MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG
Chương I: : Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối.
1.1. Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ phân phối khi gia nhập WTO.
1.1.1. Cam kết chung của ngành dịch vụ.
1.1.2. Cam kết của ngành dịch vụ phân phối.
1.1.2.1. Các mặt hàng nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam
1.1.2.2. Phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức thương mại điện tử khác.
1.1.2.3. Góp vốn trong liên doanh và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.1.2.4. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
1.1.2.5. Dịch vụ nhượng quyền thương mại.
1.2. Đánh giá nội dung cam kết
Chương 2: Đánh giá tác động của việc thực hiện cam kết với ngành dịch vụ phân phối của nước ta.
2.1. Ngành dịch vụ phân phối của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
2.1.1. Thời kì trước khi gia nhập WTO.
2.1.2. Thời kì sau khi gia nhập WTO.
2.2. Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết khi gia nhập.
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ phân phối trong điều kiện hội nhập.
3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước.
3.2. Đối với doanh nghiệp.
C. KẾT LUẬN
28 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2831 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Cam kết GATS về dịch vụ phân phối và thực trạng áp dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI THẢO LUẬN
Đề tài:
Phân tích cam kết của VN với WTO về dịch vụ phân phối và đánh giá tác động của những cam kết này với dịch vụ phân phối ở VN như thế nào.
Môn học: WTO – cam kết và lộ trình thực hiện của Việt Nam
Lớp học phần: 1103ITOM0221
Nhóm: 05
Giáo viên hướng dẫn: Mai Thanh Huyền
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
Chương I: : Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối.
Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ phân phối khi gia nhập WTO.
Cam kết chung của ngành dịch vụ.
1.1.2. Cam kết của ngành dịch vụ phân phối.
1.1.2.1. Các mặt hàng nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam
1.1.2.2. Phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức thương mại điện tử khác.
1.1.2.3. Góp vốn trong liên doanh và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
1.1.2.4. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
1.1.2.5. Dịch vụ nhượng quyền thương mại.
1.2. Đánh giá nội dung cam kết
Chương 2: Đánh giá tác động của việc thực hiện cam kết với ngành dịch vụ phân phối của nước ta.
2.1. Ngành dịch vụ phân phối của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
2.1.1. Thời kì trước khi gia nhập WTO.
Thời kì sau khi gia nhập WTO.
Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết khi gia nhập.
Chương 3: Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ phân phối trong điều kiện hội nhập.
3.1. Đối với cơ quan quản lý nhà nước.
3.2. Đối với doanh nghiệp.
C. KẾT LUẬN
MỞ ĐẦU.
Với sự nỗ lực của Đảng và Chính phủ thì Việt Nam đã và đang bước vào nền kinh tế hội nhập một cách mạnh mẽ hơn bao giờ hết. 11/1/2007 Việt Nam gia nhập WTO đánh dấu một bước phát triển mới cho ngành kinh tế của nước ta. Theo đánh giá chung, dịch vụ phân phối là một trong những ngành kinh tế chịu sức ép trực tiếp và đầu tiên khi thị trường được “mở” bởi các cam kết, định chế quốc tế mà Việt Nam đang và sẽ tham gia. Cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam để mở rộng kinh doanh sản xuất, học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, công nghệ kỹ thuật tiên tiến, hiện đại là rất lớn. Tuy nhiên, thách thức đối với các doanh nghiệp phân phối trong nước là không nhỏ khi mà các đối tác nước ngoài, các doanh nghiệp nước ngoài vượt trội hơn hẳn so với chúng ta cả về trình độ, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Vậy chúng ta phải có những bước đi như thế nào để tìm kiếm được thế mạnh riêng cho ngành dịch vụ phân phối nói riêng và nền kinh tế nói chung trong quá trình cạnh tranh ngày càng gay gắt và khốc liệt này?
Để có thể hiểu rõ hơn về thị trường ngành dịch vụ phân phối của nước ta hiện nay và tìm được những bước đi mới cho ngành dịch vụ này, nhóm chúng tôi đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối và đánh giá tác động của những cam kết này đối với dịch vụ phân phối của Việt Nam như thế nào?”.
NỘI DUNG
Chương 1:
PHÂN TÍCH CAM KẾT CỦA VIỆT NAM VỚI WTO VỀ DỊCH VỤ PHÂN PHỐI.
Nội dung cam kết của Việt Nam đối với ngành dịch vụ phân phối khi gia nhập WTO.
1.1.1. Cam kết chung của ngành dịch vụ.
Cam kết chung hay cam kết nền trong các biểu các kết dịch vụ là là cam kết áp dụng với tất cả các ngành, phân ngành dịch vụ thuộc Biểu cam kết dịch vụ. Khi gia nhập WTO, Việt Nam đã đưa ra cam kết đối với 11 ngành dịch vụ (bao gồm 155 phân ngành dịch vụ). Các ngành dịch vụ mà Việt Nam cam kết là:
Dịch vụ kinh doanh;
Dịch vụ thông tin;
Dịch vụ xây dựng và các dịch vụ liên quan;
Dịch vụ phân phối;
Dịch vụ giáo dục;
Dịch vụ môi trường;
Dịch vụ tài chính;
Dịch vụ y tế và xã hội;
Dịch vụ du lịch;
Dịch vụ văn hóa, giải trí và thể thao;
Dịch vụ vận tải, do đó, cam kết nền sẽ áp dụng đối với tất cả các ngành/phân ngành dịch vụ này.
Nội dung đầu tiên trong phần cam kết nền liên quan tới hình thức pháp lý của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Ta cho phép các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được cung cấp dịch vụ tại Việt Nam dưới các hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, hình thức cụ thể tại từng ngành, phân ngành dịch vụ cũng như lộ trình thực hiện sẽ căn cứ vào cam kết trong từng ngành, phân ngành cụ thể. Ta chưa cam kết cho phép các doanh nghiệp, cá nhân nước ngoài được lập chi nhánh, trừ trong một số dịch vụ cụ thể. Ta chỉ cho phép các nhà đầu tư, các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thiết lập chi nhánh trong các phân ngành sau: Dịch vụ pháp lý, Dịch vụ máy tính và các dịch vụ liên quan, Dịch vụ tư vấn quản lý, Dịch vụ liên quan đến tư vấn quản lý, Dịch vụ xây dựng, Dịch vụ nhượng quyền thương mại, Dịch vụ bảo hiểm phi nhân thọ, Dịch vụ ngân hàng, Một số dịch vụ chứng khoán.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nước ngoài cũng được lập văn phòng đại diện tại Việt Nam, tuy nhiên các văn phòng đại diện này không được phép tham gia các hoạt động sinh lời trực tiếp.
Đối với các nhà cung cấp dịch vụ đã được cấp phép trước khi Việt Nam gia nhập WTO, Việt Nam đảm bảo các doanh nghiệp này sẽ tiếp tục được hưởng các điều kiện, ưu đãi như quy định trong giấy phép đầu tư và sẽ không bị ảnh hưởng bởi các cam kết dịch vụ của Việt Nam trong WTO.
Ví dụ: trước khi Việt Nam gia nhập WTO, doanh nghiệp A đã được cấp phép mở siêu thị 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam để bán buôn/bán lẻ các loại hàng hóa cho người tiêu dùng. Khi gia nhập WTO, ta cam kết tới năm 2009 mới cho phép lập doanh nghiệp phân phối 100% vốn nước ngoài. Trong năm 2007, theo cam kết WTO, các doanh nghiệp nước ngoài chỉ được lập liên doanh phân phối trong đó phía nước ngoài chiếm không quá 49%. Tuy nhiên, do giấy phép đầu tư đã cấp cho doanh nghiệp A trước khi Việt Nam gia nhập WTO nên doanh nghiệp này tiếp tục được hoạt động, vận hành siêu thị 100% vốn nước ngoài của mình.
Tuy nhiên, có một lưu ý là đối với các doanh nghiệp được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO thì sẽ áp dụng các cam kết trong WTO. Tiếp theo ở ví dụ trên, nếu vào tháng 05 năm 2007, nếu có doanh nghiệp nước ngoài B muốn cung cấp dịch vụ phân phối thì doanh nghiệp B sẽ phải lập liên doanh với đối tác trong nước trong đó vốn của doanh nghiệp B sẽ không quá 49% vốn điều lệ của liên doanh. Đây là cam kết WTO đối với dịch vụ phân phối mặc dù trước đó ta đã cấp phép cho doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực này. Nguyên tắc đối xử tối huệ quốc (MFN) trong GATS chỉ áp dụng kể từ khi ta thực hiện cam kết WTO. Do đó, ngay cả khi đã cấp phép cho các siêu thị 100% vốn nước ngoài trước đó, cơ quan quản lý vẫn có thể áp dụng cam kết theo WTO, tức là chỉ cho phép lập liên doanh phân phối 49% vốn nước ngoài trong năm 2007. Nguyên tắc này cũng được áp dụng đối với các ngành, phân ngành dịch vụ khác.
Đối với việc đầu tư dưới hình thức mua cổ phần, tại cam kết nền, ta đã đưa ra cam kết về việc nhà đầu tư nước ngoài được tham gia góp vốn dưới hình thức mua cổ phần tại các doanh nghiệp Việt Nam. Theo đó, tổng mức vốn cổ phần do các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ trong một doanh nghiệp không vượt quá 30%, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam quy định khác.
Hiện nay, đối với các doanh nghiệp đã niêm yết, ta đã cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được nắm giữ không quá 49% (trừ ngành ngân hàng).
Sau 1 năm kể từ ngày gia nhập, ta cam kết sẽ bãi bỏ hạn chế 30% cổ phần nước ngoài. Đối với các ngành/phân ngành khác đã cam kết, mức cổ phần do nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ sẽ phù hợp với mức mà họ được phép đầu tư trực tiếp. Ví dụ, nếu ngành A ta ta cho phép thành lập liên doanh 51% vốn nước ngoài thì tỷ lệ mua cổ phần của nước ngoài trong doanh nghiệp Việt Nam thuộc ngành đó cũng được lên tới 51%. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, bên nước ngoài được mua ở mức tối đa là 30% tổng số cổ phần.
Áp dụng nguyên tắc trên, theo cam kết dịch vụ, kể từ ngày 1/1/2009, ta cho phép các nhà đầu tư nước ngoài được lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam để cung cấp dịch vụ nghiên cứu thị trường. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài cũng được quyền mua 100% cổ phần của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ này.
Trong phần cam kết nền, ta cam kết cho phép các nhà quản lý, chuyên gia, giám đốc điều hành, chuyên gia của các doanh nghiệp nước ngoài được nhập cảnh, lưu trú và làm việc tại hiện diện thương mại (liên doanh, chi nhánh, v.v) của các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong một khoảng thời gian nhất định.
Ta cũng cho phép người chào bán dịch vụ, người chịu trách nhiệm thành lập hiện diện thương mại, nhà cung cấp dịch vụ theo hợp đồng (đối với dịch vụ máy tính và dịch vụ tư vấn kỹ thuật) được nhập cảnh và cung cấp dịch vụ tại Việt Nam.
Về đối xử quốc gia, ta cam kết dành đối xử bình đẳng cho các nhà cung cấp dịch vụ, dịch vụ nước ngoài, trừ việc ta bảo lưu chỉ dành trợ cấp cho các nhà cung cấp dịch vụ Việt Nam. Ta cũng bảo lưu quyền trợ cấp cho nghiên cứu và phát triển, cho các ngành y tế, giáo dục và nghe nhìn. Đồng thời ta cũng bảo lưu các khoản trợ cấp nhằm nâng cao phúc lợi và tạo công ăn việc làm cho đồng bào thiểu số.
Ngoài cam kết mở cửa thị trường, Việt Nam cũng phải tuân thủ các nghĩa vụ chung của Hiệp định GATS, bao gồm:
- Đối xử tối huệ quốc: Việt Nam đảm bảo đối xử bình đẳng giữa các nhà cung cấp dịch vụ từ các nước khác nhau. Ví dụ, nếu ta cho phép một doanh nghiệp từ một nước A lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để cung cấp dịch vụ quảng cáo thì ta cũng phải cho phép các doanh nghiệp nước ngoài khác lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong lĩnh vực quảng cáo. Cụ thể, các điều kiện cấp phép, điều kiện hoạt động cho các doanh nghiệp dịch vụ nước ngoài cũng phải giống nhau.
- Minh bạch hóa: ta cam kết sẽ công bố tất cả các quy định, biện pháp ảnh hưởng tới thương mại dịch vụ cho các nước Thành viên WTO. Ta cũng cam kết sẽ công bố công khai dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật (luật, pháp lệnh, nghị định) để lấy ý kiến các tổ chức, cá nhân có liên quan. Thời hạn dành cho việc góp ý tối thiểu là 60 ngày.
1.1.2. Cam kết của ngành dịch vụ phân phối
1.1.2.1 Các mặt hàng nước ngoài được phép phân phối tại Việt Nam
Theo nội dung cam kết, nhà phân phối nước ngoài chịu hạn chế về diện mặt hàng được phép phân phối tại Việt Nam. Hạn chế này có thể được chia thành 2 danh mục: danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài và danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ trình.
Danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài:
Là danh mục được quy định tại mục “các biện pháp áp dụng cho toàn bộ phân ngành trong dịch vụ phân phối”, bao gồm thuốc lá và xì gà, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình, kim loại quý và đá quý, dược phẩm, thuốc nổ và dầu đã qua chế biến, gạo, đường mía và đường củ cải. Đây là các mặt hàng nhạy cảm mà Chính phủ Việt Nam chưa có ý định cho nước ngoài tham gia phân phối tại Việt Nam. Việt Nam mở cửa các dịch vụ phân phối cho tất cả các sản phẩm nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam, trừ các mặt hàng sau đây:
- Thuốc lá và xì gà;
- Sách, báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình;
- Kim loại quý và đá quý;
- Dược phẩm;
- Thuốc nổ;
- Dầu thô và dầu đã qua chế biến;
- Gạo, đường mía và đường củ cải.
Đối với các sản phẩm trên, Việt Nam có thể dành quyền phân phối cho các doanh nghiệp trong nước, tức là các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài (được thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO) có thể sẽ không được quyền phân phối các sản phẩm này. Phạm vi chính xác (theo mã phân loại HS của biểu thuế quan) của các mặt hàng này được quy định tại Quyết định 10/2007/QĐ-BTM của Bộ Thương mại. Các nhà phân phối nước ngoài không được phép làm đại lý hoa hồng, bán buôn, bán lẻ và nhượng quyền đối với tất cả các mặt hàng thuộc danh mục này. Ngoài ra, họ không được bán các mặt hàng này thông qua các cơ sở đã thiết lập tại Việt Nam như liên doanh hoặc doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài và không được phép bán các mặt hàng này qua mạng.
Danh mục các mặt hàng hạn chế có lộ trình.
Gồm các mặt hàng được quy định tại cột hạn chế về tiếp cận thị trường mà nhà phân phối nước ngoài, cụ thể là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không được phép phân phối tại Việt Nam trong một khoảng thời gian nhất định kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO. Danh mục này bao gồm xi măng và clinke, lốp (trừ lốp máy bay), giấy, máy kéo, phương tiện cơ giới, ôtô con và xe máy, sắt thép, thiết bị nghe nhìn, rượu và phân bón. Theo như cam kết trong dịch vụ phân phối, đến năm 2010, danh mục này sẽ được bãi bỏ và các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phép phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu vào Việt Nam (ngoại trừ các mặt hàng thuộc danh mục hạn chế lâu dài). Một điểm cần lưu ý là danh mục này không ápdụng đối với dịch vụ nhượng quyền thương mại. Điều này có nghĩa là nhà phân phối nước ngoài được phép cung cấp dịch vụ nhượng quyền cho tất cả các mặt hàng thuộc danh mục hạn chế có lộ trình.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2009, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối (thông qua dịch vụ đại lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ) máy kéo, phương tiện cơ giới, ô tô con và xe máy.
Kể từ ngày 11/1/2010, các nhà phân phối có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phân phối tất cả các sản phẩm sản xuất tại Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp vào Việt Nam.
1.1.2.2. Phân phối qua mạng hoặc dưới các hình thức thương mại điện tử khác
Ngoài ra, ta cũng cho phép việc bán hàng qua mạng từ nước ngoài vào Việt Nam, việc bán hàng này liên quan tới việc phân phối qua phương thức 1 (cung cấp qua biên giới). Việc phân phối qua phương thức này có thể được thực hiện dưới dạng mua, bán hàng hóa qua mạng hoặc đặt hàng qua thư. Tuy nhiên, đối với phương thức này, ta chỉ cam kết cho phép các nhà phân phối nước ngoài được bán các loại hàng hoá sau:
- Các sản phẩm phục vụ nhu cầu cá nhân;
- Các chương trình phần mềm máy tính hợp pháp phục vụ nhu cầu cá nhân hoặc vì mục đích thương mại.
- Đối với các sản phẩm khác, việc bán hàng qua mạng sẽ tuân thủ các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam.
Phân phối qua mạng hoặc các hình thức thương mại điện tử khác được coi là cung cấp dịch vụ qua biên giới nếu như bên cung cấp dịch vụ và bên nhận dịch vụ không ở trong cùng một quốc gia.
Cam kết chỉ áp dụng đối với việc nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bán hàng từ nước ngoài vào Việt Nam thông qua mạng Internet hoặc các hình thức thương mại điện tử khác. Trong trường hợp này, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài vẫn ở tại nước ngoài, không di chuyển vào Việt Nam để thành lập hiện diện thươngmại như chi nhánh hoặc doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
1.1.2.3. Góp vốn trong liên doanh và thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
Theo nội dung cam kết, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được thành lập liên doanh với tỷ lệ góp vốn của phía nước ngoài không vượt quá 49% ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO. Đến 1/1/2008, họ được quyền tham gia vốn trong liên doanh ở bất kỳ tỷ lệ nào nhỏ hơn 100%. Đến 1/1/2009, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài được phép thành lập.
1.1.2.4. Kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
Theo cam kết, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được thành lập một cơ sở bán lẻ tại Việt Nam. Để thành lập cơ sở bán lẻ từ thứ hai trở đi (ngoài cơ sở thứ nhất), họ phải xin phép cơ quan có thẩm quyền. Trong trường hợp này, cơ quan có thẩm quyền sẽ căn cứ vào một số tiêu chí như số lượng các nhà cung cấp dịch vụ đang hiện diện tại một khu vực địa lý, sự ổn định của thị trường và quy mô địa lý để quyết định có cho phép mở thêm điểm bán lẻ hay không.
Nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài bao gồm doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài và công ty có vốn góp của nước ngoài dưới hình thức mua cổ phần. Do vậy, nếu doanh nghiệp 100% vốn Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực phân phối bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, họ có thể bị coi là nhà cung cấp dịch vụ có yếu tố nước ngoài và phải chịu hạn chế về kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) dù trước khi bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp không bị ràng buộc bởi hạn chế này.
1.1.2.5. Dịch vụ nhượng quyền thương mại.
Theo nội dung cam kết, ngay sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài sẽ được phép thành lập liên doanh với tỷ lệ góp vốn của nước ngoài không vượt quá 49%. Đến 01/01/2008, họ được phép góp vốn vào công ty liên doanh với tỷ lệ bất kỳ và tới 01/01/2009 sẽ được quyền thành lập doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài để hoạt động trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Điểm đáng lưu ý là các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài còn được phép thành lập chi nhánh để cung cấp dịch vụ nhượng quyền thương mại từ ngày 1/1/2010 với điều kiện trưởng chi nhánh phải là người thường trú tại Việt Nam. Danh mục các mặt hàng hạn chế tạm thời không áp dụng đối với lĩnh vực nhượng quyền thương mại. Danh mục các mặt hàng hạn chế lâu dài vẫn được áp dụng.
1.2. Đánh giá nội dung cam kết
Cam kết của ta trong WTO là phù hợp với định hướng phát triển ngành phân phối và thậm chí còn chặt hơn thực tiễn mở cửa ngành dịch vụ này ở trong nước.
Trước khi gia nhập WTO, trên thực tế ta đã cho phép các doanh nghiệp phân phối nước ngoài được thiết lập liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Ta đã cho phép một số tập đoàn phân phối lớn thành lập siêu thị 100% vốn nước ngoài và mở hàng loạt các siêu thị tại các tỉnh, thành phố ở Việt Nam. Tới cuối năm 2006 trên thị trường Việt Nam đã xuất hiện nhiều tập đoàn phân phối lớn của thế giới như: Metro Cash & Carry (Đức) với 6 siêu thị hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ. BigC có các siêu thị đang hoạt động tại TP.HCM, Hà Nội và Hải Phòng. Tập đoàn bán lẻ Parkson (Malaysia) ở TP.HCM. Bên cạnh đó, Tập đoàn Dairy Farm (Singapore) cũng nộp đơn xin thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, Lotte (Hàn Quốc) cũng vào VN thông qua hình thức liên doanh.
Khi ta gia nhập WTO, các doanh nghiệp phân phối có vốn đầu tư nước ngoài đã được cấp phép trước đó (kể cả các doanh nghiệp, siêu thị 100% vốn đầu tư nước ngoài) sẽ tiếp tục được hoạt động với các điều kiện như đã quy định trong giấy phép. Tuy nhiên, các doanh nghiệp thành lập sau khi Việt Nam gia nhập WTO sẽ phải tuân thủ các cam kết trong WTO đối với dịch vụ phân phối. Điều đó cũng là một bước đảm bảo cho các doanh nghiệp trong nước trong quá trình hội nhập.
Cam kết mang tính bảo hộ thị trường dịch vụ phân phối trong nước:
Việc hạn chế các mặt hàng được phân phối nhằm bảo đảm an nình quốc gia cũng như an toàn trong nước. Nhưng việc hạn chế các mặt hàng như dược phẩm, dầu thô, gạo cho thấy một phần bảo hộ của nhà nước. Đây là những nhóm ngành thiết yếu của nền hinh tế xã hội, việc hạn chế phân phối như trong cam kết đảm bảo việc nhà nước quản lý và điều tiết được dòng sản phẩm này trên thị trường.
Xét trong ngắn hạn, việc hạn chế có một số mặt hàng trong ngắn hạn, bao gồm các sản phẩm công nghiệp, một phần nhằm tạo thời gian cho các doanh nghiệp trong nước có bước phát triển, chuẩn bị đương đầu với thách thức khi mở cửa toàn bộ thị trường.
Việc thực hiện các quy định của ENT thực chất đã hạn chế một phần lớn việc xâm nhập thị trường của các doanh nghiệp phân phối nước ngoài. Bơi việc thực hiện đầy đủ các quy định của nhà nước để mở đại lý tiếp theo rất phức tạp. Hơn nữa, việc có mở hay không không phụ thuộc vào cơ chế thị trường, mà phụ thuộc vào quyết định của cơ quan chủ quản.
Chương 2:
ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC THỰC HIỆN CAM KẾT VỚI NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI CỦA NƯỚC TA.
2.1. Ngành dịch vụ phân phối của Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO.
Thời kì trước khi gia nhập WTO.
Theo số liệu của Bộ Thương mại (nay là Bộ Công Thương), trong giai đoạn 2001-2005 doanh thu bán lẻ thị trường Việt Nam tăng bình quân 18%/năm, cao gấp khoảng 2 lần so với mức tăng trưởng bình quân GDP cùng kỳ. Tuy nhiên, hệ thống phân phối của ta vẫn chưa phất triển và còn thô sơ. Theo số liệu thống kê tại thời điểm cuối năm 2006 thì hàng hóa đến người tiêu dùng chủ yếu vẫn qua hệ thống chợ (khoảng 40%) và qua hệ thống các cửa hàng bán lẻ độc lập, cửa hàng truyền thống (khoảng 44%), qua hệ thống phân phối hiện đại(trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng tự chọn..) mới chỉ chiếm khoảng 10%, 6% là do nhà sản xuất trực tiếp bán thẳng. Chúng ta có thể thấy sự yếu kém trong dịch vụ phân phối của Việt Nam như sau:
Chất lượng dịch vụ thấp hạn chế sức cạnh tranh
Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng chất lượng dịch vụ của Việt Nam còn thấp. Chiến lược cạnh tranh của các nhà cung cấp dịch vụ trong hầu hết các lĩnh vực dịch vụ chủ yếu dựa vào giá thay vì chất lượng dịch vụ. Rào cản chủ yếu của việc cung cấp dịch vụ chất lượng ở Việt Nam là sự hiểu biết hạn chế của khách hàng về các yếu tố tạo thành chất lượng dịch vụ và lợi thế cạnh tranh có được từ việc mua các dịch vụ chất lượng.
Trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, việc tiêu thụ những mặt hàng sản xuất được trong nước còn rất khó khăn, chưa giải phóng được năng lực sản xuất. Sự hạn chế về tiêu thụ hàng Việt Nam cũng do chất lượng dịch vụ của doanh nghiệp Việt Nam còn khá lạc hậu, thô sơ và yếu kém.
Cũng tương tự như việc hình thành tác phong công nghiệp, trong lĩnh vực dịch vụ phân phối, Việt Nam còn điểm yếu ở thái độ phục vụ, văn minh thương nghiệp. Việc chuyển biến dần từ hình thức phân phối truyền thống sang hiện đại không chỉ gói gọn ở việc hình thành các cơ sở hạ tầng thương mại mà còn ở thái độ, tư duy của người bán, người phục vụ, chính sách bán hàng, sự trung thực, uy tín trong mua bán…
Chưa tạo đà cho khu vực sản xuất.
Mặc dù khu vực dịch vụ của Việt Nam đang trở thành một động lực quan trọng của tăng trưởng kinh tế, tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP vẫn khiêm tốn và ít thay đổi trong gần một thập kỷ qua. Hiện nay, lĩnh vực dịch vụ chiếm 38-39% GDP, thấp hơn tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP của nhiều nền kinh tế đang chuyển đổi và các nền kinh tế ở Đông Nam Á (cụ thể là Singapore, Phi-lip-pin, Thái Lan, Cam-pu-chia, Malaysia và In-đô-nê-xia).
Trong khu vực dịch vụ, các dịch vụ phục vụ nhu cầu cuối cùng như dịch vụ phân phối, khách sạn và nhà hàng, du lịch chiếm tỷ trọng lớn trong GDP và tổng lực lượng lao động. Ngược lại, các dịch vụ trung gian có giá trị gia tăng cao và đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của toàn bộ nền kinh tế chưa được phát triển đúng mức và chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Hơn nữa, dịch vụ phân phối mới tiếp cận theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường, chưa tạo đươc việc gợi mở tiêu dùng cho khách hàng, thúc đẩy quá trình tiêu thụ sản phẩm thúc đẩy sản xuất.
Tình hình trên đây cho thấy những yếu kém xét cả từ phía doanh nghiệp và Nhà nước, từ góc độ chiến lược kinh doanh và môi trường kinh doanh. Đây là một trong những dấu hiệu “cảnh báo”, nếu không có những giải pháp tăng cường hiệu quả hơn, nền kinh tế Việt Nam vẫn có nguy cơ tiếp tục bị tụt hậu xa hơn và ảnh hưởng đến phát triển bền vững trong dài hạn.
Thời kì sau khi gia nhập WTO.
Sau hơn 3 năm gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, Việt Nam đã có nhiều chuyển biến mạnh mẽ trong lĩnh vực phân phối nói chung và lĩnh vực bán lẻ nói riêng. Tuy là một thị trường quy mô nhỏ nhưng lại có tốc độ phát triển nhanh, tiềm năng lớn, chính trị ổn định, cơ cấu dân số trẻ, Việt Nam có sức hấp dẫn mạnh mẽ đối với các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài. Đến hết năm 2009, Việt Nam có 446 siêu thị (tăng 62 siêu thị so với năm 2008) trong đó doanh nghiệp FDI có 21 siêu thị, doanh nghiệp trong nước có 425 siêu thị (Doanh thu FDI bán lẻ chỉ chiếm 4-5% doanh thu bản lẻ toàn quốc). Nhiều tập đoàn bán lẻ hàng đầu của nước ngoài như Metro Cash & Carry (Đức), Big C của Bourbon (Pháp), Parkson thuộc tập đoàn Lion (Malaysia), Diamond Plaza (Hàn Quốc), Lotte (Hàn Quốc)... đã có mặt ở nước ta. Mức lưu chuyển hàng hóa bán lẻ và dịch vụ của Việt Nam liên tục tăng cao qua các thời kỳ: 1996-2000: 10,75%/năm, 2001-2005: 18,3%, 2006-2008: 25%. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ xã hội 6 tháng đầu năm 2010 đạt 747,4 nghìn tỷ đồng, tăng 26,7% so với cùng kỳ năm 2009. Đồng thời, Việt Nam liên tục được xếp thứ hạng cao về chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ (GRDI). Theo A.T. Kearney (hãng tư vấn Mỹ), năm 2007 Việt Nam xếp thứ 4/7 nước có thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới, năm 2008 vượt lên đứng đầu.
Việt Nam được coi là một trong những thị trường nhiều tiềm năng nhất đối với các nhà đầu tư trên thế giới về phân phối, đặc biệt là bán lẻ. Việt Nam đứng thứ 6 trong bảng xếp loại Chỉ số Phát triển bán lẻ toàn cầu 2009 của A.T. Kearney (GRDI). Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đều chung một nhận định Việt Nam là một thị trường phát triển nhanh nhất trong khu vực châu Á, có sức hấp dẫn cao; với quy mô thị trường tương đối lớn và còn nhiều dư địa để khai thác, đang được định vị là điểm đến chiến lược trong con mắt các nhà đầu tư quốc tế trong lĩnh vực phát triển chuỗi cung ứng toàn cầu.
Hệ thống bán lẻ là huyết mạch lưu thông hàng hóa trong nền kinh tế, vậy thực tế 3 năm sau khi gia nhập WTO của hệ thống bán lẻ ở VN như sau:
Các doanh nghiệp nước ngoài.
- Nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Metro, Big C, Parkson, Lotte Mart…đã xin phép mở các siêu thị bán buôn, bán lẻ ở Việt nam, trước khi Việt nam gia nhập WTO. Các doanh nghiệp này đều phát triển thành chuỗi các siêu thị, Parkson có chuỗi 4 siêu thị tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng; Big C có chuỗi 10 siêu thị tại Việt nam (kể cả Big C ở Vinh sắp khai trương). Lotte chuẩn bị khai trương siêu thị thứ 2 tại thành phố Hồ Chí Minh. Các doanh nghiệp nước ngoài có thể phát triển thành chuỗi siêu thị theo nhiều cách khác nhau: Sau khi mở điểm bán lẻ thứ nhất, xin phép mở chi nhánh ở một thành phố khác, hoặc liên doanh với một doanh nghiệp Việt nam với tỷ lệ góp vốn dưới 49% sau đó mua mại cổ phần của doanh nghiệp Việt nam để trở thành doanh nghiệp có đa số vốn đầu tư nước ngoài. Hầu hết các siêu thị này đều được cấp phép trước ngày 1/1//2009, sau ngày 1/1/2009 chưa có thêm doanh nghiệp nước ngoài nào vào Việt nam, nguyên nhân do:
+ Tại thời điểm này do suy thoái kinh tế toàn cầu các doanh nghiệp nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn chưa phát triển hoạt động kinh doanh của mình.
+ Việt nam chỉ cho phép mở một điểm bán hàng, từ điểm thứ 2 phải thoả mãn ENT mà các doanh nghiệp nước ngoài cho rằng phải được phép mở một chuỗi các điểm bán hàng mới mở rộng được kinh doanh và có lãi.
+ Thủ tục hành chính, đặc biệt thủ tục cấp phép của Việt nam còn phức tạp, các tiêu chí của ENT còn chưa cụ thể, có thể giải thích theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc nhiều vào chủ quan của cơ quan cấp phép. Điều kiện tìm mặt bằng kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn, chi phí thuê mặt bằng ở các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí minh, Hà nội còn cao.
- Các siêu thị của doanh nghiệp nước ngoài tập trung ở các thành phố lớn như Hà nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải phòng, Đà nẵng, Cần thơ, Biên hoà, chiếm từ 3-5% doanh thu bán lẻ của thành phố. Hầu hết các siêu thị có quy mô lớn, mặt bằng kinh doanh trên 10 ngàn m2, siêu thị Big C Đồng nai, năm 2009 doanh thu là 594 tỷ VNĐ thu hút 8.000 lượt khách hàng, đáp ứng nhu cầu cho tập khách hàng có mức thu nhập trung bình và cao.
- Các siêu thị của các doanh nghiệp nước ngoài có đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại, đặc biệt là hệ thống logistics, hệ thống tin học, Metro đã chi 20-25 triệu euro trang bị cho hệ thống kho lạnh, xe chuyên dụng, thiết bị kiểm tra, bảo quản hàng hóa theo tiêu chuẩn, chi gần 800.000 euro cho huấn luyện.
- Các siêu thị nước ngoài có hệ thống cung cấp hàng hóa đa dạng, đặc biệt là hàng nhập khẩu(do hệ thống siêu thị nước ngoài cung cấp), siêu thị Lotte Mart Thành phố Hồ Chí Minh có trên 20 ngàn mặt hàng kinh doanh, đồng thời áp dụng kỹ thuật kinh doanh hiện đại, có các chương trình khuyến mại, bán hàng độc đáo để thu hút khách hàng, có hệ thống quản lý bán hàng tốt giảm được lượng hàng mất và hàng tồn kho. Tuy nhiên một số siêu thị còn vi phạm các quy định của nhà nước về mặt hàng kinh doanh như rựơu, thuốc lá, gạo ( rươu, thuốc lá theo cam kết doanh nghiệp nước ngoài không được phép kinh doanh muốn kinh doanh phải có giấy phép riêng, bán gạo phải mua gạo từ một doanh nghiệp nhà nước).
Các doanh nghiệp trong nước.
- Các đơn vị trong nước bao gồm các doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần, các doanh nghiệp tư nhân và hộ cá thể, kinh doanh theo hình thức siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng bách hoá, cửa hàng tiện ích, ki ốt bán hàng, chợ truyền thống và bao phủ trong toàn quốc, siêu thị của các doanh nghiệp trong nước không những phân bố ở các thành phố lớn trực thuộc trung ương, mà còn ở các thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh đáp ứng cho toàn bộ các tập khách hàng, không những làm nhiệm vụ kinh doanh mà còn làm nhiệm vụ chính trị như chương trình bình ổn giá, chương trình phục vụ miền núi…
- Hệ thống phân phối trong nước đã có sự chuẩn bị cho quá trình mở cửa và được phát triển mạnh mẽ. Ở Thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 có 73 siêu thị, năm 2008 là 81 siêu thị, tỷ lệ siêu thị hạng 1 tăng từ 48% lên 50,6%, siêu thị hạng 2 tăng từ 22% lên 25,9%, siêu thị hạng 3 giẩm từ 30% xuống còn 23,5%; Tỷ lệ Trung tân thương mại hạng 1 tăng từ 105 lên 13%, hạng 2 tăng từ 10% lên 13%, hạng 3 giảm từ 81% xuống còn 74%. Có nhiều chuỗi siêu thị có uy tín như Coop. Mart, Hpro, Phú thái, Satra, Maximark.., Coop. Mart có 45 siêu thị trong toàn quốc.
- Các siêu thị trong nước thường có quy mô không lớn, siêu thị Coop. Mart Biên hoà, năm 2009 có doanh thu 206 tỷ VND, thu hút 1.500 lượt khách hàng [5], nhưng chiếm những vị trí trung tâm, gần khu dân cư, thuận lợi thương mại và giao thông, am hiểu thói quen mua hàng của người Việt nam do đó có khả năng cạnh tranh. Theo số liệu điều tra người tiên dùng thực phẩm 2008, AGROINFO, chuỗi siêu thi Coop. Mart được người tiêu dùng đánh giá cao về các tiêu chí giá cả cạnh tranh, thanh toán nhanh gọn, gần nhà và thuận tiện giao thông so với các tập đoàn nước ngoài như Mtro và Big C, có 90,3% người hỏi cho rằng Coop. Mart mua sắm gần nhà và 77,6% cho rằng thuận tiện giao thông; 41,8% cho rằng nhân viên nhiệt tình, thân thiện; 50% cho rằng thủ tục thanh toán nhanh gọn.
- Doanh nghiệp trong nước thiếu mặt bằng kinh doanh, chi phí giải phóng mặt bằng cao, nguồn vốn còn thiếu, cơ sở hạ tầng thấp, đặc biệt là hệ thống logicstics, hệ thống tin học, kỹ thuật kinh doanh còn hạn chế, chất lượng dịch vụ còn thấp, quy mô nhỏ khó khăn trong quan hệ với các nguồn cung cấp, mức lương thấp hơn các doanh nghiệp nước ngoài, mức lương của nhân viên bán hàng ở các siêu thị trong nước thường thấp hơn từ 10-20%, mức lương của nhón trưởng có thể thấp hơn từ 2-4 lần so với các siêu thị nước ngoài, do đó một số nguồn nhân lực có chất lượng cao chuyển sang làm việc cho các doanh nghiệp nước ngoài.
Thực tế cho thấy, sau hơn một năm mở cửa hoàn toàn cho các doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn nước ngoài, các tập đoàn bán lẻ quốc tế đã không ồ ạt xâm nhập thị trường Việt Nam như dự đoán.
2.2. Đánh giá tác động của việc thực hiện những cam kết khi gia nhập.
Có thể nói các cam kết WTO đã thay đổi cách thức quản lý và điều chỉnh dịch vụ phân phối tại Việt Nam. Các bên liên quan, kể cả các nhà hoạch định chính sách và các doanh nghiệp, có những nhận định trái ngược về tác động của các cam kết này. Trên thực tế, các cam kết WTO tác động theo những hướng sau:
Trước hết, để tuân thủ các cam kết WTO, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều văn bản pháp luật, sửa đổi, bổ sung hoặc thậm chí thay thế các văn bản lạc hậu. Các văn bản chủ yếu điều chỉnh hoạt động của các nhà phân phối nước ngoài tại Việt Nam như Nghị định23/NĐ-CP, Thông tư 10/TT-BTM hoặc Thông tư 05/TT-BCT nêu trên đã góp phần làm cho các quy định đối với lĩnh vực phân phối trở nên minh bạch và phù hợp hơn với các chuẩn mực của WTO. Cơ chế cấp giấy phép trong lĩnh vực phân phối trên theo từng trường hợp đã được thay thế bằng phương thức minh bạch và có tiêu chí rõ ràng hơn.
Vai trò của Bộ Công Thương được tăng cường trong quy trình cấp giấy phép cho các nhà phân phối nước ngoài. Trước khi Nghị định 23/NĐ-CP có hiệu lực, việc cấp giấy phép đầu tư trong lĩnh vực phân phối do Sở Kế hoạch và Đầu tư (DPI) hoặc Bộ Kế hoạch và Đầu tư (trong trường hợp dự án quy mô lớn) thực hiện, không cần lấy ý kiến của Bộ Thương mại (trước đây). Nghị định 23 đòi hỏi cơ quan cấp phép đầu tư chỉ được cấp giấy phép cho nhà phân phối nước ngoài sau khi có ý kiến chấp thuận bằng văn bản của Bộ Công Thương. Xét từ góc độ nhà quản lý, Chính phủ Việt Nam đã quản lý lĩnh vực phân phối một cách hiệu quả hơn, đảm bảo việc cấp phép trong các tỉnh, thành phố nhất quán với quy hoạch quốc gia về lĩnh vực phân phối.
Các cam kết WTO tạo ra áp lực lớn đối với các nhà quản lý trong việc đảm bảo tuân thủ các cam kết WTO. Rõ ràng là theo các cam kết của Việt Nam trong biểu cam kết dịch vụ, cụ thể là về lĩnh vực phân phối, các nhà quản lý của Việt Nam phải làm rõ các hạn chế đối với nhà phân phối nước ngoài, cụ thể là kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT). Việc đề ra các tiêu chí cho ENT đảm bảo hiệu quả bảo hộ theo lộ trình đối với các nhà phân phối trong nước đông thời tạo thuận lợi cho việc thực thi các cam kết WTO rõ ràng không phải chuyện dễ.
Hội nhập và mở cửa thị trường là một xu hướng tất yếu trong điều kiện hiện nay. Mở cửa thị trường sẽ có những tác động tích cực và tác động tiêu cực đến hoạt động thương mại. Mức độ tác động phụ thuộc vào mức độ mở cửa thị trường. Theo nguyên tắc hoạt động của WTO thì các nước phát triển có mức độ mở cửa thị trường cao hơn và tốc độ nhanh hơn, còn các nước đang và chậm phát triển có mức độ mở cửa thị trường thấp hơn và tốc độ chậm hơn.
Về mở cửa lĩnh vực phân phối bán lẻ ở Việt nam được đánh giá là phù hợp. Mở cửa thị trường có các tác động tích cực và tiêu cực đến hệ thống bán lẻ của Việt nam.
Các tác động tích cực.
- Tạo ra một phong cách phục vụ văn minh hiện đại trong hệ thống bán lẻ Việt nam.
Khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào hệ thống bán lẻ Việt nam, các doanh nghiệp chỉ được phép mở một điển bán lẻ, còn từ điểm thứ 2 sẽ được xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế. Vì thế hầu hết các doanh nghiệp có xu hướng đầu tư các siêu thị lớn, đáp ứng cho nhu cầu mua sắm có chất lượng cao của người tiêu dùng. Đây là các siêu có quy mô lớn, mặt hàng đa dạng phong phú, áp dụng các phương tiện và kỹ thuật hiện đại trong cung cấp dịch vụ bán lẻ, phong cách phục vụ mới lạ, tạo nên sự văn minh hiện đại trong phục vụ, đáp ứng nhu cầu đa dạng phong phú và ngày càng nâng cao của người tiêu dùng. Qua khảo sát siêu thị Big C ở Hải phòng, Hà nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng nai, trong các ngày nghỉ, ngày tết, ngày lễ đã thu hút một lượng khách hàng lớn đến tham quan và mua sắm.
- Học tập được kinh nghiệm quản lý trong hệ thống bán lẻ hiện đại.
Các siêu thị bán buôn, bán lẻ của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt nam như Metro, Big C, Parkson, Lotte là những siêu thị áp dụng các công nghệ quản lý và kinh doanh hiện đại, đặc biệt trong lĩnh vực khai thác và cung cấp nguồn hàng, chương trình quảng cáo khuyến mại, hệ thống logicstics, quản trị nhân sự, kỹ thuật bán hàng…đây là các vấn đề có tính then chốt trong hoạt động của siêu thị mà các doanh nghiệp Việt nam còn nhiều hạn chế. Giám đốc Big C Hải phòng cho rằng hệ thống Big C có phương pháp khai thác nguồn hàng và cung cấp hàng hóa cũng như các chương trình khuyến mại, bán hàng rất linh hoạt, hiệu quả, tạo ra các mặt hàng, các dịch vụ khách hàng rất độc đáo với chi phí thấp và cạnh tranh có tác dụng thu hút khách hàng, tăng doanh số bán hàng và rất đáng để các siêu thị khác học tập
- Tạo động lực nâng cao khả năng cạnh tranh cho các nhà bán lẻ Việt nam.
Trong hoạt động kinh doanh nói chung và trong dịch vụ bán lẻ nói riêng để phát triển phải tạo động lực cạnh tranh và cạnh tranh công bằng. Các siêu thị nước ngoài với các ưu điểm có tính nổi trội là đối thủ cạnh tranh trực tiếp của các siêu thị, các chuỗi cửa hàng tiện ích của các doanh nghiệp Việt nam. Để tồn tại, các doanh nghiệp buộc phải tự hoàn thiện mình, nâng cao khả năng cạnh tranh , đây là động lực để các doanh nghiệp phát triển
- Làm đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ trên thị trường.
Các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường cung cấp dịch vụ có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu bậc cao của thị trường. Các doanh nghiệp Việt nam chủ yếu cung cấp các hình thức bán lẻ truyền thống, các chuỗi cửa hàng tiện ích, các siêu thị có chất lượng dịch vụ bậc trung. Sự có mặt của các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài đã làm đa dạng hoá, tạo nên một chuỗi các sản phẩm dịch vụ phủ đầy các phân khúc thị trường bán lẻ của Việt nam.
- Tăng cơ hội hợp tác kinh doanh.
Chỉ tính riêng phương thức 3, để tiếp cận thị trường bán lẻ Việt nam doanh nghiệp nước ngoài có thể thành lập chi nhánh, thành lập công ty 100% vốn nước ngoài, có thể góp vốn liên doanh với các doanh nghiệp Việt nam, có thể mua cổ phần của các doanh nghiệp bán lẻ Việt nam, đồng thời các doanh nghiệp nước ngoài còn có nhu cầu thuê mặt bằng, nhu cầu về dịch vụ nghiên cứu thị trường, cung cấp hàng hóa, dịch vụ hỗ trợ….đây là cơ hội để các doanh nghiệp Việt nam hợp tác kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài.
- Nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ.
Mở cửa thị trường phân phối sẽ tạo nên một sự cạnh tranh rất gay gắt, các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài đều phải thường xuyên nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Một trong các giải pháp tạo nên khả năng cạnh tranh vượt trội là nâng cao chất lượng giảm giá thành dịch vụ, làm chất lượng dịch vụ khách hàng thường xuyên được cải thiện, giá hàng hóa có tính cạnh tranh. Khảo sát thực tế tại siêu thị Intimex Hải phòng, Coop Mart Thành phố Hồ Chí Minh đều cho rằng để cạnh tranh với các siêu thị nước ngoài như Big C, các siêu thị này đều phải áp dụng các biện pháp nhằm nâng chất lượng dịch vụ tạo nên sự văn minh, sang trọng trong phong cách phục vụ, giảm các chi phí nhằm giảm giá hàng hóa nhằm thu hút khách hàng, điều này kích thích tiêu dùng và tác động tích cực đển dòng vận động của hàng hóa để phát triển sản xuất.
- Góp phần xuất khẩu hàng hóa cho Việt nam.
Các doanh nghiệp nước ngoài thường có hệ thống, bán buôn, bán lẻ toàn cầu, một số hàng hóa Việt nam được xuất khẩu để cung cấp cho hệ thống ở nước ngoài. Ở Việt nam, Metro đã tham gia xuất khẩu các sản phẩm của Việt nam cho hệ thống Metro toàn cầu, các doanh nghiệp khác hoạt động xuất khẩu cũng còn hạn chế.
Các tác động tiêu cực.
- Tạo nên sự cạnh tranh gay gắt đối với các doanh nghiệp bản lẻ trong nước.
Tạo nên sự cạnh tranh vừa tác động tích cực, nhưng vừa là tác động tiêu cực đến các doanh nghiệp bán lẻ trong nước. Mở cửa thị trường áp lực cạnh tranh nên các doanh nghiệp trong nước ngày càng tăng cao, yêu cầu các doanh nghiệp trong nước phải thường xuyên đổi mới, tự hoàn thiện để phát triển trong môi trường có tính cạnh tranh quốc tế, những doanh nghiệp không đủ khả năng cạnh tranh sẽ bị loại ra khỏi hệ thống hoặc chuyển sang các lĩnh vực kinh doanh khác phù hợp hơn.
- Các doanh nghiệp bán lẻ trong nước bị mất dần thị phần.
Khi mở cửa thị trường, các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài thường chọn các phân khúc thị trường hấp dẫn để chiếm lĩnh, thường là các phân khúc thị trường mà các doanh nghiệp Việt nam chưa có lợi thế. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp nước ngoài làm cho thị trường của các doanh nghiệp Việt nam bị thu hẹp, gây khó khăn cho sự phát triển của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước.
- Có một sự chuyển dịch nguồn nhân lực chất lượng cao từ các doanh nghiệp bán lẻ trong nước sang các doanh nghiệp bán lẻ nước ngoài.
Các doanh nghiệp nước ngoài thường có các điều kiện làm việc tốt và trả mức lương hấp dẫn hơn. Khi các doanh nghiệp nước ngoài tham gia vào hệ thống bán lẻ trong nước sẽ cần nguồn nhân lực trong nước, theo kinh nghiệm của Trung quốc sẽ có một số cán bộ quản lý, bán hàng, phục vụ có chất lượng cao được chuyển dịch từ các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước sang các doanh nghiệp nước ngoài. Qua khảo sát tại Coop. Mart, Maximark nhiều cán bộ quản lý và nhân viên bán hàng đã sang làm việc tại các siêu thị nước ngoài. Sự chuyển dich nguồn nhân lực, nhất là các nhà quản lý cấp cao có chất lượng sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước.
Cuối cùng, một vấn đề lớn mà Việt Nam phải đối mặt là làm thế nào để cân bằng các chính sách kinh tế xã hội với việc thực thi các hạn chế trong Biểu cam kết của Việt Nam. Nhiều cán bộ Chính phủ và chuyên gia cho rằng các cam kết WTO khiến các cơ quan quản lý địa phương khó có thể chỉ theo đuổi các mục tiêu kinh tế xã hội riêng của địa phương. Các chuyên gia Việt Nam nêu ví dụ như sau: “Nếu địa phương muốn thu hút các dự án đầu tư lớn vào lĩnh vực phân phối, họ sẽ phải vi phạm các cam kết. Nếu không, họ phải từ chối hồ sơ đề nghị cấp phép của các nhà phân phối nước ngoài. Việt Nam đã gặp tình huống này nhiều lần. Gần đây METRO đã yêu cầu Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép lập cơ sở bán lẻ thứ 9 và trao quyền bán gạo tại chi nhánh này. Hồ sơ của Metro được Ủy ban nhân dân tỉnhAn Giang ủng hộ hoàn toàn vì dự án của Metro dự kiến sẽ hỗ trợ lớn cho các nông dân canh tác lúa gạo ở An Giang. Tuy nhiên, gạo là mặt hàng loại trừ trong các cam kết WTO về dịch vụ phân phối. Nếu Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang đồng ý cấp phép cho METRO, họ sẽ vi phạm các cam kết WTO”.
Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa cam kết WTO của Việt Nam với sự tự do trong việc theo đuổi các chính sách kinh tế chính đáng thật ra không có thực mà chẳng qua là sự suy diễn sai bản chất cam kết WTO. Các cam kết về mở cửa thị trường của các thành viên WTO thể hiện mức ‘sàn’ chứ không phải mức ‘trần’. Nói cách khác, các cam kết GATS của Việt Nam về lĩnh vực phân phối ràng buộc Chính phủ Việt Nam phải cho phép METRO được phân phối hàng hóa trong lãnh thổ Việt Nam nhưng không ràng buộc phải cho phép phân phối gạo. Việc trao cho nhà phân phối nước ngoài quyền phân phối gạo hay lập cơ sở bán lẻ thứ hai không hạn chế là tùy ở Việt Nam chứ không phụ thuộc vào WTO hay cam kết GATS. Việt Nam được phép áp dụng các hạn chế theo Biểu cam kết nhưng không bắt buộc phải áp dụng các hạn chế này. WTO không ngăn cản Việt Nam mở cửa thị trường ở mức độ cao hơn mức quy định trong Biểu cam kết. Cách diễn giải khác đi là trái ngược với bản chất của các Hiệp định WTO vốn khuyến khích tự do hóa thương mại.
Chương 3:
KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ PHÂN PHỐI TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP.
Đối với cơ quan quản lý nhà nước.
- Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật tạo môi trường thuận lợi và minh bạch.
Khi gia nhập Việt nam phải thay đổi các văn bản pháp luật cho phù hợp với các quy định của WTO. Tuy nhiên trong quá trình thực thi các cam kết, cần phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật để tạo nên sự minh bạch và môi trường kinh doanh thuận lợi hơn.
Trước mắt cần cụ thể hoá các tiêu chí về quy mô địa lý, số lượng các nhà cung cấp trên địa bàn, sự ổn định của thị trường, mật độ dân cư trên địa bàn và sự phù hợp của dự án đầu tư với quy hoach của địa phương của cơ sở kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT) khi mở điểm bán lẻ thứ hai trở đi, để tránh việc các địa phương có cách giải thích và vận dụng khác nhau, tạo nên sự công bằng, minh bạch và làm cơ sở để các doanh nghiệp nước ngoài làm hồ sơ, cũng như làm cơ sở để các cơ quan chức năng xem xét hồ sơ xin mở điểm bán lẻ thứ 2 trở đi của các doanh nghiệp nước ngoài.
Cần hoàn thiện các văn bản pháp luật, để tránh các trường hợp doanh nghiệp nước ngoài đã mở điểm bán lẻ thứ nhất, tiếp đó xin giấy phép liên doanh với các doanh nghiệp Việt nam với số vốn góp dưới 49% (cam kết không hạn chế) sau đó mua lại cổ phần của doanh nghiệp Việt nam và trở thành điểm bán lẻ thứ hai mà không cần phải kiểm tra nhu cầu kinh tế (ENT).
- Các địa phương cần tiếp tục hoàn thiện quy hoạch về hệ thống phân phối bán lẻ, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, đặc biệt là thủ tục cấp phép đầu tư, cấp phép kinh doanh. Quy hoạch và các thủ tục hành chính phải minh bạch và công bố công khai, có hướng dẫn cụ thể đối với các doanh nghiệp nước ngoài, tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp lựa chọn địa điểm phù hợp và xin cấp phép để đầu tư và kinh doanh.
- Tăng cường kiểm tra, giám sát các hoạt động bán buôn, bán lẻ, tránh trường hợp kinh doanh các hàng hóa không đủ điều kiện, các hàng hóa vi phạm bản quyền, chất lượng thấp, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm…, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng, tạo nên môi trường cạnh tranh minh bạch công bằng, thúc đẩy sản xuất và dịch vụ phân phối phát triển.
- Có các biện pháp hạ lãi xuất, giúp các doanh nghiệp trong nước dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn, hỗ trợ thông tin, nhất là các thông tin có tính cảnh báo và đào tạo nguồn nhân lực cho các doanh nghiệp trong nước, tăng cường hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong nước theo các chương trình bình ổn gía, các chương trình hỗ trợ bán hàng cho các vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, để các doanh nghiệp trong nước vừa thực hiện được nhiệm vụ kinh doanh và nhiệm vụ chính trị của mình.
Đối với doanh nghiệp.
- Áp dụng mô hình quản lý hiện đại nâng cao khả năng cạnh tranh.
Mở cửa thị trường dịch vụ phân phối là một tất yếu trong quá trình hội nhập của nước ta. Mở cửa thị trường có tác động tích cực, song bên cạnh đó cũng có các tác động tiếu cực mà yêu cầu các doanh nghiệp trong nước để tồn tại và phát triển kinh doanh, phải không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh, áp dụng các mô hình quản lý kinh doanh hiện đại, đa dạng hoá các chương trình khuyến mãi và bán hàng, tạo nên sự mới lạ và phong cách bán hàng văn minh để thu hút khách hàng.
- Đa dạng hoá mặt hàng, nâng cao chất lượng, giảm giá thành.
Một trong những hạn chế của các doanh nghiệp bán lẻ trong nước là các nguồn cung cấp hàng hoá hạn chế, đặc biệt là nguồn hàng nhập khẩu so với các doanh nghiệp nước ngoài, chính vì vậy các doanh nghiệp trong nước phải phát huy các lợi thế của mình trong việc khai thác các nguồn hàng trong nước, vừa làm đa dạng danh mục mặt hàng, tiết kiệm chi phí vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp sản xuất trong nước phát triển và thực hiện được chương trình “Người Việt nam dùng hàng Việt nam”. Bên cạnh đó, phải đảm bảo chất lượng sản phẩm, không bán các hàng hóa không rõ nguồn gốc xuất xứ, vi phạm bản quyền, không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm để tạo uy tín cho doanh nghiệp, đồng thời phát triển hệ thống logicstics, áp dụng công nghệ thông tin, không ngừng nâng chất lượng dịch vụ, giảm giá thành để tạo nên sự cạnh tranh riêng biệt của các nhà bán lẻ trong nước.
- Có chính sách về nguồn nhân lực, thu hút nhân lực có chất lượng cao.
Hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thì nguồn nhân lực giữ một vị trí rất quan trọng. Các doanh nghiệp cần có các chính sách về đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực, thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên của doanh nghiệp, gửi các cán bộ có năng lực đi tham quan thực tế và học tập nâng cao trình độ ở nước ngoài, đồng thời có chính sách để tăng thu nhập và tạo các cơ hội về nghề nghiệp và thăng tiến để giữ chân và thu hút nguồn nhân lực có chất lượng cao cho doanh nghiệp, trên cơ sở đó để nâng cao khả năng cạnh tranh để cùng phát triển hệ thống phân phối đáp ứng nhu cầu hội nhập của nước ta hiện nay.
KẾT LUẬN
Với sự nỗ lực không ngừng của các cấp, các ngành và đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ phân phối thì hệ thống ngành phân phối của chúng ta đã và đang có những bước phát triển mới. Tuy nhiên, để có thể “sánh vai” với các cường quốc trên thế giới thì chúng ta còn cần phải cố gắng hơn rất nhiều và sự cố gắng này không chỉ dừng lại ở một cá nhân một tập thể hay của bất cứ ai mà là của cả đất nước, từ các cơ quan nhà nước cho tới các doanh nghiệp.
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 1
Học phần: WTO – cam kết và lộ trình thực hiện của Việt Nam.
Đề tài: Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối và đánh giá tác động của những cam kết này đối với dịch vụ phân phối của Việt Nam như thế nào?
Mã lớp học phần: : 1103ITOM0221.
Nhóm: 05.
- Địa điểm: Trước Trung tâm thông tin - thư viện.
- Thời gian: Ngày 18/09/2011 lúc 15h30 phút.
- Nội dung họp: Tất cả thành viên đóng góp ý kiến của mình để đưa ra dàn ý sơ bộ cho đề tài thảo luận. Sau khi thống nhất ý kiến và được sự đồng tình của mọi người, nhóm trưởng phân công việc cho từng thành viên trong nhóm. Buổi họp sau tất cả thành viên có trách nhiệm hoàn thành xong phần bài được giao và nộp lại cho nhóm trưởng.
- Yêu cầu: Bài đánh máy cỡ chữ 13. Dãn dòng 1.5 font Times new roman.
- Chi tiết phân công công việc:
+ Vũ Viết Hiếu, Tô Thị Huệ: Chương I - Cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối.
+ Nguyễn Vũ Huy, Phạm Thị Huệ, Nguyễn Thị Hoa: Chương II – Đánh giá tác động của việc thực hiện cam kết với ngành dịch vụ phân phôi của nước ta.
+ Đỗ Thị Thanh Huyền, Lê Thanh Hùng, Nguyễn Thị Mai Hoa, Ngô Diệu Hương: Chương III – Kiến nghị và giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ phân phối trong điểu kiện hôi nhập.
Ngày 18 tháng 09 năm 2011
Nhóm trưởng Thư ký
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
BIÊN BẢN HỌP NHÓM LẦN 2
Học phần: WTO – cam kết và lộ trình thực hiện của Việt Nam.
Đề tài: Phân tích cam kết của Việt Nam với WTO về dịch vụ phân phối và đánh giá tác động của những cam kết này đối với dịch vụ phân phối của Việt Nam như thế nào?
Mã lớp học phần: : 1103ITOM0221.
Nhóm: 05
- Địa điểm: Trước H1.
- Thời gian: Ngày 25/09/2011 lúc 15h.
- Nội dung họp:
+ Tất cả các thành viên trong nhóm đến đúng giờ, có mặt đầy đủ và nộp lại phần bài của mình được giao hôm trước cho nhóm trưởng.
+ Nhóm trưởng và một thành viên nữa sẽ có trách nhiệm mang bài về tổng hợp lại thành bài hoàn chỉnh.
+ Cử người thuyết trình: Nguyễn Như Hùng.
+ Cử người làm slide: Nguyễn Thị Mai Hoa.
Ngày 25 tháng 09 năm 2011
Nhóm trưởng Thư ký
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc.
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ
STT
HỌ VÀ TÊN
LỚP
ĐIỂM ĐÁNH GIÁ
CHỮ KÝ
1
NGUYỄN NHƯ HÙNG (NT)
K45E6
2
VŨ VIẾT HIẾU
K45E1
3
NGUYỄN VŨ HUY
K45E5
4
PHẠM THỊ HUỆ
K45E3
5
TÔ THỊ HUỆ
K45E5
6
NGUUYỄN THỊ HOA
K45E2
7
NGUYỄN THỊ MAI HOA (TK)
K45E7
8
ĐỖ THỊ THANH HUYỀN
K45E6
9
LÊ THANH HÙNG
K45E7
10
NGÔ DIỆU HƯƠNG
K45E3
Ngày 30 tháng 09 năm 2011
Nhóm trưởng Thư ký
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cam kết GATS về dịch vụ phân phối và thực trạng áp dụng ở Việt Nam.doc