy đủ nhất cho cái tôi thơ mới Xuân Diệu là người có ý thức “Đi tìm bề sâu” Nhất và đồng thời là người cảm nhận nhanh và rõ nhất trước sự lãnh lẽo đó.
Đến Xuân Diệu, tâm trạng cô đơn không còn âm thế mà nó đặc biệt sâu sắc, thấm thía đến tận xương tuỷ:
“Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt buốt xương da”.
Cái tôi đã đào tới tận đáy của nó, nó bỗng cảm thấy tất cả sự nhỏ bé, trơ trọi của nó trong một thế giới bao la xa lạ cuối cùng nó gặp chính nó:
Chớ để riêng em phải gặp lòng em.
Có thể nhận định rằng, đến xuân diệu, Thơ mới đã lên tới đỉnh cao và bắt đầu đi vào khủng hoảng, bế tắc.
Xuân Diệu là người có vai trò to lớn trong việc cách tân đối với thơ ca Việt Nam khi đó “ Xuân Diệu là người đem đến cho thi ca nhiều cái mới nhất ” (Vũ Ngọc Phan). Cái mới ấy diễn đạt bằng một gọng điệu, một ngôn ngữ nồng nàn, trẻ trung chưa từng có.
Đồng thời do ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng Pháp để đi sâu vào cái huyền diệu bên trong của cái tôi cho nên Xuân Diệu có những rung cảm hết sức tinh tế.
Quy luật thăng trầm cùng bi kịch của cuộc đời cái tôi. Thơ mới được thể hiện khá đầy đủ trong sáng tác của Xuân Diệu, vị đại diện ưu tú nhất cho thời đại thơ ca. Cùng chung nỗi đau lớn của những thân phận nô lệ trong xã hội đó nhưng mỗi nhà thơ lãng mạn có một cách “ chạy trốn ” riêng Xuân Diệu là người chấp nhận nỗi đau một cách rất độc đáo và nhân văn với một khát vọng sống nồng cháy và bền bỉ.
Tôi kẻ đưa ràng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bán vào đời.
Chương II
các sắc thái cảm nhận về cái tôi trữ tình trong thơ Xuân Diệu.
2.1 Xuân Diệu một cái tôi độc đáo – tích cực thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống:
Làm nên chiến thắng vẻ vang của phong trào Thơ mới qua mấy năm đấu tranh khá kịch liệt với thơ cũ trước tiên phải ghi nhận công lao của Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Huy Thông. Khi Xuân Diệu, với trái tim si mê vào rạo rực, với hồn thơ “Âu hoá” rõ rệt hơn xuất hiện thì những tháng năm “đại náo” trong lòng thơ đã đi qua. Thơ mới vừa toàn thắng ngọn cờ phong trào từ chủ tướng Thế Lữ được chuyển giao ngay sang bàn tay mới và chàng thanh niên Xuân Diệu quả không phụ công sức của những người giành giật, khai thác, đã giương cao hơn nữa ngọn cờ, mau chóng trở thành vị đại biểu ưu tú nhất của một thời đại thi ca.
Buổi đầu xuất hiện trên thi đàn, ra mắt xã hội cái tôi tiểu tư sản không khỏi bỡ ngỡ. Nhưng chàng trai trẻ bước ra trình diện khi xung quanh mình còn khá đông các cụ...
Do cái tôi thời này còn e dè, chưa dám bộc lộ một cách trực tiếp mọi ham muốn cá nhân, Lưu Trọng Lư đưa người đọc vào thế giới dường nữa hư, nửa thực, thế giới của mộng mơ, của nhớ thương bằng những vần thơ trong sáng, đượm buồn trong nhạc điệu vấn vương êm đềm . Cuộc sống thơ Thế Lữ vẫn chưa phải là cuộc sống thực mà dường như vẫn khoác cái áo bồng lại tiên cảnh. Đó dường như vẫn là thế giới của những người tiên, cảnh tiên, của những kim đồng, ngọc nữ...tuy là ngọn cờ đầu của phong trào thơ mới nhưng vẫn chưa đoạn tuyệt hẳn với những ước lệ cổ điển, cái tôi ở đây còn e dè, ngượng ngiụ như cô dâu mới về nhà chồng còn phải lấy cái quạt che mặt. Cái quạt là ước lệ trong thơ cũ.
Giữa lúc ấy Xuân Diệu xuất hiện, gạt bỏ những giấc mộng sầu man mác của Lưu Trọng Lư, hoà bão mơ hồ trong thơ thế lữ. Xuân Diệu dứt khoát và say sưa phát biểu thẳng những ham muốn riêng tư, những khao khát hưởng thụ của mình. Có thể nói rằng, đến Xuân Diệu, cái tôi tiểu tư sản ngang nhiên đòi hỏi được thoả mãn một cách tối đa những nhu cầu của cuộc sống vật chất, của tình cảm, cảm giác phức tạp mà nồng nàn mãnh liệt nhất.
Có lẽ trong tất cả các nhà Thơ mới chưa ai bộc lộ lòng ham sống đến mức thiết tha, cuồng nhiệt như Xuân Diệu:
Kẻ đứng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
( Hư vô)
“ Lầu thơ của ông dựng trên đất của một tấm lòng trần gian, ông đã không trốn tránh mà lại còn quyến luyến cõi trần”(Thế Lữ)
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần
Thân hoá rễ để hút mùa dưới đất.
Ông luôn ví mình như cây kim bé nhỏ mà vạn vật là muôn đá nam châm, Xuân Diệu luôn ước ao sự hoà hợp khăng khít với thế giới thiên nhiên, vầng trăng, cây cỏ, hoa lá....với mọi người, nhất là những người đang trẻ tuổi, trẻ lòng. Không ít nhà thơ mới có những lần cảm thấy thú vị khi trầm mình trong nỗi cô đơn. Xuân Diệu rất lo sợ sự lẻ loi, sợ thờ ơ lạnh nhạt. Vì thế, trong các nhà thơ, khao khát thực hiện bằng thơ cái nhu cầu đối thoại giao tiếp như Xuân Diệu, ông bộc bạch lòng ham muốn, bộc lộ nỗi hốt hoảng trước sự chảy trôi của thời gian.
Ông khẩn thiết kêu gọi mọi người hãy bận tâm, siêng năng mà sống, mà yêu cho toàn vẹn tuổi xuân hiếm hoi của ta “và những vần thơ si mê, đầy cuốn hút ấy là những cái bỏng lưỡi hay những cái đau răng và đã uống tham lam vào suốt mặt trời, đã ăn hàm hở vào trái mùa xuân:
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời.
( Hư vô)
Hay:
Trời cao trêu nhử chén xanh êm
Biển đắng không nguôi nỗi khát thèm
Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi ta muốn uống hồn em!
(Vô biên)
Thà một phút huy hoàng rồi chợt tối
Còn hơn buồn le lói suốt trăm năm
Em vui đi răng nở ánh trăng rằm
Anh hút nhuỵ của mỗi giờ tình tự.
(Giục giã).
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều...
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
Có thể dẫn ra rất nhiều đoạn thơ nữ Xuân Diệu thể hiện đặc biệt sôi nổi ham yêu khát sống của mình. Có thể được một hệ thống động từ diễn tả đầy đủ các động tác mạnh bạo từng được Xuân Diệu bộc bạch nhiệt tình hưởng thụ cuộc sống nồng cháy, hăm hở đến kỳ lạ.
Xuân Diệu khẳng định cái tôi của mình bằng cách gắn bó với cuộc sống. Niềm ham muốn được gửi cả vào niềm khao khát vô biên tình yêu và tuổi trẻ bởi ông coi đó là phần ngon nhất của cuộc đời. Đến Xuân Diệu, cái tôi tiểu tư sản không còn yêu một cách rụt rè, nhớ thương bóng gió nữa. Bây giờ Xuân Diệu là “ Kẻ uống tình yêu dập cả môi” mà vẫn không lúc nào nguôi nỗi khát thèm.
Rõ ràng, tình yêu của cái tôi tiểu tư sản này mang nặng triết lý hưởng thụ cuộc sống trần tục, thèm muốn hoà hợp vô biên và tuyệt đích trong tình yêu được Xuân Diệu nói một cách chân thành táo bạo.
Cường độ cảm xúc cao được biểu hiện bằng thứ ngôn ngữ sinh động giàu sức gợi cảm trực tiếp. Phải chăng đây chính là nguyên nhân khiến thơ ông “mang theo một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lặng lẽ này” ( Thi nhân Việt Nam).
Đối với các nhà thơ lúc bấy giờ gắn bó với cuộc đời không phải dễ bởi vì cuộc đời đối lập với những khát vọng, càng yêu đời bao nhiêu , càng đau khổ bấy nhiêu. Bỏ đời mà đi (Thế Lữ thoát lên tiên, Lưu Trọng Lư thoát vào vườn tình, Chế Lan Viên trốn vào cõi âm...) Xuân Diệu cũng có lúc như vậy:
Ta bỏ đời mà đời cũng bỏ ta.
Nhưng đó là ông nói vậy thôi, ông làm mình làm mẩy với cuộc đời vậy thôi chứ Xuân Diệu làm sao mà bỏ đời được vì cuộc đời rất ngon lành và hấp dẫn mà ông bám vào đời bằng sức mạnh kỳ lạ.
Tôi kẻ đưa răng bấu mặt trời
Kẻ đựng trái tim trìu máu đất
Hai tay chín móng bám vào đời
( Hư vô)
Chính chỗ đứng này, vị thế cái tôi này mà Xuân Diệu phát hiện ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống.
Thế giới nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là thế giới cái đẹp của con người. Điều đó chi phối quan điểm nghệ thuật của ông, chi phối mục đích sáng tác của ông.
Đối với Xuân Diệu, Việc làm thơ là để ông tìm đến sự giao lưu, sự hoà hợp giữa mình với cuộc đời, con người ông muốn “ gửi hương cho gió ”, muốn biến mình thành hạt “ phấn thông vàng” muốn trút tất cả tâm hồn mình vào thơ ca để bay đến với con người với cuộc đời ông coi đó là hạnh phúc.
“ Thơ tôi đó gió lùa đem toả khắp
Và lòng tôi mời mọc bạn chia nhau
Trông thấy nghìn môi rượu mùa ăm ắp
Tôi sẽ vui có được tấm lòng sầu”.
Như vậy, với Xuân Diệu, phong trào Thơ mới lên đỉnh cao, ở độ tròn đầy, sung mãn nhất của nó. Lần đầu tiên, với Xuân Diệu, cái tôi tiểu tư sản ý thức được sâu sắc chính mình, mạnh dạn bày tỏ niềm ước vọng hưởng thụ cuộc sống.
Thơ Xuân Diệu là nguồn cảm hứng yêu cuộc đời, yêu cuộc sống, một khát vọng sống, một khát vọng hưởng thụ chưa từng thấy trong thơ ca.
Xuân Diệu là một người vô cùng yêu cuộc sống, đây là một tình yêu rất hăm hở và rạo rực đến kỳ lạ, Xuân Diệu yêu một cách vồ vập và cuống quýt.
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi!
( Vội vàng)
Người ta coi Xuân Diệu là một tình nhân si mê và cuồng bạo của cuộc sống.
Nói chung cùng tất cả các nhà Thơ mới ai cũng yêu đời kể cả Hàn Mặc Tử – người có cuộc sống bi đát nhất ông cũng yêu đời trong nỗi đau.
Nhưng có lẽ, không có ai có một sức mạnh của một tấm lòng trần như Xuân Diệu. Ông yêu cuộc sống bằng tất cả tình yêu của tấm lòng trần thế, yêu bằng một tình yêu vật chất.
Cái đẹp của cuộc sống, cái đẹp của tình yêu, sức hấp dẫn của nó là rất cụ thể, rất vật chất, rất trần tục. Xuân Diệu thường vật chất hoá những cái vô hình, trừu tượng ( hương thơm, màu sắc, ngọn gió, khúc nhạc...) thành những thực thể vật chất:
- Tháng giêng ngon như một cặp môi gần.
- Con gió xinh thì thào trong lá biếc.
Tất cả đều trở thành nguồn dinh dưỡng để nuôi sống ông:
- Ta bấu răng ta vào da thịt của đời.
Ngoàm sự sống để làm êm đói khát.
- Nên lúc môi ta kề miệng thắm
Trời ơi ta muốn uống hồn em.
(Vô biên )
Với một tình yêu là khát vọng sống như vậy, Xuân Diệu tập trung ca ngợi những hình thái giàu chất sống nhất của cuộc sống ( Mùa xuân, tuổi trẻ và ái tình...).
Đối với Xuân Diệu, mùa xuân gắn liền với tuổi trẻ và tình yêu. Có nhiều lúc ông mượn cảm hứng mùa xuân để nói về tuổi trẻ và tình yêu:
Xuân của đất trời nay mới đến
Trong tôi xuân đến đã lâu rồi
Từ khi yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
(Nguyên Đán)
Nếu Xuân Diệu coi được giao cảm với con người là một hạnh phúc thì tình yêu là tuyệt đỉnh của hạnh phúc ấy.
Suốt đời Xuân Diệu băn khoăn một điều:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào.
Nhà thơ mời yêu, kêu gọi tuổi trẻ hãy biết yêu say đắm:
Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dù chỉ là trong một phút mà thôi
Xuân Diệu náo loạn cả khung trời tình ái bằng một thứ ái tình táo bạo mới mẻ. Tình yêu của ông không chịu sự kiểm soát của lý trí, ông muốn yêu thật si mê, thật chân thành, muốn trở thành sứ giả của tình yêu:
“ Tôi khờ khạo quá ngu ngơ lắm
Chỉ biết yêu thôi chả biết gì ”
Ông tự tuyên bố mình là một “ Khách tình si”, “ kẻ uống tình yêu dập cả môi”.
Với Xuân Diệu niềm khao khát giao cảm với cuộc đời trần trục đã chi phối toàn bộ sự nghiệp sáng tác văn học của nhà thơ. Đó chính là tiếng nói của cái tôi yêu đời, yêu cuộc sống. Khi Xuân Diệu bước chân lên mặt đất là lúc trái tim ông rộng mở để đón nhận cuộc đời nhưng cũng là lúc thi nhân nhận ra sự thờ ơ, lạnh lẽo của cuộc đời đối với mình.
2.2 Xuân Diệu – Hồn thơ cô đơn ngay chính giữa cuộc đời:
Khi Thế Lữ cố gắng chạy trốn cô đơn bằng cách trốn lên tiên hay hoá thân thành ẩn sĩ, say sưa đi tìm cái đẹp trong nghệ thuật thì Xuân Diệu cảm thấy cô đơn ngay chính giữa cuộc đời, cô đơn ngay trong bản thân mình, và cô dơn ngay cả khi mình đang hạnh phúc.
Dù mộng tướng quá nhiều ở tình yêu, cuộc đời và không được đáp ứng như mong ước cho nên ngay từ phút đầu tiên nhà thơ đã thất vọng thốt lên:
Vì sao gặp gỡ buổi đầu tiên
Ta đã đày thân giữa xứ phiền
Không thể vô tình qua trước cửa
Biết rằng gặp gỡ đã vô duyên.
(Vì sao)
Thất vọng vì không tìm được niềm giao cảm với đời, Xuân Diệu rơi vào một trạng thái cô đơn vô hạn. Cuộc đời đầy hương hoa, đầy ánh sáng rực rỡ nhưng bước chân của nhà thơ lại lạc lõng, bơ vơ giữa xã hội kim tiền. Đến với cuộc đời bằng tất cả tâm hồn và trái tim rộng mở, khát khao hoà nhập cuộc đời với trái tim tươi trẻ:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn
Ta muốn siết mây mưa và gió lượn
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Cho chuếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của đời tươi
Hỡi Xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.
( Vội vàng)
Nỗi cô đơn của Xuân Diệu cũng xuất phát từ đáy lòng yêu đời đó. Cô đơn nên bao giờ cũng buồn, và với Xuân Diệu cô đơn còn là sự lẻ loi, cô độc đến cùng cực, đến tuyệt vọng. Bởi trái tim và tâm hồn của nhà thơ đã dâng hiến cho cuộc đời, cho tình yêu. Vì thế, có lúc Xuân Diệu đã tự trách mình ra khỏi thế giới bên ngoài, tự đối thoại với bản thân mình. Khi một mình độc thoại với hồn mình, đó cũng là lúc ta bắt gặp một Xuân Diệu cô đơn đến tột đỉnh, với lời van nài thê thiết:
Chớ để riêng em phải gặp lòng em
(Lời kỹ nữ)
Sự tồn tại một cách lẻ loi của những “riêng chiếc” “riêng em” nói lên sự cô đơn, nỗi sơn hãi chính mình của tác giả. Cuộc đời thì nhẫn tâm, lạnh nhạt, vô tình. Con người trôi dạt trong nỗi cô đơn.
Tôi như chiếc thuyền hư không bến đỗ
Tôi chỉ là một con chim không tổ
Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi
Nhặt nụ cười của thiên hạ, than ôi
Để tự nhủ: Ta được yêu đấy chứ
(Dối trá)
Cảm giác cô đơn đến tột đỉnh, cảm thấy mình là kẻ trắng tay: Bơ vơ, không có chỗ đứng, không có vị trí trong xã hội, không một tổ ấm tình cảm nào. Thi nhân chợt cảm thấy mình cô đơn chẳng khác gì một đứa trẻ mồ côi thiếu tình thương và khao khát sự cảm thông của người đời: Nhưng tội nghiệp thay, cuộc đời ấy vốn đã “ đìu hiu” lại “ hay cực” đến vô tình:
Ta buồn bã riêng tây như đứa nhỏ
Mẹ bỏ đi vò võ kiếm đồ chơi
Không ai thương nên chẳng giám hé lời
Biết thân phận ghì môi không giám khóc.
(Riêng tây).
“Ghì môi” lại nhưng lại tuôn chảy bao hàng nước mắt, những tiếng nấc cố nén, nghẹn ngào. Ngay từ nhỏ, Xuân Diêu đã phải sống trong những ngày trống trải, cô đơn, thiếu tình cảm máu mủ, ruột thịt. Đó cũng chính là lúc nhà thơ bước đầu tách mình ra khỏi xã hội, cuộc đời, bước vào thế giới riêng chỉ có mình. Nhưng đó cũng chính là nơi trống vắng, hoang vu và nhất là không ai có thể đặt chân đến: Thế giới cô đơn. Như con nai trước buổi hoàng hôn, ngơ ngác giữa rừng sâu, lạc lõng bởi lạc bầy, bóng tối bao trùm và nỗi cô đơn bao phủ:
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.
(Khi chiều giăng lưới)
Tuỵệt vọng, cô đơn đến mức có lúc “ nhắm mắt làm liều” đi tìm sự giải thoát bằng cách “ Lấy cá nhân làm cứu cách cho cá nhân” ( Hoài Thanh) để thoát ra khỏi tâm trạng:
Cô đơn muôn lần, muôn thưở cô đơn
(Hi Mã lạp sơn)
Nhưng rồi lại rơi vào cảm giác rợn ngợp ở cái đỉnh tháp ngà của cái “ Tôi ” ấy:
Ta cao quá mà núi non thấp lắm
Chẳng so chi, chẳng chi đến giao hoà.
Từ trên đỉnh cao ấy, thi nhân nhìn xuống kênh kiệu:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta.
Và ánh mắt khinh mãn:
Lầu vua chúa còn hơn chi mái cỏ
Nóc đền đài cũng thấp tựa lũng nam.
Lọt thơm giữa cái phẳng phặng đến rợn người, giữa “cái lạnh lùng thê tuyệt ấy” cũng có lúc thi nhân càng cảm nhận sâu sắc nỗi cô đơn của mình:
Hiu hắt nhỉ, bốn phương trời vò võ
Lạnh lùng chăng, sầu một đỉnh chon von.
Và nhà thơ đã đóng cửa, thu mình lại trong cái thế giới “ Riêng tây” và tự đày đoạ mình trong cô độc:
“ Trời mưa gió hôm nay ta đóng cửa
...Ta nằm đây như một giải quan xa
Suốt năm tháng chẳng có người tiếc nuối”
(Riêng tây)
Cô đơn ngay chính giữa cuộc đời, Xuân Diệu như dồn tất cả những tình cảm còn lại cho tình yêu, để giải thoát nỗi cô đơn, để tìm nơi trú ngụ:
Làm sao sống được mà không yêu
Không nhớ không thương một kẻ nào
(Riêng tây)
Tình yêu là phần ngon nhất của cuộc sống, cuộc đời. Cuộc sống không có tình yêu thì “ mặt trời cũng sẽ tắt ngấm” (Huy gô) Khi yêu con người sống tốt đẹp hơn và gần gũi với mọi người hơn. Với tấm lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Xuân Diệu đã đến với tình yêu, một lần nữa thi nhân phải cam chịu thân phận “ đơn phương”.
Cho rất nhiều nhưng nhận chẳng bao nhiêu
Người ta phụ hay thờ ơ chẳng biết.
(Yêu)
Yêu mà không được đón nhận, Yêu mà không được đáp lại, Yêu mà không được yêu. Từ thất vọng giữa cuộc đời, từ thất vọng trong tình yêu, trái tim “ dại khờ” ấy bật lên những lời cay đắng, tội nghiệp:
Người ta khổ vì yêu không phải cách
Yêu sai duyên và mến chẳng nhằm người
(Dại khờ)
Và cầu xin:
Mở miệng vàng và hãy nói yêu tôi
Dẫu chỉ là trong một phút mà thôi
( Mời yêu)
Để rồi chấp nhận bi kịch của tình yêu: “ có gửi đi chăng có về” và thấm thía:
Ta trút bâng quơ một trận lòng
Biết rằng đau khổ giữa hư không
Muốn trốn sầu đơn muôn vạn kiếp
Lại tìm sa mạc của tình yêu
Trốn tránh sự cay nghiệt của cuộc đời, lại bắt gặp sự lạnh lùng của tình yêu, con người cô đơn ấy lại càng cô đơn, càng lẻ loi hơn, bởi chẳng có ai hiểu và san sẻ với mình. Ngay cả khi tưởng chừng như gắn bó khăng khít với người yêu, ông vẫn cảm thấy cô đơn, và khi tưởng như mình đang rất hạnh phúc thì ông vẫn ông luôn bị ám ảnh bởi mặc cảm xa cách:
Dẫu tin tưởng chung một đời một mộng
Em là em, anh vẫn cứ là anh
Có thể nào qua vạn lý trưởng thành
Của hai vũ trụ chứa đầy bí mật.
(Xa cách)
Có những lúc ở bên cạnh người yêu mà tác giả vẫn thấy cô đơn:
Chúng tôi lặng lẽ bước trong thơ
Lạc giữa niềm yêu chẳng bến bờ
Trăng sáng, trăng xa, trăng rộng quá
Hai người nhưng chẳng bớt bơ vơ
( Trăng)
Trốn cô đơn của cuộc đời, Xuân Diệu lại bắt gặp “ sa mạc” mênh mông của tình yêu. Đến với tình yêu bằng tất cả con tim, tâm hồn và sự sống, nhưng tình yêu lại không giúp nhà thơ giải thoát được sự bế tắc mà càng dẫn nhà thơ tới ngõ cụt của sự cô đơn. Đó là nỗi cô đơn tự mình không chịu đựng nổi nhưng lại không chia sẻ cùng ai. Đó là lúc thi nhân trơ trọi lại một mình giữa cuộc sống vốn dông người qua lại.
Không có một tình cảm nào bền chặt. Không một mái ấm gia đình, không một bàn tay đủ chân thành để sưởi ấm tâm hồn cô liêu:
Em sợ lắm, giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng lạnh lẽo suốt xương da.
(Lời Kỹ nữ)
Mượn lời Kỳ nữ để bày tỏ nỗi lòng mình: Đó là nỗi cô đơn, rợn ngợp giữa cuộc đời, giữa những con người, những ký nữ bị du khách ruồng bỏ hay cũng chính là tâm trạng của Xuân Diệu trước cuộc đời “đìu hiu” “ cay cực”. Tình cảm người du khách cũng nhạt nhẽo, vội vàng như người đời: “ tình du khách thuyền qua không buộc chặt”, để lại nàng một mình trong nỗi đau đớn tột cùng, trong sự cô đơn đến tận cùng.
Xao xác tiếng gà. Trăng ngàn lạnh buốt
Mắt run mờ, kỹ nữ thấy sông trôi
Du khách đi...du khách đã đi rồi
( Lời kỹ nữ)
Xuân Diệu là người hiến dâng cho cả cuộc đời mình cho sự sống, tình yêu và ông luôn đòi hỏi sự vô biên, tuyệt đích, đó cũng chính là nguyên nhân sâu xa nhất dẫn tới sự cô đơn trong thơ Xuân Diệu, và cũng chỉ có Xuân Diệu, cái tôi cô đơn ấy mới thấm đấm tận hồn người, để khi đọc lên, ta nghe như chính hồn mình đang hoà vào từng câu chữ:
Em sợ lắm giá băng tràn mọi nẻo
Trời đầy trăng, lạnh lẽo suốt xương da
( Lời kỹ nữ)
Hoà tan vào nỗi cô đơn giá buốt của nhân vật trữ tình từ những chuyển động của thân thể đến cảm giác tâm hồn cái cô đơn của tâm hồn như ngấm vào tận xương tuỷ của con người. Cảm giác cô đơn ấy như là sự tổng hợp của những tế bào cô đơn. “Sinh thời”, khi nói về bài thơ này Xuân Diệu cho biết người kỹ nữ trong thơ cũng chính là mình (Lưu Khánh Thơ).
Tác giả đã hoàn toàn hoá thân và đồng nhất với thân phận người kỹ nữ. Giữa họ có những điểm tương đồng. Cả hai cùng chân thành, tha thiết với cuộc đời, nhưng đều gặp sự thờ ơ, lạnh lẽo, để rồi nhận về mình nỗi cô đơn, tuyệt vọng. Và cũng chỉ có Xuân Diệu tuyệt vọng. Và cũng chỉ có Xuân Diệu “ nhà thơ mới nhất trong các câu Thơ mới”. Hơn ai hết đã thể hiện cái tôi cá nhân. Cái tôi riêng của mình một cách phong phú nhất nhưng cũng cô độc nhất, cái tôi cô đơn ấy, là cái tôi mang tính nhục thể. Thiên nhiên hay tạo vật cũng là sự hoá thân của hồn người. Nếu như trong thơ ca trung đại, khi cái tôi cô đơn được biểu hiện tìm đến với thiên nhiên, thì thiên nhiên là một người bạn. Khi bà Huyện Thanh Quan cảm thấy cô đơn khi bước chân len đèo ngang vào một buổi chiều tà “ một mảnh tình riêng ta với ta” thì cái tôi cô đơn ấy vẫn còn nơi trú ngụ là thiên nhiên, như vậy trong thi pháp thơ cổ, con người xuất hiện trong thơ chủ yếu trong tư thế đó. Con người không có cái “tôi” có thể mà thường muốn chìm lẫn vào trong vũ trụ.
Luôn cảm thấy thân phận yếu đuối nhỏ nhoi trong thế giới mênh mông, rợn ngợp. Cái thế giới cũng đã hơn một lần đến với cảm nhận của Xuân Diệu trong hình ảnh một hòn đảo:
Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề
( Nguyệt Cầm)
Ngay cả khi nhà thơ muốn hoá thân vào cả một Hi Mã Lạp Sơn – là ngọn núi cao nhất, sừng sững trong không gian thì nỗi cô đơn vẫn cứ bám siết lấy nhà thơ như một định mệnh:
Ta là Một, là Riêng, là Thứ nhất
Không có chi bè bạn nổi cùng ta
(Hi Mã Lạp Sơn)
ở một phía khác của con người sầu muộn, co đơn là sự đắng cay, khát khao giao cảm với cuộc đời trần thế. Càng tách riêng ra trong sự cô đơn, càng cảm nhận được nỗi buồn nhân thế, khi Xuân Diệu khát khao đến với đời:
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
(Cảm xúc)
Và khi Hồ Xuân Hương buột ra tiếng thở dài
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Nhưng cái tôi ấy vẫn chưa bộc lộ hết mình. Chỉ đến Xuân Diệu cái “tôi” ấy mới đáng thương và tội nghiệp làm sao:
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam, một phút cũng đành.
( Lời thơ vào tập gửi Hương)
Giữa sầu muộn, cô đơn và khát khao đến với đời, giữa tình vừa như đối lập vừa như gắn bó ấy, hiện lên thật rõ cốt cách Xuân Diệu - ánh mắt của thi nhân nhìn đến đâu cũng thấy hồn mình vương vất ở đấy. Cảm giác thật của con người được Xuân Diệu hoá thân vào thiên nhiện tạo vật. Tất cả như đang cùng nhịp đập với trái tim của nhà thơ:
Đã nghe rét mướt luồn trong gió
.....Những luồng run rẩy rung rinh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh
( Đây mùa thu tới)
Tâm hồn Xuân Diệu nhiều khi như giao hoà với thiên nhiên. Vì thế Xuân Diệu đã tạo ra được một thế giới thơ của riêng mình, không lẫn với bất cứ nhà thơ mới nào khác:
Con cò trên ruộng cánh phân vân
( Thơ Duyên)
Hoà vào cảnh sắc thiên nhiên, cái tôi trữ tình ấy vẫn vẫn mang một nỗi buồn bởi đó là một trái của lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Bởi mùa xuân, tuổi trẻ rồi cũng qua: “ còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi ” cảm nhận đến triết lý cuộc đời, thơ Xuân Diệu vì thế thẫm đãm sự cô đơn. Bởi cuộc sống không còn gì là vĩnh cửu, mà tâm hồn thi nhân lại quá nhạy cảm với cuộc đời. Sống hết mình, yêu bằng tất cả trái tim, để nhận về mình sự thất vọng . Thơ Xuân Diệu vì thế là sự thân của cái tôi cô đơn đến tận cùng, cái tôi ấy không còn ai có thể so sánh – và cõi lòng ấy, tâm hồn ấy luôn cầu sự cảm thông chia sẻ.
Mở lòng mình ra để giao cảm với đời, mời mọc, phơi trải hồn mình ra giữa đời cũng chỉ là một biểu hiện của cái cô đơn.
Lòng tôi bốn phía mở cho trăng
Đây là sự cầu xin của tình yêu, cầu xin sự cảm thông, sự giao cảm của mọi người...
Một nghịch lý nữa là Xuân Diệu càng muốn muốn sống trong đời nhưng vì là kẻ cô đơn, lạc loài nên con người trong thơ ông lúc nào cũng có cảm giác lạnh run:
Tôi run như lá, tái như đông
...Trước bờ lạnh lẽo của hư không.
( Hư vô).
Vì cô đơn nên con người trong thơ Xuân Diệu rất sợ sự “ xa cách”. Nhưng cái “tôi” cá nhân tồn tại sừng sững giữa cuộc đời không bị hoà tan vào cái “ta”, để rồi chẳng bao giờ con người cô đơn ấy hoà nhập được vào cuộc sống nhà thơ cay đắng nhận ra:
Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn để mà khuyết
Bèo hợp để mà tan
Người gần để ly biệt
(Hoa nở để hoa tàn)
Với Xuân Diệu, mỗi sự vật là một cá thể duy nhất, không lặp lại, không có vòng tuần hoàn. Nó đến rồi đi, không vĩnh viễn:
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất
( Vội vàng)
Càng ham sống càng sợ khoảng cách, sợ sự cô đơn. Xuân Diệu sợ khoảng cách dù là khoảng cách của lòng người, của thể xác hay của tháng năm. Ông muốn thu ngắn khoảng cách bằng vòng tay “ôm”, “siết” cả đất trời, cả sự sống. Đồng thời ông cũng muốn tan ra, hoà vào đất trời, vũ trụ như hoa kia “gửi hương cho gió” vậy. Nhưng con người luôn “xa cách” nên thơ Xuân Diệu thấm đẫm nỗi cô đơn đến rợn ngợp.
Xuân Diệu cố công đi tìm niềm vui, lẽ sống ở cuộc đời, ở tình yêu, nhưng rồi thất vọng. Mọi cách của cuộc đời đều từ chối nhà thơ. Nhà thơ cảm nhận sự cô đơn và lạc loài đến tột cùng nhưng càng cô đơn lại càng yêu tha thiết, càng bị từ chối lại càng “bấu” chặt cõi nhân gian. Nói cách khác, cái tôi cô đơn trong thơ Xuân Diệu là “Mặt trái của lòng yêu đời, của những say mê không được đáp ứng” ( Lê Đình Kỵ).
Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Xuân Diệu là cuộc đời và sự nghiệp của một tâm hồn khao khát sống, khao khát giao cảm với con người và cuộc đời:
Thơ tôi đó, gió lùa đem toả khắp
Và lòng tôi mời mọc bạn chia nhau.
( Lời thơ vào tập gửi hương)
Chương III
Các hình thức thể hiện cái tôi trữ tình trong thơ Xuân diệu
Trong bài đầu cuối thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “ Ngày thứ nhất...chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thật bỡ ngỡ...” cái mới của các nhà Thơ mới là đã giám xét cái tôi cá nhân như là đối tượng phản ánh nghệ thuật, vừa là chủ thể sáng tạo nghệ thuật.
Con người cá nhân và cái tôi riêng đã được Thơ mới lãng mạn chú ý ngay từ khi nó mới ra đời. Hầu hết các nhà Thơ mới đều đề cao cái tôi, coi đó là điểm hội tụ, và cũng có thể là điểm sáng của thế giới tinh thần con người; Một thế hệ thi sĩ mới xuất hiện cùng với một hệ thống các quan điểm thẩm mĩ mới. Cái tôi trữ tình mang nhiều màu sắc phong phú, đa dạng, làm nên những sáng tạo mới trong cả một thế hệ thơ ca. Những phong cách, những gương mặt đã tạo nên thời đại chữ “Tôi”, với nghĩa đầy đủ và tuyệt đối của nó.
Xuân Diệu ra đời như một đỉnh cao của phòng trào Thơ mới. Hơn bất cứ nhà thơ nào khác, ông đã bộc lộ trong thơ một cái tôi trữ tình phong phú và độc đáo. Tìm hiểu phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình, đó cũng là một phương hướng tiếp cận với thế giới nghệ thuật riêng của Xuân Diệu nhằm qua đó hiểu rõ hơn về bút pháp và phong cách vủa nhà thơ.
3.1 Cái tôi trữ tình nhập thân vào đối tượng phản ánh:
Cái tôi trữ tình nhập thân vào đối tượng phản ánh là sự hoá thân nhập thân của nhà thơ của nhà thơ vào đối tượng được phản ánh. Nhân vật đóng chính vai nhà thơ. Cá nhân vật và nhà thơ có một mối tương quan đặc biệt, thân phận họ có những điểm tương đồng.
Trong lời kỹ nữ, Xuân Diệu miêu tả sâu sắc nỗi cô đơn của người kỹ nữ.
Lòng kỹ nữ cũng sầu như biển lớn
Chớ để lòng em gặp phải lòng em.
Sinh thời khi nói về bài thơ này, Xuân Diệu không biết người kỹ nữ trong thơ cũng là chính mình. Mối quan hệ du khách – nhà thơ - người kỹ nữ được thể hiện trong một tương quan đặc biệt, tác giả đã hoàn toàn hoá thân và đồng nhất với thân phận người kỹ nữ thân phận hai có những điểm tương đồng. Cả hai cùng chân thành, tha thiết với cuộc đời nhưng đều gặp sự thờ ơ, lạnh lẽo.
Tình du khách: Thuyền qua không buộc chặt
Hình ảnh người kỹ nữ cũng giống như nhà thơ, đem tiếng đàn mua vui người đời, nhưng rồi tất cả đều ra đi, chỉ tồn tại nỗi cô đơn tuyệt vọng.
Thật ra mô típ người kỹ nữ không phải đến thơ mới có mà đã có và trở nên quen thuộc trong thơ cổ điển. Ví dụ: người kỹ nữ trong Tì bà hành của Bạch Cư Dị, nói đến mối quan hệ của những cặp giai nhân – tài tử, tri âm, tri kỷ. Hình ảnh người con gái giang hồ vốn đã xuất hiện trước Xuân Diệu khá lâu. Giang hồ của Lưu Trọng Lư lại diễn đạt hai tư thế hai tâm trạng, không phải trong đối thoại, càng không phải trong cảm thông với nhau giữa gái làng chơi và khách làng chơi...Tố Hữu trong Cô gái Sông Hương để cho nhân vật tự kế về số phận của mình. Còn nhà thơ ngỏ lời chia sẻ và tin tưởng đời sẽ đổi thay tốt đẹp hơn.
Xuân Diệu trong lời kỹ nữ là Xuân Diệu hoá thân để qua mối giao tình của người kỹ nữ với du khách mà nói quan hệ nhà thơ với người yêu và với cuộc đời. Bài thơ lời kỹ nữ thể hiện đậm đà và đạt hiệu quả nhất sự hoá thân, sự nhập thân của nhà thơ vào đối tượng. Với Xuân Diệu nhân vật của mình có một tâm thể khác, một sứ mệnh khác, Xuân Diệu đã trao cho nhân vật đóng chính bản thân mình.
Phương thức thể hiện cái tôi trữ tình theo dạng này còn được thể hiện trong một số bài viết về thiên nhiên trong gắn bó với tình người. Qua đó ai có thể vượt qua Xuân Diệu khi ông miêu tả tâm trạng bâng khuâng, mơ hồ của người con gái.
Trước buổi giao mùa của đất trời:
Mây vẫn từng không chim bay đi
Khi trời u uất hận chia ly
ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngời gì.
( Đây mùa thu tới)
ở đây nhà thơ đã hoá thân vào hình ảnh người thiếu nữ thể hiện một tình yêu e ấp và trinh nguyên, vừa gần gũi vừa xa vời. Sự hoá thân không có hoá cách về cảm xúc thẩm mỹ này đã làm nên cái hồn riêng, cái duyên riêng trong thơ Xuân Diệu.
2.3. Cái tôi trữ tình biến hoá qua nhiều hình ảnh:
ý thức về cái tôi trước hết được biểu hiện qua những đại từ nhân xưng. Trước phong trào thơ mới nói đúng hơn là trước Tản Đà, thơ ca dường như né tránh chữ tôi, chỉ đến Thơ mới chữ tôi đích thực mang sắc thái cá nhân, chuyên chở cái riêng, đối tượng biểu hiện và chủ thể sáng tạo mới thật sự xuất hiện. Đúng như nhận xét của giáo sư Lê Đình Kỵ “ Thơ mới là thơ của cái tôi”.
Có lẽ trên thi đàn Thơ mới, Thế Lữ là người đầu tiên bộc lộ cái tôi của mình một cách đầy đủ qua việc đưa ra một quan niệm mới về nghệ thuật, về con người, về người nghệ sĩ:
Tôi là kẻ bộ hành phiêu lãng
Đường trần gian xuôi ngược để vui chơi.
( Cây đàn muôn điệu)
Cái tôi tự nhận thức, cái tôi thức tỉnh khi con người biết thân phận biết biến mình thành đối tượng miêu tả của chính mình đã diễn ra trong suốt quá trình của Thơ mới từ Thế Lữ đến Huy Cận.
Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm
( Huy Cận )
Nhưng hơn ai hết Xuân Diệu tự thể hiện cái tôi của cá nhân cái tôi riêng của mình một cách phong phú nhất qua nhiều sự biến hoá nhất, và mỗi hoá thân là một góc, một khía cạnh của con người thơ.
Tôi là con chim đến từ núi lạ
Ngứa cổ hót chơi.
(Lời thơ vào tập gửi hương)
ở đây Xuân Diệu thể hiện cái tôi của người nghệ sĩ qua quan niệm nghệ thuật hồn nhiên như bản năng thiên bẩm:
Tôi là con nai bị chiều đánh lưới
Không biết đi đâu đứng sầu bóng tối.
(Khi chiều giăng lưới)
Khác với hình ảnh con nai vàng ngơ ngác của Lưu Trọng Lư. Con nai của Xuân Diệu trở về với cốt cách hiền lành, tội nghiệp không bao giờ làm hại ai, làm mỗi cho loại thú dữ. Trong thơ Xuân Diệu, nó vẫn là con nai nạn nhân, không phải của các loài thú mà là của hoàng hôn, của bóng chiều, của màn đêm sắp về. Cả thời gian và không gian đều giăng lưới và với cái lưới này thì nó đã “ Vô hiệu hoá”những đôi chân chạy như gió của con nai. Nó phải đứng yên trong màn đêm, lưới đêm nặng trĩu như khối sầu.
Cái sầu và nỗi buồn lại đến với nhà thơ trong cái tôi hoá thân:
Tôi như chiếc thuyền hư không bến đỗ
Tôi là một con chim không tổ
Lòng cô đơn hơn một đứa mồ côi
( Dối trá)
Nỗi buồn gắn với sự cô đơn. Nhà thơ cảm nhận thân phận yếu đuối, nhỏ nhoi của mình trong thế giới mênh mông và rợn ngợp:
Chiếc đảo hồn tôi rợn bốn bề
( Nguyệt Cầm)
ở một khía cạnh khác của con người sầu muộn, cô đơn là sự đắm say, khao khát giao cảm với đời. Càng tách riêng ra trong sự cô đơn, càng cảm nhận nỗi buồn nhân thế Xuân Diệu lại càng khát khao giao cảm với đời:
Tôi chỉ là một cây kim bé nhỏ
Mà vạn vật là muôn đá nam châm
( Cảm xúc)
“Cây kim” Xuân Diệu tuy bé nhỏ trong không gian nhưng vẫn là một tâm hồn mở ra trên mọi hướng để chờ đợi, để đón nhận tình yêu như một lẽ tự nhiên của sự giao hoà giữa đất trời...và nhà thơ cũng nhằm thể hiện mối giao cảm của mình với cuộc đời.
Giữa sầu muộn, cô đơn và khao khát đến với đời, giữa tình cảm vừa như đối lập và đơn độc, vừa như gắn bó ấy, hiện lên thật rõ cốt cách Xuân Diệu – một cái tôi khao khát yêu đời và khao khát yêu và hiến dâng cho tình yêu, đau khổ vì yêu, hạnh phúc vì yêu. Một tình yêu vừa vật chất vừa tinh thần vừa trần trục vừa lý tưởng, vừa đắm say vừa ngờ vực, vừa gần gũi vừa xa cách.
Làm sao sống được mà không yêu
Có thể nói hơn ai biết, lĩnh vực tình yêu là cái tôi trữ tình của nhà thơ được bộc lộ một cách đầy đủ và trọn vẹn. Với niềm khao khát của một tình yêu thiết tha, nồng cháy. Dường như lý do tồn tại của chàng thi sĩ tài hoa này là tình yêu. Mối dây liên kết chàng với cuộc sống trần gian này vẫn cũng chính là tình yêu:
Tôi đã yêu khi đã hết tuổi rồi
Không xương vóc, chỉ huyền hồ bóng dáng.
(Đa tình)
Nhà thơ khao khát cầu xin:
Và hãy yêu tôi một giờ cũng đủ
Một giây cũng cam ,một phút cũng đành.
(Lời thơ vào tập gửi Hương)
Chân thành rất mực:
Tôi khờ khạo lắm ngu ngơ quá
Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì.
(Vì sao)
Đi tìm tình yêu trong đời thực không có, nhà thơ đành kiếm tìm tình yêu trong tưởng tượng. Tưởng tượng ở nơi người trần và trong cõi trần hoặc tưởng tượng trong cõi ma:
Hồn đông thế tôi sợ gì cô độc
Ma với nhau thì ôm ấp cùng nhau.
...kẻ đa tình không cần đủ thịt da
Khi chết rồi thì tôi sẽ yêu ma.
(Đa tình)
Có thể nói không có được nhà thơ nào lại diễn tả được nhiều cung bậc, nhiều trạng thái, mọi góc cạnh về tình yêu như Xuân Diệu.
3.3 Sự đồng nhất của cái tôi trữ tình với thiên nhiên. Với phương thức biểu hiện này thì thiên nhiên cũng trở thành nhân vật trữ tình trong thơ. Sự đồng nhất cái tôi trữ tình với thiên nhiên vốn là thi pháp của thơ ca dân gian.
Tiếp thu truyền thống thơ ca của dân tộc, Xuân Diệu tiếp tục mở rộng yếu tố thi pháp thơ ca của dân gian, để chuyển tải những vấn đề, những cảm xúc phức tạp và trừu tượng hơn. Trước sau, thơ Xuân Diệu vẫn mang giọng điệu của một nhà thơ mới lãng mạn, có dấu ấn đặc sắc mang phong cách rất riêng.
Xuân Diệu không chỉ cảm nghe rất tinh những rung động của thiên nhiên như nhiều nhà thơ khác trong phong trào Thơ mới.
Huy Cận: Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa.
Hay như Nguyễn Bính:
Hoa xoan lớp lớp rụng rơi đầy.
Tâm hồn Xuân Diệu nhiều khi như giao hoà, cùng run rẩy với thiên nhiên:
Những luồng run rẩy lung linh lá
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Cảm nghe về âm thanh, về hình ảnh, về màu sắc của thiên nhiên trong mối giao hoà gắn bó với con người, Xuân Diệu có lẽ đã tạo ra được một thế giới thơ riêng của mình, không lẫn với bất cứ với nhà thơ nào khác.
Phải chăng vì tiếp thu được cái nguồn mạch trong trẻo của thơ ca dân gian, nên khi cái tôi trữ tình được đồng nhất với thiên nhiên thì nó mang một phẩm chất mới trong trẻo và tươi sáng cảnh thiên nhiên tươi thắm đang chào đón con người, với con người đang yêu thì cái gì cũng đẹp, cũng xanh non.
Của ong bướm này đây tuần tháng mật
... Của yến anh này đây khúc tình ai.
(Vội vàng)
Hoà vào cảnh sắc thiên nhiên, cái tôi trữ tình cũng vẫn mang một nỗi buồn, nhưng là cái buồn dịu nhẹ, êm ái. Đó là cái tôi trong quan hệ gắn bó với đời, được thể hiện bằng sự hoà hợp giữa thiên nhiên với thiên nhiên, giữa thiên nhiên với hồn người.
Có thể nói với phương thức biểu hiện này, Xuân Diệu đã đem đến cho cái tôi trữ tình của mình một luồng sinh khí mới. Cái tôi yêu đời, yêu sự sống, hoà nhập với thiên nhiên, với cuộc đời.
Sự kìm nén cái tôi và việc thể hiện các mặt của cái tôi trong thơ vốn luôn được coi là là một đóng góp quan trọng của phong trào thơ mới.
Xuân Diệu “ nhà thơ mới nhất trong các nhà Thơ mới”, như cách đánh giá của Hoài Thanh, là người đã thể hiện được trong thơ được trong thơ một cái tôi trữ tình nhiều màu sắc, phong phú và đa dạng. Bằng tài năng của mình Xuân Diệu đã tạo dựng được một phương thức biểu hiện rất riêng tạo nên phong cách độc đáo của thơ Xuân Diệu mà không một nhà thơ đương thời nào có được.
c. Phần Kết luận
Cái tôi trữ tình là một khái niệm cơ bản của việc nghiên cứu đặc trưng thể loại thơ trữ tình. Cái tôi trữ tình là một hiện tượng nghệ thuật khác với cái tôi của nhà thơ trong cuộc sống. Cái tôi trữ tình là thế giới chủ quan, thế giới trong cuộc sống. Cái tôi trữ tình là thế giới chủ quan, thế giới tinh thần của con người được thể hiện trong tác phẩm nghệ thuật cái tôi trữ tình có khả năng khái quát được những giá trị tinh thần. Không chỉ là một cá nhân mà còn của cả thời đại. Theo chúng tôi khái niệm cái tôi trữ tình cái tôi có vị trí trong phần tác phẩm trữ tình trong giáo trình lý luận văn học ở các trường Đại học.
Cái tôi trữ tình là một tác phẩm nghệ thuật được thể hiện bằng tác phẩm nghệ thuật. Nội dung của khái niệm cái tôi trữ tình không chỉ cái suy tư, cái cá nhân, cái độc đáo mà còn bao gồm nhiều cung bậc đa dạng khác. Đó là các bình diện xã hội, công dân, cộng đồng, văn hoá, lịch sử, thẩm mỹ. Những hình thức cái tôi trữ tình trong thơ có thể quy thành hai hình thức: Cái tôi tự viết về mình và cái tôi nội cảm hoá hoàn toàn thế giới.
Lịch sử phát triển cái tôi trữ tình diễn ra và phát triển các kiểu cái tôi trữ tình: Cái tôi trữ tình trong thơ ca dân gian, cái tôi trữ tình trong thơ ca cổ điển, cái tôi trữ tình trong thơ ca lãng mạn 1930 – 1945, cái tôi trữ tình trong thơ 1945 – 1975 và giai đoạn sau 1975.
Cái tôi trữ tình còn là một thế giới nghệ thuật đặc thù những đặc trưng và quy luật tồn tại riêng phụ thuộc vào lịch sử thời đại và lịch sử cá nhân, chiếm lĩnh thế giới thơ trữ tình là chiếm lĩnh thế giới này. Trong thế giới ấy còn những giá trị thẩm mĩ là kết tinh thế giới này. Trong thế giới ấy còn những giá trị thẩm mĩ là kết tinh các giá trị trị văn hoá, lịch sử nghệ thuật cổ - kim, đông - tây. Do đó, cái tôi trữ tình có khả năng khái quát những giá trị tư tưởng không chỉ là một cá nhân mà còn cả thời đại.
Xuân Diệu ra đời như một đỉnh cao của phong trào Thơ mới. Hơn bất cứ nhà thơ nào khác, ông đã bộc lộ trong thơ một cái tôi trữ tình phong phú và độc đáo. Tìm hiểu phương thức biểu hiện cái tôi trữ tình, đó cũng là một phương hướng tiếp cận với thế giới nghệ thuật riêng của Xuân Diệu nhằm qua đó hiểu rõ hơn về bút pháp và phong cách của nhà thơ.
Cả cuộc đời của Xuân Diệu đã dành cho thơ ca, ông đã viết cả tâm hồn, trái tim mình cả giai đoạn trước và giai đoạn sau cách mạng với một tinh thần tự giác. Được độc giả tin yêu và kính phục.
Hơn nửa thế kỷ cầm bút Xuân Diệu thể hiện một bản lĩnh nghệ thuật tầm cỡ, một nhà văn cách mạng chân chính. Ông được đánh giá là một trong ba nhà thơ tiêu biểu của thơ ca Việt Nam hiện đại ( Xuân Diệu – Tố Hữu – Chế Lan Viên).
Xuân Diệu là một nhà thơ nhạy cảm với đời, ý thức trách nhiệm với thơ, nghệ thuật. Với tài năng của mình, Xuân Diệu thực sự là cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại./.
Tài liệu tham khảo
1. Xuân Diệu về tác giả và tác phẩm, Lưu Khánh Thơ tuyển chọn và giới thiệu – nhà xuất bản giáo dục, 2001.
2. Thi nhân Việt Nam – Hoài Thanh, Hoài Chân, nhà xuất bản văn học, 1988.
3. Từ điển thuật ngữ văn học, Lê Bá Hán,Trần Đình Sử...., Nhà xuất bản ĐHQGHN, 1997.
4. Phẩm chất cái tôi trữ tình, Trần Đình Sử, tạp chí văn học số 1/83.
Bộ giáo dục & Đào tạo
Trường Đại học vinh
Khoa ngữ văn
Tiểu luận
nghiên cứu Khoa học chuyên ngành
Đề tài:
Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Xuân Diệu
Trước Cách Mạng Tháng Tám
Bộ môn: Văn học Việt Nam Hiện Đại
Hệ: Cử nhân khoa học chính quy
Giáo viên hướng dẫn: T.S Hoàng Mạnh Hùng
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Ngọc Hân
Lớp: 45B2 - Ngữ Văn
Vinh, tháng 4/2008
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan Lam Han.doc