Mở rộng thành phần kinh tế: điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phát hành và các công cụ nợ: Luật doanh nghiệp thể hiện quan điểm hiện đại “được làm những điều mà pháp luật không cấm”, thay cho lối hành xử cũ “chỉ được làm những gì pháp luật không cho phép”, đã góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế.
Thị trường vốn, tiền tệ đang dần hình thành và phát triển: Trong nhiều năm đổi mới nền kinh tế cùng với việc đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng, với sự ra đời của nhiều loại hình tổ chức tín dụng khác nhau thì đồng thời cũng xuất hiện nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng và các tổ chức khác cũng tham gia hoạt động ngân hàng.
Thị trường chứng khoán Việt nam đi vào hoạt động từ tháng 7- 2000: sự kiện này được ghi nhận là bước phát triển quan trọng trong quá trình đổi mới nền kinh tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước : Một thuận lợi đối với việc thành lập các tổ chức xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam đó là khả năng của Việt Nam trong việc tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước đặc biệt là các quốc gia có thị trường chứng khoán mới nổi. Qua những nghiên cứu đó, chúng ta có thể học tập những thành công và rút ra những bài học kinh nghiệm đối với những thất bại trong mô hình xếp mức tín nhiệm của các nước.
2.2.2. Khó khăn:
66 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2720 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cách nhìn tổng quát nhất về ngân hàng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Việt Nam sắp gia nhập WTO. Theo ông Phạm Thế Hải, Giám đốc Trung tâm Vietnamnet Center- CRVC, đây chính là nơi “bắt mạch thăm bệnh” cho các doanh nghiệp để đưa ra những chỉ số đánh giá về mức độ tín nhiệm của họ. Để giúp doanh nghiệp biết họ là ai, được tín nhiệm như thế nào, đồng thời, nắm bắt những thông tin cần thiết về đối tác của mình. Ngày 22/6, tại Hà Nội, một cuộc hội thảo đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp- nhu cầu thiết yếu tại Việt Nam được tổ chức. Hội thảo đã tập trung rất nhiều ý kiến đưa ra những lợi ích của doanh nghiệp khi tham gia vào dịch vụ đánh giá tín nhiệm.
Tại Việt Nam, khái niệm đánh giá tín nhiệm còn rất mới mẻ đối với các doanh nghiệp. Theo TS Nguyễn Công Nghiệp, Thứ trưởng Bộ Tài chính thì dịch vụ đánh giá tín nhiệm sẽ gặp không ít khó khăn do vấn đề lịch sử tác động. Nhân đây, Bộ Tài chính đang soạn thảo khung pháp lý để tạo điều kiện cho loại hình dịch vụ này phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế. Đánh giá tín nhiệm, hay xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là việc đánh giá khả năng đáp ứng các nghĩa vụ nợ của một công ty; hoặc đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau. Các loại đầu tư này có thể dưới dạng các công cụ cho vay như: Vay và gửi tiền tại ngân hàng, hoặc có thể dưới dạng chứng khoán như là trái phiếu, cổ phiếu, giấy nhận nợ... Với “định nghĩa” đánh giá tín nhiệm như vậy thì việc đánh giá này là cần thiết, vì công ty sử dụng vốn kinh doanh từ nhiều nguồn khác nhau, từ các nhà đầu tư, từ ngân hàng hay từ nguồn vốn của các nhà cung cấp. Trên thực tế, khi tham gia đánh giá tín nhiệm, doanh nghiệp sẽ nhận được những thông tin đánh giá độc lập, khách quan về tình hình tài chính, khả năng thanh toán. Mặt khác, doanh nghiệp còn nhận được dịch vụ tư vấn tài chính, quản lý, quan hệ công chúng (PR)... Họ sẽ được cấp chứng chỉ xác nhận về mức độ tín nhiệm và cuối năm có thể tham gia buổi tổng kết xếp hạng. Những doanh nghiệp nào có vị trí xếp hạng cao sẽ được tôn vinh và điều này sẽ góp phần rất lớn trong việc quảng bá và phát triển thương hiệu của doanh nghiệp. Hơn nữa, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, các đối tác nước ngoài trước khi vào Việt Nam đầu tư, liên doanh liên kết, họ hầu hết phải thông qua một tổ chức nào đó để xác định độ tin cậy của đối tác trong nước mình sẽ hợp tác. Tuy nhiên, các doanh nghiệp phải có trách nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác những tài liệu, thông tin về tình hình tài chính và phi tài chính trong phạm vi của mình theo yêu cầu của tổ chức đánh giá. Ngoài ra còn phải tạo điều kiện cho cán bộ đánh giá trong quá trình kiểm tra, thẩm định lại thông tin một cách chính xác.
Tiến sĩ Đoàn Duy Khương- Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam (VCCI) cho biết: Chúng ta đang nỗ lực xây dựng một nền kinh tế thị trường, trong đó, sự minh bạch là điều kiện thiết yếu để chủ động hội nhập và phát triển. Thị trường chứng khoán là một kênh huy động vốn quan trọng, nhưng hiện vẫn phát triển một cách chậm chạp, mà một trong những nguyên nhân là chưa có một tổ chức đánh giá tín nhiệm. Trong một nền kinh tế đầy biến động như hiện nay, cạnh tranh ngày càng khốc liệt thì các doanh nghiệp phải thực sự biết mình là ai, đứng ở vị trí nào và phải thực sự hiểu về đối tượng cạnh tranh: “biết người biết ta, trăm trận trăm thắng”. Tổ chức đánh giá tín nhiệm ra đời một mặt sẽ là cầu nối thông tin giữa các doanh nghiệp, các nhà đầu tư không chỉ trên thị trường chứng khoán mà còn trong việc lựa chọn đối tác. Mặt khác, với kết quả xếp hạng một cách khách quan, doanh nghiệp sẽ có thêm thông tin để tự điều chỉnh chiến lược kinh doanh, cải tiến quy trình quản lý.
Với nhận xét của TS Chu Tiến Quang - viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương thì có thể coi loại hình dịch vụ mới này như một “món ăn mới” của thị trường. Cần để cho các DN hiểu và tiếp cận với “món ăn mới” này một cách dễ dàng, đó cũng là một phần của sự thành công. Bằng các biện pháp giải thích cho DN hiểu hoạt động này khác với các hoạt động khác như ISO, kiểm toán ở chỗ: đây như một hoạt động “khám bệnh” cho DN để giúp họ có những liều thuốc thích hợp chứ không phải kiểm toán để đánh thuế... Cũng cần lưu ý một đối tượng đánh giá quan trọng đó là thời gian tồn tại và phát triển của DN.
Người ta có thể nhầm lẫn chức năng của loại hình dịch vụ mới này với một số tổ chức khác như: Tư vấn tài chính, dịch vụ thông tin, các công ty kiểm toán... Giải thích điều này, ông Khương cho biết: Những tổ chức trên chỉ đánh giá các DN chủ yếu trên góc độ tài chính. Nhưng để đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp thì ngoài các chỉ tiêu tài chính còn có các chỉ tiêu phi tài chính rất quan trọng như tình hình cạnh tranh, triển vọng phát triển của sản phẩm, xu hướng thị trường, ý kiến và phản ứng của người tiêu dùng về các sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp... Kết quả xếp hạng sẽ là sự kết hợp kết quả phân tích các chỉ tiêu tài chính, các chỉ tiêu phi tài chính có tính khác biệt về ngành và quy mô.
Như vậy, một tổ chức đánh giá tín nhiệm DN cần thiết phải có một đội ngũ chuyên gia thực sự giỏi, cùng với một quy trình đánh giá khoa học, khách quan, chính xác và phù hợp với điều kiện nền kinh tế Việt Nam. Điều kiện quan trọng nhất đó là tổ chức muốn đánh giá DN và muốn khẳng định mình thì trước hết phải tạo dựng được uy thế và uy tín trong cộng đồng doanh nghiệp.
Xếp hạng và giải thưởng dành cho các DN là một điều cần thiết và là nhu cầu thực tế của xã hội. Gần đây, khi quá trình cổ phần hóa diễn ra mạnh mẽ, đồng thời thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam tăng trưởng mạnh, một nhu cầu mới đang đặt ra với các nhà đầu tư là cần một thước đo cho DN để họ có thể tham khảo trước khi đầu tư. Nhưng để có được một tổ chức xếp hạng tín nhiệm các DN Việt Nam thật sự khoa học, khách quan, độc lập và uy tín nhất thì cũng là vấn đề khó khăn.
Thực trạng ngành xếp hạng tín nhiệm ở Việt NamHiện nay ở Việt Nam cũng có một số công ty xếp hạng tín nhiệm DN như: Công ty Xếp hạng tín nhiệm DN Việt Nam (CRV), Công ty Thông tin tín nhiệm và xếp hạng DN (C&R), Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc Ngân hàng Nhà nước, Công ty Cổ phần báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report)… Nhưng các công ty này trong thời gian qua chưa đưa ra công bố một bản danh sách xếp hạng đúng với khái niệm của xếp hạng tín nhiệm DN. Mới đây, Vietnam Report kết hợp với báo điện tử VietNamNet đã công bố bảng xếp hạng top 500 DN lớn nhất Việt Nam về doanh thu (VNR500) theo mô hình của Fortune 500. Đơn vị tổ chức mong muốn sẽ duy trì một bảng xếp hạng DN có uy tín của Việt Nam theo chuẩn mực quốc tế. Hàng năm, thông qua số liệu điều tra về DN trên toàn quốc của Tổng cục Thống kê như: tổng tài sản, doanh thu, lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng, số lao động… kết hợp với điều tra của Vietnam Report và số liệu cung cấp từ các DN, các DN Việt Nam sẽ được đánh giá, xếp hạng thông qua các tiêu chí được công bố công khai, đảm bảo tính khoa học, khách quan và độc lập. Gần đây, Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) có đưa ra danh sách xếp hạng top 200 DN Việt Nam. Các chuyên gia UNDP đã công bố một bản báo cáo chi tiết nêu rõ quá trình điều tra xây dựng cơ sở dữ liệu đánh giá top 200 DN hàng đầu của Việt Nam cũng như các câu chuyện đằng sau cuộc nghiên cứu. Mục tiêu của bản báo cáo nhằm tìm hiểu xem DN và các tập đoàn của Việt Nam đang thích ứng ra sao với môi trường kinh doanh đang biến đổi, đồng thời xác định được họ đến từ đâu, chiến lược tăng trưởng của họ là gì và những hạn chế họ gặp phải. Có thể nói, báo cáo của UNDP là một cuộc điều tra nghiên cứu DN đầu tiên để đưa ra danh sách xếp hạng 200 DN hàng đầu tại Việt Nam. Các chuyên gia của UNDP đã kết hợp 3 chỉ tiêu doanh số, tài sản và số lao động để đánh giá giống như mô hình của Forbes. Ngoài ra, UNDP còn tiến hành đồng thời điều tra phỏng vấn trực tiếp các DN thuộc phạm vi nghiên cứu để đưa ra bức tranh tổng thể về thứ hạng 200 DN hàng đầu Việt Nam...CIC vừa qua cũng đưa ra thông tin sẽ công bố thông tin xếp hạng các DN đang niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán và sẽ công bố vào cuối năm 2007. Theo ông Đào Quang Thông, Phó Giám đốc CIC, Ngân hàng Nhà nước đã cho phép CIC cung cấp bản báo cáo phân tích, xếp hạng tín dụng DN. Đối tượng được nhận các bản báo cáo xếp hạng tín dụng DN là các đơn vị thuộc Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, không cung cấp cho các đối tượng khác. Và mới đây nhất, CIC đã được chính thức thực hiện nghiệp vụ phân tích, xếp hạng DN. Ngoài ra, theo ông Nguyễn Văn Chiến, Phó Tổng giám đốc CRV, trong giai đoạn đầu, CRV sẽ xếp hạng tín nhiệm DN của các công ty đang được niêm yết trên TTCK Hà nội và TP.HCM. Ở giai đoạn tiếp theo, chúng tôi sẽ tiến hành xếp hạng những công ty lớn, những công ty đang được giao dịch trên thị trường OTC. Dự kiến kết quả xếp hạng DN trên TTCK sẽ được công bố vào đầu năm 2008.
Nhìn ra các nướcNếu như trên thế giới, việc lựa chọn của nhà đầu tư khi định làm ăn với DN nào đó trở nên rất đơn giản, với việc tham khảo các mô hình đánh giá và xếp hạng sẵn có, thì ở Việt Nam, đây vẫn là câu hỏi chưa được giải đáp thấu đáo.
Tại Mỹ, với S&P 500 - chỉ số đo lường 500 mã cổ phiếu có mức vốn hóa lớn nhất của Hoa Kỳ được tính toán và công bố bởi Công ty Standard & Poors thì nhà đầu tư có thể lựa chọn được trong phạm vi hẹp đó, để đầu tư nhanh chóng, thay vì tự khảo sát điều tra một cách không chuyên nghiệp. S&P là một chỉ số đáng tin cậy luôn được các quỹ đầu tư tin dùng. S&P 500 gồm 500 công ty, trong đó 400 công ty ngành công nghiệp, 20 công ty ngành giao thông vận tải, 40 công ty ngành phục vụ, 40 công ty ngành tài chính.Hoặc Fortune 500 - Danh sách xếp hạng top 500 công ty đại chúng hàng đầu của Hoa Kỳ dựa trên tổng doanh thu do tạp chí Fortune đưa ra. Fortune 500 là danh hiệu đo lường sức mạnh của các DN dựa trên doanh thu, nên có hạn chế trong việc phản ánh thực chất của các DN cũng như tương quan thứ hạng. Bên cạnh đó, Fortune cũng có công bố các danh sách xếp hạng khác nhau dựa trên các chỉ tiêu cụ thể như: top 100 về doanh thu, top các công ty có tốc độ tăng trưởng doanh thu cao (top revenue growth), DN có số nhân công cao (big employer), công ty có tốc độ tăng trưởng lợi nhuận cao (high profit growth)…Tại Nhật Bản, công ty dịch vụ tài chính thuộc ủy ban chứng khoán; Tại Hàn Quốc, công ty giám sát tài chính (cơ quan tiền thân là Ủy ban Chứng khoán Hàn Quốc); Tại Malaysia, Ủy ban Chứng khoán Malaysia là các cơ quan chịu trách nhiệm quản lý hoạt động của các CRV. Như vậy, do xếp hạng tín nhiệm gắn liền với các khoản vay nợ, trong đó quan trọng nhất là hoạt động phát hành trái phiếu nên các nước đều giao nhiệm vụ quản lý hoạt động của các CRV cho các cơ quan hành chính quản lý hoạt động của TTCK. Và bắt buộc phải có xếp hạng tín nhiệm: Tại Nhật Bản không bắt buộc điều này, nhưng trên thực tế các công ty vẫn cần có xếp hạng tín nhiệm khi muốn huy động vốn từ các nhà đầu tư. Còn tại Hàn Quốc và Malaysia thì bắt buộc vấn đề này.
Kinh nghiệm với Việt NamVới hiện trạng hiện nay của Việt Nam, một mô hình như Forbes 500 hay Fortune 500 (tất nhiên không rập khuôn), cũng là điều nhiều nhà đầu tư đang mong mỏi. Tuy vậy, áp dụng mô hình hiện đại như vậy không phải là điều dễ dàng. Chẳng hạn, nếu theo mô hình Forbes 500 và chỉ dựa trên những chỉ tiêu hiện tại để đánh giá như: doanh thu, tài sản, tốc độ tăng trưởng, lợi nhuận và số lao động thì vẫn gặp nhiều hạn chế như: tài sản của các DN nhà nước rất khó xác định và thường không tính đủ (vấn đề về sở hữu đất đai, vấn đề cấp phát vốn của Nhà nước, vấn đề công nợ của các DN nhà nước…) hoặc sự mất cân bằng giữa lao động trong các ngành như dệt may và tài chính ngân hàng… đồng thời cả sự hạn chế về hệ thống cơ sở dữ liệu, sự không thống nhất trong mô hình quản lý hạch toán của các tổng công ty nhà nước và các đơn vị thành viên. Bên cạnh đó, nền kinh tế của Việt Nam đang trong giai đoạn chuyển đổi, do vậy sẽ gây khó khăn cho việc xác định mô hình sở hữu cũng như tổng hợp dữ liệu. Về tổng thể, vẫn có thể đưa ra bức tranh tổng quát về xếp hạng DN, tuy nhiên, kết quả đưa ra sẽ có nhiều sai lệch. Theo nhìn nhận của các chuyên gia từ CRV thì với hiện trạng cơ sở dữ liệu cũng như tình hình thực tế các DN hiện nay của Việt Nam, mô hình đánh giá của Standard & Poors, Moodys… là phù hợp nhất. Đối với ngành xếp hạng tín nhiệm DN tại Việt Nam, câu khẩu hiệu: Độc lập, khách quan, trung thực mới chỉ là điều kiện cần. Đó là lý do để CRV phải kỳ công xây dựng một quy trình đánh giá khoa học, bài bản sát thực. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ quy trình của các Tập đoàn lớn Standard & Poors, Moodys... CRV sẽ xây dựng cho mình một quy trình đánh giá phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam. Với sự tham vấn của các chuyên gia tài chính hàng đầu trong và ngoài nước, CRV liên tục chỉnh sửa để hoàn thiện không ngừng quy trình đó.Ông Nguyễn Văn Chiến nhấn mạnh, mặc dù sẽ không tránh khỏi các sai sót trong việc điều tra thu thập số liệu thống kê, tuy nhiên với mong muốn xây dựng một bức tranh tổng thể phản ánh hiện trạng sức mạnh của các DN Việt Nam, hy vọng trong thời gian tới, ngành xếp hạng Việt Nam sẽ có những bước phát triển mạnh mẽ nhằm theo kịp xu thế phát triển của thời đại.
Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp: Nỗ lực gia tăng tính minh bạch của thị trường
[11.09.2007 11:35]
Các tổ chức xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp đã và đang có những nỗ lực làm thị trường minh bạnh hơn nhằm giúp cho thị trường hoạt động tốt hơn, cũng như bảo vệ các nhà đầu tư nhỏ trước sự lạm dụng quyền lực thị trường của các ‘đại gia’ và các tổ chức lớn.
Một trong những khó khăn lớn nhất của nhà đầu tư nhỏ lẻ là khả năng tiếp cận và xử lý thông tin. Mặc dù trong một thời đại công nghệ thông tin, nhưng thị trường chứng khoán vốn rất nhạy bén với thông tin, việc tiếp cận thông tin chậm hơn dù chỉ là chút xíu hoặc xử lý thông tin không tốt cũng có thể dẫn đến thua thiệt rất nhiều. Trong những ngày đầu hoạt động của thị trường chứng khoán, những tin đồn như nhà máy nhiệt điện phả lại bị cháy một tổ máy, cán bộ lãnh đạo đang bị điều trình trước công an, việc một tổng giám đốc ôm hàng trăm tỷ đồng bỏ trốn, etc., đã khiến cho không ít người hoang mang, bán đổ cổ phiếu đến khi thông tin được xác nhận là tin đồn nhảm thì cũng khiến nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ khuynh gia bại sản. Thêm vào đó là hiện tượng làm giá, tạo cầu giả bằng nhiều thủ thuật của một số công ty đã khiến cho nhiều nhà đầu tư non trẻ, chạy theo xu hướng chung bị thua thiệt nặng nề.
Trong thời gian gần đây, rất nhiều ý kiến phản ánh tình trạng tiêu cực tại một số công ty chứng khoán, khi họ đồng thời vừa đóng vai trò tư vấn cho khách hàng lại vừa giao dịch trên thị trường dưới hình thức tự doanh. Sự hơn trội hẳn về khả năng quản lý giao dịch, thời gian, thời điểm nhập lệnh khiến cho cuộc chơi thiếu hẳn sự bình đẳng. Vấn đề bức xúc này hiện vẫn chưa có một giải pháp nào hữu hiệu. Điều này thuộc về bản chất bất đối xứng của thông tin (assymetric information) giữa một bên là những người có thông tin tốt hơn (các công ty được niêm yết, các đại gia lớn) và một bên là những người ít thông tin hơn (các nhà đầu tư nhỏ lẻ) dẫn đến sự không cân bằng giữa các lực lượng thị trường.
Xuất phát từ yêu cầu bản chất này, việc hình thành nên những công ty chuyên cung cấp các thông tin thị trường dưới những tiêu chí đơn giản, dễ tiếp cận, chính xác và độc lập là rất cấp thiết. Một trong những dạng công ty như vậy là những tổ chức xếp hạng tín nhiệm của các doanh nghiệp (credit rating).
Xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp phát sinh từ thị trường chứng khoán, và đã có lịch sử lâu đời. Thuật ngữ ‘credit rating’ lần đầu được dùng cách đây hơn 100 năm khi công ty Moodys phát hành định kỳ các chỉ số thông tin tín nhiệm của các doanh nghiệp trong ngành đường sắt của Mỹ. Hiện nay nó đang bắt đầu được sự quan tâm của giới doanh nghiệp Việt Nam gần đây. Cũng trong các yêu cầu này, các tổ chức thế giới như World Bank, Asian Development Bank cũng đề nghị Ngân hàng nhà nước Việt Nam nhanh chóng tổ chức, thành lập các tổ chức này.
Theo định nghĩa được chấp nhận rộng rãi, xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp là việc đưa ra ý kiến về khả năng của doanh nghiệp trong việc thực hiện các nghĩa vụ tài chính. Các ý kiến này tập trung vào việc đánh giá khả năng và mong muốn của doanh nghiệp trong việc thực hiện các cam kết tài chính khi chúng đến hạn. Các định mức tín nhiệm này tất nhiên không hàm ý khuyến nghị cho việc mua, bán, hoặc nắm giữ một chứng khoán cụ thể nào, nó cũng không nhằm bình luận về sự thích hợp của một khoản đầu tư đối với một nhà đầu tư cụ thể nào. Nhưng nó cung cấp một cái nhìn tổng quan về ‘sức khỏe’ của công ty, cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Các hệ thống hạn mức tín nhiệm thường được xếp hạng theo thông lệ quốc tế , thông thường bao gồm 10 loại định mức tín nhiệm từ AAA, AA, A cho đến C và D. Trong đó AAA là định mức tín nhiệm cao nhất trong hệ thống định mức tín nhiệm. Các doanh nghiệp được xếp hạng AAA có khả năng hoàn trả cao nhất các nghĩa vụ tài chính của mình. Cho đến các doanh nghiệp hạng C, có nguy cơ không trả được nợ rất cao và D chỉ sử dụng khi doanh nghiệp đã thực sự phá sản.
Một hệ thống định mức tín nhiệm doanh nghiệp nhất thiết phải đảm bảo được tính khách quan, độc lập, khoa học và công khai.
Về phương pháp xếp hạng nói chung được xây dựng trên cơ sở các phân tích định tính, và định lượng, với sự tham gia thẩm định của các nhà khoa học và các chuyên gia trong từng lĩnh vực.
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp dựa trên cơ sở cho điểm các thông tin được đánh giá định tính và định lượng. Việc xếp hạng không chỉ giới hạn ở việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính mà còn bao gồm cả việc đánh giá các chỉ tiêu phi tài chính như việc xem xét môi trường hoạt động của doanh nghiệp, những dự báo chủ quan về vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp, hoạt động của ban giám độc, chiến lược của doanh nghiệp và các tác động bên ngoài.
Các phân tính định tính thường bao gồm các chỉ tiêu rủi ro ngành, môi trường cạnh tranh, vị thế của doanh nghiệp, chất lượng quản lý, đa dạng và cơ cấu sở hữu, khả năng huy động vốn, chất lượng thông tin tài chính.
Các phân tích định lượng tập trung vào chính sách của công ty về chiến lược kinh doanh, các mục tiêu tài chính. Các chỉ tiêu định lượng sẽ được so sánh để phân tích xu hướng và và so sánh với đối thủ cạnh tranh và mức bình quân ngành.
Các chỉ tiêu tài chính sẽ được tổng hợp để đạt tới một cái nhìn tổng quan về khả năng tài chính lành mạnh.
Hiện nay ở Việt Nam một số công ty xếp hạng tín nhiệm đã được hình thành và đi vào hoạt động. Trong số đó Credit Information Center (CIC), Vietnamnet solution (VASC), và Credit Rating Vietnam (CRV). CIC đã có bảng xếp hạng đầu tiên về 78 công ty đang được niêm yết trên thị trường, thể hiện những nỗ lực của cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam. Tuy đây là một lĩnh vực còn khá mới mẻ ở Việt Nam và còn cần thời gian để có chỗ đứng trong sự đánh giá của giới đầu tư nhưng nó cũng đánh giá những nỗ lực to lớn nhằm đem lại sự lành mạnh và tính minh bạch trong nền kinh tế VN nói chung và TTCK việt nam nói riêng ./.
4/ Xếp hạng tín nhiệm
Chương 1: Tổng quan về tổ chức xếp hạng tín nhiệm
1.Định nghĩa xếp hạng tín nhiệm:
Xếp hạng tín nhiệm là việc đưa ra các nhận định hiện tại của một công ty định mức tín nhiệm, thể hiện ý kiến chuyên gia về mức độ tín nhiệm đối với nhà phát hành trong một trách nhiệm tài chính nào đó, hoặc là đánh giá mức độ rủi ro gắn liền với các loại đầu tư khác nhau được thể hiện thông qua một hệ thống các ký hiệu xếp hạng.Các đầu tư này có thể dưới dạng chứng khoán như là trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi và giấy nhận nợ, hoặc các công cụ cho vay khác như vay và gửi tiền tại ngân hàng, các thương phiếu.
Xếp hạng có thể làm tăng hạng hoặc xuống hạng vị thế của một nhà phát hành, một công cụ tài chính theo khả năng của nó có đáp ứng được các nghĩa vụ đối với nhà đầu tư hay không.Điều này phụ thuộc thứ nhất là vào khối lượng tiền có sẵn để thanh toán cho các nhà đầu tư, thứ hai là vào khả năng dễ bị vỡ nợ đến đâu khi các điều kiện kinh doanh thay đổi.
Xếp hạng tín nhiệm đánh giá mức độ rủi ro vỡ nợ của 3 loại chủ thể chính:
Người phát hành hay còn gọi là người có nghĩa vụ (công ty, ngân hàng, các định chế tài chính).
Một loại hình chứng khoán nào đó.
Một quốc gia.
Việc xếp hạng tín nhiệm không nêu lên giá thị trường hoặc sự biến động tương lai của một chứng khoán hay một khoản đầu tư nào đó. Do vậy, xếp hạng chỉ đơn thuần là đưa ra ý kiến dựa trên các nhân tố rủi ro chứ không phải là một khuyến nghị để mua, bán, hoặc giữ lại một chứng khoán hay một khoảng đầu tư nào đó. Và một sự xếp hạng cao không đồng nghĩa là một khoản đầu tư tốt hơn so với một xếp hạng thấp hơn.
2. Vai trò và đặc điểm của công ty xếp hạng tín nhiệm trên thị trường tài chính:
2.1 Vai trò của công ty xếp hạng tín nhiệm:
Xếp hạng tín nhiệm được các nhà đầu tư có tổ chức dùng để hỗ trợ thêm cho các phân tích riêng của họ như kỹ năng xử lý thông tin tài chính và các nhân tố thị trường gắn liền với rủi ro để ra được quyết định đầu tư. Đồng thời các nhà đầu tư có tổ chức khi hoạt động trong môi trường quốc tế cũng dùng các xếp hạng này để làm công cụ so sánh tương quan rủi ro giữa các công cụ với nhau.
Các nhà phát hành cũng dùng xếp hạng tín nhiệm như là một chiến lược để huy động vốn. Cho đến thời điểm này các tổ chức xếp hạng tín nhiệm đóng vai trò như là một cầu nối giữa đầu tư và thị trường. Khi thị trường tài chính và việc toàn cầu ngày càng phát triển một vai trò quan trọng mới nữa của việc xếp hạng tín nhiệm là được dùng như một công cụ để giám sát thị trường tài chính, để giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư và rủi ro hệ thống nói chung.
Khi việc xếp hạng chứng khoán đã được dùng như một công cụ quản lý thì nó đã đạt được một vai trò như là một tiêu chuẩn quản lý chính thức. Tuy nhiên khi mà mức hạn của một công ty tư nhân đóng vai trò quan trọng trong việc cho một ai đó được tham dự vào thị trường tài chính thì sự quản lý đó có hợp pháp và hiệu quả không thì cần phải được xem xét kỹ.
2.2 Đặc điểm của công ty xếp hạng tín nhiệm:
2.2.1 Đặc điểm chung:
Để hoạt động thành công, công ty xếp hạng tín nhiệm phải có những phẩm chất như: được tin cậy, độc lập không thiên vị, có năng lực về kỹ thuật nhân lưc đầy đủ về số lượng và chất lượng, tiếp cận được với thông tin đáng tin cậy về tổ chức phát hành chứng khoán. Những khái niệm và phương pháp luận được sử dụng khi quyết định việc xếp hạng có ý nghĩa quan trọng đối với nhà đầu tư và cả những nhà làm luật.
2.2.2 Tính độc lập của công ty xếp hạng tín nhiệm:
Tính độc lập của công ty xếp hạng tín nhiệm được xét trên mức độ tín nhiệm và sự thành công với nỗ lực kinh doanh. Theo đó cấu trúc về quản lý và sở hữu có ý nghĩa quan trọng đối với sự thành công của tổ chức. Tổ chức này phải hoàn toàn độc lập, tách khỏi ảnh hưởng chính trị và các áp lực của những chủ thể mà nó quản lý. Tổ chức xếp hạng tín nhiệm cần có một sự nhạy cảm đối với nền kinh tế để duy trì tính độc lập của mình, bởi vì mức độ cảm nhận về sự công bằng của công chúng và những mục tiêu của tổ chức xếp hạng tín nhiệm sẽ quyết định sự thành bại của nó, nếu như chưa tính đến mức độ phát triển, mới phát triển hay thị trường đã quốc tế hoá. Nếu chính phủ can thiệp quá sâu vào hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm thì hoạt động xếp hạng tín nhiệm sẽ có vấn đề. Tuy nhiên, những chính sách của chính phủ có thể có những ảnh hưởng quan trọng đối với triển vọng thành công của tổ chức xếp hạng tín nhiệm ở các thị trường mới
3. Đối tượng xếp hạng và các dịch vụ của tổ chức xếp hạng tín nhiệm:
3.1. ĐốI tượng xếp hạng:
Có 4 đối tượng xếp hạng chính:
Thứ nhất, xếp hạng nợ, là các cấp xếp hạng được dành cho các khoản đầu tư dài hạn như trái phiếu công ty và cổ phiếu ưu đãi
Thứ hai, xếp hạng các nhà phát hành, là các cấp xếp hạng đánh giá khả năng của các công ty tư nhân, các tổ chức bảo hiểm, các quỹ đầu tư (gọi chung là nhà phát hành theo đồng bản tệ), và các tổ chức chính phủ(các nhà phát hành theo đồng ngoại tệ) trong việc thanh toán các nghĩa vụ tài chính cho các nhà đầu tư về các công cụ tài chính, cả đảm bảo lẫn không được đảm bảo.
Thứ ba, xếp hạng tiền gửi ngân hàng, là các cấp xếp hạng đánh giá khả năng của các ngân hàng trong việc thanh toán các nghĩa vụ về tiền lãi và vốn gốc đối với các khoản tiền gửi cả bản tệ lẫn ngoại tệ
Cuối cùng, xếp hạng quốc gia, là các cấp xếp hạng đánh giá khả năng tín dụng của một quốc gia cụ thể. Xếp hạng quốc gia là việc cho ý kiến về rủi ro của một quốc gia, có nghĩa là quốc gia đó có thể trả các món nợ bằng đồng ngoại tệ hay không.
3.2. Sản phẩm và dịch vụ của các tổ chức định xếp hạng tín nhiệm:
3.2.1. Xếp hạng các công ty và lập các báo cáo xếp hạng:
Dịch vụ này nhằm cung cấp các báo cáo về phân tích tín dụng của các tổ chức phát hành. Những báo cáo này định dạng việc xếp hạng các thương phiếu, các chứng khoán nợ dài hạn và các cổ phiếu ưu đãi đang lưu hành của tổ chức phát hành. Chúng cũng bao hàm cả ý kiến đánh giá xếp hạng, các phần phân tích bình luận các hoạt động tài chính, hồ sơ công ty, báo cáo tài chính trong năm năm gần nhất và các tỷ lệ dùng để so sánh của các tổ chức phát hành. Những người có nhu cầu đặt mua các sản phẩm dịch vụ của công ty sẽ nhận được các báo cáo phân tích tín dụng hàng tuần do tổ chức tín dụng định mức tín nhiệm gửi tới bằng bưu điện, các bài báo về thông tin phát hành và tin tín dụng, sẽ được thông báo qua các ấn phẩm về thay đổi xếp hạng hoặc “danh sách kiểm soát tín dụng”. Thêm vào đó còn có các báo cáo bán niên về ngành, về hoạt động tài chính của các thực thể kinh tế, các chỉ số quan trọng cũng được cập nhật 2tháng một lần, và tất cả các nghiên cứu về ngành cũng được chuẩn bị sẵn sàng trong suốt năm.
3.2.2. Dịch vụ xếp hạng các trái phiếu chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp nhà nước:
Sản phẩm dịch vụ này của tổ chức định mức tín nhiệm được trình bày dưới dạng các báo cáo và các bảng xếp hạng trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền cấp tỉnh và địa phương, trái phiếu của các doanh nghiệp nhà nước, trường học và các công ty tiện ích công cộng. Sản phẩm dịch vụ này bao gồm các báo cáo rõ ràng về mỗi mức độ xếp hạng, các dữ liệu kinh tế và tài chính chủ yếu, các tổ chức quan trọng mỗi hai tháng, các thống kê về nền kinh tế quốc gia, của từng tỉnh, từng khu vực và các tóm lược nghiên cứu đáng quan tâm, liên quan đến các mặt hoạt động kinh tế, tài chính của các thành phố hoặc địa phương.
3.2.3. Dịch vụ truyền thông của tổ chức xếp hạng tín nhiệm:
Dịch vụ này trước hết nhằm xếp hạng kịp thời, đưa ra quan điểm và ý kiến nhận xét đáng tin cậy cho nhà đầu tư: Dịch vụ truyền thông của các tổ chức tín nhiệm luôn sẵn sàng trên các thiết bị đầu cuối của các hãng tin, Điều này cho phép người sử dụng luôn nhận được bảng xếp hạng mới nhất với các nhận xét mới nhất về tổ chức phát hành. Thông qua dịch vụ này, người sử dụng có thể tin cậy các thông tin tín dụng trong mọi thời điểm, bao gồm các thông tin về thay đổi xếp hạng, thông báo danh sách kiểm soát tín dụng, thay đổi quan đỉêm xếp hạng và các ấn phẩm thông tin về các đợt phát hành mới của các công ty, về các tổ chức phát hành chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản và các quỹ hỗ tương.
Ngoài ra các tổ chức định mức tín nhiệm còn cung cấpdịch vụ thông báo tức thời bằng fax đến các công ty, các tổ chức Chính phủ đặt mua dịch vụ này hoặc theo đề nghị của các cá nhân về tất cả các sự thay đổi trong bảng xếp hạng, trong thông báo kiểm soát tín dụng, và các ấn phẩm về các đợt phát hành mới.
3.2.4. Dịch vụ hướng dẫn đầu tư bảo tồn thu nhập cố định
Sản phẩm của dịch vụ này tồn tại dưới hình thức một quyển sách hướng dẫn về đầu tư, gửi đến các cá nhân và tổ chức có quan tâm đến các loại chứng khoán có thu nhập ổn định. Quyển sách này bao gồm nhiều khoản mục nói về các chứng khoán có thu nhập ổn định và các đặc điểm của chúng, đó là quỹ hỗ tương, bảo vệ nhà đầu tư, quản lý doanh mục đầu tư và đầu tư thu lãi cố định hàng năm. Ngoài ra còn có những hướng dẫn về một bảng phân bổ các chứng khoán được phát hành bởi các công ty lớn của quốc gia và của Chính phủ đang sẵn sàng mua bán tại thị trường bán lẻ. Các tổ chức phát hành cũng được phân tích trong quyển sách về các điểm chính yếu như: chất lượng tín dụng, lịch sử công ty, các hồ sơ quan trọng trong quá khứ, tính thanh khoản và sự sẵn sàng cho việc bán lẻ ra ngoài thị trường. Hơn nữa còn cung cấp những vấn đề cấp thiết nhất, như những thông tin về các nhà lập kế hoạch tài chính, các nhà tư vấn đầu tư và các nhà môi giới bán lẻ, cách tiếp cận thông tin theo cách truyền thống mà các nhà đầu tư có tổ chức thường hay tiếp cận…..
4. Khái quát về phương pháp xếp hạng tín nhiệm (phương pháp luận)
Phương pháp định mức tín nhiệm truyền thống ra đời từ đầu thế kỷ 20 với mục tiêu cơ bản là dự đoán khả năng vỡ nợ (giảm hạng) và dự đoán giá trị hợp đồng tại những thời điểm có khả năng vỡ nợ. Qúa trình phân tích dựa trên các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1:
Phân tích các yếu tố định tính và định lượng.
Các chỉ tiêu liên quan đến xếp hạng bao gồm:
Các dữ liệu định lượng: là những quan sát được đo lường bằng số như các chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế, chi phí trả lãi vay, vốn lưu động…
Các dữ liệu định tính: là những quan sát không đo lường được bằng số, trong tập dữ liệu định tính mỗi quan sát sẽ và chỉ thuộc về một kiểu loại nào đó. Ví dụ như tình hình cạnh tranh, xu hướng thị trường, vị thế kinh doanh của công ty, sự đa dạng hoá hoạt động và các luật lệ, quy định
Nguyên tắc 2:
Việc phân tích được tiến hành bằng phương pháp “trên-xuống” theo trình tự sau:
Phân tích rủi ro mang tính vĩ mô về xu hướng của quốc gia, ngành
Phân tích rủi ro hoạt động kinh doanh như tình hình cạnh tranh, su hướng thị trường, vị thế kinh doanh của công ty, sự đa dạng hoá hoạt động và các luật lệ, quy định
Phân tích rủi ro tài chính bao gồm hàng loạt chỉ tiêu phụ thuộc vào từng ngành nghề, kết hợp so sánh giữa rủi ro tài chính và rủi ro kinh doanh, xem xét độ linh hoạt tài chính cũng như chính sách tài chính
Phân tích hướng phát triển của công ty như chất lượng ban quản lí và chiến lược kinh doanh
Phân tích tình trạng pháp lý của nhà phát hành và các cam kết của đợt phát hành
Nguyên tắc 3:
Đơn giản, dễ hiểu, dễ so sánh: xây dựng thang điểm,các chỉ tiêu được cho điểm, sau đó tổng hợp lại và phản ánh qua biểu tượng xếp hạng theo mẫu tự latin.
Đánh giá:
Ưu điểm: đơn giản, dễ hiểu, tuy nhiên mô hình này phụ thuộc nhiều vào chủ quan đánh giá. Quá trình cụ thể hoá các chỉ tiêu định tính để đưa về dạng có thể so sánh được là tiến trình nâng cao độ chính xác trong xếp hạng tín nhiệm
Nhược điểm:
+ không đưa được những yếu tố bất thường vào mô hình tính toán
+ không xác định được sự tương quan giữa khả năng vỡ nợ và khả năng thua lỗ dự tính
+ không xem xét được mối tương quan trong doanh mục đầu tư
5.Các loại hình xếp hạng tín nhiệm:
5.1 Xếp hạng nợ dài hạn:
Được áp dụng đối với tất cả cá loại nợ và những nghĩa vụ nợ liên quan đến tín dụng có thời gian đáo hạn trên một năm. Xếp hạng dài hạn nhằm mục đích dự đoán:
Khả năng xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán
Khả năng bị tỏn thất nghiêm trọng khi xảy ra tình trạng mất khả năng thanh toán
Nói chung xếp hạng trong dài hạn cũng có thể được xem như là việc dự đoán mức độ bảo vệ tương đối một nhà đầu tư trong một giao kèo cụ thể, khi tổ chức phát hành phải đối mặt với những điều kiện kinh tế khắc nghiệt và những tình huống khó khăn khác có thể xảy ra và kết hợp đưa ra một dự đoán về mức độ nghiêm trọng của những tổn thất về tiền tệ nếu xảy ra một vụ mất khả năng thanh toán.
5.2. Xếp hạng nợ ngắn hạn:
Hệ thống này được áp dụng đối với tất cả các công cụ nợ cao cấp hoặc không đảm bảo có thời gian đáo hạn ban đầu không quá một năm.
Lí do căn bản phải sử dụng một hệ thống xếp hạng riêng biệt choc ác công cụ nợ ngắn hạn liên quan đến những rủi ro tín dụng khác nhau, và thông tin tín dụng khác nhau cho các nhà đầu tư ngắn hạn:
Các chứng khoán ngắn hạn trở nên đáo hạn thường xuyên hơn các loại nợ dài hạn, chúng rất nhạy cảm đối với những nhận thức về mức độ tín nhiệm của các nhà đầu tư trên thị trường tiền tệ. Hầu hết các nhà phát hành đều chịu áp lực phải đáp ứng tất cả các nghĩa vụ nợ ngắn hạn của chúng từ dòng tiền mặt hiện thời, chưa tính đến các điều kiện khác làm cho phần lớn các nhà đầu tư hiện tại sẽ giảm giá trị đầu tư vào các công cụ nợ ngắn hạn khi chúng đáo hạn.
Các mô hình đầu tư trên thị trường ngắn hạn khác nhau đáng kể. Tiêu biểu là, những quỹ đầu tư vào các công cụ nợ trên thị trường tiền tệ trong một khoảng thời gian đã định trước, và các khoản đầu tư đó cần được sử dụng vì những mục đích cụ thể tại thời điểm đáo hạn. Nhu cầu quan trọng nhất của các nhà đầu tư ngắn hạn là đảm bảo chắc chắn rằng cả vốn gốc lẫn lãi luôn có sẵn khi họ cần. Thời điểm cũng quan trọng không kém đối với các hoạt động đầu tư dài hạn, nhưng các nhà đầu tư chỉ mong đợi tổn thất tín dụng chỉ là một phần trong việc mất khả năng thanh toán của tỏ chức phát hành mà thôi.
5.3. Xếp hạng các công ty bảo hiểm:
Đánh giá tình hình tài chính các công ty bảo hiểm là ý kiến về khả năng chi trả đúng hạn của công ty đó đối với các khoản nợ ưu tiên. Giống như định mức tiền gửi hoặc các khoản nợ dài hạn định mức các công ty bảo hiểm dựa trên việc phân tích các rủi ro kinh doanh và rủi ro bảo hiểm của công ty, việc đánh giá này áp dụng cho tình hình tổng quát của công ty trong việc đáp ứng các khiếu nại của những người mua bảo hiểm chứ không phải là định mức tín nhiệm cho các hợp đồng bảo hiểm cụ thể. Trong một số trường hợp, việc định mức này còn tính đến các hợp đồng đầu tư được đảm bảo của công ty
Định mức tín nhiệm các công ty bảo hiểm trước tiên phản ánh khả năng có thể xảy ra tình trạng mất k hả năng thanh toán, và khả năng phục hồi mức độ tổn thất của một nhóm khách hàng cụ thể trong trường hợp mất khả năng thanh toán.
5.4. Xếp hạng các cổ phiếu ưu đãi:
Không giống như định mức các công cụ nợ, định mức cổ phiếu ưu đãi là nhằm đo lường rủi ro xem công ty có thể chi trả cổ tức và thực hiện các cam kết về việc mua lại đúng thời hạn hay
không? Việc định mức cổ phiếu ưu đãi phản ánh khả năng công ty có thể chi trả cổ tức sớm hoặc trễ hơn dự định do một sức ép nào đó. Do các cổ đông cổ phiếu ưu đãi có vị trí ưu tiên thấp hơn so với các trái chủ trong trường hợp công ty phá sản, nên hệ thống này cũng tính đến khả năng hồi phục thấp hơn của các cổ phiếu ưu đãi khi thanh lí.
5.5. Xếp hạng tín nhiệm có điều kiện:
Ký hiệu P đứng trước bất kì một tiêu chuẩn xếp hạng nào cũng có nghĩa rằng việc xếp hạng đó là có điều kiện. Định mức tín nhiệm có điều kiện cho người đầu tư biết kết quả mức tín nhiệm cuối cùng trước khi chứng khoán đó được thực sự phát hành, hoặc trước khi các điều kiện trong bản giao kèo trái phiếu được hoàn tất. Định mức tín nhiệm có điều kiện thường được áp dụng cho các đợt đăng kí phát hành trước.
Tương tự, các hoạt động tài trợ theo cơ cấu cũng thường được định mức tín nhiệm có điều kiện, do chúng thường được chào bán ra công chúng trước khi các điều khoản mua bán được hoàn tất.
Chương 2: Tổ chức xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam
2.1. Sự cần thiết của việc xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam
Xếp hạng tín nhiệm có vai trò quan trọng trong thị trường vốn mới phát triển trên khắp thế giới. Ở nhiều quốc gia ngân hàng trung ương hoặc cơ quan nhà nước khác tự mình kiểm tra chất lượng tài chính của các công ty để xác định tư cách gia nhập thị trường chứng khoán, hoặc thường xuyên kiểm soát chất lượng của các bên tham gia thị trường. Sự tham gia hệ thống của các hệ thống xếp hạng tín nhiệm có thể giúp giảm bớt chi phí quản lý, xóa bỏ những trở lực và giúp thị trường phát triển.
2.1.1 Lợi ích đối với người đầu tư
Xếp hạng tín nhiệm thểhiện những đánh giá rủi ro tín dụng nhanh nhất, của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm cho thị trường. Mục đích của nó là xếp hạng những rủi ro tiềm năng đối với một loại đầu tư thu nhập cố định để so sánh với những loại công cụ khác, từ đó nó có thể đáp ứng được những lợi ích liên quan đến nhà đầu tư.
Một công cụ đơn giản, khách quan để định hướng rủi ro tín dụng.
Đánh giá mức độ rủi ro .
Xây dựng danh mục đầu tư.
Đánh giá các rủi ro liên quan.
Hỗ trợ nghiên cứu tín dụng.
2.1.2 Lợi ích đối với tổ chức phát hành
Nếu việc xếp hạng tín nhiệm và nghien cứu của tổ chức xếp hạng tín nhiệm được thị trường chấp nhận, có giá trị thiết thực đối với nhà đầu tư(vì ảnh hưởng đến quyết định mua, bán, nắm giữ chứng khoán của họ) thì chúng cũng có những lợi ích nhất định đối với tổ chức phát hành liên quan đến những nhu cầu của tổ chức phát hành để gắn bó và duy trì mối quan hệ với những nhà đầu tư lớn.
Tiếp cận nguồn vốn lớn hơn.
Tiếp cận nguồn vốn một cách vững chắc hơn.
Giảm chi phí vay.
Hiệu quả phát hành mới.
Sự linh hoạt tài chính.
2.1.3 Lợi ích đối với các trung gian tài chính
Các ngân hàng thương mại và các trung gian tài chính khác bảo lãnh phát hành, và kinh doanh những chứng khoán nợ có thu nhập cố định trên thị trường cũng nhận thấy kết quả xếp hạng rất hữu dụng đối với chiến lược định giá và lựa chọn chứng khoán đầu tư vì quyền lợi của khách hàng. Xếp hạng tín nhiệm có thể mở những đợt phát hành mới đến người đầu tư. Một chứng khoán cụ thể có thể dễ dàng tung ra thị trường khi được xếp hạng tín nhiệm. Xếp hạng tín nhiệm còn giúp các trung gian tài chính kiểm soát rủi ro và xác định giá trị thị trường của chứng khoán họ nắm giữ vì lợi ích của khách hàng hay của chính họ.
2.1.4 Lợi ích đối với người quản lý
Những nhà quản lý cũng nhận thấy xếp hạng tín nhiệm có rất nhiều lợi ích. Các cơ quan quản lý tài chính sử dụng xếp hạng tín nhiệm như một tiêu chuẩn độc lập để xem xét tư cách của một số tổ chức phát hành. Nhiều nhà quản lý cũng sử dụng kết quả xếp hạng tín nhiệm độc lập để quản lý tình trạng tài chính của các tổ chức mà họ chịu trách , nhiệm, từ các ngân hàng công ty bảo hiểm và các quỹ xã hội khác.Một số nhà quản lý còn can thiệp cụ thể vào hoạt động của các tổ chức đầu tư, như yêu cầu phải báo cáo mức hạng của các chứng khoán đầu tư, hoặc không được mua và nắm giữ những chứng khoán có mức hạng bị hạ thấp xuống một giới hạn nào đó. Cuối cùng ngoài nhứng quy định cụ thể, nhà quản lý còn biết rằng hệ thống xếp hạng tín nhiệm đôc lập cò thể là một phương thức chủ yểu để gia tăng hiệu quả của thị trường chứng khoán nợ, cũng như thị trường tín thác ngân hàng và thị trường bảo hiểm.
2.1.5 Nâng cao tính minh bạch của thị trường
Hệ thống xếp hạng tín nhiệm đã nâng cao hiệu quả thị trường bằng cách cung cấp ngôn ngữ chung cho việc đánh giá các rủi ro tín dụng, và đưa ra thị trường thông tin đã được xử lý về chất lượng của các tổ chức phát hành nợ. Nhìn chung sự minh bạch này rất có lợi cho thị trường. Nhờ sự minh bạch thị trường, nhà đầu tư giảm bớt lo ngại vể rủi ro tín dụng của các chứng khoán lạ, và tổ chức phát hành có thể tạo ra được một kênh phân phối đến những phần thị trường khác. Khi thị trường nợ phát triển, sự minh bạch cũng đảm bảo gía chứng khoán điều chỉnh nhanh chóng tương ứng với sự biến động của thị trường, do đó giảm những chi phí cơ hội vô hình. Kết quả xếp hạng tín nhiệm đựơc công bố rộng rãi góp phần làm giảm thiểu những tin đồn và nạn đầu cơ.
2.2. Những thuận lợi khó khăn trong việc hình thành tổ chức xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam.
2.2.1. Thuận lợi:
Các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội:
Đường lối đổi mới toàn diện mang tính chiến lược của Đảng được quyết định tại Đại hội Đảng lần thứ VI (Tháng 12/1986) và nhất là mới đây Việt Nam gia nhập WTO đã mở ra thời kỳ mới của xây dựng và phát triển đất nước, tác động tích cực đến sự phát triển của các ngành kinh tế
Mở rộng thành phần kinh tế: điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phát hành và các công cụ nợ: Luật doanh nghiệp thể hiện quan điểm hiện đại “được làm những điều mà pháp luật không cấm”, thay cho lối hành xử cũ “chỉ được làm những gì pháp luật không cho phép”, đã góp phần phát huy nội lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; đẩy mạnh công cuộc đổi mới kinh tế.
Thị trường vốn, tiền tệ đang dần hình thành và phát triển: Trong nhiều năm đổi mới nền kinh tế cùng với việc đổi mới mạnh mẽ hoạt động ngân hàng, với sự ra đời của nhiều loại hình tổ chức tín dụng khác nhau thì đồng thời cũng xuất hiện nhiều tổ chức tài chính phi ngân hàng và các tổ chức khác cũng tham gia hoạt động ngân hàng.
Thị trường chứng khoán Việt nam đi vào hoạt động từ tháng 7- 2000: sự kiện này được ghi nhận là bước phát triển quan trọng trong quá trình đổi mới nền kinh tế và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự thành công và bài học kinh nghiệm của các quốc gia đi trước : Một thuận lợi đối với việc thành lập các tổ chức xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam đó là khả năng của Việt Nam trong việc tiếp thu kinh nghiệm từ các quốc gia đi trước đặc biệt là các quốc gia có thị trường chứng khoán mới nổi. Qua những nghiên cứu đó, chúng ta có thể học tập những thành công và rút ra những bài học kinh nghiệm đối với những thất bại trong mô hình xếp mức tín nhiệm của các nước.
2.2.2. Khó khăn:
Quy mô nhỏ bé của thị trường Việt Nam:
Đây là một trong những trở ngại lớn nhất đối với việc thành lập các tổ chức xếp hạng tín nhiệm có thể hoạt động được trong thị trường chứng khoán mới hình thành chính là số lượng ít ỏi các công cụ thị trường nợ vốn là đối tượng xếp hạng của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm.Hiện nay, doanh nghiệp huy động vốn bằng phương thức phát hành trái phiếu còn nhiều hạn chế. Tuy việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp là một kênh huy động vốn rất thuận lợi, nhưng cho đến nay, khối lượng trái phiếu doanh nghiệp được phát hành vẫn còn khá khiêm tốn.
Hệ thống tài khoản quốc gia về phân nghành kinh tế trong thống kê:
Trong phân nghành kinh tế thì hệ thống của Việt Nam kém chi tiết, chưa hợp lý so với chuẩn mực quốc tế. Ngoài ra, việc tổ chức thống kê còn nhiều bất cập như số liệu chưa đầy đủ, trùng lắp, kém chính xác. Điều này dẫn đến:
Các nhóm nghành không chi tiết làm cho các đối tượng phân tích với các tiêu thức khác nhau bị lẫn vào một giỏ.
Việc thu thập số liệu không đầy đủ hoặc công ty không đủ tiêu chuẩn làm đại diện cho mẫu làm cho số liệu không còn được phản ánh trung thực, chính xác.
Tương tự như vậy thì hệ số trung bình ngành trong nhiều trường hợp khó có khả năng chính xác.
Chế độ công bố thông tin:
Hiện nay, mới chỉ có một số tổ chức phát hành tham gia niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội mới thực hiện công bố thông tin, còn đại đa số các doanh nghiệp vẫn coi việc công bố thông tin về tình hình hoạt động kinh doanh, báo cáo tài chính của mình là “vạch áo cho người xem lưng”. Vì vậy việc có đủ số liệu trung thực, chính xác trong vòng 5 năm quả là một vấn đề.
Chế độ kế toán:
Hạch toán kế toán là bộ phận cấu thành quan trọng của hệ thống công cụ quản lý kinh tế, tài chính, có vao trò tích cực trong việc quản lý, điều hành và kiểm soát các hoạt động kinh tế. Với tư cách là công cụ quản lý kinh tế, tài chính, kếtoán là một lĩnh vực gắn liền với hoạt động kinh tế, tài chính, đảm nhiệm hệ thống tổ chức thông tin có ích cho các quyết định kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm qua Việt Nam đã không ngừng phát triển và hoàn thiện theo hướng hoà nhập với chuẩn mực và các thông lệ phổ biến của kế toán quốc tế, nhưng giữa hệ thống kế toán Việt Nam và chuẩn mực kế toán quốc tế vẫn còn tồn tại nhiều khác biệt.
Tập quán phát hành, giao dịch công cụ nợ:
Việc phát hành các công cụ nợ dài hạn và ngắn hạn chưa được các doanh nghiệp Việt Nam sử dụng đúng mức. Tình trạng phổ biến hiện nay là khi thiếu vốn thì các doanh nghiệp lập tức nghĩ ngay đến ngân hàng. Tương tự như vậy, các định chết tài chính, nhà đầu tư đều chưa quen với việc mua đi bán lại các công cụ nợ trên thị trường tài chính thứ cấp. Việc tạo thành thói quen này là một chặng đường dài, đòi hỏi sự phối hợp trên nhiều lĩnh vực như đã đề cập trong bài học kinh nghiệm ở chương II. Vì vậy muốn có chỗ đứng vững cho hoạt động xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp trên thị trường nợ, thì chúng ta phải xây dựng cho các doanh nghiệp thói quen huy động vốn bằng việc phát hành công cụ nợ.
Hệ thống pháp lý:
Hệ thống pháp luật về kinh tế, tài chính của Việt Nam chưa hoàn thiện. Luật doanh nghiệp và các văn bản liên quan chưa có điều khoản nào ghi nhận xếp hạng như một ngành, nghề kinh doanh chính thức ở nước ta. Ngay cả khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam mặc dù đã được hình thành và tiếp tục hoàn thiện, nhưng thực tế cho thấy còn nhiều quy định bất cập, mâu thuẫn và chưa đạt trình độ kỹ thuật lập pháp cao, cả về nội dung lẫn hình thức, gây nhiều khó khăn cho việc áp dụng và thực thi.
Nguồn nhân lực, kỹ thuật, tài chính
Trình độ nhân lực còn non yếu và thiếu kinh nghiệm: thời gian để nước ta thực sự bước vào phát triển nền kinh tế hàng hoá thực ra chưa lâu so với những nước đã phát triển nền kinh tế thị trường từ hàng chục, thậm chí hàng trăm năm trước. Chứng khoán là sản phẩm bậc cao của nền kinh tế thị trường thì chúng ta còn quá non trẻ nữa. Chính vì thế, những người hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán được đào tạo trong nước hay nước ngoài, có thể nói là non kém về trình độ quản lý cũng như kinh nghiệm. Trong khi đó hoạt động xếp hạng tín nhiệm lại đòi hỏi các chuyên gia thực sự tài giỏi và có kinh nghiệm, những nhà quản lý phân tích sắc sảo có những hiểu biết chuyên môn không chỉ trên lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán mà còn nhiều lĩnh vực khác nữa, để đánh giá các tổ chức phát hành hoạt động trong những ngành sản xuất kinh doanh khác nhau.
2.3 Phương pháp định mức tín nhiệm
2.3.1 Hệ thống đánh giá xếp hạng:
Hệ thống xếp hạng của Việt Nam phải được xây dưng phù hợp với các đối tượng tham gia định mức tin nhiệm, hệ thống này cần phải tuân theo những nguyên tắc sau:
Đơn giản: báo cáo việc định mức xếp nhiệm phải dễ hiểu, dễ so sánh về khả năng phá sản và mức độ tổn thất có thể xẩy ra.
Khả năng so sánh rông rãi.
Xây dựng hệ thống xếp hạng và ngắn hạn riêng.
Mang tính Việt Nam
Cơ sở lý luận:
Xếp hạng tín nhiệm tại Việt Nam chủ yếu đưa ra ý kiến hiện tại về năng lực đáp ứng các cam kết tài chính, năn lực thanh toán của các tổ chức đi vay hoạt động tại thị trường tài chính Việt Nam, để đáp ứng trách nhiệm nợ tài chính của riêng họ. Các biểu tượng xếp hạng tai Việt Nam được dùng bằng tiêp đầu ngữ Vn
Hệ thống xếp hạng:
Hệ thống biểu tượng xếp hạng cho tổ chức định mức tin nhiêm tại Việt Nam được đề Xuất như sau:
Vn. AAA
Đây là hạng cao nhất theo đánh giá định mức tín nhiệm Việt Nam, năng lực thanh toán là cực kì mạnh.
Vn. AA
Chất lượng thấp hơn Vn.AA một chút nhưng năng lực thanh toán là rất mạnh
Vn. A
Khá đảm bảo với điều kiện kinh doanh nhưng năng lực thanh toán được đánh giá là khá mạnh.
Vn.BBB
Đảm bảo các yếu tố bảo vệ, tuy nhiên khi môi trường kinh doanh thay đổi không thuận lợi có thể làm suy giảm năng lực thanh toán.
Vn.BB
Các yếu tố bảo vệ có chỗ yếu, năng lực thanh toán đôi lúc sẽ bị suy kém vì môi trường kinh doing không thuận lợi, loại hạng này bộc lộ khá nhiều yếu điểm.
Vn.B
Loại hạng này là biểu hiện các yếu tố bảo vệ yếu. Trong hiện tại có thể đáp ứng khả năng thanh toán, nhưng khi môi trường kinh doanh thay đổi theo chiều hướng bất lợi, có thể dẫn đến làm suy yếu và mất thiện chí trả nợ.
Vn.CCC
Hiện tại không đủ khả năng thanh toán, nếu như điều kiện kinh doanh trong tương lai trở nên thuận lợi thì mới khả dĩ đáp ứng các cam kết tài chính.
Vn.CC`
Hiện tại gần như mất khả năng thanh toán.
Vn.C
Có thể đang nộp hồ sơ xin phá sản hoặc những hành động đại loai như vậy, nhưng việc trả nợ vẫn đang tiếp diễn.
Vn.D
Mất khả năng chi trả hoàn toàn, hoặc đang nộp hồ sơ xin phá sản. Tổ chức phát hành nợ bị xếp loại này thường thì cơ quan định mức tin nhiệm Việt Nam căn cứ vào khả năng không thể thanh toán được nợ gốc và lãi khi chưng khoán đáo han, ngay dù thơig gian đáo hạn vẫn chưa tới, trừ khi cơ quan định mức tín nhiệm Việt Nam tin rằng tổ chức gánh nợ đang chuẩn bị cho việc trả nợ ngay từ giai đoạn ân hạn.
Các biểu tương “Vn.AA” cho tới “Vn.BB” có thể bổ sung biểu tượng một kí hiệu là dấu cộng(+) hoặc trừ(-), nhằm biểu thị thứ bậc trong cùng một loại hạng.
R
Biểu tượng này dưới hình thức một chứ đi kèm với việc xếp hạng các công cụ rủi ro phi tín dụng đủ lớn. Nó nhấn mạnh rủi ro về vốn gốc hoăc sự dao động về thu nhậpdự tính mà không được chỉ rõ trong việc xếp hạng tín dụng.
Tiến trình xếp hạng:
Quy trình định mức tín nhiệm/thu thập và sử lý thông tin
Xem xét lại mức tín nhiệm vì:
- Nhằm đảm bảo tính chính xac sau một thời gian- Do xẩy ra những sự kiện đặc biệt, những thông tin liên quan
Thu thập thông tin phân tích
- Dữ liệu kinh tế của từng nghành, từng khu vực kinh tế.
- Dữ liệu về tổ chức phát hành có sẵn trên thị trường
- Thư viện của tổ chức phát hành: báo cáo, hội họp và hồ sơ về các bản cáo bạch
- Cơ sở dữ liệu về tổ chức phát hành và công ty cùng ngành
- Danh sách kết quả định mức trên bảng tính điện tử và văn bản- Cập nhật thông tin về định mức tín nhiệm- Báo cáo tín
dụng của công ty- Tập sách tóm tắt về tinh hình tín dụng
Nhóm phân tích:
- Nhà phân tích chính( chuyên gia khu vực kinh doanh của tổ chức phát hành)
- Giám đốc và phó giám đốc phụ trách nhóm.
- Hỗ trợ chuyên gia trong nghành, cùng chuyên gia phân tích khác
Ra quyết định
Công bố ra thị trường
(A) Phân tích tiếp theo đối với các tổ chức phát hành đã được định mức tín nhiệm
Hoạt động định mức tín nhiệm
(C) Thay đổi hoặc dữ nguyên
(B) Dực vào danh sách theo dõi
(D) Định mức tín nhiệm lần đầu( các tổ chức phát hành được xếp hạng lần đầu tiên
Hội đồng định mức tín nhiêm:
- Nhà phân tích chính
- Giám đốc, phó giám đốc phụ trách nhóm-Các chuyên viên khác từ nhóm phân tích tiêp theo (A)- Ra quyết định trên nguyên tắc đông thuận
Nếu quyết định xem xét lại mức tin nhiệm :
- Thông báo cho các phương tiện truyền thong và cho các nhà đầu tư- Đưa các tổ chức phát hành vào danh sách theo dõi
- Thu thập phân tích các dữ kiện mới- Gặp tổ chức phát hành nếu thấy cần thiết
Hội đồng định mức tín nhiệm
(như trên)
Đi đến thay đổi hay giữ nguyên mức tín nhiệm:
- Thông báo cho các phương tiện truyền thông và nhà đầu tư- Đưa tổ chức phát hành ra khỏi danh sách theo dõi
Tương Tự phân tích tiếp tục (A)
Công bố quyết định xếp hạng mới:
- Thông báo cho các phương tiện truyền thông, nhà đầu tư- Đưa vào danh sách Tổ chức định mức
Hội đồng định mức tín nhiệm
(như trên)
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cách nhìn tổng quát nhất về ngân hàng.docx