Trải qua một quá trình dài, đặc biệt là từ năm 1991 đến năm 1995, chính sách đối 
ngoại rộng mở của Việt Nam đã được thực hiện rất tốt, được các nước trong khu vực hoan 
nghênh và mong muốn hợp tác với Việt Nam. Xuất phát từ thực tế "Lợi ích của Việt Nam
gắn liền với lợi ích khu vực", chúng ta đặc biệt quan tâm phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác 
với tất cả các nước láng giềng và các nước trong khu vực, phấn đấu cho một Đông Nam Á 
mới hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác, góp phần vào hòa bình, ổn định ở Châu Á - Thái 
Bình Dương và trên thế giới. Và với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, tuy giai 
đoạn đó là nước thành viên mới, với điều kiện còn nhiều khó khăn, song ngay từ khi gia nhập 
ASEAN, Việt Nam đã tích cực, chủ động và có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển 
của tổ chức này.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                
16 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4168 | Lượt tải: 5
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách đối ngoại của Việt Nam với ASEAN trong tiến trình gia nhập tổ chức giai đoạn 1991-1995, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT NAM VỚI 
ASEAN TRONG TIẾN TRÌNH GIA NHẬP TỔ 
CHỨC 
GIAI ĐOẠN 1991-1995 
 Nhóm : 
 Tên: Nguyễn Trọng Đức - CT36B 
 Trần Bích Thảo - CT36C 
 Nguyễn Thu Thủy - CT36C 
 Nguyễn Hương Nga - CT36D 
 Lê Phương Nga - CT36D 
 Hoàng Như Ngọc - CT36D 
 1 
 Lời mở đầu. 
 Sau hơn 30 năm ra đời, xây dựng và phát triển, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, 
viết tắt là ASEAN (The Association of South East Asian Nations) đã ngày một lớn mạnh. Từ 
một ASEAN gồm 5 nước thành viên, đến nay ASEAN đã trở thành một tổ chức gồm hầu hết 
các quốc gia trong khu vực. Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN ngày 28 tháng 7 năm 
1995. Thời điểm bây giờ nhìn lại mọi chuyện tưởng chừng như khá đơn giản, Việt Nam tham 
gia tổ chức khu vực là một điều tất yếu, thế nhưng sự kiện lịch sử này lại là cả một quá trình 
trong đó yếu tố đối ngoại nắm giữ vai trò quan trọng, cụ thể là chính sách đối ngoại của nước 
ta với các nước ASEAN trong tiến trình gia nhập vào tổ chức này giai đoan từ năm 1991 đến 
năm 1995. 
Nhìn lại tiến trình lịch sử, chính sách đối ngoại của Việt Nam trong một thế 
giới mới đầy biến động đã đáp ứng được những yêu cầu xây dựng và phát triển đất 
nước. Nó đã sáng tạo những hình thức đối ngoại phù hợp với xu thế thời đại chính vì 
thế đã thu được những thành tựu to lớn. Những thành tựu đối ngoại đã góp phần quan 
trọng trong việc đưa Việt Nam hoà nhập với khu vực và thế giới, cụ thể là trở thành 
thành viên thứ 7 của ASEAN. Việc hội nhập toàn diên vào tổ chức này đã mang lại 
những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển đất nước, qua khẳng định tư duy chính trị 
nhạy bén, sâu sắc, giàu kinh nghiệm trong lãnh đạo nước nhà. Đặc biệt là trong giai 
đoạn 1991-1995, công cuộc đổi mới tư duy đối ngoại, đường lối đối ngoại với các 
nước ASEAN đã thể hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam trong lịch sử và 
được nâng lên tầm cao mới, chính vì vậy nhóm chọn đề tài "Chính sách đối ngoại 
của Việt Nam với ASEAN trong tiến trình gia nhập tổ chức giai đoạn 1991-1995" 
nhằm làm rõ những quyết sách đúng đắn sáng tạo của nhà nước, trong tiến trình gia 
nhập tổ chức ASEAN. 
 2 
Chương 1 : Mở rộng quan hệ với ASEAN và chủ động hội 
nhập là yêu cầu cần thiết của đất nước. 
 Thời điểm từ năm 1991, nước ta bước vào thời kỳ đổi mới trong hoàn cảnh 
quốc tế đang diễn ra những biến đổi to lớn về kinh tế và chính trị. Thuận lợi và khó 
khăn nên được đánh giá toàn diện và so sánh qua các thời kỳ và hiện nay chúng ta 
đang đứng trước những khó khăn, thử thách gay gắt. Sự sụp đổ của các nước xã hội 
chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô đã gây ra ảnh hưởng không tốt về chính trị, tư tưởng. 
Liên Xô tan rã làm mất đi thế hai cực trong quan hệ quốc tế dẫn đên sự thay đổi trong 
cán cân lực lượng trên thế giới và trong khu vực. Điều này đã tác động sâu sắc đối với 
phong trào cách mạng thế giới và cách mạng Việt Nam. Ở Đông Nam Á, cả Mỹ và 
Nga đều bắt đầu giảm thiểu sự hiện diện quân sự của mình trong khu vực. Việc này đã 
tạo ra một khoảng trống quyền lực. Những cố gắng nhằm đẩy mạnh vai trò cả về 
chính trị, kinh tế, quân sự của một vài cường quốc Châu Á đã làm tăng mối lo ngại 
truyền trống trong các nước ASEAN và các nước Đông Nam Á khác về một nguy cơ 
thật sự đối với khu vực. Hơn nữa, sự rút lui của Mỹ đã làm mất đi chỗ dựa truyền 
thống về an ninh của các nước ASEAN, trong khi vấn đề Campuchia chưa phải đã 
thật sự chấm dứt hoàn toàn và bên cạnh đó lại nảy sinh những nguy cơ tiềm tàng ở 
Biển Đông… Chủ nghĩa đế quốc và các lực lượng phản động quốc tế lợi dụng tình 
hình để chia rẽ ba nước Đông Dương, gây sức ép hơn nữa đối với nước ta và các nước 
Đông Dương, hòng giải quyết vấn đề Campuchia theo hướng có lợi cho chúng. Các 
thế lực thù địch ra sức lợi dụng tình hình trên, ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biễn 
hoà bình” bằng những thủ đoạn kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá và quân sự rất 
thâm độc. Cùng với đó là cuộc khủng hoảng kinh tế 1997 đã tác động vào tốc độ phát 
 3 
triển của khu vực và ASEAN. Đối với Việt Nam, các đối tượng hợp tác truyền thống 
là Liên Xô và các nước Đông Âu lại đang khủng hoảng trầm trọng, trong khi đó chính 
quyền Mỹ vẫn thi hành chính sách bao vây, cấm vận, ngăn cản các nước và các tổ 
chức kinh tế quan hệ kinh tế với nước ta. 
Nhưng nếu so với mấy chục năm trước, khi chúng ta phải trải qua những cuộc 
chiến tranh khốc liệt, và so với 12 năm trong hoàn cảnh nước ta bị bao vây, cấm vận, 
thì thời điểm hiện nay không phải là khó khăn nhất. Trái lại, chúng ta đang có những 
thuận lợi và cơ hội mới. Cùng với việc kết thúc Chiến tranh lạnh, ở Đông Nam Á, 
việc ký kết Hiệp định hòa bình Paris về Campuchia (tháng 10/1991) đã đặt ra cho cả 
Việt Nam lẫn các nước ASEAN nhiều cơ hội lẫn thách thức mới. 
Lần đầu tiên sau nhiều năm chiến tranh, xung đột và đối đầu, tất cả các quốc 
gia và nhân dân trong khu vực đã có những cơ hội thật sự để phát triển nhằm thiết lập 
một nền hòa bình bền vững và lâu dài, cũng như vun đắp cho tình hữu nghị và thịnh 
vượng chung ở khu vực. Thay cho chiến tranh lạnh và đối đầu, các nước lớn đi vào 
hợp tác để giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực. Vấn đề Campuchia đang đi tới 
chỗ giải quyết. Quá trình bình thường hóa quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc 
đang tiến triển có lợi cho hòa bình và ổn định ở khu vực. Đây cũng là cơ hội để khởi 
xướng tăng cường và phát triển sự hợp tác vì tiến bộ chung, chuẩn bị để bước vào thế 
kỷ XXI, thế kỷ Châu Á - Thái Bình Dương. Xu thế hòa bình và hợp tác gia tăng giữa 
lúc xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa lan tỏa, các nước Đông Nam Á đều nhận thức 
về một cơ hội mới cho sự phát triển của mình. Tình hình này tạo điều kiện thuận lợi 
cho các nước Đông Nam Á tăng cuờng hợp tác về một trật tự mới, một Đông Nam Á 
hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Trang sử mới đang được mở ra trong quan hệ 
giữa các nước trong khu vực này. 
 4 
Bên cạnh những cơ hội nói trên, không ít thách thức cũng xuất hiện mà cà Việt 
Nam và ASEAN đều phải đối phó. Việt Nam đã trải qua nhiều cuộc chiến tranh nên 
lợi ích lớn nhất lúc này là duy trì hòa bình ổn định khu vực, tạo dựng một môi trường 
quốc tế và khu vực thuận lợi cho công cuộc đổi mới. Tuy khủng hoảng từng bước bị 
đẩy lùi nhưng chúng ta vẫn chưa thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, trình độ 
kinh tế và khoa học - kỹ thuật của nước ta còn thấp kém, lại đứng trước thách thức về 
sự phát triển kinh tế và khoa học - kỹ thuật rất nhanh của thế giới và khu vực. Trong 
lúc này, nhiều vấn đề cần thiết cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã được tạo ra. và 
cùng với đó là sự khai thông của quan hệ quốc tế. Việt Nam đang tập trung sức lực 
vào phát triển nền kinh tế vốn bị chiến tranh tàn phá, cải thiện đời sống nhân dân, đưa 
đất nước đi lên theo kịp với nhịp độ phát triển chung của các nước trong khu vực và 
trên thế giới. Thách thức lớn đối với Việt Nam để hội nhập được vào xu thế chung của 
thế giới là ưu tiên cho phát triển kinh tế và Việt Nam cần phải có nhiều cố gắng để 
tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Với mục tiêu đó, Việt Nam đã tăng cường và phát 
triển các mối quan hệ hợp tác với bên ngoài, trước hết là với các nước trong khu vực 
Đông Nam Á. Thoát khỏi khủng hoảng, phát triển kinh tế - xã hội được coi là lợi ích 
tối cao; và để phục vụ mục tiêu này, đẩy lui chính sách cô lập, bao vây cấm vận Việt 
Nam, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi, trước hết là ở khu vực, được coi là 
nhiệm vụ hàng đầu của công tác ngoại giao. 
Trong bối cảnh đó, đẩy mạnh quan hệ với ASEAN trở thành mục tiêu quan 
trọng đối với Việt Nam vì ASEAN là một tập hợp của những nước nhỏ và vừa, có 
xuất phát điểm gần giống Việt Nam, đã vươn lên thành những nước có nền kinh tế 
phát triển nhất ở khu vực hiện nay. Hợp tác chặt chẽ với ASEAN sẽ giúp Việt Nam 
nhanh chóng đuổi kịp và hòa nhập với sự phát triển kinh tế của các nước trong khu 
vực. Bên cạnh đó, ASEAN có tiếng nói và vai trò ngày càng tăng trên thế giới, là tổ 
chức khu vực duy nhất trên thế giới có mối quan hệ chặt chẽ và cơ chế đối thoại 
thường xuyên với nhiều nước công nghiệp phát triển, trong đó bao gồm tất cả 5 ủy 
 5 
viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Việc phát triển hợp tác Việt Nam - 
ASEAN sẽ giúp làm tăng vị trí cũng như vai trò của Việt Nam trên trường quốc tế, 
cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam đi vào hợp tác với các nước công 
nghiệp phát triển và các trung tâm chính trị, kinh tế lớn, tạo thuận lợi cho Việt Nam 
tham gia các thể chế hợp tác lớn hơn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. 
Tóm lại, có thể thấy rằng trước những thách thức của thời kỳ hậu Chiến tranh 
lạnh, việc phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN đã trở thành một vấn đề có tính quan 
trọng chiến lược, cả về kình tế, chính trị đối với ASEAN và Việt Nam. 
Chương 2 : Quá trình đất nước mở rộng quan hệ đối ngoại 
với các nước ASEAN. 
Bước ngoặt trong hoạt động mở rộng quan hệ đối ngoại của Việt Nam được bắt 
đầu từ năm 1986. Với đường lối đổi mới toàn diện, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
VI của Đảng diễn ra từ ngày 15 đến ngày 18/12/1986 đã đề ra chính sách đối ngoại 
phù hợp với yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước. Đại hội khẳng định: "Đảng và Nhà 
nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hòa bình và hữu nghị".1 Về quan hệ 
với các nước trong khu vực Đông Nam Á, Đảng ta chỉ rõ: Chúng ta mong muốn và 
sẵn sàng cùng các nước trong khu vực thương lượng để giải quyết các vấn đề ở Đông 
Nam Á, thiết lập quan hệ cùng tồn tại hòa bình, xây dựng Đông Nam Á thành khu vực 
hòa bình, ổn định và hợp tác".2 
__________________________ 
1 Đảng Cộng sản VN: Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội. 1987, tr105. 
2 Đảng Cộng sản VN: Văn kiện Đảng toàn tập: Sđd, tr108. 
 6 
Đây là những quyết nghị hết sức đúng đắn, sáng tạo của Đảng về chính sách 
đối ngoại trong giai đoạn cách mạng mới. Nó trở thành tư tưởng chủ đạo, sợi chỉ đỏ 
xuyên suốt quá trình đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam, đồng thời là 
một dấu mốc quan trọng trong tiến trình từng bước gia nhập ASEAN của Việt Nam. 
Thực hiện đường lối đổi mới do Đại hội Đảng VI đề ra, trên các diễn đàn quốc 
tế và khu vực, các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nuớc ta luôn khẳng định lập trường 
của Việt Nam là được chung sống hòa bình với các nước trong khu vực, sẵn sàng hợp 
tác để xây dựng Đông Nam Á thành một khu vực hòa bình, ổn định và phát triển. Trả 
lời phỏng vấn Tạp chí Quan hệ Quốc tế (tháng 10/1991), Bộ trưởng Bộ ngoại giao 
Nguyễn Mạnh Cầm đã nêu rõ chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với các nước 
trong khu vực, trong đó khẳng định: "Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, mà trước 
hết là Đông Nam Á và Đông Á, giữ vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của 
VN…".3 Tháng 1/1989, tại Hội nghị bàn tròn các nhà báo Châu Á - Thái Bình Dương 
tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn 
Văn Linh một lần nữa nhấn mạnh: "Việt Nam sẵn sàng phát triển quan hệ hữu nghị 
với các nước ASEAN và các nước trong khu vực". Cũng tại Hội nghị này, Bộ trưởng 
Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch tuyên bố: "Việt Nam sẵn sàng gia nhập Hiệp hội các 
nước Đông Nam Á". Những phát biểu trên một lần nữa nhấn mạnh quan điểm trước 
sau như một của Đảng và Nhà nước ta trong vấn đề gia nhập ASEAN. 
Trong bối cảnh đó, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam VII hay còn gọi là Đại 
hội đại biểu lần VII của diễn ra từ ngày 24 đến ngày 27/6/1991 ở Hà Nội đã khẳng 
định chủ trương thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa đa phương hóa 
__________________________ 
3 Nguyễn Mạnh Cầm: Bài trả lời phỏng vấn Tạp chí Quan hệ Quốc tế, Tạp chí Quan 
hệ Quốc tế, số 10 năm 1991. 
 7 
trong đó nhấn mạnh việc " Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước Đông Nam Á và 
Châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hòa bình, hữu nghị và 
hợp tác ". 
Ngay cả trong thời kỳ đối đầu, quan hệ chính trị giữa Việt Nam với các nước 
ASEAN vẫn được duy trì. Những cuộc tiếp xúc, đối thoại dưới nhiều hình thức đã 
được xúc tiến: từ hội thảo đến hội nghị quốc tế, từ các nhóm làm việc đến cuộc họp 
JIM-1 (Jakarta Infornal Meeting) diễn ra từ ngày 25 đến ngày 26/07/1988 tại Bo-go 
(Indonesia), cuộc họp JIM-2 từ ngày 19 đến ngày 21/02/1989, Họp Hội nghị không 
chính thức về Campuchia (IMC) từ 26/02/1990 đến 01/03/1990 ở Jakarta. Ngoài 
thành phần như JIM (Campuchia, Việt nam, Lào và 6 nước ASEAN) còn có thêm đại 
diện Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Pháp và Úc; bên cạnh đó là các cuộc viếng thăm 
lẫn nhau của các vị lãnh đạo cấp cao các nước ASEAN và Việt Nam. 
Và sau khi thực hiện chủ trương của Đảng, quan hệ Việt Nam - ASEAN đã 
từng bước phát triển nhanh chóng. Hai bên thường xuyên tiến hành các cuộc trao đổi 
đoàn và tiếp xúc cấp cao. Các chuyến viếng thăm diễn ra dồn dập ở các cấp. 
Phía Việt Nam có các chuyến thăm và làm việc tại: 
* Malaysia: 
 - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt (tháng 1/1992; 7/1992); 
 - Tổng Bí thư Đỗ Mười (tháng 3/1994); 
 - Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tháng 5/1994); 
* Indonesia: 
 - Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Trần Đức Lương (tháng 1/1991); 
 - Chủ tịch Quốc hội Lê Quang Đạo (tháng 1/1991); 
 - Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Võ Văn Kiệt (tháng 10/1991, tháng 7/1992); 
 - Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Võ Chí Công (dự Hội nghị cấp cao không liên kết 
lần thứ 10 và thăm không chính thức tháng 9/1992); 
 - Chủ tịch nước Lê Đức Anh (tháng 4/1994); 
 8 
* Philippines: 
 - Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh (tháng 1/1978); 
 - Thủ tướng Phạm Văn Đồng (tháng 9/1978); 
 - Thủ tướng Võ Văn Kiệt (tháng 2/1992); 
 - Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (tháng 3/1993); 
 - Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm (tháng 2/1995); 
* Thái Lan: 
 - Tháng 9/1991 và tháng 7/1992, Thủ tướng Võ Văn Kiệt thăm Thái Lan. 
 - Tháng 10/1993, Tổng Bí thư Đỗ Mười thăm Thái Lan. 
Phía các nước ASEAN có các chuyến thăm và làm việc tại Việt Nam: 
* Malaysia: 
 - Chủ tịch Thượng viện Dato Chămchong Tak (tháng 11/1991); 
 - Thủ tướng Mahathia Môhamét (tháng 4/1992); 
* Indonesia: 
 - Tổng thống Suharto (tháng 11/1990); 
 - Ngoại trưởng Alatas (tháng 1/1990, tháng 2/1991); 
 - Chủ tịch Hội đồng hiệp thương nhân dân Kharis Suhud (tháng 5/1992); 
 - Bộ trưởng Quốc phòng và An ninh Edi Sudra (tháng 7/1994); 
* Philippines: 
 - Ngoại trưởng R.Manglapus (tháng 11/1988); 
 - Chủ tịch Hạ nghị viện Ramon Mitra (tháng 8/1991); 
 - Ngoại trưởng Roberto Romulo (tháng 11/1992); 
 - Tổng thống F. Ramos (tháng 3/1994); 
* Thái Lan: 
 - Tháng 9/1991, Ngoại trưởng Thái Lan Arsa Sarasin thăm Việt Nam. 
 - Tháng 1/1992, Thủ tướng Anand Panyarachun thăm Việt Nam. 
 - Tháng 12/1992, Bộ trưởng Ngoại giao Praxong Xunxiri thăm Việt Nam. 
 - Tháng 2/1994, Chủ tịch Quốc hội Marut Bun Nang thăm Việt Nam. 
 - Tháng 3/1994, Thủ tướng Chuan Leekpai thăm Việt Nam. 
Những chuyến thăm đó đã góp phần vào việc tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau 
và đẩy lùi xu thế đối đầu, tạo cơ sở cho việc phát triển quan hệ trong giai đoạn mới. 
Sự tồn tại cơ chế chính trị tay đôi giữa Việt Nam và một số nước ASEAN cũng là một 
 9 
hình thức tốt cần được mở rộng nhằm thúc đẩy quan hệ song phương và sự trao đổi về 
các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm. 
Chỉ trong hai năm, Việt Nam đã ký với các nước này gần 40 hiệp định các loại 
( Hiệp định khung về hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật; Hiệp định về bảo hộ đầu tư, 
Hiệp định tránh đánh thuế hai lần, Hiệp định về bảo hộ đầu tư; Hiệp định về hàng 
không, hàng hải,…) làm cơ sở pháp lý cho các mối quan hệ hợp tác đang ngày càng 
mở rộng. Các quan hệ kinh tế và thương mại cũng tăng nhanh chóng. Hiện nay, các 
nước ASEAN tiêu thụ hoặc tái xuất một khối lượng lớn hàng xuất khẩu của Việt 
Nam, và đầu tư trực tiếp của họ chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng số vốn đầu tư 
của nước ngoài vào Việt Nam. 
Chương 3 : Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại 
tiến tới gia nhập ASEAN. 
Trong các cuộc tiếp xúc cấp cao Việt Nam - ASEAN từ cuối năm 1990 trở đi, 
vấn đề Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali được đề cập, và ngày 28/1/1992, Hội nghị 
cấp cao ASEAN lần thứ tư họp tại Singapore (năm 1992) đã tuyên bố rõ điều đó. 
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ ba khóa VII 
(tháng 6/1992) đã đề cập việc "Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali, tham gia các diễn 
đàn đối thoại với ASEAN, tích cực nghiên cứu mở rộng quan hệ với ASEAN trong 
tương lai". Ngày 11/7/1992, tại Hội nghị lần thứ 25 Bộ trưởng ngoại giao các nước 
ASEAN, Việt Nam và Lào đã chính thức tham gia Hiệp ước Bali và trở thành quan 
sát viên của tổ chức ASEAN. 
 10 
Chính sách 4 điểm của Việt Nam đưa ra năm 1976 có nhiều điểm trùng hợp 
với 6 nguyên tắc ghi trong Hiệp ước Bali năm 1976 của các nước ASEAN. Chính vì 
thế việc Việt Nam tham gia Hiệp uớc Bali đã thể hiện cam kết của Việt Nam với 
những nguyên tắc được nêu ra trong chính sách. Điều đó cũng làm tăng sự tin cậy của 
các nước ASEAN và các nước ngoài khu vực đối với Việt Nam, góp phần phá thế bao 
vây cấm vận của Mỹ, và tạo thuận lợi thúc đẩy việc thực hiện chính sách mở cửa đã 
được Việt Nam đưa ra. 
 Việt Nam hoan nghênh các sáng kiến của các nước ASEAN về khu vực hòa bình, 
tự do, trung lập (ZOPFAN) và khu vực phi hạt nhân ở Đông Nam Á (SEANWFZ). 
Đồng thời Việt Nam cũng quan tâm tới các sáng kiến hợp tác khu vực khác như hội 
nghị kinh tế Châu Á - Thai Bình Dương (APEC), nhóm kinh tế Đông Á, khu vực tự 
do thương mại (FTA), bán đảo vàng, tam giác, tứ giác phát triển. Việt Nam chủ 
trương tiếp tục hợp tác với các nước khác khai thác sông Mê Công và gác các vấn đề 
về chủ quyền để hợp tác khai thác biển Đông. 
Với tư cách quan sát viên của ASEAN, từ năm 1992, Việt Nam đã được mời 
tham dự các cuộc họp Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN hàng năm. Từ năm 
1993, ASEAN đã lập cơ chế họp hiệp thương giữa ASEAN và Việt Nam nhân dịp Hội 
nghị Bộ trưởng Ngoại Giao ASEAN lần thứ 26 ở Singapore (năm 1993). 
Không dừng lại ở đó, Việt Nam còn được mời tham gia Diễn đàn khu vực 
ASEAN (ARF) để bàn về các vấn đề chính trị và an ninh của khu vực Châu Á - Thái 
Bình Dương. Việt Nam được coi như một trong những nước sáng lập diễn đàn này. 
Cũng trong năm 1993, ASEAN đã mời Việt Nam tham gia các chương trình và dự án 
hợp tác ASEAN trên 5 lĩnh vực: khoa học - công nghệ môi trường, y tế, văn hóa - 
thông tin, phát triển xã hội, cùng một số dự án hợp tác chuyên ngành: thủ công, phòng 
ngừa ma túy (dành cho thanh niên), đào tạo cán bộ du lịch. 
 11 
Để tạo môi trường thuận lợi hơn nữa cho sự tham gia của Việt Nam vào quá 
trình hợp tác khu vực, và nhất là vào ASEAN, từ tháng 2/1993, Việt Nam đã tuyên bố 
"Sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời điểm thích hợp". Điều này đã được các nước 
ASEAN, dư luận khu vực và quốc tế đánh giá cao. Đáp lại, các nước ASEAN tuyên 
bố muốn thấy Việt Nam sớm gia nhập ASEAN. Với những phát triển ngày càng tích 
cực và thuận lợi trong quan hệ Việt Nam và ASEAN cả về song phương và đa 
phương, tháng 4/1994, trong chuyến thăm chính thức Indonexia, Chủ tịch nước Lê 
Đức Anh đã tuyên bố cùng với sự hỗ trợ tích cực của ASEAN: "Việt Nam đang xúc 
tiến các công việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên đầy đủ của 
ASEAN". Tuyên bố này thể hiện thái độ tích cực và chân thành của Việt Nam trong 
việc gia nhập ASEAN. Cũng trong thời gian này, các nhà lãnh đạo cao nhất của 
ASEAN đã lần lượt tuyên bố hoàn toàn ủng hộ việc Việt Nam gia nhập ASEAN. Thủ 
tướng Malaysia và Thủ tướng Singapore còn nhấn mạnh rằng sự khác biệt về chế đô 
chính trị - xã hội không phải là trở ngại cho vấn đề này. 
Tại hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 27 tại Bangkok (từ ngày 22 
đến ngày 23/7/1994), các nước ASEAN đã nhất trí tuyên bố sẵn sàng công nhận Việt 
Nam là thành viên chính thức của ASEAN và quyết định thành lập một nhóm làm 
việc gồm các quan chức cao cấp do Tổng thư ký ASEAN đứng đầu để trao đổi và 
tham khảo ý kiến với Việt Nam nhằm xúc tiến tới công nhận Việt Nam là thành viên 
chính thức của ASEAN. Như vậy, sau một quá trình tăng cường quan hệ song phương 
với từng nước cũng như với cả tổ chức ASEAN, đến tháng 7/1994 việc Việt Nam gia 
nhập ASEAN đã đạt được sự nhất trí từ cả hai phía. 
Sau khi dự Hội nghị AMM lần thứ 27, Việt Nam đã tham dự cuộc họp đầu tiên 
của Diễn đàn ARF diễn ra ngay sau đó tại Bangkok. Tháng 9/1994, lần đầu tiên Việt 
Nam tham dự Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN lần thứ 26 ở Chiềng Mai (Thái 
Lan). Tại hội nghị này, nhữung vấn đề chuẩn bị cho việc VN gia nhập ASEAN về mặt 
 12 
kinh tế tài chính… đã được đề cập một cách rộng rãi. Bên cạnh những diễn đàn của 
các giới học giả ASEAN và Việt Nam. Tại các diễn đàn này, các câu hỏi về việc Việt 
Nam tham gia ASEAN, những tác động của việc tham gia đó, tương lai của hợp tác 
Việt Nam ASEAN… được thảo luận một cách thẳng thắn khách quan và tự do. Rất 
nhiều ý kiến có giá trị của các học giả đóng góp vào việc hoạch định chính sách của 
chính phủ các nước ASEAN và Việt Nam đối với khu vực trong quan hệ giữa các 
nước này với nhau và với các nước ngoài khu vực. 
Bước phát triển mới trong quan hệ Việt Nam - ASEAN thể hiện ở việc ngày 
17/10/1994, Bộ trưởng Ngoại giao Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã gửi thư 
tới Bộ trưởng Ngoại giao Brunei, Chủ tịch đương nhiệm Ủy ban thường trực ASEAN 
(ASC), chính thức đặt vấn đề Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN. 
Quyết định trên của Việt Nam được ASEAN hoan nghênh và đáp ứng kịp thời. Những 
thủ tục cần thiết cũng được phía Việt Nam và ASEAN cũng chuẩn bị để vấn đề Việt 
Nam gia nhập ASEAN có thể hoàn tất trong năm 1995. 
Chính sự phát triển quan hệ Việt Nam - ASEAN trên nhiều lĩnh vực, ở các diễn 
đàn các cấp và các giới khác nhau đã đưa các nước này lại gần nhau hơn, có sự tăng 
cường hiểu biết và thông cảm lẫn nhau để có thể cùng liên kết các hoạt động trong 
một tổ chức hợp tác khu vực như ASEAN. 
Trên tinh thần đó, Việt Nam đã sẵn sàng tham gia vào các cơ chế hợp tác trong 
khu vực, trước hết là với các nước ASEAN, thúc đẩy hợp tác song phương và đa 
phương trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi. Và ngày 28/7/1995, tại Hội nghị Bộ trưởng 
Ngoại giao ASEAN lần thứ 18, Việt Nam chính thức được kết nạp vào ASEAN và trở 
thành thành viên thứ 7 của tổ chức này. Sự kiện trọng đại này thể hiện rõ nét chính 
sách chủ động hội nhập khu vực và quốc tế của ta. Đánh giá thắng lợi đó, báo Sài Gòn 
giải phóng số ra ngày 20/9/1995 viết: "Lịch sử đã thực sự sang trang mới ở khu vực 
 13 
này. Nhân tố Việt Nam trong ASEAN không chỉ đưa lại tác động tích cực về hợp tác 
kinh tế với một thị trường hơn 70 triệu dân đầy sức hấp dẫn mà còn có ý nghĩa chính 
trị sâu rộng". 
Chương 4 : Tổng kết. 
Trải qua một quá trình dài, đặc biệt là từ năm 1991 đến năm 1995, chính sách đối 
ngoại rộng mở của Việt Nam đã được thực hiện rất tốt, được các nước trong khu vực hoan 
nghênh và mong muốn hợp tác với Việt Nam. Xuất phát từ thực tế "Lợi ích của Việt Nam 
gắn liền với lợi ích khu vực", chúng ta đặc biệt quan tâm phát triển quan hệ hữu nghị, hợp tác 
với tất cả các nước láng giềng và các nước trong khu vực, phấn đấu cho một Đông Nam Á 
mới hòa bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác, góp phần vào hòa bình, ổn định ở Châu Á - Thái 
Bình Dương và trên thế giới. Và với tư cách là thành viên chính thức của ASEAN, tuy giai 
đoạn đó là nước thành viên mới, với điều kiện còn nhiều khó khăn, song ngay từ khi gia nhập 
ASEAN, Việt Nam đã tích cực, chủ động và có nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển 
của tổ chức này. Ông Nicolas Dammen, Phó Tổng thư ký ASEAN đã nhận xét: "Việt Nam 
ngày nay là một thành viên không thể tách rời của ASEAN với những đóng góp có hiệu quả 
và thiết thực vào các sáng kiến và chương trình của Hiệp hội ở khu vực Đông Dương. Thêm 
nữa, Việt Nam còn có vai trò trong việc hoạc định hướng tương lai của ASEAN không kém 
gì các nước sáng lập tổ chức này ban đầu". Hiện nay, các nước thành viên ASEAN đang 
đồng lòng nâng mối quan hệ hợp tác và liên kết lên tầm cao mới với quyết định thành lập 
Cộng đồng ASEAN vào năm 2015. Và Việt Nam chắc chắn sẽ tiếp tục làm hết sức mình 
trong vai trò là thành viên chính thức của ASEAN nói chung cũng như trong chính sách đối 
ngoại của mình nói riêng, nhằm góp phần nâng cao uy tín và vị thế của ASEAN trên thế giới. 
 14 
Tài liệu tham khảo 
- Việt Nam - ASEAN mối quan hệ hợp tác đa phương. 
Vũ Dương Ninh. 
- Việt Nam - ASEAN: 15 năm hội nhập và phát triển. 
Lê Văn Phong - Viện lịch sử quân sự Việt Nam 
- Vai trò của Việt Nam trong ASEAN. 
Nhà xuất bản Thông Tấn cùng với Trung tâm Dữ kiện tư liệu - TTXVN phối 
hợp biên soạn. 
- Lịch sử ngoại giao Việt Nam. 
 Nguyễn Lương Bích, nxb Quân đội nhân dân 1996. 
- 50 năm ngoại giao Việt Nam. 
Lưu Văn Lợi, nxb Công an nhân dân, Hà Nội 1998. 
- Ngoại giao Việt Nam. 
 Lưu Văn Lợi, nxb Công an nhân dân, Hà Nội 2004. 
- Học viện Quan hệ quốc tế - Bộ Ngoại Giao, Hỏi đáp về tình hình thế giới và chính 
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, nxb CTQG Hà Nội 1997. 
- Học viện Quan hệ quốc tế, Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới 
(1975 - 2002). 
 15 
 Phụ lục 
- Lời mở đầu. Trang 1 
- Chương 1: Mở rộng quan hệ với ASEAN 
và chủ động hội nhập là yêu cầu cần thiết của đất nước. Trang 2 
- Chương 2: Quá trình đất nước mở rộng quan hệ đối ngoại 
với các nước ASEAN. Trang 5 
- Chương 3: Việt Nam đẩy mạnh các hoạt động đối ngoại 
tiến tới gia nhập ASEAN. Trang 9 
- Chương 4 : Tổng kết. Trang 13 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
c_6023.pdf