Các vấn đề liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất
MỞ ĐẦU
Trong điều kiện đất nước ta đang trên đà phát triển. Có rất nhiều mặt trong lĩnh vực kinh tế – xã hội mà ta cần phải phát huy. Trong đó tín dụng có vai trò trong việc đưa kinh tế phát triển cao, xoá dần khoảng cách về mức sống giữa các vùng thành thị với nông thôn. Trước khi tìm hiểu về vấn đề tín dụng ở Việt Nam trước tiên nghiên cứu về định hướng XHCN của kinh tế thị trường của Việt Nam.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN . Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng của Đảng ta, Nhà nước tư bản chủ nghĩa đã lợi dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, tranh thủ mở rộng và phát triển nền kinh tế của mình. Họ đã ra sức điều chỉnh để thích nghi, nên đã đưa lại sự tăng trưởng kinh tế của mình. Họ đã ra sẽ điều chỉnh để thích nghi, nên đã đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao và có sự cải thiện nhất định về mặt xã hội. Song điều đó cũng cho thấy những tiền đề về kinh tế và xã hội cho một xã hội tương lai đang được chuẩn bị ngay trong lòng CNTB.
Lịch sử phát triển của CNTB đã cho thấy khi hình thành những yếu tố khẳng định quan hệ sản xuất TBCN thì cũng đồng thời xuất hiện những yếu tố tự phủ định nó. Sự tác động của những yếu tố này không có tính nhất thời, mà là cả một quá trình. CNTB không phải là hình thái kinh tế – xã hội vĩnh viễn. Theo quy luật tiến hoá và lý luận về Hình thái kinh tế xã hội của C.Mác thì sớm hay muộn CNTB cũng phải nhường chỗ cho một xã hội văn minh hơn, đó là CNXH. Đúng như văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII. Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH. Đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”.
Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng XHCN . Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nội dung định hướng XHCN của kinh tế thị trường nước ta đã được hội thảo khoa học nhiều lần. Theo ý kiến của đa số các nhà khoa học Việt Nam, có thể quan niệm định hướng XHCN của kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung chính như sau:
Hai mặt kinh tế xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên cả tầm quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, thì ở tầm vi mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế – xã hội làm mục tiêu quản lý nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Vấn đề dân chủ và công bằng xã hội ở đây được hiểu theo nghĩa những đơn vị và cá nhân trong xã hội được làm những gì mà pháp luật không cấm, được tự do sản xuất và kinh doanh, được hưởng những thành quả lao động của mình và được thừa kế tài sản theo luật định. Đương nhiên, trong nền kinh tế thị trường có sự phân hoá giàu nghèo. Điều quan trọng ở đây là cần có các chính sách kinh tế – xã hội để mọi người đem hết sức sản xuất, kinh doanh làm giàu cho mình và nhờ đó xã hội cũng trở nên giàu có. Đồng thời cũng cần có những giải pháp đều tiết mức thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm thực hiện một xã hội văn minh.
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng đắn luật pháp, chính sách môi trường của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thấp kém thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN được. Đành rằng nếu chỉ có nội dung này thì chưa đủ, bởi vì đã có nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế định hướng XHCN .
Định hướng XHCN còn được thể hiện trong cơ cấu kinh tế nước ta. Để có định hướng XHCN , kinh tế Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế.
Ngoài ra Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo ra nhiều việc làm cho dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau. Cơ cấu kinh tế như vậy đòi hỏi phải giải quyết vấn đề phân phối thu nhập một cách công bằng. Ngoài tiền lương, tiền công người lao động còn được hưởng thu nhập từ các nguồn hữu sản của họ thông qua phân phối theo tài sản (hay theo vốn). Cơ cấu kinh tế mới được hình thành một phần do sự tự điều chỉnh của các quan hệ thị trường, một phần do Nhà nước điều tiết. Phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo được môi trường cạnh tranh và huy động được tối đa những nguồn lực của xã họi vào việc phát triển kinh tế – xã hội.
Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nước ta thực hiện vai trò “bà đỡ”, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò được thể hiện bằng hệ thống luật pháp, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân.
20 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2744 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Các vấn đề liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Trong điều kiện đất nước ta đang trên đà phát triển. Có rất nhiều mặt trong lĩnh vực kinh tế – xã hội mà ta cần phải phát huy. Trong đó tín dụng có vai trò trong việc đưa kinh tế phát triển cao, xoá dần khoảng cách về mức sống giữa các vùng thành thị với nông thôn. Trước khi tìm hiểu về vấn đề tín dụng ở Việt Nam trước tiên nghiên cứu về định hướng XHCN của kinh tế thị trường của Việt Nam.
Kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Đó là sự định hướng của một xã hội mà sự hùng mạnh của nó nhờ vào sự giàu có và hạnh phúc của dân cư. Xã hội không còn chế độ người bóc lột người, dựa trên cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học, công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Định hướng XHCN nêu trên không chỉ phản ánh nguyện vọng và lý tưởng của Đảng ta, Nhà nước tư bản chủ nghĩa đã lợi dụng được những thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, tranh thủ mở rộng và phát triển nền kinh tế của mình. Họ đã ra sức điều chỉnh để thích nghi, nên đã đưa lại sự tăng trưởng kinh tế của mình. Họ đã ra sẽ điều chỉnh để thích nghi, nên đã đưa lại sự tăng trưởng kinh tế cao và có sự cải thiện nhất định về mặt xã hội. Song điều đó cũng cho thấy những tiền đề về kinh tế và xã hội cho một xã hội tương lai đang được chuẩn bị ngay trong lòng CNTB.
Lịch sử phát triển của CNTB đã cho thấy khi hình thành những yếu tố khẳng định quan hệ sản xuất TBCN thì cũng đồng thời xuất hiện những yếu tố tự phủ định nó. Sự tác động của những yếu tố này không có tính nhất thời, mà là cả một quá trình. CNTB không phải là hình thái kinh tế – xã hội vĩnh viễn. Theo quy luật tiến hoá và lý luận về Hình thái kinh tế xã hội của C.Mác thì sớm hay muộn CNTB cũng phải nhường chỗ cho một xã hội văn minh hơn, đó là CNXH. Đúng như văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII. Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Lịch sử thế giới đang trải qua những bước quanh co, song loài người cuối cùng nhất định sẽ tiến tới CNXH. Đó là quy luật tiến hoá của lịch sử”.
Định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng XHCN. Đại hội lần thứ VIII của Đảng ta đã khẳng định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Nội dung định hướng XHCN của kinh tế thị trường nước ta đã được hội thảo khoa học nhiều lần. Theo ý kiến của đa số các nhà khoa học Việt Nam, có thể quan niệm định hướng XHCN của kinh tế thị trường ở nước ta có những nội dung chính như sau:
Hai mặt kinh tế xã hội của nền kinh tế thị trường nước ta được chủ động kết hợp với nhau ngay từ đầu thông qua pháp luật, chính sách kinh tế và chính sách xã hội trên cả tầm quản lý kinh tế vĩ mô và vi mô. Nếu ở tầm vi mô, các chủ doanh nghiệp lấy lợi nhuận làm mục tiêu xác định hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, thì ở tầm vi mô, Nhà nước dùng hiệu quả kinh tế – xã hội làm mục tiêu quản lý nhằm thực hiện tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội.
Vấn đề dân chủ và công bằng xã hội ở đây được hiểu theo nghĩa những đơn vị và cá nhân trong xã hội được làm những gì mà pháp luật không cấm, được tự do sản xuất và kinh doanh, được hưởng những thành quả lao động của mình và được thừa kế tài sản theo luật định. Đương nhiên, trong nền kinh tế thị trường có sự phân hoá giàu nghèo. Điều quan trọng ở đây là cần có các chính sách kinh tế – xã hội để mọi người đem hết sức sản xuất, kinh doanh làm giàu cho mình và nhờ đó xã hội cũng trở nên giàu có. Đồng thời cũng cần có những giải pháp đều tiết mức thu nhập của các tầng lớp dân cư nhằm thực hiện một xã hội văn minh.
Cùng với sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, môi trường sinh thái của đất nước được chủ động bảo vệ qua các dự án đầu tư môi sinh và qua việc chấp hành một cách đúng đắn luật pháp, chính sách môi trường của Nhà nước trong từng thời kỳ.
Nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là nền kinh tế có trình độ phát triển cao. Nếu như nền kinh tế trì trệ, kém phát triển, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân thấp kém thu nhập bình quân của dân cư còn thấp, không có tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế thì không thể gọi là định hướng XHCN được. Đành rằng nếu chỉ có nội dung này thì chưa đủ, bởi vì đã có nhiều nước có nền kinh tế phát triển cao nhưng đó lại không phải là nền kinh tế định hướng XHCN.
Định hướng XHCN còn được thể hiện trong cơ cấu kinh tế nước ta. Để có định hướng XHCN, kinh tế Nhà nước phát huy được vai trò chủ đạo, nó cùng với kinh tế hợp tác là nền tảng của nền kinh tế.
Ngoài ra Nhà nước đầu tư phát triển các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế khác nhằm tạo ra nhiều việc làm cho dân cư và góp phần tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các thành phần kinh tế được phát triển một cách bình đẳng với nhau. Cơ cấu kinh tế như vậy đòi hỏi phải giải quyết vấn đề phân phối thu nhập một cách công bằng. Ngoài tiền lương, tiền công người lao động còn được hưởng thu nhập từ các nguồn hữu sản của họ thông qua phân phối theo tài sản (hay theo vốn). Cơ cấu kinh tế mới được hình thành một phần do sự tự điều chỉnh của các quan hệ thị trường, một phần do Nhà nước điều tiết. Phát triển kinh tế nhiều thành phần sẽ tạo được môi trường cạnh tranh và huy động được tối đa những nguồn lực của xã họi vào việc phát triển kinh tế – xã hội.
Nhà nước XHCN quản lý nền kinh tế thị trường vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Trong thời kỳ đầu chuyển sang kinh tế thị trường Nhà nước ta thực hiện vai trò “bà đỡ”, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế thị trường phát triển đúng hướng. Vai trò được thể hiện bằng hệ thống luật pháp, bảo vệ quyền tự do dân chủ, công bằng xã hội và mở rộng phúc lợi xã hội cho nhân dân.
Nền kinh tế thị trường ở nước ta là nền kinh tế dân tộc hoà nhập với kinh tế quốc tế. Với xu hướng phát triển kinh tế mở, nội dung này có ý nghĩa rất lớn, một mặt nó phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước ta từng bước hoà nhập vào kinh tế khu vực và thị trường thế giời, từ đó có điều kiện tiếp thu những thành tựu mới của khoa học – kỹ thuật, công nghệ thế giời, thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
Thị trường là gì?
Theo nghĩa ban đầu – nghĩa nguyên thủy, thị trường gắn liền với một địa điểm nhất định. Nó là nơi diễn ra các quá trình trao đổi, mua bán hàng hoá. Thị trường có tính không gian và thời gian. Theo nghĩa này, thị trường có thể là hội chợ các địa dư hoặc các khu vực tiêu thụ phân theo các mặt hàng, ngành hàng.
Sản xuất hàng hoá ngày càng phát triển, lượng sản phẩm hàng hoá lưu thông trên thị trường ngày càng dồi dào và phong phú; thị trường mở rộng. Thị trường hiểu theo nghĩa đầy đủ hơn. Nó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. Tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau đề xác định giá cả và số lượng hàng lưu thông trên thị trường.
Nói tới thị trường, trước hết phải nói tới các nhân tố cơ bản cấu thành thị trường đó là hàng và tiền (H và T) người mua, người bán. Từ đó hình thành các quan hệ hàng hoá - tiều tệ, mua – bán, cung – cầu và giá cả hàng hoá.
Nói tới thị trường là nói tới tự do kinh doanh, tự do mua bán, thuận mua vừa bán, tự do giao dịch. Quan hệ giữa các chủ thể kinh tế bình đẳng.
Trong thực tế, người ta còn dùng rất nhiều thuật ngữ gắn liền với khái niệm thị trường như:
- Thị trường bán buôn
- Thị trường bán lẻ
- Thị trường hàng tiêu dùng
- Thị trường sản xuất
- Thị trường cung ứng
- Thị trường Nhà nước
- Thị trường tiền tệ
- Thị trường nhân lực
- v.v...
Vai trò của thị trường:
Như phần trên đã khẳng định kinh tế hàng hoá gắn liền với thị trường. Sản xuất cho thị trường. Tiêu dùng phải thông qua thị trường. Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất.
Sản xuất là sự kết hợp giữa tư liệu sản xuất và sức lao động theo quan hệ tử lệ nhất định. Quan hệ tỉ lệ này tuỳ thuộc vào trình độ kỹ thuật của sản xuất. Nếu kỹ thuật tiến bộ thì một lượng sức lao động nhất định sẽ vận hành được nhiều tư liệu sản xuất hơn, sản xuất ra nhiều sản phẩm hơn. Để sản xuất cần phải có các yếu tố sản xuất. Thị trường chính là nơi cung cấp những yếu tố đó bảo đảm cho quá trình sản xuất được tiến hành bình thường. Sản xuất hàng hoá là sản xuất để trao đổi, để bán. Thị trường là nơi tiêu thụ những hàng hoá cho các doanh nghiệp. Thông qua thị trường giá trị hàng hoá được thực hiện và các doanh nghiệp thu hồi được vốn.
Như vậy, doanh nghiệp là người mua các yếu tố sản xuất và bán những sản phẩm mình làm ra. Quy mô của việc mua vào và bán ra này sẽ quyết định quy mô của sản xuất. Nếu coi doanh nghiệp như những cơ thể sống thì thị trường là nơi bảo đảm các yếu tố cho sự sống đó và cũng là nơi thực hiện sự trao đổi chất để cho sự sống tồn tại và phát triển. Trên ý nghĩa đó, thị trường chính là điều kiện và là môi trường cho hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp.
Thị trường là nơi kiểm tra cuối cùng chủng loại các hàng hoá, số lượng hàng hoá cũng như chất lượng sản phẩm. Thị trường kiểm nghiệm tính phù hợp của sản xuất và là động lực của sản xuất kinh doanh. Thông qua thị trường, hoạt độgn kinh doanh của các doanh nghiệp ngày càng năng động hơn, sáng tạo hơn, hiệu quả của sản xuất kinh doanh ngày càng tốt hơn. Thị trường còn là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân cá biệt thành lao động xã hội.
Vai trò của ngân hàng trong việc phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Ngân hàng là một trong những chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế thị trường đó là kinh doanh trên lĩnh vực thị trường vốn tiền tệ. Vì vậy phải kinh doanh có hiệu quả kinh tế phải đảm bảo lãi xuất dương nhằm thu được lợi nhuận lớn nhất.
- Tích luỹ theo chủ nghĩa xã hội.
- Cải thiện đời sống cán bộ tạo đà cho ngân hàng phát triển.
Đảm bảo việc phục vụ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường phát triển.
- Đảm bảo đủ vốn trong huy động để cho vay phát triển kinh tế đối với mọi thành phần kinh tế.
- Tham gia quản lý vĩ mô để cùng với các thành viên trong nhà nước định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế.
Ngân hàng phải chuyển đổi cơ chế hoạt động phù hợp với nền kinh tế thị trường, cụ thể phải đổi mới trên ba mặt theo cơ chế hoạt động của ngân hàng như:
- Đổi mới tổ chức cán bộ.
- Đổi mới chính sách tiền tệ
- Đổi mới công tác điều hành và lề lối làm việc
Cơ cấu thị trường?
Sự vận động của giá cả thị trường cũng có tác động tới quan hệ cung cầu hàng hoá. Nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó giảm xuống, nó sẽ kích thích mức cầu, làm cho mức cầu của thị trường về loại hàng hoá này tăng lên. Đồng thời giá cả giảm xuống lại hạn chế mức cung làm cho mức cung giảm xuống. Ngược lại nếu giá cả của một loại hàng hoá nào đó tăng lên, nó sẽ kích thích mức cung làm cho mức cung tăng lên, đồng thời hạn chế mức cầu làm cho mức cầu giảm xuống. Như vậy có thể nhận biết được quan hệ cung cầu qua giá cả thị trường. Quan hệ cung cầu hàng hoá trên thị trường là biểu hiện của quan hệ giữa những người bán và những người mua cũng như quan hệ giữa những người sản xuất và những người tiêu dùng. Trên thị trường, người bán hàng hoá của mình với giá cao, người mua lại luôn luôn muốn mua hàng hoá với giá thấp. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả thị trường là kết qảu của sự thoả thuận giữa người mua với người bán. Giá cả thị trường điều hòa được quan hệ giữa người mua với người bán.
Thông qua sự biến động của giá cả thị trường, quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì giới tự nhiên ghê sợ chân không”.
Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta đã được hình thành và đang phát triển, vì vậy thị trường ở nước ta cũng được hình thành và phát triển. Xem xét một cách khái quát về thị trường ở nước ta trong những năm vừa qua thì thấy thị trường ở nước ta còn lại là thị trường ở trình độ thấp. Tính chất của nó còn hoang sơ. Dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn. Chúng ta mới từng bước có thị trường hàng hoá nói chung, trước hết thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường. Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ. Trong khu vực kinh tế Nhà nước về cơ bản còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế. Chúng ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường tiền vốn, hoặc chỉ mới có thị trường này ở khu vực ngoài quốc doanh với quan hệ vay, trả, mua, bán còn thô sơ. Khu vực kinh tế Nhà nước vẫn sử dụng lãi suất và tử giá và quan hệ tài chính tiền tệ do Nhà nước quy định. Chưa có lãi suất, tỉ giá và tín dụng thực sự theo cơ chế thị trường.
Thực trạng trên đây của thị trường nước ta là hậu quả của nhiều nguyên nhân khác nhau. Về mặt khách quan đó là do trình độ phát triển của phân công lao động xã hội còn thấp. Nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc. Về mặt chủ quan là do những nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do.
Theo đó tín dụng có nhiều khía cạnh mà ta phải nghiên cứu ở đây ta đi sâu vào tìm hiểu bản chất chức năng, hình thức của tín dụng của XHCN ở Việt Nam
Tín dụng là gì ?
Tín dụng là một phạm trù kinh tế gắn liền với kinh tế hàng hoá. Sự ra đời và tồn tại của nó bắt nguồn từ đặc điểm của chu chuyển vốn tiền tệ và sự cần thiết sinh lợi đối với vốn tiền tệ tạm thời để rồi và nhu cầu vốn nhưng chưa tích luỹ kịp dẫn đến sự hình thành quan hệ cung cầu tiền tệ giữa người đi vay và người cho vay, do đó tín dụng xuất hiện, tồn tại như là một sự cần thiết khách quan trong nền kinh tế.
Tín dụng là hình thức vận động vốn tiền tệ giữa người đi vay và người cho vay.
Quan hệ tín dụng khác với quan hệ ngân sách Nhà nước ở chỗ: nó là quan hệ tiền tệ có hàn lại cả vốn và có kèm theo lợi tức. Lợi tức là giá cả của vốn cho vay. Với tư cách là giá cả, mức (tỷ suất) lợi tức lên xuống phụ thuộc quan hệ cung cầu tiền tệ đi vay và cho vay (trừ một số ngành đặc biệt được Nhà nước áp dụng mức lãi suất đặc biệt). Thông thường mức lợi tức cho vay phải cao hơn mức lợi tức tiêu gửi, và thường lớn hơn hoặc bằng mức lạm phát.
* Quan hệ tín dụng tồn tại dưới những hình thức sau:
- Tín dụng nhà nước: thực chất là quan hệ Nhà nước vay tiền của nhân dân trong thời gian nhất định.
- Tín dụng ngân hàng: quan hệ về vốn giữa người đi vay với ngân hàng. Đây là hình thức tín dụng cơ bản và phổ biến dưới chủ nghĩa xã hội và ở nước ta.
- Tín dụng thương mại: thực chất là sự mua bán chịu lẫn nhau. Hình thức này tồn tại trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nó không phải là hình thức đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Mặt trái của hình thức này nếu không quản lý tốt và luật pháp không nghiêm dễ phát sinh sự vỡ nợ có tính dây truyền làm đình đốn sản xuất kinh doanh.
* Tín dụng có hai chức năng cơ bản:
- Huy động để tập trung nguồn vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng và phân phối lại (cho vay) vốn đó cho các nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh.
- Thông qua việc cho vay vốn mà kiểm tra bằng đồng tiền các hoạt động kinh tế của các xí nghiệp và các tổ chức kinh tế khác.
Hai chức năng này có mối quan hệ biện chứng với nhau và có tác dụng to lớn.
Trong nền kinh tế hàng hoá phát triển, hầu hết hoạt động tín dụng đều do ngân hàng thương mại tiến hành, do vậy hai chức năng của tín dụng nói chung trên mức độ lớn cũng là hai chức năng của tín dụng ngân hàng.
· Lưu thông tiền tệ và ngân hàng trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Ở nước ta do kinh tế hàng hoá tồn tại, nên tiền tệ tồn tại là một tất yếu. Tiền tệ, một phạm trù kinh tế vốn có của kinh tế hàng hoá, với tư cách là cái chung, nó vẫn là một hàng hoá đặc biệt, là vật ngang giá chung để đo lường giá trị của hàng hoá. Nó vẫn thông qua các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện tích luỹ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới, để biểu hiện bản chất chung của tiền tệ. Tiền tệ là một công cụ quan trọng trong nền kinh tế cần được nhà nước sử dụng theo hướng có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội. Hơn nữa, ở mỗi loại nước khác nhau có đồng tiền khác nhau. Đồng tiền nước ta không có hàm lượng vàng bảo đảm như đồng đô la Mỹ, đồng Rúp chuyển đổi (trước đây). Do vậy, tiền tệ xét về tính chất và chức năng biểu hiện của nó có khác nhau. Sự khác nhau này do tính chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và đặc điểm đồng tiền ở nước ta quyết định.
Trong nền kinh tế hàng hoá, sự vận động của hàng hoá liên tục tiếp diễn thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới, do vậy tiền tệ cũng liên tục vận động, phục vụ cho lưu thông hàng hoá làm tiền đề làm cơ sở gọi là lưu thông tiền tệ. Lực lượng chi phối lưu thông tiền tệ là quy luật lưu thông tiền tệ – quy luật xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong mối quan hệ tác động của các nhân tố: khối lượng hàng hoá đem lưu thông, mức giá cả, vòng quanh trung bình của tiền tệ.... quy luật chung này, cùng với những lý thuyết mới về tiền tệ được nhà nước ta chủ động tự giác vận dụng có hiệu quả bước đầu quan trọng, đối với việc giảm mức lạm phát ở nước ta vừa qua.
Việc phát hành tiền tệ, dự trữ vàng, bạc, ngoại tệ mạnh, quản lý và điều hoà lưu thông tiền tệ được tập trung vào một cơ quan duy nhất là ngân hàng Nhà nước.
Hầu hết hoạt động tín dụng trong nền kinh tế đều do hệ thống ngân hàng thương mại đảm nhiệm (kể cả các quỹ tiết kiệm).
Tín dụng trong thời kỳ quá độ lên CNXH
Ở nước ta do kinh tế hàng hoá tồn tại, nên tiền tệ tồn tại là một tất yếu. Tiền tệ, một phạm trù kinh tế vốn có của kinh tế hàng hoá, với tư cách là cái chung, nó vẫn là một hàng hoá đặc biệt, là vật ngang giá chung để đo lường giá trị của hàng hoá. Nó vẫn thông qua các chức năng: thước đo giá trị, phương tiện lưu thông, phương tiện tích luỹ, phương tiện thanh toán và tiền tệ thế giới, để biểu hiện bản chất chung của tiền tệ. Tiền tệ là một công cụ quan trọng trong nền kinh tế cần được nhà nước sử dụng theo hướng có lợi cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội. Hơn nữa, ở mỗi loại nước khác nhau có đồng tiền khác nhau. Đồng tiền nước ta không có hàm lượng vàng bảo đảm như đồng đô la Mỹ, đồng Rúp chuyển đổi (trước đây). Do vậy, tiền tệ xét về tính chất và chức năng biểu hiện của nó có khác nhau. Sự khác nhau này do tính chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa và đặc điểm đồng tiền ở nước ta quyết định.
Trong nền kinh tế hàng hoá, sự vận động của hàng hoá liên tục tiếp diễn thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới, do vậy tiền tệ cũng liên tục vận động, phục vụ cho lưu thông hàng hoá làm tiền đề làm cơ sở gọi là lưu thông tiền tệ. Lực lượng chi phối lưu thông tiền tệ là quy luật lưu thông tiền tệ – quy luật xác định lượng tiền cần thiết cho lưu thông trong mối quan hệ tác động của các nhân tố: khối lượng hàng hoá đem lưu thông, mức giá cả, vòng quanh trung bình của tiền tệ.... quy luật chung này, cùng với những lý thuyết mới về tiền tệ được nhà nước ta chủ động tự giác vận dụng có hiệu quả bước đầu quan trọng, đối với việc giảm mức lạm phát ở nước ta vừa qua.
Việc phát hành tiền tệ, dự trữ vàng, bạc, ngoại tệ mạnh, quản lý và điều hoà lưu thông tiền tệ được tập trung vào một cơ quan duy nhất là ngân hàng Nhà nước.
Hầu hết hoạt động tín dụng trong nền kinh tế đều do hệ thống ngân hàng thương mại đảm nhiệm (kể cả các quỹ tiết kiệm).
Tín dụng ngân hàng có tác dụng rất quan trọng đổi mới nền kinh tế.
- Có thể tập trung từ các nguồn vốn rất phân tán, từ số vốn nhỏ thành vốn lớn hình thành nguồn tích luỹ vốn cho xã hội, đáp ứng nhu cầu vốn, qua đó thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội ngày một mở rộng và hiện đại.
- Góp phần hình thành thị trường tiền tệ, thị trường vốn. Thông qua việc tham gia vào hoạt động của sở giao dịch để hình thành thị trường chứng khoán, thúc đẩy quá trình chuyển nước ta sang kinh tế hàng hoá.
- Cùng với các tổ chức tín dụng khác, tín dụng ngân hàng đã tạo điều kiện thuận lợi đối với nông – lâm – ngư nghiệp, góp phần xoá bỏ hình thức cho vay nặng lãi, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế – xã hội đối với khu vực này trong thập kỷ 90 ở nước ta.
- Phấn đấu để có nền tài chính, tiền tệ và lưu thông tiền tệ ổn định và lành mạnh là yêu cầu, là tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước.
Tín dụng có tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế thể hiện ở chỗ:
- Góp phần biến các xí nghiệp từ đơn vị kinh tế bao cấp, thực sự trở thành đơn vị kinh tế hàng hoá thích ứng với cơ chế thị trường.
- Nó cho phép kết hợp sự lãnh đạo theo định hướng kế hoạch của Nhà nước với việc phát huy tính tự chủ của xí nghiệp.
- Góp phần kết hợp hài hoà lợi ích kinh tế giữa nhà nước, xí nghiệp và người lao động, phát huy có hiệu quả động lực lợi ích kinh tế.
- Hạch toán kinh tế chịu sự chi phối bởi yêu cầu của các quy luật kinh tế, mục tiêu và nguyên tắc quản lý kinh tế. Đến lượt nó, hạch toán kinh tế tốt có tác dụng tạo ra những điều kiện để thực hiện tốt có tác dụng tạo ra những điều kiện để thực hiện tốt các yêu cầu của các quy luật kinh tế, mục tiêu và nguyên tắc quản lý nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tín dụng trong kinh tế quốc dân: Nền kinh tồn tại nhiều thành phần kinh tế, tương ứng với mỗi thành phần kinh tế có một quan hệ phân phối nhất định. Nếu thành phần kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể phân phối theo nguyên tắc, phân phối theo lao động, thì các thành phần kinh tế khác, có quan hệ phân phối không giống nhau. Đối với lao động sống, trong các thành phần kinh tế này, phân phối theo nguyên tắc, hay quy luật giá trị sức lao động. Điều này được hình thành rõ nét đối với các xí nghiệp của các thành phần kinh tế nào dựa trên quan hệ chủ thợ; và sẽ không rõ nét ở thành phần kinh tế cá thể, thì công và lãi đều thuộc về họ. Còn lao động quá khứ biểu hiện ở giá trị tài sản hay vốn có tác dụng tham gia tạo ra lợi nhuận mạc dù không trực tiếp, do vậy nó phải được tham gia phân phối lợi nhuận. ở nước ta đã và đang xuất hiện các hình thức công ty cổ phần, mà các cổ đông đang tồn tại ở các dạng khác nhau: cổ phần Nhà nước, cổ đông là của tập thể xí nghiệp, hoặc tư nhân, cá thể, hoặc có cổ đông là cán bộ công nhân, viên chức nhà nước.... ngoài ra một bộ phận vốn đáng kể được huy động dưới hình thức tiền gửi tiết kiệm, công trái, trái khoán .... mà thực chất là vốn cho vay.
Có thể nói trong thời kỳ quá độ, vốn có thể tồn tại ở nhiều hình thức nhưng chủ yếu có các hình thức vốn sau:
- Vốn tự có của các chủ xí nghiệp độc lập.
- Vốn cổ phần của các cổ đông trong các công ty cổ phần và của xã viên trong các hợp tác xã bậc thấp.
- Vốn cho vay.
Các loại vốn trên giả định được luật pháp thừa nhận quyền sở hữu và bất khả xâm phạm.
Trong điều kiện đó việc phân phối theo tài sản hay theo vốn trở thành một nguyên tắc tồn tại là một tất yếu khách quan. Việc thừa nhận nguyên tắc này trong quan hệ phân phối có tác dụng: khai thác tối đa mọi tiềm năng về vốn trong các thành phần kinh tế và trong các tầng lớp dân cư, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh, nhât là trong điều kiện vốn ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp. Nó cũng góp phần hình thành thị trường tiền tệ, thị trường chứng khoán, một trong những điều kiện rất cần thiết cho sự phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế là một tất yếu khách quan.
Trong thời đại ngày nay, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đã và đang là một trong những vấn đề thời sự đối với hầu hết các nước.
Tính khách quan và phổ biến của nó bắt nguồn từ yêu cầu của quy luật về sự phân công và hợp tác quốc tế giữa các nước, từ sự phân bố tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển không đều về trình độ công nghiệp giữa nước này với nước khác, dẫn đến yêu cầu việc sử dụng sao cho có hiệu quả về lợi thế so sánh để nhanh chóng rút ngắn khoảng cách lạc hậu giữa các nước có nền kinh tế phát triển và kém phát triển. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại còn bắt nguồn từ sản xuất và đời sống ngày nay đã mang tính quốc tế hoá. Đặc biệt sự tác động rất mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ làm cho lực lượng sản xuất vượt khỏi khuôn khổ quốc gia để trở thành quốc tế, thông qua các công cụ thông tin hiện đại những thành tựu khoa học và chuyển giao công nghệ với tốc độ nhanh giữa các nước.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại phải nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế – xã hội.
Trong cộng đồng quốc tế, nếu đứng về trình độ kinh tế kỹ thuật mà xét, giữa các quốc gai có điểm xuất phát và trình độ phát triển không đều nhau. Có thể phân thành hai loại: nước có nền kinh tế phát triển và nước có nền kinh tế đang phát triển hay kém phát triển.
Ở những nước có nền kinh tế đang hay kém phát triển, nhiều vấn đề gay cấn đặt ra, trong đó mắt xích của cái vòng luẩn quẩn là trình độ kỹ thuật lạc hậu do thiếu vốn.
Vì vậy đối với các nước này, việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải nhằm đưa đất nước nhanh chóng thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu đạt tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế – xã hội cao, sao cho thu nhập quốc dân tính thoe đầu người vượt qua mức của loại nước nghèo trên thế giới, từ đó, tạo đà cho sự phát triển ở giai đoạn sau.
Cần ý thức rằng, sự phân tích trên của việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế đối với các loại nước này không chỉ là mục đích, mà còn là một nguyên tắc cơ bản cần được coi trọng, khi tiến hành mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia trong cộng đồng quốc tế.
Bốn nguyên tắc nói trên có liên quan mật thiết với nhau, đều có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng. Xã rời những nguyên tắc đó sẽ không thực hiện được hoặc làm hạn chế tốc độ và hiệu quả của việc mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế của mỗi quốc gia. Đặc điểm nổi bật hiện nay là mở rộng quan hệ kinh tế không tách rời đấu tranh chính trị.
Các hình thức quan hệ kinh tế đối ngoại:
Người ta chỉ xuất những sản phẩm vốn là thế mạnh của học và thế yếu của quốc tế; ngược lại người ta chỉ nhập những sản phẩm vốn là thế yếu của mình và thế mạnh của quốc tế. Trong cả hai trường hợp xuất nhập đều đem lại lợi nhuận. Thực chất của lợi nhuận này là nhờ biết lợi dụng sự chênh lệch giữa năng suất lao động dân tộc với năng suất lao động quốc tế.
Người ta bán (xuất khẩu) những thứ mà thị trường thế giới cần, chứ không phải bán những thứ mà mình có.
Hợp tác đầu tư với nước ngoài. Nói đầu tư quốc tế là nói cả hai phía: phía quốc gia này nhận vốn đầu tư nước ngoài vào và phía nước đó đưa vốn của mình ra nước ngoài để sản xuất kinh doanh. Hình thức này thường có 2 loại:
- Đầu tư gián tiếp là việc nhận vốn tín dụng của nước ngoài để tự sản xuất kinh doanh. Vốn tín dụng này được trả bằng tiền cả gốc lẫn lợi tức dưới hình thức tiền tệ hay dưới hình thức hàng hoá.
- Đầu tư trực tiếp là việc các tổ chức, cá nhân của một nước đưa vốn vào một nước khác để tự mình sản xuất kinh doanh, hoặc góp vốn với các tổ chức, cá nhân nước đó cùng nhau sản xuất kinh doanh.
Sự hợp tác tín dụng quốc tế:
Trong nền kinh tế thị trường, sự hợp tác về mua bán, đầu tư sản xuất, hợp tác khoa học – công nghệ đi song song với sự hợp tác về vốn tín dụng giữa các nước.
Nó được thực hiện thông qua thị trường tiền tệ thế giới, do các ngân hàng thế giới và ngân hàng khu vực tiến hành là chủ yếu. Ngoài ra, có thể hợp tác tín dụng trực tiếp giữa hai quốc gia với nhau.
Những hình thức kinh tế đối ngoại khác chẳng hạn du lịch quốc tế, hợp tác lao động giữa các nước, các dịch vụ đối ngoại khác như: dịch vụ thu ngoại tệ, hàng không dân dụng, kiều hối...
Trên đây là một số hình thức chủ yếu trong đời sống thế giới còn những hình thức phong phú hơn nhiều. Hơn nữa dưới tác động của khoa học – công nghệ, nhiều quan hệ kinh tế – xã hội mới nảy sinh, đòi hỏi phải luôn tìm ra những hình thức mới để mở rộng và phát triển hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại trong tương lai.
Ở nước ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại trong thời gian qua đã đem lại những thành tựu bước đầu. Song so với các nước chung quanh, nhìn chung hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta còn yếu kém cả về số lượng và chất lượng.
Vì khả năng và triển vọng kinh tế đối ngoại nước ta tương đối phong phú, song chưa được khai thác. Chẳng hạn: Con người Việt Nam có lòng khao khát vươn lên, thông minh và có trình độ học vấn cao (60 vạn người có trình độ đại học và trên đại học...). Điều kiện tự nhiên khá ưu đãi, nước ta có biển, rừng, có nhiều vùng khí hậu, có nhiều loại khoáng sản. Nước ta có vị trí thuận lợi cho trao đổi buôn bán; là cửa ngõ bán đảo Đông Dương; ở về phía Nam Trung Quốc – một thị trường rộng lớn; nằm trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, một khu vực năng động và nhiều triển vọng, nếu biết khai thác; luật đầu tư của nước ta có sự hấp dẫn.....
Để mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, nước ta cần giải quyết nhiều vấn đề, song trước hết cần tập trung vào những vấ đề mấu chốt sau đây:
- Đảm bảo ổn định về chính trị, xã hội, kinh tế. Có như vậy mới bảo tồn được vốn, có lợi nhuận ổn định cho người đầu tư nước ngoài.
- Có hệ thống pháp luật đồng bộ, phù hợp luật pháp và thông lệ quốc tế. Điều đó tạo ra môi trường thuận lợi cho việc thực hiện các quan hệ kinh tế quốc tế, các hợp đồng đối với người nước ngoài, làm cho họ yên tâm đầu tư kinh doanh, đồng thời cũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ lợi ích đất nước.
Những điều kiện đó đã và đang là yêu cầu của người nước ngoài khi họ muốn đến với ta. Những điều kiện đó đã được các nước công nghiệp mới (NIC) áp dụng thành công, nó cần được coi trọng trong quá trình vận dụng ở nước ta.
Vấn đề thu hút vốn đầu tư
Thu hút vốn đầu tư cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá là điều kiện vô cùng quan trọng là chiếc chìa khoá nó có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình này đối với mọi quốc gia. Nguồn vốn có tính quyết định là vốn từ trong nước. Các quốc gia đều có các chính sách, biện pháp thích hợp để huy động nguồn vốn trong nước – nguồn vốn nội sinh, nội động lực của nền kinh tế.
Tuy nhiên, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế. Vốn nước ngoài gồm có vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn đầu tư gián tiếp (vay, viện trợ); trong đó FDI là rất quan trọng, vì thực tế đi cùng với FDI là kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý và khả năng mở rộng không gian thị trường.... Những yếu tố này là lực lương đột phá những bế tắc, cản trở để mở ra hướng đi lên của nền kinh tế chậm phát triển, góp phần khởi động cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Kinh nghiệm của nhiều nước trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho thấy để thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài cần phải tạo ra được môi trường đầu tư có lợi.
Bảo đảm có lợi nhuận cao, đây là nhu cầu cơ bản nhất, là mục đích chủ yếu của người đứng đầu tư: Vấn đề này liên quan trực tiếp đến luật đầu tư có đủ sức hấp dẫn đế mức độ nào, đến triển vọng của nền kinh tế, đến dung lượng thị trường, đến giá cả lao động cao hay thấp v.v....
Xét về mặt này thì Việt Nam còn có nhiều khả năng để thu hút FDI, vì Việt Nam có nền kinh tế đang phát triển lại nằm ở vùng kinh tế năng động nhất thế giới. Sức lao động rẻ có khả năng sử dụng các kỹ thuật mới; luật đầu tư được sửa đổi tạo ra sự hấp dẫn v.v...
Đảm bảo an toàn đầu tư, đó chính là sự ổn định chính trị và kinh tế, không có sự biến động lớn về chính trị; kinh tế phát triển ổn định, ít hoặc không lạm phát. Singapore năm 1990 được xác định là nơi không có “nguy hiểm đầu tư”. Đó là điều kiện quan trọng để các nhà đầu tư mạnh dạn đầu tư vào quốc gia này.
Các điều kiện cần thiết cho đầu tư thuận lợi như kết cấu hạ tầng tương đối phát triển, pháp chế được kiện toàn, có lượng vốn trong nước ở một trình độ nhất định, có các năng lực nội tại đủ để tiếp nhận các công nghệ phù hợp của các dự án FDI.
Hoàn thiện và tăng cường vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ nhằm tạo nguồn vốn và thực hiện việc đầu tư vốn theo mục tiêu phát triển, phân phối lại thu nhập quốc dân tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển sản xuất hàng hoá phù hợp với cơ cấu thị trường.
Bồi dưỡng và đào tạo cán bộ quản lý kinh doanh theo yêu cầu của kinh tế thị trường. Giải pháp này có liên quan đến nhân tố con người - động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội. Chúng ta đã kết hợp giữa việc mở rộng quy mô đào tạo nhân tài. Việc đào tạo những cán bộ quản lý kinh doanh không chỉ chú ý đáp ứng nhu cầu của khu vực kinh tế Nhà nước, mà còn phải quan tâm tới khu vực ngoài quốc doanh cũng như kinh tế nông thôn và miền núi.
Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước nhằm phát huy những ưu thế và khắc phục những khuyết tậ o viet nam hien nay do la tht của cơ chế thị trường.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các vấn đề liên quan đến chuyển nhượng quyền sử dụng đất.doc