Chính sách “Một nước hai chế độ” trong quá trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa

Thứ sáu, trước sự phát triển nhanh chóng của xu thế toàn cầu hoá, việc nhấn mạnh chủ quyền quốc gia vốn được xem là cơ sở của chính sách “Một nước hai chế độ” đang bị đe doạ bởi những lý luận nhằm phủ định chủ quyền dân tộc của các thế lực bên ngoài muốn tách Đài Loan ra khỏi TQ. Bên cạnh đó, chính sách của các nước lớn, nhất là chính sách của Mỹ, Nhật , cùng với xu hướng li khai ngày càng tăng trên thế giới, đang đem lại những “cơ sở lý luận” cho thế lực đòi độc lập ở Đài Loan Chính sự phát triển phức tạp đó của tình hình quốc tế là những nhân tố khách quan gây trở ngại đối với chính sách “Một nước hai chế độ”.

pdf12 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2354 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chính sách “Một nước hai chế độ” trong quá trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 47 Chính sách “Một n−ớc hai chế độ” trong quá trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa Phạm Ngọc Tân (a), Hắc Xuân Cảnh (b) Tóm tắt. Bài viết tập trung phân tích bối cảnh lịch sử, quá trình hình thành, nội dung cơ bản của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” và việc vận dụng chính sách đó vào qúa trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (CHNDTH). Từ thực tế lịch sử, bài viết đã làm rõ ý nghĩa tích cực, cũng nh− những thách thức đặt ra đối với việc vận dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” trong quá trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của CHNDTH. 1. Bối cảnh của sự ra đời chính sách “Một n−ớc hai chế độ” “Một quốc gia, hai loại chế độ” (gọi tắt là “Một n−ớc hai chế độ”), là quốc sách cơ bản của CHNDTH trong qúa trình đấu tranh thống nhất đất n−ớc. Đó chính là lý luận sáng tạo đ−ợc Đặng Tiểu Bình đề ra vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX trên cơ sở tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn của cuộc đấu tranh thống nhất đất n−ớc của Trung Quốc (TQ). Theo chúng tôi, chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đ−ợc hình thành trên những cơ sở sau: Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu và thực tiễn của cuộc đấu tranh thống nhất Đài Loan của CHNDTH. Kể từ sau khi có sự chia cắt giữa Đài Loan và Đại lục, các nhà lãnh đạo CHNDTH đã tích cực tìm con đ−ờng để thống nhất Đài Loan. Tuy nhiên, trải qua gần 3 thập kỷ đấu tranh, CHNDTH vẫn không đạt đ−ợc kết quả đáng kể nào trong qúa trình thống nhất đất n−ớc. Hơn nữa, chủ tr−ơng dùng vũ lực để giải phóng Đài Loan không những không giúp TQ thống nhất Đài Loan, mà còn tạo nên sự đối kháng ngày càng lớn giữa hai bờ eo biển. Điều đó nói lên rằng, quân sự không phải là biện pháp tối −u trong qúa trình đấu tranh thống nhất Đài Loan. Vì vậy, các nhà lãnh đạo CHNDTH nhận thấy cần phải chấp nhận thực tế là “hai bên đã không dễ nuốt sống nhau, thì phải tôn trọng hiện thực, thừa nhận sự khác biệt, hạ thấp tiêu chuẩn thống nhất xuống một chút, thực hiện biện pháp tôi không thanh toán anh, anh cũng không thanh toán tôi, hai bên đều có thể tiếp nhận, hai bờ eo biển gác sang một bên sự khác biệt, thống nhất trong một quốc gia. Còn chế độ xã hội, lối sống và quan niệm giá trị mỗi bên thì cứ giữ, anh theo Chủ nghĩa Tam Dân, tôi theo CNXH, không ép nhau phải nhất trí. Nh− vậy thì sự trở ngại cho thống nhất có thể gạt bỏ, hai bên có thể ngồi lại đàm phán với nhau” [5; tr 450-451]. Đó chính là cơ sở ban đầu của chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Thứ hai, xuất phát từ sự thay đổi Nhận bài ngày 1/12/2006. Sửa chữa xong 25/12/2006. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 48 của tình hình TQ vào cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX. Tháng 12-1978, Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung −ơng ĐCSTQ khoá XI, đã quyết định đ−a TQ đi theo con đ−ờng cải cách, mở cửa. Với t− t−ởng “thực sự cầu thị”, Hội nghị lần thứ 3 đã “giải phóng t− t−ởng” để ĐCSTQ tiến hành chủ tr−ơng hoà hợp dân tộc. Có thể nói, nếu nh− không có công cuộc “giải phóng t− t−ởng” đó, thì không thể hình thành đ−ợc lý luận “Một n−ớc hai chế độ” và chính sách “Một n−ớc hai chế độ” sau này. Thứ ba, vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, tình hình thế giới đã có sự chuyển biến nhanh chóng. Sự xích lại gần nhau của các n−ớc có chế độ xã hội khác nhau đã mở ra những khả năng hợp tác rộng lớn trong cộng đồng quốc tế. Hơn nữa, sự phát triển mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hoá đã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới. Điều đó đã khiến cho Đặng Tiểu Bình nhận thấy rằng, “… giữa các n−ớc còn có thể bỏ qua sự khác biệt về chế độ và hình thái ý thức để bắt tay hoà hảo, tại sao cùng là con cháu Viêm Hoàng lại không thể v−ợt qua điểm đó, cứ để sự khác biệt về chế độ xã hội gây trở ngại cho sự nghiệp thống nhất? Chẳng lẽ máu không đậm đặc hơn n−ớc, không nuốt sống đối ph−ơng thì không thoả dạ? Tại sao không nghĩ thoáng hơn một chút, gác sang một bên sự tranh chấp về chế độ, tr−ớc hết nắm điều chủ yếu là thống nhất đất n−ớc”[5; tr 450]. Đó chính là cơ sở lý luận quan trọng cho việc hình thành chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Ngoài ra, việc Liên Hợp Quốc khôi phục quyền đại diện hợp pháp của CHNDTH vào năm 1971 đã tạo cơ sở pháp lý quốc tế cho nguyên tắc “một Trung Quốc” của CHNDTH. Đó là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong việc biến những ý t−ởng về thống nhất nh−ng không loại trừ khác biệt của các nhà lãnh đạo CHNDTH có cơ sở thực hiện. Đồng thời, đó cũng chính là cơ sở cho sự ra đời và tồn tại của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” của CHNDTH. Nói tóm lại, chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã đ−ợc hình thành trong bối cảnh lịch sử có nhiều chuyển biến quan trọng. Sự chuyển biến của tình hình TQ cũng nh− trên thế giới đã cung cấp những cơ sở lý luận và thực tiễn cho các nhà lãnh đạo CHNDTH khái quát thành lý luận sáng tạo trong sự nghiệp thống nhất đất n−ớc. 2. Quá trình hình thành và nội dung cơ bản của chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. 2.1. Quá trình hình thành của chính sách “Một n−ớc hai chế độ”: - Giai đoạn từ giữa thập kỷ 50 đến cuối thập kỷ 70 của thế kỷ XX: Đây là giai đoạn hình thành ý t−ởng sơ khai ban đầu về “Một n−ớc hai chế độ”. Từ giữa những năm 50 của thế kỷ XX, các nhà lãnh đạo CHNDTH đã đ−a ra những ý t−ởng về việc cùng tồn tại của các chế độ xã hội khác nhau. Năm 1954, Thủ t−ớng CHNDTH Chu Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 49 Ân Lai đã cùng với Thủ t−ớng ấn Độ đ−a ra “Năm nguyên tắc chung sống hoà bình” với mong muốn loại bỏ sự khác biệt về chế độ xã hội giữa các n−ớc để cùng tồn tại và phát triển. Tiếp đó, năm 1958, trên cơ sở những kiến nghị hoà bình đã nêu, Chu Ân Lai đã đúc kết những đối sách của Đại lục đối với Đài Loan thành “Một việc bốn điều”, hay còn gọi là “Một c−ơng bốn mục”. Trong đó: “Một việc là Đài Loan tất yếu phải thống nhất vào TQ. Bốn điều là: 1. Sau khi Đài Loan thống nhất vào TQ, trừ công việc ngoại giao phải sáp nhập vào Trung −ơng, còn đại quyền quân chính, sắp xếp nhân sự… đều do T−ởng Giới Thạch lo liệu; 2. Tất cả chi phí về việc quân chính, xây dựng kinh tế nếu thiếu sẽ đ−ợc Trung −ơng bổ sung; 3. Việc cải cách xã hội Đài Loan có thể tạm hoãn, chờ cho tới điều kiện chín muồi...; 4. Hai bên sẽ không phái gián điệp tới đất đai của nhau và không có hành động phá hoại đoàn kết của nhau”[10; tr 18]. Có thể nói, mặc dù ch−a nêu lên đ−ợc khái niệm “Một n−ớc hai chế độ” và cũng ch−a xây dựng đ−ợc thành ph−ơng châm để thống nhất đất n−ớc, nh−ng những kiến nghị nói trên là những ý t−ởng ban đầu về “Một n−ớc hai chế độ”. Đó chính là tiền đề quan trọng để các nhà lãnh đạo CHNDTH sau này khái quát thành lý luận mang tính sáng tạo và xây dựng thành ph−ơng châm để thống nhất đất n−ớc. - Giai đoạn từ cuối năm 1978 đến tháng 8-1981: Đây là giai đoạn đề ra và xác lập ý t−ởng ban đầu về “Một n−ớc hai chế độ”. Từ ngày 18-22/12/1978, Hội nghị TW lần thứ ba khoá XI ĐCSTQ đã đ−ợc tiến hành. Đây đ−ợc xem là sự kiện đã phá vỡ sự trói buộc của lý luận “tả khuynh” tồn tại trong một thời gian dài ở TQ, mở đ−ờng cho TQ tiến lên một giai đoạn mới. Trong chuyến thăm Hoa Kỳ vào tháng 1-1979, Đặng Tiểu Bình đã có bài phát biểu tr−ớc Quốc hội Mỹ, bày tỏ quan điểm của TQ trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Ông tuyên bố: “… Chúng tôi không dùng lại cách nói “giải phóng Đài Loan”, chỉ cần thống nhất Tổ quốc, chúng tôi sẽ tôn trọng và thực hiện chế độ hiện hành ở đó”[4; tr 65]. Tháng 3-1979, phát biểu với Tổng đốc Hồng Công, Đặng Tiểu Bình đã nói: “… trong thời gian t−ơng đối dài của thế kỷ này và giai đoạn đầu của thế kỷ sau, Hồng Công có thể thực hiện chế độ TBCN của mình, còn chúng tôi thực hiện chế độ XHCN của chúng tôi”[4; tr 65]. Những phát biểu nói trên của Đặng Tiểu Bình đã cho thấy sự hình dung ban đầu của các nhà lãnh đạo CHNDTH về ý t−ởng “Một n−ớc hai chế độ”. Đến đây, về cơ bản, ý t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” đã đ−ợc nêu lên một cách rõ ràng. Việc các nhà lãnh đạo CHNDTH coi ý t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” là một trong những giải pháp để thực hiện thống nhất đất n−ớc, cho thấy t− t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” đã đ−ợc xác lập. - Giai đoạn từ tháng 9-1981 đến 1984: Đây là giai đoạn hình thành chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 50 Sau khi ý t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” đ−ợc xác lập, các nhà lãnh đạo CHNDTH đã vận dụng ý t−ởng đó vào qúa trình thống nhất đất n−ớc. Trong bài phát biểu với các phóng viên của Tân Hoa xã ngày 30-9-1981, Chủ tịch Uỷ ban th−ờng trực Quốc hội TQ Diệp Kiếm Anh đã nêu lên ph−ơng châm 9 điều của TQ trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan. Nội dung ph−ơng châm 9 điều là: 1. Để sớm kết thúc cục diện chia cắt Trung Hoa, tôi kiến nghị cuộc đàm phán giữa hai đảng, thực hiện hợp tác lần thứ 3…; 2. Nhân dân các dân tộc hai bên bờ eo biển có thể trao đổi tin tức, đoàn tụ ng−ời thân…; 3. Sau khi thực hiện thống nhất, Đài Loan có thể là một khu vực hành chính đặc biệt, đ−ợc h−ởng quyền tự trị cao độ…; 4. Chế độ kinh tế, xã hội hiện hành, quan hệ kinh tế, văn hoá với n−ớc ngoài ở Đài Loan không thay đổi…; 5. Lãnh đạo và nhân sĩ các giới ở Đài Loan có thể đảm nhiệm các chức vụ trong bộ máy chính trị, đ−ợc tham dự quản lý đất n−ớc; 6. Nếu tài chính địa ph−ơng Đài Loan gặp khó khăn, có thể đ−ợc chính phủ trung −ơng bù đắp; 7. Nếu nhân dân và các nhân sĩ Đài Loan muốn trở về Đại lục định c−, sẽ đ−ợc sắp xếp ổn thoả; 8. Hoan nghênh nhân sĩ các giới công th−ơng nghiệp Đài Loan đầu t− vào Đại lục…; 9… Chúng tôi chân thành và nhiệt liệt hoan nghênh giới nhân sĩ, các đoàn thể ở Đài Loan thông qua mọi con đ−ờng, áp dụng các hình thức để đ−a ra kiến nghị th−ơng thuyết việc n−ớc.[2; tr 171-172]. Ph−ơng châm 9 điều mà Diệp Kiếm Anh nêu ra đã đ−ợc các nhà nghiên cứu gọi là “Chín điểm của ông Diệp”. Ph−ơng châm đó một lần nữa cho thấy rõ hơn về t− t−ởng “Một n−ớc hai chế độ”. Ngày 10-1-1982, trong khi trả lời một vị khách n−ớc ngoài, Đặng Tiểu Bình đã chỉ rõ, ph−ơng châm 9 điều mà Diệp Kiếm Anh đã nêu thực chất là chính sách “Một quốc gia, hai loại chế độ” (sau này đ−ợc gọi tắt là “Một n−ớc hai chế độ”). Đó là lần đầu tiên khái niệm “Một n−ớc hai chế độ” đ−ợc nêu lên. Từ đây, t− t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” bắt đầu đ−ợc xây dựng thành lý luận và trở thành ph−ơng châm, chính sách của CHNDTH trong việc thực hiện thống nhất đất n−ớc. Tháng 9-1982, trong cuộc hội kiến với Thủ t−ớng Anh That-cher, Đặng Tiểu Bình đã nêu lên quan điểm của TQ trong việc áp dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” để thu hồi Hồng Công. Điều 31 Hiến pháp 1982 của n−ớc CHNDTH cũng đã quy định những nội dung cơ bản của chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Điều đó cho thấy, “chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã trở nên thành thục” [4; tr 65]. - Giai đoạn từ 1984 đến nay: Đây là giai đoạn áp dụng lý luận vào thực tiễn và không ngừng bổ sung, hoàn thiện chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Tháng 5-1984, t− t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” đã đ−ợc trình bày trong “Báo cáo công tác Chính phủ” của Chính phủ CHNDTH và đ−ợc Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc TQ thông qua, trở thành quốc sách có hiệu lực trong qúa trình đấu tranh thống nhất đất n−ớc của TQ. Từ đây, chính sách Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 51 “Một n−ớc hai chế độ” đã trở thành ph−ơng châm cơ bản để giải quyết vấn đề Đài Loan, Hồng Công, Ma Cao. Tháng 6-1984, trong buổi tiếp kiến các danh sĩ Hồng Công, Đặng Tiểu Bình đã trình bày một cách rõ ràng và hệ thống về chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Tiếp đó, trong các Tuyên bố chung Trung – Anh và Trung – Bồ, CHNDTH đã đ−a ra những quy định cụ thể về việc áp dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” để thu hồi Hồng Công và Ma Cao. Ngày 4-4-1990, Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc TQ đã thông qua “Luật cơ bản khu hành chính đặc biệt Hồng Công” và ngày 31-3-1993, “Luật cơ bản khu hành chính đặc biệt Ma Cao” cũng đ−ợc thông qua. Điều đó đánh dấu qúa trình pháp chế hoá chính sách “Một n−ớc hai chế độ” về cơ bản đã hoàn thành. Sau khi hoàn thành về cơ bản qúa trình xây dựng và pháp chế hoá chính sách “Một n−ớc hai chế độ”, Chính phủ CHNDTH đã vận dụng chính sách đó để thu hồi Hồng Công và Ma Cao. Ngày 1-7-1997, TQ đã thành công trong việc thu hồi chủ quyền đối với Hồng Công. Ngày 20-12-1999, Ma Cao cũng trở về với TQ bằng ph−ơng thức “Một n−ớc hai chế độ”, đánh dấu sự thành công của chính sách này. Sau gần 10 năm áp dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” vào thực tế, chính sách này ngày càng chứng tỏ sức sống và tính sáng tạo của nó. Hiện nay “Một n−ớc hai chế độ” vẫn là ph−ơng châm chỉ đạo cao nhất để thống nhất Đài Loan của CHNDTH và nó đang hứa hẹn thành công mới trên con đ−ờng hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất n−ớc của TQ. 2.2. Nội dung cơ bản của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” Có thể nói, “Một n−ớc hai chế độ” là lý luận quan trọng, là t− t−ởng khoa học có nội dung phong phú. Trong đó, nội dung cốt lõi nhất của chính sách “Một đất n−ớc, hai chế độ”(One Country, Two Systems) là d−ới tiền đề một n−ớc TQ, chủ thể của quốc gia kiên trì chế độ XHCN, Đài Loan, Hồng Công và Ma Cao là bộ phận không thể tách rời của TQ và duy trì chế độ TBCN. Trong qúa trình hình thành và phát triển, nội dung cơ bản của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đ−ợc thể hiện ở các ph−ơng diện sau: Một là, nguyên tắc cơ bản của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” là duy trì một n−ớc TQ, Chính phủ CHNDTH là chính phủ duy nhất đại diện cho toàn TQ, chủ quyền quốc gia và sự toàn vẹn lãnh thổ của TQ là không thể chia cắt. D−ới tiền đề chỉ có một TQ, Đài Loan, Hồng Công và Ma Cao có thể duy trì chế độ của mình và sự duy trì chế độ đó không ảnh h−ởng đến sự thống nhất và ổn định của TQ. Đặng Tiểu Bình đã nhiều lần nói, “… Đài Loan khu hành chính đặc biệt, tuy là chính quyền địa ph−ơng, nh−ng chính quyền địa ph−ơng này khác với các tỉnh thành và khu tự trị khác, có một số quyền lực riêng mà những nơi khác không có, với điều kiện là không đ−ợc làm tổn hại đến lợi ích thống nhất của đất n−ớc”[4; tr 66]. Hai là, chủ thể của “Một n−ớc hai chế độ” chính là CNXH. Ngoài việc Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 52 tuân thủ nguyên tắc chỉ có một TQ, thì nội dung cơ bản của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã khẳng định chủ thể của “hai chế độ” là CNXH. Đặng Tiểu Bình đã nhấn mạnh “Một n−ớc hai chế độ”, ngoài CNTB còn có CNXH là chủ thể của TQ, vùng rộng lớn hơn 1 tỉ dân vững vàng xây dựng CNXH. Đó là một tiền đề. Không có tiền đề đó thì không đ−ợc. D−ới tiền đề đó, có thể cho phép thực hiện CNTB trong khu vực nhỏ và phạm vi nhỏ ngay bên cạnh mình”[5; tr 457]. Ba là, “hai chế độ” trong chính sách “Một n−ớc hai chế độ” là chỉ sự cùng tồn tại và phát triển của hai loại chế độ xã hội khác nhau ở TQ. Sự tồn tại của “hai chế độ” còn đ−ợc thể hiện đó là, sau khi thống nhất, tất cả các ph−ơng diện về chế độ kinh tế – xã hội, quan hệ kinh tế, văn hoá với n−ớc ngoài… vốn có tr−ớc đây của Đài Loan, Hồng Công và Ma Cao đều không thay đổi, trong khi đó, Đại lục với hơn 1 tỉ ng−ời vẫn kiên trì CNXH. Sự tồn tại của “hai chế độ” là không nhằm loại trừ nhau, mà bổ sung cho nhau trong sự thống nhất của một n−ớc. Nh− vậy, với nội dung phong phú nói trên, chính sách “Một n−ớc hai chế độ” vừa thể hiện tính nguyên tắc trong việc thực hiện thống nhất đất n−ớc, duy trì chủ quyền quốc gia của TQ, vừa là sự đáp ứng tr−ớc nhu cầu thực tiễn của Đài Loan, Hồng Công và Ma Cao. 3. Quá trình vận dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” vào đấu tranh thống nhất Đài Loan Kể từ sau khi T−ởng Giới Thạch chạy ra cố thủ ở Đài Loan, ĐCSTQ luôn cố gắng tìm con đ−ờng để thống nhất Đài Loan. Trong những thập kỷ đầu sau sự chia cắt giữa Đài Loan và Đại lục, CHNDTH đã tranh thủ những điều kiện có thể để giải quyết vấn đề Đài Loan bằng con đ−ờng hoà bình. Tuy nhiên, những kiến nghị hoà bình mà các nhà lãnh đạo CHNDTH đề ra trong thập kỷ 50 và 60 của thế kỷ XX đã không đ−ợc thực hiện. Nguyên nhân là do sự khác nhau về lập tr−ờng và quan điểm giữa ĐCS và QDĐ về vấn đề thống nhất TQ. Vì vậy, tr−ớc sự chuyển biến của tình hình quốc tế và trong n−ớc, thế hệ lãnh đạo thứ hai của TQ đã cố gắng tìm giải pháp nhằm loại trừ sự khác biệt đó. Sau khi ý t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” về cơ bản đ−ợc xác lập, CHNDTH đã đ−a ra những động thái nhằm vận dụng ý t−ởng đó vào thống nhất Đài Loan. Tháng 10-1978, Đặng Tiểu Bình đã chỉ rõ: “… Trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan, chúng tôi sẽ tôn trọng hiện thực của Đài Loan… đầu t− của Mỹ và Nhật vào Đài Loan, ph−ơng thức sinh hoạt của bên đó có thể không động đến, nh−ng phải thống nhất”[2; tr 171]. Đó chính là b−ớc đầu của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đ−ợc ĐCSTQ xây dựng thành ph−ơng châm thống nhất Đài Loan. Ngày 1-1-1979, Uỷ ban th−ờng vụ Quốc hội TQ đã công bố “Th− gửi đồng bào Đài Loan”, chỉ rõ, “… khi giải quyết vấn đề Đài Loan, tôn trọng hiện trạng Đài Loan và ý kiến nhân sĩ các giới, không làm cho Đài Loan thiệt hại…”[1; tr 4]. Cùng ngày hôm đó, Ban th−ờng vụ Hội nghị nhân dân toàn quốc TQ đã Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 53 nêu “Ph−ơng châm chính trị lớn về hoà bình thống nhất Tổ quốc”, chỉ rõ: “Ph−ơng châm của ĐCSTQ đối với Đài Loan từ “giải phóng Đài Loan bằng vũ lực”, điều chỉnh thành ph−ơng thức thông qua hiệp th−ơng hoà bình, đàm phán chính trị”[2; tr 171]. Những động thái đó cho thấy ý t−ởng “Một n−ớc hai chế độ” có thể trở thành ph−ơng châm để thực hiện thống nhất Đài Loan bằng con đ−ờng hoà bình. Ngày 30-9-1981, Diệp Kiếm Anh đã trình bày về ph−ơng châm 9 điểm trong việc giải quyết vấn đề Đài Loan, trong đó đã nêu rõ về chính sách “Một n−ớc hai chế độ” và chủ tr−ơng dùng chính sách đó vào việc thống nhất Đài Loan. Tiếp đó, ngày 26-6-1983, Đặng Tiểu Bình đã nêu ph−ơng án 6 điểm về việc áp dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” để thống nhất Đài Loan. Ph−ơng án 6 điểm mà Đặng Tiểu Bình đã nêu lên đó là: “… Sau khi thống nhất, Đài Loan trở thành khu hành chính đặc biệt, có thể thực hiện chế độ khác với Đại lục…; Đài Loan còn có quân đội riêng, nh−ng không đ−ợc tạo sự đe doạ đối với Đại lục; Đại lục không cử ng−ời đến Đài Loan, các hệ thống đảng, chính quyền, quân đội của Đài Loan đều do Đài Loan tự quản lý; Chính phủ Trung −ơng còn để dành ghế cho Đài Loan; Hy vọng nhà đ−ơng cục Đài Loan nghiên cứu tỉ mỉ ý kiến của chúng tôi để xoá bỏ hiểu lầm”[1; tr 4]. Sau khi Đặng Tiểu Bình và Diệp Kiếm Anh đ−a ra những ý kiến về việc áp dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” để thống nhất Đài Loan, các nhà lãnh đạo TQ đã nhiều lần nhắc lại và xem đó là chủ tr−ơng cơ bản của TQ trong qúa trình đấu tranh thống nhất Đài Loan. Tháng 5-1984, kỳ họp thứ hai khoá VI Đại hội đại biểu nhân dân TQ đã nhất trí thông qua việc áp dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” trong quá trình đấu tranh thống nhất Đài Loan. Từ đó, về cơ bản đã hình thành nên ph−ơng châm “Hoà bình thống nhất, Một n−ớc hai chế độ” trong đấu tranh thống nhất Đài Loan của CHNDTH. Tháng 12-1990, tại Hội nghị công tác toàn quốc về Đài Loan, Tổng bí th− ĐCSTQ Giang Trạch Dân và Chủ tịch n−ớc CHNDTH D−ơng Th−ợng Côn đã nhắc lại ph−ơng châm chung đối với Đài Loan là “Hoà bình thống nhất, Một n−ớc hai chế độ”. Tiếp đó, tại Hội nghị lần thứ hai khoá VII Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc n−ớc CHNDTH, Thủ t−ớng TQ Lý Bằng một lần nữa nhấn mạnh: “… chúng ta sẽ kiên định ph−ơng châm “Một n−ớc hai chế độ” thúc đẩy sự nghiệp lớn hoà bình thống nhất Tổ quốc”[1; tr 5]. Từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX, ph−ơng châm “Hoà bình thống nhất, Một n−ớc hai chế độ” luôn đ−ợc các nhà lãnh đạo CHNDTH coi là ph−ơng châm chỉ đạo cao nhất để giải quyết vấn đề Đài Loan. Tại lễ giao thừa năm 1995, Chủ tịch n−ớc CHNDTH Giang Trạch Dân đã có bài phát biểu nhan đề “Tiếp tục phấn đấu để hoàn thành thống nhất đất n−ớc”, trong đó nêu lên Tám kiến nghị về hoà bình giải quyết vấn đề Đài Loan. Bài phát biểu nói trên của Giang Trạch Dân đã đ−ợc các nhà nghiên cứu gọi là “Chủ tr−ơng tám Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 54 điểm”, hay “Tám điểm của Giang”. Đó chính là sự thể hiện lập tr−ờng của CHNDTH trong việc thực hiện thống nhất Đài Loan bằng con đ−ờng hoà bình. Từ đó đến nay, “Chủ tr−ơng tám điểm” là ph−ơng châm chỉ đạo cao nhất để thực hiện hoà bình thống nhất Đài Loan. Bên cạnh đó, việc vận dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” để thống nhất Đài Loan bằng con đ−ờng hoà bình cũng đã đ−ợc các Đại hội của ĐCSTQ thảo luận và thông qua. Đại hội XVI ĐCSTQ (11-2002), khẳng định: “... Chúng ta kiên trì ph−ơng châm cơ bản “Hoà bình thống nhất, Một n−ớc hai chế độ” và “Chủ tr−ơng 8 điểm”, phát triển quan hệ hai bờ, thúc đẩy tiến trình hoà bình thống nhất Tổ quốc, kiên quyết phản đối các thế lực chia rẽ Đài Loan…” [8; tr 77-78]. Hiện nay, thế hệ lãnh đạo thứ t− của TQ do Hồ Cẩm Đào làm hạt nhân vẫn kiên trì chủ tr−ơng hoà bình thống nhất Đài Loan của các thế hệ lãnh đạo tr−ớc đây. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đang nỗ lực cùng với các nhà lãnh đạo và toàn thể nhân dân TQ tích cực thúc đẩy thực hiện đàm phán hai bờ, đ−a chủ tr−ơng thống nhất Đài Loan bằng con đ−ờng hoà bình tới thắng lợi. 4. ý nghĩa của việc vận dụng lý luận “Một n−ớc hai chế độ” vào đấu tranh thống nhất Đài Loan “Một n−ớc hai chế độ” là t− t−ởng chính trị và là giải pháp quan trọng trong qúa trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của CHNDTH. Mục đích của việc thực hiện “Một n−ớc hai chế độ” là gạt bỏ trở ngại trong quan điểm chính trị giữa hai bên để cùng nhau đàm phán về thống nhất đất n−ớc. Thực hiện “Một n−ớc hai chế độ” có ý nghĩa tích cực trong qúa trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của CHNDTH. Một là, thực hiện chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã tạo nên sự khác biệt cơ bản về chất so với chủ tr−ơng hoà bình giải phóng Đài Loan tr−ớc đây. Trong những thập kỷ 50 và 60 của thế kỷ XX, do mâu thuẫn về lập tr−ờng thống nhất giữa ĐCSTQ và QDĐ, nên những kiến nghị hoà bình mà Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai nêu lên đã không đ−ợc thực hiện. Điều đó đã khiến cho thế hệ lãnh đạo thứ hai của TQ phải trăn trở tìm ra giải pháp để loại trừ sự khác biệt đó. Trong bối cảnh đó chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã trở thành một giải pháp quan trọng. Thực tế cho thấy, thực hiện chính sách “Một n−ớc hai chế độ”, nghĩa là thống nhất nh−ng không loại trừ khác biệt đã làm giảm mâu thuẫn trong lập tr−ờng thống nhất của hai bên. Hai bờ eo biển có thể đàm phán để thống nhất nh−ng vẫn có thể giữ nguyên chế độ chính trị của mình. Hai là, chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã trở thành cơ sở quan trọng của chủ tr−ơng “Hoà bình thống nhất, Một n−ớc hai chế độ”. Trong suốt một thời gian dài cả ĐCSTQ và QDĐ đều muốn có sự thống nhất giữa Đài Loan và Đại lục, tuy nhiên bên nào cũng muốn thống nhất d−ới sự lãnh đạo của mình. Điều đó đã làm cho hai bên không thể tiến hành đàm phán và mong muốn thống nhất Đài Loan bằng con đ−ờng hoà bình cũng không có cơ Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 55 sở thực tế. Chính vì vậy, áp dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” sẽ gạt bỏ đ−ợc trở ngại đó để hai bên có thể đàm phán về việc thống nhất. Nghĩa là chủ tr−ơng thống nhất hoà bình có cơ sở thực tế để thực hiện. Ba là, thực hiện “Một n−ớc hai chế độ”, CHNDTH có thể duy trì đ−ợc nguyên tắc chỉ có một n−ớc TQ, nh− vậy mục đích chia cắt Đài Loan ra khỏi TQ của các thế lực bên ngoài và chính quyền Đài Loan sẽ thất bại, TQ sẽ không bị mất Đài Loan. Từ đó, hai bên có thể tiến hành đàm phán và thống nhất đất n−ớc. Bốn là, thực hiện “Một n−ớc hai chế độ” mà chủ thể là CHNDTH với việc kiên trì CNXH, thực tế là đã xác lập quyền lãnh đạo của ĐCSTQ đối với Đài Loan. Hơn nữa, CHNDTH cũng sẽ tranh thủ đ−ợc sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế cũng nh− nhân dân hai bờ eo biển Đài Loan trong việc thống nhất đất n−ớc. Năm là, thực hiện “Một n−ớc hai chế độ” mà chủ thể là CHNDTH, sẽ loại bỏ đ−ợc âm m−u của các thế lực bên ngoài hòng can thiệp vào Đài Loan. Chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã khẳng định sự toàn vẹn về lãnh thổ của TQ và chủ quyền của TQ đối với Đài Loan, điều đó khiến cho các thế lực bên ngoài không còn lý do để “quốc tế hoá vấn đề Đài Loan” và can thiệp vào công việc nội bộ của TQ. Cho đến nay, “Một n−ớc hai chế độ” vẫn là một giải pháp chính trị hữu hiệu nhất cho công cuộc thống nhất Đài Loan của CHNDTH. Tr−ớc chính sách đòi “Đài Loan độc lập” của chính quyền Trần Thuỷ Biển, việc kiên trì nguyên tắc “một TQ” và ph−ơng châm “Một n−ớc hai chế độ” sẽ là điều kiện tiên quyết đảm bảo thành công cho sự nghiệp thống nhất Đài Loan của CHNDTH. 5. Những thách thức đặt ra đối với việc vận dụng chính sách “Một n−ớc hai chế độ” trong quá trình đấu tranh thống nhất Đài Loan Chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã đem lại hiệu quả to lớn trong qua trình thu hồi Hồng Công và Ma Cao của CHNDTH. Tuy nhiên, khi vận dụng chính sách đó để thống nhất Đài Loan, CHNDTH gặp phải không ít thách thức từ nhiều phía. Thứ nhất, sự phát triển trong lịch sử của Đài Loan đã tạo nên thách thức không nhỏ đối với công thức “Một n−ớc hai chế độ”. Kể từ khi đ−ợc coi là một phần của lãnh thổ TQ, thì thời gian thống nhất giữa Đại lục và Đài Loan là rất ít. Trong khi đó, về mặt địa lý, Đài Loan có sự tách biệt với Đại lục. Hơn nữa, hơn 20 triệu dân Đài Loan lại có sự độc lập về kinh tế và phát triển xã hội đối với Đại lục. Vì vậy, so với Hồng Công hay Ma Cao, mối quan hệ gắn bó giữa hai bờ eo biển rất hạn chế. Điều đó đã ảnh h−ởng rất lớn đối với mong muốn thống nhất của c− dân Đài Loan. Thứ hai, tính chất của vấn đề Đài Loan cũng hoàn toàn khác với vấn đề Hồng Công hay Mao Cao. Có thể nói, vấn đề Đài Loan, “không phải là ngoại giao mà là nội chính, song lại động chạm ngoại giao; không phải là đấu tranh chống thực dân để thu hồi chủ quyền quốc gia từ tay thực dân, mà là Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 56 sự tiếp tục chính quyền này lật đổ chính quyền kia... Thế lực n−ớc ngoài can thiệp vào Đài Loan là thông qua nhà đ−ơng cục Đài Loan và thế lực chính trị địa ph−ơng Đài Loan, trong ngoài kết hợp, lợi dụng lẫn nhau, làm tăng hẳn mức độ khó khăn trong việc hoà bình thống nhất Đài Loan”[3; tr 556]. Chính sự phát triển phức tạp của vấn đề Đài Loan đã và đang tạo ra thách thức rất lớn cho công thức “Một n−ớc hai chế độ” của CHNDTH. Thứ ba, sự chênh lệch về mức sống giữa Đài Loan và Đại lục cũng là thách thức lớn khác đối với chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Cho đến nay, mặc dù CHNDTH đã đạt đ−ợc những b−ớc tiến v−ợt bậc trong qúa trình xây dựng và phát triển kinh tế, nh−ng so với thu nhập và mức sống của Đài Loan thì vẫn còn một khoảng cách khá xa. Vì vậy, “sức mạnh tổng hợp của Đại lục tuy không nhỏ, tiềm lực rất lớn, nh−ng bình quân đầu ng−ời lại thấp hơn quá nhiều so với Đài Loan… làm cho TQ đại lục khó bề phát huy tác dụng lớn trong các sự vụ quốc tế và ngăn chặn Đài Loan thực hiện chính sách hai n−ớc TQ” [5; tr 557]. Thứ t−, tr−ớc đây, Đài Loan d−ới sự lãnh đạo của T−ởng Giới Thạch và T−ởng Kinh Quốc, mặc dù đối lập về quan điểm, nh−ng tr−ớc sau vẫn muốn thống nhất giữa Đài Loan và Đại lục (tất nhiên là thống nhất d−ới sự lãnh đạo của QDĐ) và luôn kiên trì chủ quyền của TQ đối với Đài Loan. Đó chính là cơ sở quan trọng để thực hiện “Một n−ớc hai chế độ”. Thế nh−ng, từ sau khi Lý Đăng Huy và tiếp đó là Trần Thuỷ Biển lên cầm quyền, các nhà lãnh đạo Đài Loan đã liên tục đ−a ra những chính sách nhằm phủ nhận nguyên tắc “một Trung Quốc” và chủ quyền của TQ đối với Đài Loan, điều đó đồng nghĩa với việc họ muốn phủ nhận cơ sở tồn tại của chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Do vậy, sự thay đổi trong chính sách của chính quyền Đài Loan là một trong những yếu tố gây cản trở lớn nhất đối với chính sách “Một n−ớc hai chế độ” của CHNDTH. Thứ năm, trong qúa trình đấu tranh thống nhất Đài Loan, CHNDTH luôn nhấn mạnh “đặt hy vọng vào nhân dân Đài Loan” và coi việc phát triển mối quan hệ tình cảm dân tộc giữa nhân dân hai bờ là nhân tố thúc đẩy sự thành công của chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, thái độ của dân chúng Đài Loan ngày càng bất lợi đối với CHNDTH. Sau một thời gian dài sống theo t− t−ởng tự do, dân chủ của ph−ơng Tây, lại chịu ảnh h−ởng từ sự tuyên truyền chính sách thù địch của chính quyền Đài Loan, nên ngày càng có nhiều ng−ời Đài Loan phủ nhận mình là ng−ời TQ. Điều đó làm cho việc lợi dụng “sợi dây tình cảm” để thống nhất hai bờ của CHNDTH ngày càng mất đi chỗ dựa quan trọng. Theo nhiều cuộc điều tra d− luận đ−ợc tiến hành ở Đài Loan thì “trung bình khoảng 80% số ng−ời đ−ợc hỏi cho rằng họ không nhận thấy công thức “Một n−ớc hai chế độ” là một giải pháp. Họ sợ rằng Đài Loan sẽ bị “thui chột”(“ảo hoá”- chết), rằng thay vì đ−ợc là chủ nhân của ngôi nhà của mình, ng−ời Đài Loan sẽ mất quyền Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 57 kiểm soát đối với số phận của mình”[6; tr 10]… Sự thay đổi đó trong dân chúng Đài Loan cũng đang đem lại những tác động tiêu cực đối với chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Thứ sáu, tr−ớc sự phát triển nhanh chóng của xu thế toàn cầu hoá, việc nhấn mạnh chủ quyền quốc gia vốn đ−ợc xem là cơ sở của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đang bị đe doạ bởi những lý luận nhằm phủ định chủ quyền dân tộc của các thế lực bên ngoài muốn tách Đài Loan ra khỏi TQ. Bên cạnh đó, chính sách của các n−ớc lớn, nhất là chính sách của Mỹ, Nhật…, cùng với xu h−ớng li khai ngày càng tăng trên thế giới, đang đem lại những “cơ sở lý luận” cho thế lực đòi độc lập ở Đài Loan… Chính sự phát triển phức tạp đó của tình hình quốc tế là những nhân tố khách quan gây trở ngại đối với chính sách “Một n−ớc hai chế độ”. Kết luận Chính sách “Một n−ớc hai chế độ” là ph−ơng châm chiến l−ợc quan trọng của TQ trong qúa trình giải quyết vấn đề Đài Loan, Hồng Công và Ma Cao. Đó là một lý luận khoa học và là quốc sách lâu dài của TQ. Sự hình thành và phát triển của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” là qúa trình đi từ việc tổng kết những kinh nghiệm thực tiễn để hình thành ý t−ởng và vận dụng ý t−ởng đó vào thực tiễn để xây dựng thành lý luận, từ đó hình thành nên ph−ơng châm, chính sách để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp thống nhất đất n−ớc của CHNDTH. Chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đã và đang đóng vai trò tích cực trong quá trình đấu tranh thống nhất Đài Loan của CHNDTH. Vận dụng “Một n−ớc hai chế độ” không những hình thành đ−ợc ph−ơng châm “Hoà bình thống nhất, một n−ớc hai chế độ” trong đấu tranh thống nhất Đài Loan, mà còn có thể gạt bỏ đ−ợc mâu thuẫn giữa hai bờ eo biển để tiến hành đàm phán thống nhất đất n−ớc. Đồng thời, vận dụng “Một n−ớc hai chế độ” còn tranh thủ đ−ợc sự ủng hộ ngày càng lớn của nhân dân hai bờ eo biển Đài Loan, cũng nh− nhân dân thế giới đối với công cuộc thống nhất đất n−ớc của CHNDTH. D−ới sự chỉ đạo của chính sách “Một n−ớc hai chế độ”, TQ đã thành công trong việc thu hồi chủ quyền đối với Hồng Công và Ma Cao, vì vậy nó đã đ−ợc đánh giá là một trong những thành tựu nổi bật của TQ trong thời kỳ cải cách, mở cửa. Tuy nhiên, trong qúa trình giải quyết vấn đề Đài Loan, chính sách “Một n−ớc hai chế độ” đang đứng tr−ớc những thách thức không nhỏ. Điều đó đòi hỏi các nhà lãnh đạo CHNDTH cần phải tiếp tục nghiên cứu để có những điều chỉnh thích hợp với sự thay đổi của tình hình thực tế, có nh− vậy mới phát huy đ−ợc những ý nghĩa tích cực của chính sách “Một n−ớc hai chế độ” trong qúa trình đấu tranh thống nhất Đài Loan, hoàn thành sự nghiệp thống nhất đất n−ớc. Đại học Vinh Tạp chí khoa học, tập XXXVI, số 2b-2007 58 Tài liệu tham khảo [1] Mẫn Vĩ Diên, Căn cứ nguyên tắc “Một n−ớc hai chế độ” xúc tiến hoà bình thống nhất Tổ quốc, Tài liệu tham khảo số 370/Cg, tháng 7-1992, TTXVN, Hà Nội, 1992. [2] L−u Kim Hâm, Trung Quốc tr−ớc thách thức thế kỷ XXI, NXB VHTT, Hà Nội, 2004. [3] Trần Tiên Khuê, Đặng Tiểu Bình từ lý luận đến thực tiễn, NXB KHXH, Hà Nội, 2004. [4] D−ơng Văn Lợi, Chính sách “Một n−ớc hai chế độ”- thành tựu lớn của TQ trong 25 năm cải cách mở cửa, Nghiên cứu TQ số 1(53)-2004. [5] Tiêu Thị Mỹ, M−u l−ợc Đặng Tiểu Bình, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. [6] “Một đất n−ớc hai chế độ” theo quan điểm của Đài Loan, Tài liệu phục vụ nghiên cứu số TN 2003-04, Viện Thông tin KHXH, Hà Nội, 2003. [7] TQ với chính sách “Một n−ớc hai chế độ”, TLTKĐB, 28/8/1999, TTXVN. [8] Văn kiện Đại hội lần thứ XVI ĐCS TQ, NXB CTQG, Hà Nội, 2003. Summary Policy “One country, two systems” during struggle for Taiwan Unification of People’s Republic of China The writing focuses on analysis of historical background, process of forming basic contents of policy “One country, two systems” and application of that policy into process of struggle for Taiwan Unification of People’s Republic of China. Basing on historical reality the author of the writing has clarified the active significance as well as challenge for application of policy “One country, two systems” during struggle for Taiwan Unification of People’s Republic of China. (a) Trung tâm giáo dục th−ờng xuyên, Tr−ờng Đại học Vinh (b) Cao học 12 Lịch sử thế giới, Tr−ờng Đại học Vinh.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf6phamngoctan_hacxuancanh_12tr47_58_091905171112_0865.pdf
Luận văn liên quan