PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Trong trần thuật học hiện nay, người đọc không còn quá chú trọng đến cách xây dựng nhân vật, cách nhà văn giải quyết các biến cố trong truyện mà người ta quan tâm nhiều hơn đến việc nhà văn nói gì và nói như thế nào? Bởi vậy mà nghệ thuật kể chuyện được nhiều nhà phê bình tập trung nghiên cứu và trở thành một con đường để độc giả đi tìm ý nghĩa nội dung tư tưởng mà nhà văn đặt ra trong tác phẩm. Nhìn chung, nghệ thuật kể chuyện là một khái niệm rất rộng, bao gồm tất cả các phương tiện mà người nghệ sĩ sử dụng để viết lên tác phẩm như người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu, .
Truyện ngắn là một thể loại thuộc phương thức trần thuật. Về phương diện nội dung, nó được xem là một lát cắt ngang của cuộc sống. Với dung lượng nhỏ, thể loại này là sự kết tinh cao nhất của ngôn từ. Bởi nhà văn khi viết vừa phải đáp ứng được yêu cầu về dung lượng mà vẫn phải tái hiện cuộc sống một cách chân thực, khách quan đồng thời biểu hiện được những suy nghĩ chủ quan của mình. Có thể khẳng định rằng truyện ngắn là sự kết tinh cao nhất của nghệ thuật văn xuôi. Một truyện ngắn thành công không thể thiếu sự nỗ lực, cố gắng của nhà văn trong nghệ thuật kể chuyện. Cách kể chuyện trong truyện ngắn cũng khó hơn, phức tạp hơn nhiều so với tiểu thuyết bởi tính cô đọng, súc tích mà thể loại này yêu cầu.
Trong văn đàn văn học Việt Nam, cái tên Hồ Dzếnh xuất hiện đã lâu nhưng lại không được nhiều nhà phê bình tập trung nhắc đến có lẽ bởi tác phẩm ông để lại cho đời không nhiều. Song, văn xuôi Hồ Dzếnh lại ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu xa, thể hiện cái nhìn về cuộc đời của con người mang hai dòng máu, thuộc về hai quê hương. Truyện ngắn của ông được viết bằng một chất giọng man mác buồn, đầy ắp những suy tư, những trăn trở về cuộc sống và con người.
Chân trời cũ được xem là một truyện ngắn xuất sắc của Hồ Dzếnh. Chỉ với mười ba truyện ngắn mang hình thức tự truyện, ông đã mở ra trước mắt người đọc một chân trời kí ức xa xôi mà đậm sâu, mang lại những rung cảm sâu sắc. Ở đây, nhà văn đã chọn cho mình một phong cách kể chuyện rất riêng, rất mới lạ và độc đáo. Ngôn ngữ khá trong sáng, mạch lạc, mang đậm chất thơ, đậm tính nhạc và tính họa. Có lẽ nhờ cách kể chuyện đầy hấp dẫn này mà ngày nay, bạn đọc biết đến Hồ Dzếnh như một cây bút viết truyện ngắn trữ tình xuất sắc của văn học Việt Nam.
Vì những lí do đó mà trong bài niên luận này, tôi xin tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu nghệ thuật kể chuyện trong tập truyện Chân trời cũ với mục đích đóng góp thêm ý kiến đánh giá của mình vào quá trình đánh giá toàn bộ sự nghiệp văn học của Hồ Dzếnh trong tiến trình văn học Việt Nam.
2. Phạm vi, đối tượng và mục đích nghiên cứu:
Hồ Dzếnh là một cây bút tài năng trên cả hai lĩnh vực thơ ca và văn xuôi. Nhưng có lẽ thứ làm nên tên tuổi của nhà văn không thể không nhắc đến các truyện ngắn của ông. Mặc dù bút lực chỉ thực sự phát triển trong giai đoạn tiền khởi nghĩa nhưng nhà văn cũng kịp để lại cho đời nhiều tác phẩm xuất sắc mà Chân trời cũ là một tác phẩm điển hình.
Bài nghiên cứu tập trung đi sâu vào việc nghiên cứu tập truyện Chân trời cũ của Hồ Dzếnh dưới ánh sáng của trần thuật học. Bài viết sẽ đi vào phân tích những nét đặc sắc trong nghệ thuật kể chuyện của nhà văn, rút ra những cách tân độc đáo của Hồ Dzếnh so với văn xuôi giai đoạn tiền chiến.
Nghiên cứu theo hướng khai thác về cách kể chuyện của ông qua tập truyện Chân trời cũ, trong quy mô bài viết, tôi muốn đưa ra một cái nhìn khách quan, tổng thể và thấu đáo về nghệ thuật kể chuyện, về cách nhà văn nói gì và nói như thế nào về cuộc đời. Trên cơ sơ đó để nêu lên những đặc điểm riêng biệt trong văn phong Hồ Dzếnh so với các tác giả khác đương thời. Qua đó giúp người đọc có một cái nhìn khách quan về chính xác về những tác phẩm của Hồ Dzếnh.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Để tiến hành bài viết này, tôi áp dụng một số phương pháp nghiên cứu như sau:
Phương pháp so sánhPhương pháp tổng hợpPhương pháp phân tích tác phẩm văn học
Các phương pháp này đều được tiến hành dựa trên ánh sáng của các lí thuyết về trần thuật học, tự sự học mà cụ thể là các nghiên cứu về phương diện người kể chuyện, điểm nhìn trần thuật, ngôn ngữ, giọng điệu, .
4. Cấu trúc của bài viết:
Ngoài phần mở đầu và kết luận. bài viết này bao gồm ba chương:
Chương I: Hồ Dzếnh và tập Chân trời cũ
Chương II: Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật
Chương III: Ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật
37 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5279 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chất thơ và điểm nhìn trần thuật của Hồ Dzếnh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và quy luật phát triển riêng biệt.
Trước đây, nhiều người thường đồng nhất người kể chuyện và tác giả. Tuy nhiên, đây là một quan niệm hết sức sai lầm. “Trong kể miệng, người trần thuật là một người sống sinh động. Trong trần thuật viết phi văn học, người trần thuật nói chung đồng nhất với tác giả. Nhưng trong tác phẩm trần thuật mang tính chất văn học, thì người trần thuật lại khác, nó bị trừu tượng hóa đi, trở thành một nhân vật ẩn hoặc hiện trong tác phẩm tự sự” [223, y]. Về mặt bản chất, người kể chuyện chính là hình tượng do nhà văn sáng tạo lên, mang nhiệm vụ trần thuật và chỉ im lặng khi nhân vật lên tiếng. Người kể chuyện có thể mang tư tưởng của nhà văn, thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của người nghệ sĩ về thế giới khách quan nhưng tuyệt đối không bao giờ được đồng nhất hai khái niệm này. Trong một tự sự thông thường, người kể chuyện mang năm chức năng cơ bản là chức năng kể chuyện, trần thuật; chức năng truyền đạt, đóng vai một yếu tố của tổ chức tự sự; chức năng chỉ dẫn; chức năng bình luận; chức năng nhân vật hóa. Thực hiện năm chức năng này, người trần thuật đã thể hiện được ý đồ tư tưởng nghệ thuật của nhà văn một cách thành công.
Có khá nhiều nhà lí luận tập trung vào việc nghiên cứu về phạm trù người trần thuật trong tự sự như R. Scholes và R. Kellogy, Bathkhin, W. Booth,.. Họ đưa ra nhiều quan điểm cũng như cách phân loại người kể chuyện. Hai nhà nghiên cứu R. Scholes và R. Kellogy cho rằng phải đặt người kể chuyện trong mối quan hệ với thế giới được kể, quan hệ với các sự kiện và nhân vật được kể. Từ đó hai ông phân loại người kể chuyện ra làm bốn kiểu là người kể chuyện truyền thống, sử quan, người kể chuyện nhân chứng và người kể chuyện toàn tri. Qua cách phân loại này có thể nhận thấy họ đã đặt người kể truyện trong tiến trình phát triển của lịch sử văn học từ cổ đại đến hiện đại và đặc biệt chú ý đến cấp độ giao tiếp. Trong khi đó, W. Booth lại nghiên cứu người kể chuyện trong giới hạn của tác phẩm hư cấu. Trên cơ sở nghiên cứu về sự im lặng của tác giả, ông đã phân tách thành hai kiểu người kể chuyện ẩn tàng và người kể chuyện tường minh, đồng thời cho chúng ta những hiểu biết về từng kiểu người kể chuyện.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu của G. Genette được mọi người chấp nhận và ủng hộ nhiều hơn cả. Genette nghiên cứu người trần thuật trong mối tương quan với các yếu tố nội cấu trúc như tiêu cự (focus), tiêu điểm (focalization), thức (mood), giọng điệu (voice) và tần suất. Từ đó, ông nêu ra bốn kiểu kể chuyện tương ứng với bốn kiểu người kể chuyện khác nhau. Nếu dựa vào việc xác định nơi truyện kể bắt đầu thì có hai kiểu người kể chuyện là người kể chuyện bên trong (intradiegetic narrator) và người kể chuyện bên ngoài (extradiegetic narrator). Còn dựa vào mức độ liên quan vào cốt truyện thì có người kể chuyện đồng sự (homodiegetic narrator) và người kể chuyện dị sự (heterodiegetic narrator). Đồng thời, ông nhận thấy rằng người kể chuyện bên trong tương đối rõ ràng, là một nhân vật trong truyện kể lại câu chuyện do anh ta trực tiếp tham gia hay được chứng kiến. Còn kiểu người kể chuyện bên ngoài khá nhập nhằng, phức tạp. Bởi vậy cần phải gắn người kể chuyện với các tiêu cự, tiêu điểm, điểm nhìn và trả lời được các câu hỏi Ai kể? Đứng ở đâu để kể? Từ đó, Genette đã phân biệt người kể chuyện thành ba kiểu cơ bản là người kể chuyện toàn tri, người kể chuyện bên trong và người kể chuyện bên ngoài.
2.1.2. Điểm nhìn trần thuật (point of view):
Điểm nhìn (point of view) là một trong những vấn đề cơ bản, then chốt của trần thuật. Điểm nhìn được hiểu là vị trí, chỗ đứng của người kể chuyện để xem xét, bình luận, miêu tả các sự việc hiện tượng trong tác phẩm. Nó được xem như một chiếc camera dẫn dắt người đọc vào thế giới nghệ thuật mà nhà văn xây dựng lên. “Không thể có nghệ thuật nếu như không có điểm nhìn vì nó thể hiện sự chú ý quan tâm và đặc điểm của chủ thể trong việc tái tạo ra cái nhìn nghệ thuật” [113, y]. Đồng thời điểm nhìn cũng chính là cơ sở để phân biệt người kể chuyện với tác giả. Người kể chuyện có thể mang điểm nhìn của tác giả song tác giả lại không có vai trò đáng kể trong việc sắp xếp, tổ chức truyện kể. Bởi vậy mà điểm nhìn và người kể chuyện là hai phạm trù không thể tách rời. Truyện bao giờ cũng được kể từ một điểm nhìn nhất định và bởi một người kể chuyện nào đó. Pospelov khẳng định vai trò quan trọng của điểm nhìn trần thuật trong tác phẩm tự sự: “Trong tác phẩm tự sự, điều quan trọng là tương quan giữa các nhân vật với chủ thể trần thuật, hay, nói cách khác, điểm nhìn của người trần thuật đối với những gì mà anh ta miêu tả”.
Theo lí thuyết của tự sự học, có ba kiểu điểm nhìn gắn với ba kiểu người kể chuyện. Đó là điểm nhìn từ đằng sau - Zero, điểm nhìn từ bên trong và điểm nhìn từ bên ngoài.
Người kể chuyện toàn tri ứng với điểm nhìn zero, nhìn từ đằng sau. Khi đó tiêu cự bằng không hay còn gọi là phi tiêu điểm (zero focalization). Người kể chuyện mang sức mạnh toàn năng, thông suốt, tường tận hết mọi chuyện không chỉ ở hiện tại mà còn có khả năng tái hiện lại quá khứ và dự báo trước tương lai. Với vai trò như thượng đế, chúa trời, người kể chuyện biết hết mọi chuyện nhân sinh, vũ trụ. Ngay cả đời sống nội tâm phức tạp và thầm kín của con người cũng được anh ta thâu tóm và kể lại một cách trung thực. Độ bao quát hiện thực của người kể chuyện bao giờ cũng lớn hơn hết thảy mọi nhân vật. Con mắt của người trần thuật có mặt ở mọi nơi, mọi lúc, xoáy sâu vào từng chi tiết nhỏ của đời sống để kể lại cho độc giả. Nhờ vậy mà mọi hiện thực đều được phơi bày một cách rõ nét. Điều này dường như đang trở thành một hạn chế lớn của kiểu người kể chuyện toàn tri và điểm nhìn zero. Ngày nay, dạng người kể chuyện này không được nhiều nhà văn sử dụng vì nó tạo ra tâm lí nhàm chán cho độc giả. Con người hiện đại luôn được xem là một thực thể phức tạp và khó hiểu. Bởi vậy, mọi câu chuyện được viết ra đều phải tạo cho người đọc hứng thú khám phá, một thái độ biết hoài nghi, phủ nhận. Nhưng kiểu người kể chuyện toàn tri với điểm nhìn zero lại không thể thực hiện được điều đó khi mọi chỗ trống đều được lấp đầy, mọi hiện thực đều được phơi bày khiến độc giả rơi vào cảm giác tẻ nhạt, thiếu hứng thú, nó tạo ra một lớp độc giả lười biếng.
Người kể chuyện bên trong gắn với điểm nhìn bên trong, điểm nhìn của nhân vật, nội tiêu điểm (internal focalization). Ở đây, nhà văn thôi không nói nữa mà xây dựng lên kiểu nhân vật tự nhìn, nhân vật tự nói và tự chiêm nghiệm, tự đánh giá. Bởi vậy nó mang tính chân thực và gần gũi hơn. Tầm bao quát hiện thực, sự hiểu biết của người kể chuyện tương ứng với của nhân vật trong truyện. Ở kiểu người kể chuyện bên trong này có thể chia làm ba dạng nhỏ hơn, ứng với ba điểm nhìn bên trong của nhân vật.
Điểm nhìn bên trong cố định là một nhân vật cảm nhận, đánh giá và kể lại các sự việc từ đầu đến cuối. Thông thường, ở dạng này, người kể chuyện thường xưng hô theo ngôi thứ nhất để kể lại sự việc. Độc giả qua đó cũng chỉ biết sự việc qua cái nhìn của một nhân vật – những sự việc mà nhân vật tham gia hoặc được chứng kiến. Tuy nhiên, hạn chế của điểm nhìn bên trong cố định này là lượng sự việc được nêu ra không nhiều, yêu cầu tính tái hiện và tưởng tượng cao ở độc giả thì mới có thể nắm bắt được toàn bộ câu chuyện. Bên cạnh đó, các sự kiện, biến cố được kể đều bị nhuốm màu sắc chủ quan của nhân vật trong quá trình phát triển tính cách.
Điểm nhìn bên trong biến đổi là nhiều nhân vật kể lại nhiều chuyện khác nhau trong cung một thời điểm. Nhờ đó, độc giả có thể nắm bắt nhiều sự kiện hơn qua cách cảm nhận của nhiều nhân vật hơn.
Điểm nhìn bên trong đa bội là một câu chuyện được kể lại qua cái nhìn của nhiều nhân vật. Sự thay đổi điểm nhìn giữa các nhân vật một cách linh hoạt sẽ tạo nên tính chân thực và khách quan cho câu chuyện được kể. Đồng thời độc giả sẽ có một cái nhìn tổng quan hơn về câu chuyện, cái nhìn của nhân vật này sẽ có vai trò lấp đầy, bổ sung cho cái nhìn của nhân vật khác, tạo nên tính chỉnh thể cho cốt truyện.
Người kể chuyện bên ngoài thường gắn với điểm nhìn bên ngoài, ngoại tiêu điểm (external focalization). Trong những văn bản tự sự sử dụng kiểu người kể chuyện này, độc giả dường như không hề cảm nhận được sự tồn tại của kiểu người kể chuyện. Bởi vì khi đó người kể chuyện giấu mình, đứng ngoài câu chuyện để miêu tả, trần thuật lại một cách khách quan và chân thực. Đặc biệt, nội tâm của nhân vật không được đi sâu khám phá mà chỉ chủ yếu là ghi lại lời nói và hành động của nhân vật. Vai trò của người kể chuyện cho phép truyện kể được đọc như một cái gì đó đã biết hơn là một cái gì đó tưởng tượng ra, một cái gì đó tường thuật hơn là một cái gì đó hư cấu.
Trong các tác phẩm tự sự, chọn cách xuất phát từ điểm nhìn nào để người kể chuyện kể lại chuyện cũng chính là dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Có những tác phẩm từ đầu đến cuối đều nhất mực tuân thủ theo một kiểu người kể chuyện, một điểm nhìn duy nhất. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, đó lại là sự phối ghép của nhiều điểm nhìn khác nhau mà người ta gọi đó là lối kể chuyện phân mảnh. Ở lối kể chuyện này xuất hiện nhiều kiểu người kể chuyện trong cùng một tự sự, kể lại sự việc bằng nhiều điểm nhìn khác nhau. Có thể mở đầu, người kể chuyện giấu mình để kể, sau đó, chức năng trần thuật có thể được chuyển cho một hay nhiều nhân vật trong truyện, từ điểm nhìn chúa trời chuyển tiếp sang điểm nhìn bên trong,... Với lối viết phân mảnh như vậy sẽ tạo lên cái nhìn đa diện, đa chiều cho tác phẩm, và đặc biệt là nó không gây cảm giác nhàm chán cho độc giả mà luôn luôn là sự hào hứng muốn khám phá tiếp câu chuyện.
2.2. Người kể chuyện và điểm nhìn trần thuật trong tập Chân trời cũ:
2.2.1. Người kể chuyện bên trong với cái nhìn chủ quan:
Chân trời cũ được xem như một dòng tự truyện của Hồ Dzếnh. Hiện lên qua mười ba truyện ngắn của ông là những cảm xúc mơn man, nhẹ nhàng mà sâu lắng, tinh tế về những kỉ niệm ngày thơ ấu, về gia đình và những người thân yêu. Mặc dù các chi tiết, sự kiện trong truyện đã được hư cấu nhưng phần lớn, đó là những chuyện có thật xảy ra với chính nhà văn. Bởi vậy, có thể khẳng định người kể chuyện trong Chân trời cũ là kiểu người kể chuyện bên trong với điểm nhìn bên trong cố định, mang đậm dấu ấn chủ quan, sự chiệm nghiệm của nhà văn.
Truyện được kể theo ngôi thứ nhất, nhân vật xưng tôi đóng vai trò kể lại chuyện từ đầu đến cuối. Người kể chuyện và nhân vật là một, tôi tự kể chuyện về mình – những chuyện liên quan đến bản thân hay đã được chứng kiến. Trong tập truyện, nhân vật tự nhớ lại và kể cho bạn đọc biết những tâm tình ngày thơ ấu. Hiện lên qua trang viết là những dòng hồi ức về người mẹ tảo tần nuôi con, người chị mang đậm trong mình tâm hồn Việt sáng trong, là người cha sống trong cái khuôn khổ của kiên nhẫn và cần kiệm,... Như vậy, có thể thấy, nhân vật xưng tôi kể hết tường tận mọi sự việc diễn ra xung quanh mình.
Sử dụng kiểu người kể chuyện bên trong và điểm nhìn cố định đã tạo nên những hiệu quả nhất định trong tập truyện Chân trời cũ của Hồ Dzếnh. Trước hết, nó thuyết phục người đọc tin vào những câu chuyện mà nhà văn kể, hư cấu nên. Đọc tác phẩm, ta có cảm giác tin cậy tuyệt đối đó là những chuyện có thật. Bằng nhãn quan của mình, nhân vật tôi – một phần đời của chính nhà văn đã dựng lên bức tranh đa chiều về cuộc sống.
Bằng việc kể chuyện theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện có cơ hội được thỏa sức bày tỏ những suy nghĩ, tình cảm của mình về cuộc đời mà vẫn mang lại cho người đọc cảm nhận về tính khách quan và trung thực. Không giới hạn về đời sống nội tâm như người kể chuyện bên ngoài, không tạo cảm giác nhàm chán, lười biếng như kiểu người kể chuyện biết tuốt, nhân vật tự trần thuật đem lại sự độc đáo trong việc miêu tả đồng thời dễ dàng bộc lộ những tâm tư, tình cảm của mình. Nhân vật tôi trong truyện vừa mang sự trải nghiệm cuộc sống để kể về nó, vừa thể hiện cái nhìn chủ quan, cách đánh giá về sự việc. Hàng loạt câu chuyện về những kiếp người cơ cực, đắng cay được trải lên trang giấy, mang đậm ám ảnh của nhân vật kể chuyện.
Nếu nhìn theo mức độ người kể chuyện tham gia vào cốt truyện thì có thể chia thành hai dạng chính là người kể chuyện trực tiếp tham gia vào quá trình diễn biến, vận động của cốt truyện và người kể chuyện đóng vai trò là chứng nhân quan sát. Ở dạng người kể chuyện đóng vai trò là nhân chứng kể lại câu chuyện về một người khác xuất hiện trong khá nhiều tác phẩm như: Con ngựa trắng của ba tôi, Chú Nhì, Ngày gặp gỡ, Chị Yên, Người chị dâu tôi, Em Dìn và Sáng trăng suông. Ở những tác phẩm này, người kể chuyện chỉ đóng vai trò là một nhân vật phụ tham gia vào quá trình dẫn dắt câu chuyện. Nhân vật tôi kể lại tất cả những gì được biết đồng thời biểu hiện uy nghĩ, thái độ và cách đánh giá về sự việc. Cuộc đời và số phận của các nhân vật hiện lên khúc xạ qua cái nhìn của nhân vật tôi. Nhờ vậy mà hình ảnh em Dìn hiện lên một cách đầy thương tâm, xót xa và cay đắng. Chỉ vì tình yêu mù quàng mà cô bé bị vứt ra ngoài xã hội, cô độc, lẻ loi trong đêm ba mươi Tết. Số phận của em Dìn trôi nổi, bấp bênh, không biết sẽ đi đâu, về đâu. Một tính cách như vậy được xem là khá ngang bướng, lầm lỗi và thậm trí là mù quáng. Xong qua con mắt của nhân vật tôi – người kể chuyện đồng thời là một người anh em máu mủ thì số phận ấy lại hiện lên đầy đau xót, tủi hổ. Người kể chuyện đứng quan sát và kể lại bằng một giọng văn thương cảm và bất lực. Giả sử người kể chuyện chỉ là một kẻ khách quan ngoài cuộc thì câu chuyện dù có thương tâm thì cũng chẳng đem lại nhiều ý nghĩa. Nhưng ở đây người trần thuật lại là một người mang tình máu mủ nên câu chuyện được kể tăng thêm nhiều phần ý nghĩa và nhuốm đậm màu sắc chủ quan. Vì vậy, trừ cái lần đầu tiên háo hức vì tò mò, nhân vật tôi luôn đứng về phía nhân vật chính. Chuyện em Dìn bị xé áo khiến mấy anh em phải quay mặt đi nhưng với riêng người kể chuyện thì riêng người kể chuyện cảm thấy trong lòng nổi lên một nỗi căm phẫn với cái ác nhưng đành phải khoanh tay bất lực. Nét mặt người cha hiện lên để cảnh báo về số phận em Dìn được người kể chuyện cảm nhận rõ nét, buồn “như sự trách cứ huyền bí” gieo xuống lương tâm của một kẻ tòng phạm vì dung thứ cho sự thầm kín của đứa em nhẹ dạ.
Nếu không phải truyện được kể bằng ngôi thứ nhất qua lời của một nhân vật thì có lẽ số phận em Dìn hiện lên cũng không mang sức nặng đến như vậy. Người kể chuyện không hề bàng quan, thờ ơ trước những nỗi đau mà người em gái của mình phải chịu đựng. Bởi vậy, mặc dù đứng ngoài quan sát và kể lại cuộc đời các nhân vật nhưng mọi câu chuyện đều nhuốm đậm cách đánh giá, nhìn nhận chủ quan của người kể chuyện.
Bên cạnh đó, có nhiều truyện, người kể chuyện tự kể về mình hay về những chuyện mà mình được trực tiếp tham gia. Nhân vật tôi – người kể chuyện cùng một lúc đóng cả hai vai trò, một là người kể chuyện và một là nhân vật chính chi phối đến quá trình phát triển của mạch truyện. Nội tâm của nhân vật hiện lên rất sắc nét khi nhân vật tự nhìn mình, tự soi xét và kể chuyện. Là một người con được cưng chiều của gia đình, nhân vật tôi đã dựng lên hình ảnh người mẹ của mình một cách đầy chân thực thông qua những kỉ niệm giữa hai mẹ con. Bởi vậy mà hình ảnh người mẹ tần tảo lam lũ, giàu lòng thương con là biểu tượng chung của người phụ nữ Việt nhưng cũng nhuốm màu sắc chủ quan qua cái nhìn của người kể chuyện – nhân vật tôi. Trong những kỉ niệm đắng cay về sự sa sút của gia đình, không lần nào không có bóng dáng đáng thương, tiểu tụy của người mẹ - cô lái đò sông Ghép ngày nào. Lần thì đứng đưa bánh cho con qua hàng rào, lần thì sẵn sàng vứt bỏ lòng kiêu hãnh và tự ái chỉ để lo đủ món tiền nộp học cho con, lần thì chạy vạy lo từng đồng, từng hào đưa cho cậu em chồng,... Người mẹ đáng thương ấy hiện lên bao cay đắng, chua xót trong cuộc vật lộn mưu sinh, để lại trong lòng độc giả nhiều dư vị sâu sắc! Sẽ không quá nặng nề nếu như cuộc sống nhọc nhằn ấy được tái hiện một cách khách quan qua cái nhìn bên ngoài. Bằng việc chọn lựa ngôi thứ nhất, Hồ Dzếnh đã để nhân vật tôi – một người con, thứ máu mủ ruột rà bày tỏ cảm xúc, thái độ về người mẹ của mình. Người con kể về những kỉ niệm xót xa với người mẹ, về cảm giác của mình khi lòng tự trọng của mẹ bị chà đạp chỉ để lo tiền học phí cho bản thân. Đó là một thứ cảm xúc thật hơn cả ngoài đời thực! Nó vừa chân thực, điển hình lại mang đậm cá tính sáng tạo của nhà văn. Câu chuyện về một người mẹ sẵn sàng vứt bỏ cả lòng tự trọng của mình để lo cho con khiến người đọc cảm phục, yêu mến thì những dòng tâm sự cuối truyện của nhân vật tôi lại đem đến niềm xót xa, cay đắng như một tiếng thở dài, một niềm day dứt! “Câu chuyện trên đây theo tôi như một ám ảnh cực nhục. Mỗi lần nhớ tới mẹ tôi, hay xét mình phạm tội, tôi thường đem nó ra để tự hình phạt. Nhiều năm đã rơi theo nhiều năm, và bây giờ, trong những đêm Hà Nội, cái thành phố hoa lệ chỉ quen tiêu tiền bạc với hào, tôi vẫn thấy rờn rợn nghe thấy âm thanh của mươi quan tiền kêu lanh lảnh”. Những lời tâm sự, bộc bạch của nhân vật dường như chính là lời tự vấn lương tâm của những người mang ân tình của người thân đi suốt cuộc đời! Cái nhìn của người kể chuyện không hề tỉnh táo, sắc lạnh mà bao giờ cũng ấm áp, chan chứa tình thương. Có lẽ bởi vậy mà mỗi mẩu chuyện trong Chân trời cũ lại được xem như một bài thơ trữ tình viết tặng những người xưa cũ.
2.2.2. Người kể chuyện bên trong với mạch trữ tình sâu sắc:
Sử dụng kiểu người kể chuyện bên trong với điểm nhìn cố định khiến tập truyện như một sự giãi bày, một sự trải lòng hơn là việc trần thuật lại một cách thông thường. Bởi vậy mà đặc điểm xuyên suốt khắp tập truyện là cốt truyện nhẹ nhàng, tinh tế và lắng sâu. Không tồn tại những xung đột kịch tính, không có những tình tết gay cấn đến nghẹt thở, mạch truyện trữ tình nồng nàn, cứ man mác đẫm sâu, hướng người đọc đi sâu vào thế giới nội tâm đầy phong phú và phức tạp của con người. Hồ Dzếnh đã từng tâm sự rằng những ngày đầu cầm bút, ông không có ý định trở thành một nhà văn. Ông chỉ viết “như giãi bày, như tự thú, như sám hối về những câu chuyện của gia đình, viết cho vợi”. Có lẽ bởi vậy mà trong tập truyện, người kể chuyện – nhân vật tôi cứ thỏa sức bày tỏ cảm xúc của mình trong một cốt truyện nhẹ nhàng, thấm đẫm tử tưởng chủ quan của người viết.
Với hình thức tự truyện, để nhân vật tôi tự kể lại chuyện của mình, văn xuôi Hồ Dzếnh tuy đóng khung trong thể loại tự sự nhưng vẫn cứ vượt tràn sang địa hạt của trữ tình. Chân trời cũ là nhưng câu chuyện buồn về quá khứ, về thời dĩ vãng xa xôi. Phần lớn những truyện đó không có xung đột mạnh mà chỉ tồn tại những cảm xúc mơn man, man mác buồn của người kể chuyện. Nhân vật tôi chỉ đơn thuần tường thuật lại cho độc giả biết những câu chuyện mà mình được tham gia hay chứng kiến. Thậm chí có nhiều truyện, người kể chuyện chỉ kể lại cuộc đời nhân vật trong sự mờ nhạt, buồn tẻ của cuộc sống tầm thường. Những chi tiết bình dị của đời thường cứ lặng lẽ thấm sâu vào trang viết mà vẫn tạo được cảm giác xót xa, thương cảm của độc giả dành cho nhân vật. Đó chính là lợi thế mà kiểu người kể chuyện bên trong mang lại khi không trực tiếp tạo nên các biến cố, chỉ có những xung đột nhẹ nhàng kết hợp với cảm xúc nồng đượm của người viết.
Trong truyện Người chị dâu tôi, độc giả khó có thể xác định được chính xác một cốt truyện hoàn chỉnh, xuyên suốt toàn câu chuyện. Tác phẩm là sự tái hiện cuộc đời, số phận của một người con gái Trung Hoa – “người đàn bà phương Đông yếu đuối”, sang làm dâu xứ người, trong một gia đình đầy những luật lệ hà khắc. Từ một thiếu phụ “sang trọng, đẹp đẽ, bó chân và chuốt bím bằng dầu thơm” với đôi má hồng và cặp mắt ngơ ngác, chị đã trở thành “một người đàn bà quê Việt Nam đặc. Trên cánh đồng rộng rãi của Đông Bích, người ta thường thấy một dải áo chàm in bật trên nền trời mỗi sáng, chăm chỉ và lặng lẽ như một cuộc sống vâng lời và ngu muội”. Sự biến chuyển trong tâm lí và tính cách của người chị dâu không được thể hiên qua một xung đột gay cấn nào mà cứ nhẹ nhàng, lặng lẽ và âm thầm như chính cuộc đời của chị vậy. Từ việc tập ăn ngô, ăn khoai rồi biết xay lúa, giã gạo,... tất cả đều được thực hiện trong một nỗi buồn khổ và chịu đựng của chị. Người kể chuyện – nhân vật tôi đã quan sát và kể lại chân thực bằng một niềm cảm thương sâu sắc. Số phận người đàn bà sống âm thầm, nhẫn nhục, lặng lẽ như cam chịu ấy chứa đầy tủi hổ, xót xa nhưng lại được tái hiện qua một cách kể khá nhẹ nhàng và tinh tế. Mặc dù không có cốt truyện gay cấn với các xung đột mạnh nhưng bằng cách đặt điểm nhìn vào một nhân vật trong truyện, qua lời kể của nhân vật tôi, cuộc đời người chị dâu hiện lên đầy đủ, chân thực mà thấm đẫm nỗi cay đắng cho một kiếp người. Phải chăng chính mạch truyện trữ tình sâu lắng, cốt truyện nhẹ nhàng, giản dị mà người kể chuyện nói lên cũng chính là ẩn dụ cho cuộc đời mờ nhạt của con người?
Người kể chuyện ngôi thứ nhất trong truyện vừa mang chức năng kể lại, vừa thực hiện xuất sắc nhiệm vụ gợi mở. Bởi vậy mà Chân trời cũ không hiện lên bằng những xung đột, mâu thuẫn cao trào, đem đến sự háo hức, chờ đợi cho người đọc mà chỉ là những tình tiết đơn giản, mạch trữ tình sâu sắc qua một lối kể bình dị, nhẹ nhàng. Truyện của Hồ Dzếnh thường là những câu chuyện buồn, là tiếng khóc cho những mảnh đời bất hạnh. Song, nét buồn trong văn Hồ Dzếnh hoàn toàn khác so với cái buồn của các nhà văn cùng thời. Nỗi buồn của Nam Cao còn điểm thêm cái sắc lạnh của cuộc đời, cái buồn của Vũ Trọng Phụng ẩn mình trong sự mỉa mai, chua xót trước cuộc sống Á Âu hỗn độn. Điều này tạo nên một thứ cảm xúc buồn đến nặng nề, ngột ngạt. Buồn của Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo là là tâm trạng của cái tôi tiêu cực đầy lạc lõng, bị vỡ mộng trong tình yêu bướm tiên. Song, với Hồ Dzếnh, nỗi buồn in đậm trong trang văn của ông là nỗi buồn của cả một thế hệ nhưng lại rất nhẹ nhàng, man mác, quẩn quanh mãi, vấn vương mãi trong tâm trí người đọc. Nó đem lại một thứ cảm xúc buồn mênh mang, xa ngái, thẳm sâu, như một tiếng vọng đau thương của dĩ vãng.
Lợi thế của kiểu người kể chuyện bên trong là sự dễ dàng trong việc bộc lộ cảm xúc cá nhân. Nhân vật tôi thỏa sức bày tỏ những suy nghĩ, nhận định, đánh giá khách quan của mình về con người, về cuộc đời mà vẫn tạo nên một logic khách quan, không mang đến sự khó chịu, khiên cưỡng nào cho người đọc. Nhiều lúc, mạch truyện như ngưng đọng lại để người kể chuyện bày tỏ cảm xúc của mình. Tốc độ trần thuật chậm tạo điều kiện cho nhân vật có thể dễ dàng thể hiện cảm xúc của mình một cách tự nhiên.
Trong truyện Ngày lên đường, nhân vật tôi kể lại câu chuyện lên đường đi lính nhưng không thành của chính mình. Đan xen, lồng ghép với việc kể lại sự việc, có rất nhiều chỗ, nhà văn dừng lại giãi bày những tâm trạng của mình trước ngày xa gia đình. Là một truyện ngắn mang phong cách tự sự nhưng diễn biến, tình tiết của câu chuyện không nhiều mà thay vào đó, trữ tình chiếm một dung lượng khá lớn trong toàn bộ tác phẩm. Mạch truyện như ngưng đọng lại, nhân vật vừa như đang độc thoại nội tâm, đang tự nói với chính mình “tôi băn khoăn không hiểu tại sao đi lại được gọi là thú, tôi lại ngại ngần giữa lúc đi? Vì mẹ tôi chăng? Vì nước Nam yêu quý chăng? Có lẽ những ruộng đất, đồi núi xứ Trung kì bình yên như thế này ai xa mà không nhớ được!”; lại có những lúc, người kể như trải lòng mình với bạn đọc như kiếm tìm sự đồng cảm, lắng nghe và sẻ chia. “Tôi không dám nhìn mẹ tôi vì sợ những nếp nhăn trên má người. Tôi không dám chơi với ai nữa...”
Trước lúc lên đường, nhân vật băn khoăn, trăn trở không biết nên đi hay nên ở? Mạch truyện chậm rãi trôi đi trong dòng chảy ồ ạt, mãnh liệt của tâm trạng. Tiếng gọi lên đường cứ giục giã, mạnh bạo vang lên “Một giang hồ ám ảnh tôi từ thuở nhỏ, ngày tôi bắt đầu cầm tấm bản đồ năm châu. Tôi ao ước sang Marssilla, sang Manille, Hương Cảng, sang Lào, sang Cao Miên. Ở đấy, tôi cũng tin rằng cảnh tượng đẹp đẽ và sung sướng hơn ở tỉnh nhà [...] Nơi xa, nơi xa với tất cả những tuổi trẻ như tôi, nơi xa vẫn có sự quyến rũ say đắm. Tôi nhớ cái màu trời xanh biếc, sắc nước lam tươi, chen giữa là những cánh buồm trắng chấm lơ lửng một cách nên thơ trong mấy bức tranh bán rải rác ở các cửa hiệu.
Tôi phải đi.
Tôi phải sống.
Đời tôi phải khác thế này.
Và cơ hội tốt nhất đã đến.
Nhưng tôi mới có mười lăm tuổi.”
Những tâm trạng dằn vặt, trăn trở của nhân vật cứ hiện dần lên trang viết một cách tự nhiên. Nhân vật ước muốn được đi xa, thoát khỏi mảnh đất đã quá thân thuộc để đi khám phá những vùng đất lạ. Tiếng gọi giục giã được cất lên từ những mảnh đất xa xôi, huyền bí, mang “một sức quyến rũ say đắm như mời gọi chàng trai trẻ lên đường. Nhưng đồng thời nhân vật lại ghìm lòng không muốn đi khi nghĩa đến nước Nam, nghĩ đến mảnh đất Trung Kì bình yên và thân thuộc và đặc biệt là người mẹ. “Người ấy to quá, rộng quá, tuy tất cả sự có nghĩa chỉ là cái thân hình tiều tụy bọc bằng chiếc áo vá vai”. Tâm trạng của nhân vật trước ngày lên đường hiện lên đầy phức tạp. Những day dứt, trăn trở, giằng xé trong nội tâm nhân vật được thể hiện một cách sắc nét, chân thực qua cái nhìn đầy chủ quan của người kể chuyện.
Nhờ lựa chọn người kể chuyện ngôi thứ nhất cùng với việc đặt điểm nhìn vào nhân vật, cốt truyện nhẹ nhàng trôi trong dòng chảy phức tạp của cảm xúc mà vẫn mang tính khách quan. Mạch truyện đôi lúc như ngưng lại, lắng đọng để đón đợi một sự giãi bày, trải lòng của tâm trạng. Nhờ vậy mà những câu chuyện được kể có chiều sâu tâm tưởng hơn, gợi nhắc được nhiều cảm xúc hơn. Đồng thời, cách kể chuyện cũng đem lại cho độc giả một cái nhìn toàn vẹn hơn về câu chuyện được kể.
CHƯƠNG III. NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRẦN THUẬT
3.1. Ngôn ngữ trần thuật:
3.1.1. Ngôn ngữ trần thuật theo lí thuyết của tự sự học:
Nếu hội họa lấy màu sắc, đường nét, điêu khắc lấy hình khối, điện ảnh lấy diễn viên làm chất liệu chủ đạo để làm nên tác phẩm thì trong văn học, ngôn ngữ là yếu tố đầu tiên và duy nhất để nhà văn xây dựng hình tượng nghệ thuật, thể hiện ý đồ tư tưởng của mình. Mácxim Gorky đã khẳng định “yếu tố đầu tiên của văn học là ngôn ngữ”. Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học. Những tư tưởng, tình cảm, ý đồ nghệ thuật của nhà văn chỉ có thể được vật chất hóa thông qua ngôn ngữ. Nó là một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn.
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cũng chính là ngôn ngữ của đời sống nhưng được chau chuốt, mài giũa và nâng lên một ý nghĩa mới, mang dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Trong một tác phẩm văn học, yêu cầu đầu tiên được đặt ra cho ngôn ngữ là tính chính xác, chuẩn mực, tái hiện cuộc sống một cách chân thực nhất. Nó phải diễn tả đúng những gì muốn nói, miêu tả đúng những thứ nhà văn cần tái hiện. Không chỉ chính xác mà ngôn ngữ văn học còn đòi hỏi tính hàm súc cao. Tính hàm súc ở đây được hiểu là sự súc tích, hàm chứa nhiều ý nghĩa, khả năng miêu tả cuộc sống một cách chính xác và cô đọng, ít lời nhiều ý, ý để ngoài lời. Ngôn ngữ cũng không thể thiếu tính biểu cảm vì văn học luôn tác động đến con người bằng con đường tình cảm, thông qua tình cảm mà tác động tới nhận thức của con người. “Điều cơ bản nhất của ngôn ngữ trong tác phẩm là phải có tính hình tượng”, khả năng ngôn ngữ có thể tái hiện lại những hiện tượng của cuộc sống một cách cụ thể, sinh động, khách quan và đa nghĩa. Nói cách khác, ngôn ngữ có tính hình tượng là ngôn từ giàu hình ảnh, đường nét, màu sắc, thanh âm và nhạc điệu. Nó tác động đến nhiều giác quan của người đọc, gây ấn tượng mạnh mẽ, tác động sâu xa vào trí tưởng tượng và cảm nhận của độc giả. Nhìn chung, tính chính xác, tính hàm súc, tính biểu cảm và tính hình tượng được xem là những đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ văn học. Nó là kết quả của quá trình quan sát tinh tế, nhạy bén, vốn sống phong phú và trình độ sử dụng ngôn ngữ điêu luyện của người nghệ sĩ.
Trong trần thuật, ngôn ngữ bao giờ cũng là sự song hành giữa ngôn ngữ nhân vật và ngôn ngữ người kể chuyện. Trong đó ngôn ngữ nhân vật được hiểu là “lời nói của các nhân vật trong tác phẩm thuộc loại hình tự sự và kịch” [214, y]. Đây là một trong những công cụ hiệu quả để nhà văn sử dụng để cá tính hóa, đặc trưng hóa tính cách của nhân vật. Bao giờ nó cũng phải đảm bảo sự kết hợp sinh động giữa tính cá thể và tính khái quát. Một mặt, mỗi nhân vật có một đặc điểm ngôn ngữ riêng được tác giả thể hiện bằng cách nhấn mạnh cách đặt câu, ghép từ, những lời nói đặc biệt của nhân vật, cho nhân vật lặp lại những từ, những câu mà nhân vật thích nói... Điều này tạo lên một dấu ấn rất riêng cho nhân vật, làm lên cá tính mạnh trong tính cách nhân vật. Nhưng đồng thời ngôn ngữ của nhân vật phải phản ánh được đặc điểm ngôn ngữ của một tầng lớp người nhất định trong xã hội.
Ngôn ngữ trần thuật là phần còn lại của văn bản, ngoại trừ phần ngôn ngữ đối thoại vào độc thoại của các nhân vật. Nó đóng một vai trò quan trọng, không thể thiếu trong trần thuật học. Ngôn ngữ là phương tiện để người kể chuyện thực hiện các chức năng của mình khi nó là công cụ để người kể chuyện tổ chức và chỉ đạo diễn biến của toàn bộ câu chuyện. Không chỉ như vậy mà ngôn ngữ còn là phương tiện để nhà văn bộc lộ tư tưởng chủ đề của tác phẩm, để khắc họa đặc điểm của các tính cách, dẫn dắt quá trình phát triển của cốt truyện. Ngôn ngữ người kể chuyện tác động mạnh đến thái độ của người đọc đối với đối tượng, sự việc đang được miêu tả.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng ngôn ngữ là yếu tố căn bản để xây dựng lên một tác phẩm văn học, là chất liệu để nhà văn có thể vật chất hóa những ý đồ tư tưởng nghệ thuật của mình.
3.1.2. Ngôn ngữ trần thuật trong tập “Chân trời cũ”:
Ngôn ngữ trong Chân trời cũ là một thứ ngôn ngữ trong sáng, uyên bác, chất chứa nhiều tâm tình của Hồ Dzếnh. Người kể chuyện đã sử dụng ngôn từ một cách tài hoa, tạo lên dòng chảy của cốt truyện, nhẹ nhàng mà độc đáo. Sức hấp dẫn mà ngôn từ mang lại trong tập truyện chính là cách dùng từ ngữ đa dạng, công phu. Nó vừa rành mạch, rạch ròi về mặt ngôn từ lại vừa gợi lên nhiều liên tưởng thú vị, nhiều ám ảnh cho người đọc. Cái đẹp ngữ pháp trong văn xuôi của Hồ Dzếnh nằm ở việc tạo lên những câu văn rạch ròi về mặt ngữ pháp mà đa tầng trong ý nghĩa biểu trưng. Bằng sự thương cảm sâu sắc, nỗi ám ảnh về một người đàn bà tha hương, làm dâu xứ người, nhà văn đã viết lên những câu chữ ngậm ngùi, xót xa tình người. “Tôi là người biết cảm sầu từ rất sớm, nên người đàn bà đã lìa quê hương ấy đã là cái để cho tôi khóc bằng thơ, đã làm hoen ố cả một buổi bình minh đáng lẽ là rất đẹp”. Hay “Sao lúc viết mấy dòng chữ này, tôi còn thấy như một niềm bối rối, gió bận bịu trong chùm tre, một đốm lửa lung lay châm loe vào bóng tối”. Sự kết hợp từ ngữ một cách hài hòa mà giản dị nhưng lại tạo lên những câu văn đa tầng ý nghĩa. Đó không chỉ là sự thương cảm của người kể chuyện với người chị dâu mà sâu xa hơn, nó còn là biểu hiện cho một tâm hồn đa cảm, một nỗi buồn thấm thía cho những kẻ tha hương.
Bên cạnh đó, để phân tích, miêu tả tâm lí nhân vật, giãi bày những suy tư, trăn trở của mình, Hồ Dzếnh đã tạo lên nhiều câu văn miêu tả dài đan xen với trần thuật. Ở các đoạn văn này, tâm hồn con người được hiện lên rất rõ nét, trải rộng lên trang văn. Chân thực mà sâu sắc! Đặc biệt, ở các đoạn văn miêu tả này, các câu văn dài chiếm số lượng khá đáng kể. “Hỡi nước Việt Nam! Tôi nghiêng xuống lòng người, trên những luống cày mà hương thơm còn phảng phất, vì tôi đã từng uống nước và tiếng nói của người, vì tôi đã thề yêu người trên một bậc tuyệt vời của tôn giáo. Trên mảnh đất súc tích những tinh hoa của văn chương, những công trạng của lịch sử tôi còn ghi cả những bóng người xưa mà tôi thương yêu, và trong những người này, chị Yên tôi là một”. Câu văn được mở rộng, kéo dài như một sự phô diễn cảm xúc – lòng yêu mến quê hương Việt Nam, yêu mến những người thân và đặc biệt là chị Yên. Sự lặp lại cấu trúc ngữ pháp của nhiều câu văn đã tạo lên những cung bậc cảm xúc trùng điệp “tôi yêu... tôi đã thề yêu...” Nhờ vậy mà tâm trạng nhân vật tôi hiện lên thật sinh động, để lại nhiều ám ảnh trong lòng người đọc. Đằng sau những câu văn dài, đa tầng ý nghĩa, ta nhận ra chất tài hoa của Hồ Dzếnh trong việc sử dụng từ ngữ đài các, chuẩn mực.
Hồ Dzếnh là một người mang hai dòng máu của hai dân tộc. Có lẽ vậy mà ở nhà văn có sự pha trộn, hòa lẫn nhịp nhàng giữa chất Trung Hoa và cái hồn đất Việt. Điều này không chỉ thể hiện trong nội dung các sáng tác mà còn biểu hiện ở cách sử dụng từ ngữ của tác giả, tạo lên một thứ ngôn ngữ kể chuyện sang trọng, đài các mà vẫn rất thân quen. Trong đó từ thuần Việt và từ Hán Việt được kết hợp hài hòa, tạo nên cái không khí riêng cho tác phẩm, sự ấn tượng, độc đáo trong cách kể chuyện. Nếu từ thuần Việt được sử dụng đem lại hiệu quả trong việc tái hiện những khung cảnh bình dị, thân thương của quê hương, những kiếp người nhọc nhằn, vất vả và có khi cũng đầy khổ đau. “Chị Đỏ Đương đẹp, đẹp kín đáo”, “hàng rào râm bụt che khuất căn nhà chị vẫn mùa mùa nở hoa, ngày ngày tươi tắn, “người ta yêu nhau chỉ để yêu nhau, lấy nhau là tham lam ích kỉ”... Những từ ngữ này mang đậm không khí bình dân dễ hiểu tạo nên không khí bình dị, gần gũi. Có lẽ bởi vậy mà đọc văn Hồ Dzếnh, ta như gặp lại con người mình, những cảm giác, tâm trạng yêu thương của nhà văn cũng chính là nỗi lòng chung của nhiều độc giả. Nếu từ thuần Việt mang đến sự gần gũi, dễ hiểu thì những từ Hán Việt lại đem đến sự đài các, sang trọng trong câu văn. Trong câu chữ đôi chỗ có sự gọt đẽo cầu kì tạo nên sự đăng đối, tô đậm thêm tính hình tượng và tính nhạc trong văn xuôi. Đặc biệt khi viết về mảnh ruột nơi Trung Hoa xa xôi kia, nhà văn đã khai thác tối đa hiệu quả của những từ ngữ mang nguồn gốc tiếng Hán để khắc họa tính cách nhân vật cũng như xây dựng một không gian truyện đậm chất cổ xưa. “Chú tôi, dưới ánh mắt anh tôi là một thi sĩ, một văn nhân. Chú thuộc lòng tứ thư, ngũ kinh, và điều này mới thật lạ, nhưng đúng, chú thông thạo đủ các môn võ nữa”. “Tôi yêu vô cùng cái dải đất cần lao này, cái dải đất thoát ra ngoài được sự lừa lọc, phản trắc, cái dải đất chỉ bị bạc đãi mà không bạc đãi ai bao giờ”. Ngôn ngữ trần thuật được trau chuốt, mài dũa mang đến cho câu văn sự long lanh, sang trọng, một thứ không khí đậm chất xưa cũ. Có lẽ bởi vậy mà đọc văn Hồ Dzếnh, người đọc có cảm giác thân quen, gần gũi với một nỗi niềm xưa cũ, như trở về với một chân trời đã cũ.
3.2 Giọng điệu (voice):
3.2.1. Giọng điệu trần thuật:
Trong nghệ thuật kể chuyện, giọng điệu cũng là một yếu tố căn bản, đóng một vai trò quan trọng trong việc thể hiện tư tưởng của người sáng tác. Phản ánh quan điểm, thị hiếu thẩm mĩ của nhà văn, giọng điệu có vai trò quan trọng trong việc thể hiện cá tính sáng tạo của tác giả thông qua hình tượng người kể chuyện. Nói một cách khác thì giọng điệu chính là dấu hiệu đặc trưng để nhận biết ra nhà văn bởi mỗi người sáng tác đều chọn lựa cho mình một kiểu giọng điệu phù hợp với cách nhìn nhận và đánh giá cuộc sống.
Giọng điệu (voice) được thiết lập từ mối quan hệ giữa người nghe và người kể, giữa chủ thể động từ với hành động mà nó biểu đạt. Theo Jakoson, một “diễn ngôn trần thuật” mang ba chức năng chính là định hướng người nhận, thuyết phục người nhận tin vào một điều gì đó, xúc cảm hoặc biểu hiện thái độ chủ quan của người kể chuyện. Các chức năng này được thực hiện thông qua giọng điệu. Nhờ giọng điệu mà người kể chuyện định hướng cho độc giả cách suy nghĩ, về thái độ đối với sự việc: ca ngợi hay mỉa mai, đề cao hay châm biếm, đáng khen hay đáng cười,... Cũng nhờ giọng điệu mà người viết có điều kiện bày tỏ xúc cảm của mình trên trang viết một cách hài hòa, tránh gây cảm giác thô cứng, khó chịu cho người đọc.
Giọng điệu thâm nhập vào tác phẩm thông qua tri giác tưởng tượng của người đọc. Nó được xem là một cấu trúc đối thoại hướng đến người đọc, để người đọc lí giải thái độ và tình cảm của nhà văn đối với sự kiện được kể. Trong mô hình của trần thuật cổ điển thì giọng điệu trong tác phẩm thường gắn với giọng điệu người kể chuyện. Tuy nhiên, dưới tác động ngày càng tăng của lí thuyết trần thuật học do Bathkhin nêu ra thì sự phân loại về giọng điệu có nhiều phức tạp hơn. Theo đó có hai loại giọng điệu cơ bản là giọng điệu trong văn bản và giọng điệu ngoài văn bản. Giọng điệu trong văn bản được hiểu là giọng của người kể chuyện và của nhân vật đối thoại với nhau. Nhiệm vụ của người đọc là phải tìm hiểu diễn biến nội tâm, tình cảm, cảm xúc phức tạp của nhân vật để phán xét giọng điệu đó là giọng thương cảm, trữ tình, giọng suồng sã, chua chát, bi thương hay giọng suy tưởng, triết lí,... Giọng điệu của người kể chuyện mà đặc biệt là giọng của người kể chuyện toàn tri và người kể chuyện bên trong luôn thể hiện được cách đánh giá tính đúng đắn, hợp lí của các sự kiện. Giọng điệu ngoài văn bản chính là giọng của tác giả thuộc vào phần trữ tình ngoại đề. Đặc biệt cần phải phân biệt rõ giọng của người kể chuyện và giọng của nhà văn bởi đôi khi nó hoàn toàn khác nhau, thể hiện ý đồ, thái độ khác nhau.
Đặc trưng thanh âm cũng là một yếu tố quan trọng trong việc nghiên cứu về giọng điệu bởi việc phân tích phương ngữ, ngôn ngữ xã hội, vốn từ vững cá nhân, ngôn ngữ giới tính sẽ chỉ ra đặc thù của từng kiểu nhân vật, từng lớp người trong tác phẩm.
Cũng theo Bathkhin, hai đặc trưng cơ bản của giọng điệu để xác định lên đặc điểm của trần thuật là giọng đối thoại và độc thoại. Giọng độc thoại bao giờ cũng thể hiện được chiều sâu tư tưởng, sự phức tạp trong nội tâm nhân vật nhiều hơn. Đặc biệt ở độc thoại nội tâm thì điều này lại được bộc lộ và đậm nét hơn. Thông thường giọng độc thoại thường được trải dài trên bề mặt trang giấy và tạo thành dòng ý thức của nhân vật. Trong khi đó thì giọng điệu độc thoại là thế mạnh để nhà văn xây dựng lên tính cách nhân vật, ở đây, mọi cá tính của nhân vật được thể hiện rõ ràng trên trang viết. Độc thoại sẽ tạo nên một văn bản phức điệu ngôn ngữ mà ở đó hội tụ cả giọng điệu của người kể chuyện, của các nhân vật, giọng tác giả... tạo nên độ căng và sự tương phản tính cách.
Nếu phân loại theo phương hướng biểu hiện cảm xúc thì giọng điệu khá phức tạp, bao gồm các loại giọng như giọng trữ tình sâu lắng, giọng châm biếm hài hước, giọng trào phúng sâu cay, giọng triết lí nhân sinh,... Mỗi loại giọng điệu lại thể hiện một trạng thái tình cảm khác nhau của người kể chuyện với nhân vật hoặc giữa các nhân vật với nhau. Giọng điệu cũng góp phần chi phối đến cách miêu tả nhân vật, cách chọn từ ngữ xưng hô và cách gọi nhân vật của tác giả. Bằng việc phân biệt giọng điệu, độc giả có nhiều điều kiện hơn trong việc phân tích những ý đồ tư tưởng của tác giả.
Như vậy, có thể thấy, giọng điệu đóng vai trò quan trọng trong trần thuật học. Thông qua giọng điệu, độc giả nhận biết được những đặc trưng tính cách của nhân vật cũng như thái độ, tình cảm của nhà văn đối với câu chuyện được kể.
3.2.2. Giọng điệu trần thuật trong tập truyện “Chân trời cũ”:
Chân trời cũ là một tập tự truyện, kể về cuộc đời của chính nhà văn Hồ Dzếnh. Ở tập truyện không chỉ có giọng điệu của người kể chuyện mà còn đan xen nhiều đoạn hội thoại của các nhân vật. Nhờ những đoạn đối thoại nhỏ này mà câu chuyện được kể thêm phần hấp dẫn, tạo cảm giác thân quen cho người đọc. Ngôn ngữ là biểu hiện của tính cách con người. Bởi vậy mà ngôn ngữ đối thoại trở thành phương tiện quan trọng để thể hiện những gương mặt tính cách khác nhau của các nhân vật đồng thời cho người đọc thấy rõ mối quan hệ giữa các nhân vật với nhau: thân mật hay khoảng cách, ghét hay yêu quý,... Nếu người mẹ là một người độc miệng nhưng lại đầy lòng thương con thì cha lại là người có học vấn uyên bác, có chất tráng trí của một kẻ viễn xứ, chị dâu mang trong mình cái xót xa của một kẻ đi làm dâu nơi xa,...Cuộc đời và số phận chị Đỏ Đương được gói gọn trong câu hát:
Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ con đò khác xưa
Không chỉ dừng lại ở đó, những lời đối thoại của nhân vật phải chăng là một lời dự cảm cho số phận con người. Câu hát buồn của chị Đỏ Đương có phải đã nhuốm vào cái cuộc đời đau khổ và đơn độc của chị? Ngôn ngữ giao tiếp của chị Yên cũng nhuốm màu sắc buồn bã như chính cái cuộc đời của chị vậy.
Bên cạnh đó là những mẩu độc thoại, độc thoại nội tâm của người kể chuyện – nhân vật tôi. Nhiều đoạn độc thoại dài của nhân vật như một niềm day dứt khôn nguổi cho những số phận bất hạnh. Nhờ sự đan xen phối hợp giữa độc thoại và đối thoại đã tạo nên sự độc đáo trong cách kể chuyện, vừa lột tả được nội tâm nhân vật, vừa gợi lên những gương mặt tính cách khác nhau trong tập truyện.
Đặc sắc trong Chân trời cũ là ngôn từ mang đậm chất thơ, chất trữ tình man mác buồn. Văn xuôi Hồ Dzếnh tuy đóng khung trong thể loại tự sự nhưng lại cứ vượt tràn sang khu vực của trữ tình. Sự kết hợp giữa tự sự và trữ tình tạo lên một chất thơ nhẹ nhàng, tinh tế chảy sâu vào lòng người. Trong mạch trần thuật xuất hiện nhiều câu văn giàu cảm xúc, như suy tư, như trầm buồn, như lắng đọng những trăn trở thầm kín. Chất thơ xuất hiện trong nhiều tác phẩm, đặc biệt ở những đoạn nhà văn miêu tả cuộc sống làng quê thanh bình, yên ả. Trong truyện ngắn “Trong bóng rừng”, chất thơ miên man, thấm đấm kháp trang viết qua những ngôn từ nhẹ nhàng, giàu chất biểu cảm và gợi hình cao. “Chính nơi đây, trên đôi mắt trong và sáng của tôi, lần đầu tiên bóng rừng núi chạy qua, ánh sáng này phản chiếu lại và hai thứ này cùng nhịp nhàng trong tôi về thế sự buồn rầu và cảnh đời hùng tráng. Tôi thờ cái hương rừng mọi rợ, yêu say đắm mùa sim vừa chín đến và tự mê hoặc mình bằng cách mê tín những bùa phép của dân Muôn Mán xung quanh”. Lời văn nhẹ nhàng mà tinh tế, giàu sức gợi mà vẫn lắng sâu như tuôn trào, thấm đẫm vào lòng người. Không nhìn cuộc đời với con mắt tình ái như Nhất Linh, Khái Hưng, cũng không phải giọng văn sắc lạnh như Nam Cao, Vũ Trọng Phụng, giọng văn của Hồ Dzếnh cứ nhẹ nhàng thấm đẫm khắp trang viết. Đề cập đến những kiếp người đau thương như người mẹ lam lũ mà thương con, người chị mang dòng máu Trung Hoa sang làm dâu xứ người hay người chị nuôi suốt đời cơ cực,... nhưng lại không khiến người đọc có cảm giác nặng nề, ngột ngạt. Về phương diện này, văn xuôi Hồ Dzếnh có nét gì gần gũi với Thạch Lam, Thanh Tịnh hơn. Những kiếp người cứ hiện ra trước mắt bằng một giọng kể ấm áp, chan chứa tình người. Những từ ngữ được sử dụng đều mang tính biểu cảm cao, lời ít mà ý nhiều. Sâu xa, chất thơ phải chăng được làm lên bởi sự trong sáng, ấm áp của lòng người, bằng một thứ ngôn từ gần gũi, thấm thía tình yêu thương.
Chất thơ đã tạo lên giọng điệu chính cho tập truyện Chân trời cũ là giọng thủ thỉ, tâm tình. Cái chất giọng tâm tình cứ nhẩn nha mà khắc khoải, mà lưu giữ trong tâm trí người đọc bao nhiêu cung bậc thiết tha, buồn, vui, yêu, ghét. Một đặc điểm nổi bật của tập truyện là hình thức tự truyện, bằng những chi tiết đời thường, những kỉ niệm ngày thơ ấu, mảnh kí ức xa xôi mang độ lùi của thời gian. Điều này khiến giọng văn tăng thêm vẻ trầm buồn, chìm đắm trong nỗi nhớ nhung, hoài niệm. Chân trời cũ có lẽ không phải là món quà của kẻ vội vã bởi đọc truyện, ta không thể đọc lướt đi bằng tốc độ mà cần đến cái điềm tĩnh của sự suy tư, nghĩa là chúng ta vừa cùng với trang viết đi theo chiều dọc, chiều dài,vừa phải lắng xuống độ sâu, hiểu đến tận cùng cái ý nghĩa sâu xa của nó.
Giọng điệu trần thuật chủ đạo trong tập truyện là chất giọng nhẹ nhàng, như tâm tình, như trò truyện cùng độc giả. Chính điều này đã mang đến sự gần gũi và thân mật, tính chân thực cho các câu chuyện được viết ra. Đôi lúc, người kể chuyện như phơi bày, giãi tỏ cùng người đọc những chân trời cảm xúc của mình bằng việc hướng ngòi bút vào việc trò truyện cùng độc giả. “Quê mẹ tôi ở Trung Bộ. Nhà người – tôi không làm thơ đâu, ở bên kia một dòng sông nhỏ, êm kín với hai bờ lau xanh”. Giọng điệu độc thoại cùng người đọc đem lại cảm giác gần gũi và đáng tin cậy hơn. Song có lúc, người kể chuyện lại như đang thủ thỉ cùng những người thân yêu của mình “hỡi chị! Nếu số phận đã bắt chị vào làm dâu một gia đình cơ cực, làm vợ một người chồng không bằng người, làm một người lưu lạc, chị hãy nhận ở đây, trong dòng chữ này một lời an ủi, để may ra lòng đau khổ của chị được san sẻ vài phần”. Giọng văn này giống một lời nói chuyện, một lời an ủi, giãi bày hơn là một câu trần thuật. Dường như lúc này, nhân vật như chia làm hai cái tôi, một cái tôi mang chức năng kể chuyện và một cái tôi biểu hiện cảm xúc cá nhân trong vị trí một người máu thịt của gia đình. Bởi vậy mà cứ nhẹ nhàng, sâu lắng, mơn man trong tâm trí người đọc.
Không chỉ có giọng điệu tâm tình, giãi bày mà ở Chân trời cũ còn có rất nhiều đoạn được trần thuật bằng một chất giọng mang đậm tính triết lí. Những triết lí về cuộc đời được nêu lên một cách khái quát , bao hàm, vượt lên những thứ vụn vặn, tủn mủn của đời thường. Những câu nói mang tính triết lí chính là kết quả của quá trình suy tư, chiêm nghiệm lau dài trong tâm hồn tác giả. Song, những triết lí về cuộc đời không được viết lên một cách khô khan mà bao giờ cũng nhẹ nhàng, như khuyên nhủ, như trách móc, như tự vấn,... “Một tình thương mất đi, vừa khơi lũng xuống tháng ngày tôi sống”, “Tình yêu, nếu thực là tình yêu, thì không có quê hương, cố quận bởi nó lan tỏa từ một tấm lòng nghệ sĩ mênh mông, tự nó đã sẵn có sức hun nấu, và thấu suốt qua, bao trùm tất cả những gì đáng được thờ kính thiêng liêng”, “người ta yêu nhau chỉ để yêu nhau, lấy nhau là tham lam,ích kỉ”. Những câu triết lí quan tâm đến tình yêu,đến cách sống của con người, làm nổi bật lên cái thần thái của câu chuyện. Giọng điệu này có được là do sự trải nghiệm của nhà văn với cuộc đời.
Sự kết hợp hài hòa giữa chất giọng tâm tình và giọng triết lí tạo nên âm điệu chung cho tác phẩm là những nốt trầm buồn. Nhờ đó mà những cảm xúc miên man, nhẹ nhàng của nhà văn cứ thế lan tỏa khắp trang viết rồi chảy sâu vào trong lòng độc giả. Giọng điệu này cũng giúp chúng ta nhận ra được cá tính sáng tạo của Hồ Dzếnh – một tâm hồn thâm trầm, kín đáo và hay suy tư, trăn trở về cuộc đời.
Trong Chân trời cũ âm vang lên một thứ nhạc luật, một tiết tấu khi tha thiết, lúc lại hùng hồn như muốn người đọc đi với một thứ ma lực khó lòng cưỡng nổi. Giọng văn êm ái, nhẹ nhàng, trầm buồn như những kiếp người sống cơ cực, mờ nhạt trong xã hội. Chính nhờ chất giọng ấy mà hình ảnh con người, thiên nhiên hiện lên đều nhuốm màu buồn bã, cô quạnh. Thiên nhiên hiện lên trong tập truyện không chỉ qua hình ảnh mà còn âm vang nhạc điệu. “Nắng tắt dần dần. Chỉ còn ánh vàng pha sắc tím. Hoàng hôn ở đây không như hoàng hôn ở Giang Tây, Hồ Bắc. Hoàng hôn ở đây ưu hoài như một chinh phụ nhớ chồng?”. Câu văn như giéo gắt, như vang vọng từ một miền quá khứ vãng lai, như ngân dài từ vùng miền xa xôi nào đó. Thiên nhiên nhờ đó không còn là thiên nhiên của đời thường mà dường như cũng mang tâm trạng của con người. Giọng điệu trần thuật đóng vai trò rất lớn trong việc thể hiện ý đồ tư tưởng của nhà văn. Bởi vậy, đọc truyện, ta cảm được cái nhẹ nhàng, trong sáng mà trầm buồn, xa ngái của tập truyện.
Có thể thấy xuyên suốt toàn bộ tập truyện là một giọng kể thâm trầm, sâu lắng mà đậm chất triết lí, suy tư. Ngôn ngữ trong sáng và hàm súc, thể hiện được những cung bậc tâm trạng phức tạp của nhân vật tôi kể chuyện về cuộc đời, về những kỉ niệm ngày thơ ấu. Chất thơ được tạo nên bằng những hồi ức đẹp, được viết lên bởi thứ ngôn ngữ trong sáng, bình dị dù đôi khi cũng giọt dũa, tỉa tót. Nhưng nhìn chung, bằng nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ và giọng điệu trần thuật như vậy, Hồ Dzếnh đã mang đến cho người đọc những cảm xúc chân thật và lắng đọng về những câu chuyện được kể.
PHẦN KẾT LUẬN:
Hồ Dzếnh là một cây bút tài năng trong nghệ thuật viết truyện ngắn. Truyện của ông là bức tranh đa diện về đời sống con người đồng thời thấm đẫm chất trữ tình. Với Chân trời cũ, nhà văn đã cho người đọc thấy một tài năng trong nghệ thuật kể chuyện. Mặc dù xuyên suốt toàn bộ tập truyện là dạng người kể chuyện bên trong với điểm nhìn có định những tác phẩm vẫn mang tính khách quan, khái quát hiện thực cao. Qua con mắt quan sát tinh tế của nhà văn, cuộc sống được phơi bày sắc nét mà không gây cảm giác nặng nề bởi giọng văn chất chứa nhiều suy tư của tác giả. Bằng cách lựa chọn người kể chuyện là một nhân vật xưng tôi trong tác phẩm, nhà văn được thỏa sức thể hiện những suy nghĩ, những xúc cảm cá nhân một cách tự nhiên mà không gây cảm giác khó chịu cho độc giả. Mọi số phận hiện lên trong kí ức xa xôi của nhà văn là một kiếp người đau thương, sống lặng lẽ, lầm lũi của xã hội. Cách lựa chọn người kể chuyện xưng tôi đã giúp nhà văn bộc lộ được nhiều ý kiến, suy nghĩ chủ quan của mình về cuộc đời và con người. Đồng thời với đó là mạch truyện trữ tình sâu sắc. Khai thác triệt để hiệu quả của kiểu người kể chuyện bên trong, Hồ Dzếnh đã đưa văn xuôi của mình vượt tràn sang địa hạt của trữ tình khi nhà văn bộc lộ, bày tỏ những suy nghĩ và quan điểm khách quan của mình về mọi việc được kể đến. Mạch truyện nhẹ nhàng mà tinh tể, thấm đẫm tâm sự của con người, gợi lên một nỗi buồn man mác, xa ngái về một thời dĩ vãng xa xưa, về một “chân trời cũ”.
Ngôn ngữ trong tập Chân trời cũ là một thứ ngôn ngữ trong sáng, hàm súc và dễ hiểu. Sự đan xen kết hợp giữa từ thuần Việt và từ Hán Việt tạo nên cảm giác vừa bình dị, thân thuộc nhưng đồng thời mang đến cho tác phẩm một không khí cổ xưa, dĩ vãng. Kết hợp với tính hiện thực, chất thơ chảy xuyên suốt khắp trang viết, len lỏi vào từng chi tiết nhỏ khiến những kí ức tuổi thơ hiện về dù buồn nhưng vẫn đẹp, vẫn lãng mạn. Những câu văn đôi khi còn quá trau chuốt về mặt ngôn từ nhưng nhìn chung đều chan chứa tình cảm của con người, mang tính biểu cảm cao.
Giọng điệu trong tác phẩm chủ yếu là giọng tâm tình, như giãi bày, như trò truyện cùng bạn đọc. Giọng điệu này được viết nên bởi một tâm hồn nặng lòng với quê hương, nặng lòng với người xưa. Bên cạnh đó là giọng điệu mang đẫm màu sắc triết lí nhưng lại không tạo cảm giác khô cứng. Nhà văn viết những điều này như một sự giải bày, chiêm nghiệm. Tính nhạc trong văn xuôi Hồ Dzếnh cũng là một đặc điểm khá quan trọng. Nó âm vang một nhạc luật, một tiết tấu khi tha thiết, lúc lại hùng hồn, cứ muốn người đọc cùng đi bằng một thứ ma lực vô hình khó cưỡng nổi.
Tóm lại, so với các nhà văn khác cùng thời thì văn xuôi Hồ Dzếnh đã có những cách tân mạnh bạo về cả hai phương diện nội dung và hình thức. Nghệ thuật kể chuyện được nhà văn sử dụng khá nhịp nhàng, uyển chuyển, tạo nên cảm giác thân quen, gần gũi với bạn đọc. Chính những điều này đã làm cho văn xuôi của Hồ Dzếnh mang một hơi thở mới so với thời đại mà ông sống.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chất thơ và điểm nhìn trần thuật của Hồ Dzếnh.doc