Trong thời kì kinh tế hội nhập, các quốc gia phải liên kết và hợp tác với nhau
để cùng phát triển. Chính sách tỷ giá giống như một cây cầu nối giữa một quốc gia
và các quốc gia còn lại. Để quan hệ hợp tác trở nên thuận lợi và vững chắc thì chính
sách tỷ giá phải hài hòa, hợp lí sao cho có thể thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại
quốc tế giữa các nước, tạo điều kiện cho quốc gia hội nhập ngày càng sâu rộng vào
thị trường quốc tế. Hi vọng bài viết này có thể giúp làm rõ hơn phần nào những vấn
đề liên quan đến tỷ giá cũng như chính sách tỷ giá của Việt N am.
64 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 11919 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách tỷ giá hối đoái của Việt Nam trong 5 năm trở lại đây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đoạn này được cho là khá dồi dào
nhưng tỷ giá mua USD của các NHTM đã tăng nhanh trong tháng 3 và gần như
tiệm cận với tỷ giá bán. Diễn biến này được cho là bắt nguồn từ việc các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu có xu hướng găm giữ ngoại tệ để sử dụng khi cần thiết bởi
nếu gửi vào ngân hàng thì lãi suất thấp (lúc ấy là 1%) trong khi lo lắng có thể khó
tiếp cận USD hoặc rủi ro tỷ giá trong tương lai.
- Thứ hai là do lãi suất cho vay VND khá cao (14-18%) trong khi lãi suất
cho vay bằng USD lại ở mức thấp (6-7,5%) nên đã dẫn đến một hiện tượng đó là
các doanh nghiệp thay vì vay bằng VND thì chuyển sang vay bằng USD với lãi suất
thấp hơn và kì vọng tỷ giá ổn định.
Giai đoạn 2- quý 2: USD tự do và USD tại các ngân hàng thương mại giảm
và rời mốc trần tỷ giá theo quy định của Nhà nước
- Thị trường ngoại hối có những chuyển biến tích cực trong tháng tư sau
một thời gian dài căng thẳng. Tính thanh khoản của thị trường được cải thiện rõ rệt,
nhu cầu mua ngoại tệ được đáp ứng đủ.
- Cung giai đoạn này tăng mạnh trên thị trường chủ yếu là cung ảo bắt
nguồn từ chênh lệch lãi suất USD và VND quá cao cộng thêm với việc tỷ giá tại các
NHTM tương đối ổn định đã dẫn đến một thực tế là các doanh nghiệp đi vay USD
và đổi sang VND
- Về cầu USD: trong khi cung tăng ảo thì cầu USD không có nhiều biến
động
Giai đoạn 3: Quý 3 và quý 4, USD tự do biến động mạnh, vượt giá USD trên
thị trường chính thức
Trong những tháng cuối năm 2010, thị trường ngoại hối chứng kiến sự tăng
lên nhanh chóng của cầu về ngoại tệ do: nhu cầu mua ngoại tệ để trả các khoản vay
đáo hạn của các doanh nghiệp; nhu cầu nhập khẩu thường tăng cao vào cuối năm
cộng thêm nhu cầu nhập khẩu vàng nhằm kiếm lời; NHNN thắt chặt tín dụng ngoại
31
tệ; tỷ giá thị trường tự do bắt đầu tăng 20.500 VND/1USD vào giữa tháng 10 và lên
21.500 VND/1USD vào cuối tháng 11.
- NHNN bất ngờ điều chỉnh tỷ giá bình quân LNH tăng thêm 2% vào ngày
18/8/2010
- Sau một thời gian ổn định trong quý 2, giá USD có xu hướng tăng mạnh
bắt đầu từ cuối tháng 6, kéo dài đến hết tháng 7 và tiếp tục trong tháng 8
- NHNN phản ứng liên thông giữa giá vàng thế giới, giá vàng trong nước và
giá USD tự do. Tỷ giá thị trường tự do tháng 10 vượt mức 20.000, diễn biến này
cho thấy cung cầu trên thị trường ngoại hối thực sự chứ không phải cân bằng hay
mua ròng ngoại tệ như công bố ngày 8/10 của NHNN
Mối quan hệ giữa giá vàng trong nước và tỷ giá VND/USD
Nguồn: “Vietnam-Implications of rating downgrade ”- Standard Chartered
Bank
Trước diễn biến đó, NHNN công bố sẽ không điều chỉnh tỷ giá trong ngắn hạn
nhưng sẽ cung ứng một lượng USD cho các NHTM nhằm đáp ứng nhu cầu nhập
khẩu các mặt hàng thiết yếu. Tuy nhiên tại thời điểm này lượng cung ứng ngoại tệ
ra thị trường khó có thể giải quyết được căng thẳng USD hiện tại do lượng dự trữ
ngoại hối đang khá mỏng.
Tỷ giá thị trường tự do vượt mốc 21.000 trong tháng 11/2010 song song với
việc giá vàng trong nước và giá vàng thế giới lập kỷ lục.
Năm 2011:
32
Dưới đây là biểu đồ thể hiện biên độ tăng giảm tỷ giá qua các tháng trong năm
2011:
Qua biểu đồ trên có thể thấy trong 12 tháng của năm 2011, giá USD có 5
tháng giảm, 7 tháng tăng và tính chung cả năm chỉ tăng 2,24%, thấp hơn nhiều so
với giá tiêu dùng (18,13%) và giá vàng (24,09%). Từ tháng 4/2011 trở đi, tỷ giá có
dấu hiệu giảm và bình ổn dần về cuối năm.
Kể từ sau đó thị trường ngoại tệ tự do đã thu hẹp đáng kể; tỷ giá trên thị
trường tự do đã giảm khá mạnh. Giá USD trên thị trường tự do từ chỗ cao hơn thị
trường chính thức có lúc tới gần 2.000 VND/USD (gần 10%), đã giảm xuống mức
thấp chỉ còn 200 - 300 VND/USD hay 1-2%; thậm chí có lúc còn thấp hơn. Tỷ giá
trên thị trường chính thức mức tối đa có lúc còn thấp hơn tỷ giá liên ngân hàng do
Ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày. Năm 2011 giá USD cũng tăng thấp nhất
so với 3 năm trước đó (2008 tăng 6,31%, 2009 tăng 10,7%, 2010 tăng 9,68%).
33
Giai đoạn 1- Quý 1:
Biểu đồ 1:Diễn biến tỷ giá trên các thị trường trong quý 1 năm 2011
Nguồn: SBV, TVSC
Từ biểu đồ, có thể thấy tỷ giá thị trường tự do luôn cao hơn TG LNH 1000-
2000 đồng.
Trong suốt tháng 1 và đầu tháng 2, tỷ giá LNH không đổi ở mức 18.800, tại
ngày 9,2 tỷ giá mới tăng lên mức hơn 20.400 VND/USD sau đó duy trì ở mức đó
đến cuối tháng 3.
Giai đoạn 2-Quý 2:
34
Biểu đồ 2: Diễn biến tỷ giá USD/VND
Tỷ giá đang trong trạng thái ổn định tích cực sau một loạt các giải pháp được
Ngân hàng Nhà nước triển khai từ tháng 4 đến nay. Một lượng ngoại tệ lớn đã và
đang chảy vào hệ thống ngân hàng, giúp cải thiện đáng kể trạng thái ngoại tệ và
cung-cầu trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng. Nhờ đó, tỷ giá mua-bán của các
ngân hàng thương mại có nhiều thời điểm thấp hơn tỷ giá bình quân liên ngân hàng.
Giai đoạn 3 –Quý 3
Tỷ giá trong quý 3 chịu nhiều áp lực từ tình hình tăng trưởng tín dụng ngoại tệ
đột biến trong các tháng đầu năm, từ diễn biến giá vàng và từ chủ trương hạ mức lãi
suất đồng nội tệ của Chính phủ trong bối cảnh lạm phát vẫn ở mức cao. Tuy nhiên,
tính trong toàn quý, đồng nội tệ chỉ giảm giá chính thức 0,05% so với đồng USD.
2.2.3. Các công cụ của chính sách tỷ giá năm 2010 - 2011
2.2.3.1. Công cụ Trực tiếp
Năm 2010
- Tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng
Ngày 11/2/2010, NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ
mức 17.941 VND/USD lên mức 18.544 VND/USD nhằm khuyến khích các tập
đoàn, tổng công ty lớn của nhà nước bán lại ngoại tệ cho các ngân hàng, cải thiện
trạng thái ngoại tệ vốn đang căng thẳng. Kết quả của điều hành chính sách tiền tệ đã
thể hiện qua chỉ số CPI trong 7 tháng được kiểm soát chỉ ở mức 4,84% so với đầu
năm, trong đó riêng tháng 7/2010 chỉ tăng 0,06% so với tháng trước và là mức tăng
thấp nhất kể từ tháng 4/2009 và dự báo CPI của tháng 8/2010 chỉ tăng ở mức 0,2%
và lạm phát có thể được kiểm soát ở mức 8% năm 2010. Nhưng nhập siêu trong 7
tháng đầu năm ở mức 7,355 tỷ USD và vẫn đang có xu hướng tiếp tục tăng, tạo sức
ép về cầu ngoại tệ.
Trước sức ép của thị trường, tháng 8/2010, NHNN buộc phải tăng tỷ giá bình
quân liên ngân hàng thêm 2,1%, lên mức 18.932 VND/USD. Cuối tháng 11, tỷ giá
tăng vọt lên mức 21.380 - 21.450 đồng/USD, trên thị trường tự do tỷ giá vượt qua
mức 21.500 đồng/USD. Chênh lệch tỷ giá giữa thị trường chợ đen so với tỷ giá
35
chính thức đến 10%. Đây là mức chênh lệch cao nhất trong lịch sử tài chính Việt
Nam từ năm 1990.
- Mua bán ngoại tệ
Tuyên bố sẵn sàng bơm ngoại tệ cho nền kinh tế và cung ứng đủ ngoại tệ để
nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu mà trong nước không sản xuất được
- Biện pháp kết hối
Kết hối ngoại tệ đối với 7 tập đoàn, tổng công ty nhà nước
- Biện pháp khác
Chấm dứt việc giao dịch vàng trên các tài khoản ở nước ngoài của các NHTM
và các tổ chức tín dụng, đóng cửa các sàn vàng
Chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu
và không khuyến khích. Tín dụng ngoại tệ năm 2010 tăng nhanh hơn năm 2009,
do nguyên nhân chủ yếu là chênh lệch lãi suất giữa VND với USD và mở rộng đối
tượng cho vay ngoại tệ. Xu hướng này ngược với năm 2009 khi mà thực hiện chính
sách hỗ trợ 4%/năm lãi suất vay vốn ngân hàng làm cho dư nợ tín dụng bằng VND
tăng mạnh (43,5%).
Năm 2011:
- Tăng tỷ giá bình quân liên ngân hàng
Ngày 11/2/2011, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định nâng tỷ giá
liên ngân hàng từ 18.932 VND/1USD lên 20.693 VND/1USD, đồng thời thu hẹp
biên độ giao động từ 3% xuống còn 1%. Với sự nâng tỷ giá này, tỷ giá trần
USD/VND được phép giao dịch tăng lên tới 21.314 VND/1USD. Trong vài năm trở
lại đây, đợt điều chỉnh này là mạnh nhất với tỷ giá liên ngân hàng được điều chỉnh
tăng tới 9,3%
- Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
Trong 6 tháng đầu năm 2010 thì NHTW đã thực hiện tăng lượng tiền cung
ứng thông qua việc điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở chủ yếu là chào
mua giấy tờ có giá 7 ngày và 28 ngày, giảm lãi suất kỳ hạn 7 ngày từ 7.8%/năm
xuống 7.5%-7% /năm, đây là một trong các biện pháp mà NHTW thực hiện để thực
hiện tăng trưởng tín dụng theo chỉ đạo của CP 20-25% trong năm 2010.
36
- Thị trường ngoại hối
Ngày 29-4 Ngân hàng Nhà nước liên tục mua vào ngoại tệ. Trạng thái dự trữ
ngoại tệ có sự cải thiện mạnh và nhanh chóng. Trong những tháng đầu năm 2011
NHNN đã mua vào tổng cộng khoảng 4 tỷ USD từ các NHTM để bổ sung cho quỹ
dự trữ ngoại hối quốc gia.Theo IMF, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tính đến tháng
6/2011 đã đạt khoảng 13,5 tỷ USD, tương đương 1,5 tháng nhập khẩu. Như vậy,
Chính phủ đang dần hút một lượng ngoại tệ lớn trong lưu thông vừa để bù đắp dự
trữ, hỗ trợ xuất khẩu vừa làm tăng niềm tin vào tiền đồng.
- Biện pháp kết hối: M ở rộng đối tượng phải thực hiện kết hối ngoại tệ
(Thông tư 13 ban hành 1/6, có hiệu lực 1/7/2011)
- Biện pháp khác
Trong nỗ lực chống đô la hóa và ổn định tỷ giá, NHNN đã kiểm soát chặt chẽ
hoạt động thu đổi ngoại tệ tự do với sự phối hợp của công an và quản lý thị trường.
Thị trường ngoại hối tự do ở các thành phố lớn đã ngừng giao dịch từ ngày 7/3.
Không được huy động và cho vay bằng vàng (1/5/2011); Tiến tới xóa bỏ hoàn
toàn hoạt động kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do.
Quy định đối tượng được vay bằng ngoại tệ (Thông tư 07, ngày 24/3/3011).
Quy định về việc mang ngoại tệ tiền mặt, đồng VN tiền mặt của cá nhân khi
xuất nhập cảnh (5000USD và 15 triệu VND phải khai báo với Hải quan- có hiệu lực
từ 1/9/2011)
Quy định về việc mua, bán ngoại tệ tiền mặt của cá nhân với các TCTD được
phép mua 100USD/ngày (Thông tư 20 ngày 29/8//2011)
Cam kết không điều chỉnh tỷ giá quá 1% từ ngày 7/9 đến cuối năm 2011.
Quy định mức xử phạt đối với các giao dịch ngoại hối trái phép (Nghị định
95/2011/ND-CP ngày 20/10/2011) theo hướng tăng mức phạt
2.2.3.2. Công cụ gián tiếp
Năm 2010
- Giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc
37
Ngày 18/1/2010 NHNN có Quyết định số 74/QĐ-NHNN giảm mạnh tỷ lệ dự
trữ bắt buộc bằng ngoại tệ đối với các tổ chức tín dụng. Theo đó tỷ lệ dự trữ bắt
buộc bằng ngoại tệ đã giảm mạnh, cụ thể:
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng bằng ngoại tệ áp dụng cho các ngân hàng thương mại nhà nước (không bao
gồm Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn - Agribank), ngân hàng
thương mại cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài là 4% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc;
giảm mạnh so với mức 7% áp dụng từ 1/1/2009.
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12 tháng trở lên bằng ngoại tệ áp
dụng cho các ngân hàng thương mại nhà nước (không bao gồm Agribank), ngân
hàng thương mại cổ phần, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính là 2%
trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc (trước đó là 3%).
Lý giải cho điều này là vì 7 tập đoàn tổng công ty nhà nước đã bán ngoại tệ
dẫn đến tình hình ngoại tệ đã bớt căng thẳng.Việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng
ngoại tệ từ 7% xuống 4% đối với kỳ hạn dưới 12 tháng, từ 3% xuống 2% đối với kỳ
hạn trên 12 tháng đã làm tăng nguồn vốn khoảng 500 triệu USD cho các N HTM để
cho vay trên thị trường.
- Thuế và hạn ngạch
Cấp thêm quota nhập khẩu vàng cho các doanh nghiệp kinh doanh vàng bạc để
giảm bớt căng thẳng cung cầu, giảm bớt chênh lệch giữa giá vàng trong nước và giá
vàng thế giới, thường là một trong những nhân tố gây bất ổn thị trường ngoại tệ tự
do.
Chỉ đạo các TCTD hạn chế cho vay nhập khẩu mặt hàng không thiết yếu và
không khuyến khích.
- Lãi suất trần bằng ngoại tệ: Quy định trần lãi suất tiền gửi USD của
tổ chức kinh tế bằng 1%/năm.
Năm 2011:
38
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 4% lên 6%
(9/4/2011); và 7% (1/6/2011)
- Áp trần lãi suất huy động bằng ngoại tệ
Ngân hàng nhà nước tiếp tục áp trần lãi suất huy động của các ngân hàng
thương mại đối với USD Áp lãi suất trần huy động USD là 3% (9/4/2011), sau đó
giảm xuống 2% (2/6/2011).
2.2.4. Đánh giá chung về hoạt động điều hành tỷ giá 2010 - 2011:
Năm 2010:
Thứ nhất, trong những năm trước đây, NHNN chỉ điều chỉnh tỷ giá khi giá
USD trên thị trường tự do cao hơn rất nhiều so với tỷ giá chính thức. Điều đó có
nghĩa là chỉ khi sự mất cân bằng cung cầu trên thị trường ngoại hối quá căng thẳng
thì NHNN mới điều chỉnh. Tuy nhiên năm 2010 NHNN đã khá chủ động trong việc
điều chỉnh tỷ giá bình quân LNH, nhằm ứng phó với sự biến động của tỷ giá USD.
Cụ thể đó là 2 lần điều chỉnh liên tiếp 2-3%, tuy nhiên mỗi lần điều chỉnh lại khá
nhỏ giọt (2-3%). Chính động thái phá giá dần từng bước chứ không phải phá giá
mạnh một lần khiến cho các nhà đầu tư (đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài) cũng
như các doanh nghiệp lo ngại khi tiến hành giải ngân vốn hoặc nhập khẩu hàng hóa
cho sản xuất kinh doanh
Thứ hai, nhằm tránh sự liên thông giữa giá vàng trong nước và giá vàng thế
giới và tỷ giá USD tự do, NHNN đã thực thi nhiều biện pháp nhằm bình ổn thị
trường vàng, qua đó giúp hạ nhiệt thị trường ngoại hối. Tuy nhiên đây có thể chỉ là
các biện pháp tạm thời và tình thế chứ không phải biện pháp lâu dài giúp ổn định thị
trường ngoại hối.
Thứ ba, các thông tin, các số liệu liên quan đến tỷ giá, cung cầu ngoại tệ,
lượng vàng và dự trữ ngoại hối trong dân, vốn là những thông tin khá nhạy cảm
trong bối cảnh thị trường ngoại tệ đang tăng nóng, chưa được nhất quán khi công bố
giữa các cơ quan quản lí Nhà nước trong lĩnh vực tài chính tiền tệ
Năm 2011:
39
Thứ nhất, NHNN đã thể hiện vai trò khá chủ động và tự tin trong điều hành
chính sách tỷ giá: chủ động phá giá mạnh của NHNN đã loại trừ tâm lý “chờ đợi
phá giá thêm” của giới đầu cơ; công bố giữ ổn định tỷ giá trong quý 4 năm 2011.
Thứ hai, thay đổi cách thức công bố tỷ giá bình quân liên ngân hàng. Cụ thể,
nếu trong các năm trước NHNN thường giữ cố định tỷ giá trong một thời gian dài,
rồi đột ngột điều chỉnh tỷ giá, thì năm nay NHNN điều chỉnh tỷ giá thường xuyên
hơn, linh hoạt hơn (có tăng, giảm tùy theo cung cầu trên thị trường).
Thứ ba, thay đổi từ chế độ tỷ giá neo với USD trong giai đoạn 2008-2009
(nhằm ứng phó với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu) sang chế độ tỷ giá linh
hoạt hơn dựa trên rổ tiền tệ, đặc biệt kể từ ngày 11/2/2011.
Thứ tư, sau một thời gian dài liên tục giảm, dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã
bắt đầu tăng trở lại. Tính đến ngày 20/7/2011, NHNN đã mua vào khoảng 4,8 tỷ
USD đưa lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam đến tháng 7/2011 khoảng 17-17,5 tỷ
USD, tương đương khoảng 8,5 -9 tuần nhập khẩu.
Thứ năm, NHNN đã thực hiện khá cương quyết những biện pháp kiểm soát thị
trường tự do cũng như các biện pháp hạn chế tình trạng USD hóa và vàng hóa nền
kinh tế. Nhờ đó mà hiện tượng đầu cơ trên thị trường tự do có xu hướng giảm; tâm
lý tích trữ đầu cơ vào vàng và ngoại tệ của người dân giảm dần. Sự liên thông cũng
như tác động tiêu cực của sự biến động giá vàng trong nước và thế giới tới giá USD
trên thị trường tự do đã dần dần giảm xuống.
Như vậy, mặc dù tỷ giá biến động mạnh vào thời điểm đầu năm nhưng năm
2011 vẫn được coi là thành công bước đầu của NHNN trong điều hành chính sách
tỷ giá nhằm đặt được những mục tiêu kinh tế vĩ mô cũng như ổn định thị trường
ngoại hối. Việc điều chỉnh tăng tỷ giá USD tới 9,3% vào thời điểm 9/2 đã tạo ra một
bước đột phá đối với thị trường ngoại hối. Và sự ổn định của tỷ giá trong hơn 7
tháng còn lại của năm 2011 cho thấy sự đúng đắn với những biện pháp điều chỉnh
mạnh tay đối với thị trường ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước.
2.3. Chính sách tỷ giá Việt Nam năm 2012:
2.3.1. Tình hình kinh tế xã hội
40
Đối với Việt Nam, nhiệm vụ trọng tâm trong năm 2012 là ưu tiên kiềm chế
lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì mức tăng trưởng một cách hợp lý gắn với
đổi mới mô hình tăng trưởng và tái cơ cấu nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Kết quả thực hiện trong 9 tháng đầu năm
2012 được thể hiện ở một số điểm dưới đây:
- Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) - lạm phát đã giảm mạnh so với
năm 2011 (đặc biệt trong hai tháng 6 và 7 có mức tăng trưởng âm). So với tháng 12
năm 2011. Chỉ số CPI 9 tháng đầu năm 2012 tăng khoảng 5%.
- Tỷ giá hối đoái ít thay đổi.
- Thị trường vàng không ổn định, tăng giảm bất thường.
- Mặt bằng lãi suất có xu hướng giảm.
- Xuất khẩu 9 tháng 2012 ước đạt 82 tỷ USD (tăng 16,4% so cùng kỳ năm
2011). Nhập khẩu ước đạt 82,5 tỷ USD (tăng 5% so cùng kỳ năm 2011). Như vậy
nhập siêu khoảng 0,5 tỷ USD.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký trong 8 tháng đầu năm 2012 đạt 8,5
tỷ USD, bằng 66,1% cùng kỳ năm 2011. Đầu tư trực tiếp thực hiện 8 tháng đầu năm
2012 đạt 7,28 tỷ USD, bằng 99,7% cùng kỳ năm 2011.
Như vậy các chính sách kiềm chế lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô về cơ bản
có phát huy tác dụng, mức lạm phát đã giảm và kinh tế vĩ mô giữ được ở mức khá
ổn định trong tầm ngắn hạn. Mức lạm phát cả năm có nhiều khả năng kiềm chế
được ở mức một chữ số. Tuy nhiên, nếu xét về trung và dài hạn thì kinh tế vĩ mô
vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố bất ổn, khó lường.
2.3.2. Diễn biến tỷ giá năm 2012
Giai đoạn 1: Từ tháng 1- 6/2012, tỷ giá VND/USD diễn ra ổn định với chiều
hướng tăng nhẹ khoảng 0,55%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng (BQLNH) tiếp tục
được duy trì ở mức 20.828 VND/1 USD. Tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương
mại (NH TM ) sau một thời gian duy trì ở mức kịch trần biên độ đã được các ngân
hàng điều chỉnh giảm dừng ở mức 20.860 - 20.920 VND/USD vào thời điểm cuối
tháng 6/2012.
41
Diễn biến tỷ giá trên thị trường “chợ đen” bám sát diễn biến tỷ giá giao dịch
của NHTM, chênh lệch giữa hai thị trường này chỉ còn ở mức từ 20 - 70
VND/1USD – một sự chênh lệch không đáng kể nếu so với năm 2011 trung bình
mức chênh lệch là 1.000 - 2.000 VND/1 USD.
Một điểm khác biệt so với các năm trước là từ ngày 13/2/2012 tỷ giá mua vào
của Sở Giao dịch NHNN được điều chỉnh cao hơn tỷ giá mua vào của các NHTM.
Giai đoạn 2: Từ tháng 7 - 12/2012, tỷ giá giảm dần.
Tháng 8/2012, tỷ giá giao dịch trên thị trường tự do có tăng nhẹ và kéo dài
khoảng cách chênh lệch với tỷ giá giao dịch của các NHTM ở mức gần 70
VND/1USD, nhưng sang tháng 9 bắt đầu xu hướng giảm dần đều cho tới cuối năm
2012 khi xoay quanh mức 20.850 – 20.870/VND/1USD. Tỷ giá BQLNH vẫn được
duy trì một đường kẻ thẳng kể từ ngày 24/11/2011 cho đến nay.
2.3.3. Các công cụ của chính sách tỷ giá năm 2012
2.3.3.1. Công cụ Trực tiếp
- Can thiệp trực tiếp vào tỷ giá liên ngân hàng
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng được ấn định ở mức 1USD = 20.828 VND
suốt trong năm 2012.
- Thị trường ngoại tệ
42
Trong năm 2012, ngân hàng nhà nước mua ròng ngoại hối khoảng 10 tỷ USD
để tăng dự trữ bắt buộc.
- Biện pháp khác
Thu hẹp và siết chặt các khoản vay bằng ngoại tệ trong nước theo hướng quy
định chặt chẽ hơn đối với khách hàng không có nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động sản
xuất kinh doanh để trả nợ: khách hàng là người cư trú vay vốn ngắn hạn, trung hạn
và dài hạn bằng ngoại tệ để thanh toán ra nước ngoài tiến hành nhập khẩu hàng hoá,
dịch vụ khi khách hàng có đủ ngoại tệ từ nguồn thu sản xuất, kinh doanh để trả nợ.
Các khoản vay ngoại tệ khác do ngân hàng nhà nước quy định.
2.3.3.2. Công cụ gián tiếp
- Điều chỉnh lãi suất chiết khấu:
Lãi suất chiết khấu được điều chỉnh 6 lần trong năm 2012 giảm từ 13% xuống
còn 7%.
- Thay đổi trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng:
Thu hẹp trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng xuống từ +/- 30% xuống
còn +/- 20% vốn tự có : Thông tư số 07/2012 TT- NHNN ngày 20/03/2012 về quy
định trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nhà nước.
- Siết chặt quản lý thị trường vàng:
Đổi mới cơ bản về hoạt động quản lý và kinh doanh vàng miếng thống nhất
quy về ngân hàng nhà nước là cơ quan thay mặt Chính phủ thống nhất quản lý các
hoạt động kinh doanh vàng. Hoạt động mua bán vàng miếng của các tổ chức, cá
nhân chỉ được thực hiện tại các tổ chức tín dụng và doanh nghiệp được ngân hàng
nhà nước cấp giấy phép kinh doanh mua, bán vàng miếng .
Ngân hàng nhà nước đã từng bước hoàn thiện cơ sở pháp lý để quản lý thị
trường vàng, chấm dứt hoạt động huy động vốn và cho vay bằng vàng vào ngày
25/11/2012
- Kiểm soát, trấn áp thị trường ngoại hối tự do:
Đẩy mạnh công tác truyền thông về các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ
và hoạt động ngân hàng.
- Các biện pháp hành chính khác:
43
Đưa ra cam kết điều chỉnh tỷ giá giữ ổn định không quá 2-3% trấn an tâm lý
người dân Sử dụng các biện pháp hành chính nhằm tập trung nguồn ngoại tệ vào hệ
thống tổ chức tín dụng để tạo điều kiện đáp ứng tốt nhu cầu ngoại tệ hợp lý, hợp
pháp của nền kinh tế để hỗ trợ công tác điều hành tỷ giá
2.3.4. Đánh giá chung về hoạt động điều hành tỷ giá 2012:
- NHNN tiếp tục thể hiện vai trò chủ động và tự tin trong điều hành chính
sách tỷ giá và thị trường ngoại hối: chủ động đưa ra những cam kết mạnh mẽ về ổn
định tỷ giá để thể hiện quyết tâm của cơ quan điều hành, ổn định tâm lý t hị trường
và định hình kỳ vọng về tỷ giá của công chúng. Tỷ giá trong năm 2012 được cam
kết không điều chỉnh vượt quá 2 - 3% và đã thực hiện thành công.
- Chủ động thực hiện điều chỉnh giảm lãi suất giúp tỷ giá ổn định trong suốt
năm 2012. NHNN đã đạt mục tiêu hạ lãi suất và mặt bằng đã giảm từ 3 - 8%/năm so
với cuối năm 2011, góp phần tháo gỡ khó khăn, giảm áp lực chi phí vay vốn của các
doanh nghiệp và hộ dân, qua đó hỗ trợ tăng tổng cầu của nền kinh tế.
Mặc dù lãi suất tiết kiệm bằng VND đã giảm nhưng vẫn còn cao và có sức hấp
dẫn so với tiết kiệm bằng ngoại tệ, trong khi tỷ giá ổn định, quan trọng hơn là lạm
phát đã được kiềm chế. Điều này góp phần làm giảm cầu ngoại tệ với mục đích găm
giữ, đầu cơ, đồng thời một lượng lớn các dòng ngoại tệ từ nước ngoài đổ về (vốn
đầu tư gián tiếp, kiều hối, tiền gửi và vay mượn từ nước ngoài...) được chuyển ra
VND để gửi vào ngân hàng hưởng chênh lệch lãi suất, góp phần làm tăng cung
ngoại tệ, từ đó tỷ giá ổn định và giảm xuống.
- Chênh lệch giữa tỷ giá chính thức và tỷ giá trên thị trường tự do tiếp tục
duy trì khoảng cách hẹp là dưới 70 VND/1USD, thậm chí có lúc tỷ giá của các
NHTM cao hơn thị trường tự do (tháng 2 và tháng 4/2012).
- Năm 2012 đánh dấu một năm lượng dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng
mạnh trở lại. Tính cả năm, NHNN đã mua vào khoảng hơn 10 tỷ USD, nâng quy
mô dự trữ ngoại hối quốc gia đạt trên 20 tỷ USD, đáp ứng được gần 12 tuần nhập
khẩu của nền kinh tế, tiệm cận được với tiêu chuẩn của Q uỹ tiền tệ Quốc tế (IMF).
Đây là một giá trị có ý nghĩa chiều sâu, bởi việc tính theo tuần nhập khẩu nhằm thể
hiện khả năng hỗ trợ thanh toán quốc tế của dự trữ ngoại hối quốc gia đó, hoặc khả
44
năng phòng vệ trước rủi ro các dòng vốn đảo chiều, góp phần cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế, làm tăng sức mạnh của quốc gia.
2.4. Chính sách tỷ giá Việt Nam 6 tháng đầu năm 2013:
2.4.1. Tình hình kinh tế xã hội 6 tháng đầu năm 2013
Kinh tế thế giới:
Tăng trưởng kinh tế thế giới chậm hơn dự báo do khủng hoảng ở Châu Âu và
suy giảm tăng trưởng ở Trung Quốc và Ấn Độ.
Fed tuyên bố sẽ từng bước điều chỉnh chính sách tiền tệ trong nửa cuối năm
2013 và 2014 đang và sẽ tác động đến thị trường tài chính thế giới và các nền kinh
tế mới nổi, kể cả Việt Nam.
Giá thế giới trong những tháng đầu năm 2013 tiếp tục xu hướng giảm kể từ
đầu năm 2011. NHTG dự báo trong năm 2013 giá năng lượng sẽ giảm 2% (trong đó
giá dầu giảm 2,4%) và giá nông sản giảm 6% so với năm 2012
Kinh tế trong nước:
Tiếp tục những thành tựu đạt được trong năm 2012, trong 6 tháng đầu năm
2013, môi trường kinh tế vĩ mô đã được duy trì ổn định, lạm phát được kiểm soát ở
mức 2,4%, cán cân thanh toán tiếp tục thặng dư, dự trữ ngoại hối Nhà nước tăng
cao, đạt mức kỷ lục, giá trị VND tiếp tục được cải thiện, thanh khoản của hệ thống
ngân hàng ổn định. Trong khi tình hình hoạt động sản xuất của doanh nghiệp đang
gặp khó khăn, việc duy trì được tốc độ tăng trưởng GDP trong 6 tháng đầu năm là
một sự cố gắng khá ấn tượng của Chính phủ, nhất là trong điều kiện các giải pháp
đề ra trong Nghị quyết 02 chưa triển khai được nhiều.
2.4.2. Diễn biến tỷ giá 6 tháng đầu năm 2013
Sự ổn định của tỷ giá được kéo dài từ đến hết quý I/2013. Nhưng, sang đầu
quý II/2013, thị trường đã có những biến động. Cụ thể là, từ cuối tháng 4/2013 đến
cuối tháng 6/2013, nhiều ngân hàng thương mại (NHTM) đã nâng giá USD lên kịch
trần cho phép 1 USD đổi 21.036 VND. Thậm chí tại số đông NHTM tăng giá mua
lên kịch trần 21.036 VND, trong khi giá bán USD trên thị trường tự do lên tới
21.320 VND.
45
Nếu nhìn vào diễn biến tỷ giá dài hơn, tức là trong 5 năm gần đây có thể thấy,
theo số liệu công bố của Tổng cục Thống kê, 6 tháng đầu năm 2013 (tính đến trước
ngày 28/6/2013) chỉ tăng có 0,84%; nhưng, nếu tính đến đầu tháng 7/2013 so với
đầu năm, thì đã tăng tới 1,84%.
Sang tháng 7 đến hết ngày 21/8/2013, tỷ giá bắt đầu ổn định trở lại do có sự
can thiệp của chính phủ.
Đến ngày 22/8, tỷ giá USD/VND tại các ngân hàng bất ngờ tăng mạnh, mức
tăng từ 40 – 80 đồng so với ngày 21/8, trong đó giá bán USD lại lên trên 21.200
đồng. Đây cũng là phiên tỷ giá biến động mạnh nhất tính từ đầu tháng 8. Nguyên
nhân là do tác động tâm lý của một số thông tin, nhận định thiếu cơ sở liên quan đến
định hướng điều hành tỷ giá của Ngân hàng Nhà nước.
2.4.3. Các công cụ của chính sách tỷ giá 6 tháng đầu năm 2013:
2.4.3.1. Công cụ Trực tiếp
Ngày 28/6/2013, Ngân hàng Nhà nước đã nới biên độ tỷ giá USD/VNĐ là +-
1%. Với biên độ tỷ giá +/-1% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá trần là
21.246 VND/USD, tỷ giá sàn là 20.826 VND/USD.
Ngân hàng Nhà nước khẳng định không điều chỉnh tỷ giá và tiếp tục điều hành
tỷ giá theo hướng ổn định, thực hiện đồng bộ các biện pháp điều hành và kiểm soát
chặt chẽ hoạt động kinh doanh, mua bán ngoại tệ.
2.4.3.2. Công cụ gián tiếp
- Trần lãi suất bằng ngoại tệ:
Hạ trần lãi suất huy động ngoại tệ và VND kỳ hạn dưới 6 tháng và cho vay các
lĩnh vực ưu tiên nhằm phản ánh chính xác hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường, tạo
sự ổn định vững chắc cho thị trường ngoại tệ. Cụ thể:
Trong các Thông tư 14,15,16/2013/TT-NHNH, Ngân hàng Nhà nước quy
định, lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và kỳ hạn dưới 1
tháng giảm từ 2%/năm xuống 1,2%/năm; lãi suất tối đa áp dụng với tiền gửi VND
từ 1 tháng đến dưới 6 tháng giảm từ 7,5%/năm xuống còn 7%/năm; lãi suất tối đa
áp dụng với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng tại Quỹ tín dụng nhân
dân, Tổ chức tài chính vi mô giảm từ 8%/năm xuống 7,5%/năm.
46
Lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi VND có kỳ hạn từ 6 tháng trở lên do tổ
chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài ấn định trên cơ sở cung - cầu vốn
thị trường.
NHNN cũng điều chỉnh giảm lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND đối với
một số lĩnh vực ưu tiên (nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ,
doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp công nghệ cao) từ 10%/năm xuống còn
9%/năm. Lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VND của Quỹ tín dụng nhân dân và Tổ
chức tài chính vi mô đối với các nhu cầu vốn này giảm 11%/năm xuống 10%/năm.
Với USD, NHNN điều chỉnh giảm lãi suất tối đa áp dụng đối với tiền gửi của
tổ chức là người cư trú, tổ chức là người không cư trú (trừ tổ chức tín dụng, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài) giảm từ 0,5%/năm xuống 0,25%/năm; lãi suất tối đa
áp dụng đối với tiền gửi của cá nhân là người cư trú, cá nhân là người không cư trú
giảm từ 2%/năm xuống 1,25%/năm.
2.4.4. Đánh giá chung về hoạt động điều hành tỷ giá 6 tháng đầu năm
2013:
Nhờ động thái điều chỉnh biên độ tỷ giá +-1%, thanh khoản trên thị trường
ngoại tệ đã được cải thiện, tỷ giá giảm, các tổ chức tín dụng mua ròng ngoại tệ từ
khách hàng, tâm lý găm giữ ngoại tệ đã được giải tỏa.
Còn đối với dòng vốn đầu tư ngoại, tăng tỷ giá là một đòn đánh thuế vào dòng
tiền nóng, khiến cho việc rút vốn ngoại trở nên tốn kém hơn. Thực tế, sau ngày
28/6, tốc độ và giá trị bán ròng trái phiếu của nước ngoài đã giảm. Do 1% tăng của
tỷ giá lớn hơn so với lợi tức trái phiếu, nhà đầu tư nước ngoài cần phải nắm giữ trái
phiếu dài hạn hơn (từ 6 tháng trở lên) mới có thể tránh được rủi ro điều chỉnh tỷ giá.
Sự kết hợp điều chỉnh tỷ giá và lãi suất tiền gửi mang về kết quả: đồng USD
trở nên “đắt đỏ” hơn, gửi tiền bằng USD cũng trở nên kém hấp dẫn so với VNĐ, khi
trần lãi suất tiền gửi bằng USD đối với cá nhân giảm xuống còn 1,25%/năm, trong
khi lãi suất tương tự áp dụng cho VNĐ kì hạn từ 1-6 tháng giảm còn 7%.
47
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP ĐIỀU HÀNH TỶ GIÁ CHO VIỆT NAM HIỆN NAY
3. Sự mất ổn định tỷ giá hối đoái ở các nước và bài học kinh nghiệm đối
với Việt Nam
3.1. Sự mất ổn định tỷ giá hối đoái ở các nước trên thế giới
Theo thống kê của Q uỹ Tiền Tệ Quốc Tế (IMF), trong hầu hết các trường hợp
ở các nước đang phát triển, sự mất cân bằng trong tỷ giá hối đoái xảy ra dưới dạng
tăng giá thực của nội tệ làm mất khả năng cạnh tranh quốc tế thể hiện ở việc tăng
giá hàng xuất khẩu và giảm giá hàng nhập khẩu, dẫn đến một sự thâm hụt ngày
càng lớn trong cán cân thanh toán vãng lai. Kết quả là một sự mất cân bằng ngoại
đã xảy ra. Việc quay trở lại mục tiêu cân bằng ngoại được tiến hành bằng sự điều
chỉnh tương quan giá cả giữa hàng hóa xuất nhập khẩu thông qua biện pháp cơ bản
là thực hiện phá giá. Sự gia tăng hội nhập quốc tế và việc quá trông cậy vào dòng
vốn tư nhân, trong khi cơ cấu kinh tế chưa đạt mức cần thiết, các chính sách kinh tế
vĩ mô chưa thật sự ổn định làm cho thị trường mất ổn định dẫn đến đảo ngược lớn
của dòng vốn. Sự rút vốn đột ngột làm chao đảo thị trường tài chính trong cuộc
khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á năm 1997 đã cảnh báo cho các nước về tính bất
ổn của quá trình tự do hoá tài chính - tiền tệ, đây là cuộc khủng hoảng có liên quan
nhiều nhất đến vấn đề tiền tệ. Hiện tượng đầu cơ, mua bán khống trên thị trường tài
chính dẫn đến đỗ vỡ hàng loạt các nhà đầu tư, hệ thống ngân hàng trong nước cạnh
tranh kém có nguy cơ phá sản hay bị thôn tính. Sau đây là một số bài học kinh
nghiệm ở các nước.
3.1.1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Giữa hai nền kinh tế có những nét tương đồng mặc dù thời điểm chuyển đổi và
mức độ chuyển đổi có thể khác nhau. Do đó, kinh nghiệm của Trung Quốc trong
việc hoạch định chính sách là những bài học quý giá cho Việt Nam, đặc biệt là kinh
nghiệm về điều hành chính sách tỷ giá của Trung Quốc trong những năm gần đây.
Trước năm 1979, Trung Quốc thực hiện chính sách tỷ giá cố định và đa tỷ giá.
Cơ chế này đã làm cho các doanh nghiệp mất đi quyền chủ động trong kinh doanh,
không gắn kết lợi ích kinh tế với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, làm cho
48
các doanh nghiệp không chú ý đến hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh,
tăng tính ỷ lại vào sự bao cấp của nhà nước, chính điều này đã làm cho Trung Quốc
rơi vào suy thoái , khủng hoảng kinh tế sâu sắc.
Trung Quốc đã nhận ra sự yếu kém của cơ chế quản lý kinh tế theo kế hoạch,
từ năm 1979 đã thực hiện cải cách kinh tế, thực hiện chuyển đổi nền kinh tế. Chính
sách tỷ giá cũng được cải cách cho phù hợp với những chuyển đổi của nền kinh tế.
Ngay từ đầu những năm 80, Trung Quốc đã cho phép thực hiện cơ chế điều chỉnh tỷ
giá giảm dần để phản ảnh đúng sức mua của đồng NDT. Năm 1980, tỷ giá đồng
NDT so với USD là 1,53 NDT/USD, đến năm 1990 là 5,22 NDT/USD. Chính sách
tỷ giá này đã giúp Trung Quốc cải thiện được cán cân thương mại (CCTM ), giảm
thâm hụt thương mại và cán cân thanh toán (CCTT), đưa đất nước thoát ra khỏi
cuộc khủng hoảng kinh tế. Tuy nhiên, việc thực hiện cơ chế tỷ giá theo hướng
tương đối ổn định làm cho lạm phát tiếp tục gia tăng, hạn chế xuất khẩu và ảnh
hưởng đến mục tiêu phát triển kinh tế. Tỷ lệ lạm phát của Trung Quốc từ năm 1990
đến năm 1993 lần lượt là: 3,06%, 3,54%, 6,34% và 14,58%. Trong khi đó, lạm phát
của M ỹ có xu hướng giảm xuống, thấp hơn nhiều so với Trung Quốc, năm 1993 lạm
phát của Mỹ là 2,4%, do đó đồng NDT lại bị đánh giá cao so với sức mua thực tế.
Nhận thấy việc duy trì tỷ giá theo hướng ổn định có ảnh hưởng xấu đến mục tiêu
mở cửa kinh tế đối ngoại và kế hoạch tăng xuất khẩu để phát triển kinh tế, Trung
Quốc đã quyết định điều chỉnh mạnh tỷ giá hối đoái.
Ngày 1/1/1994, Trung Quốc chính thức công bố điều chỉnh mạnh tỷ giá đồng
NDT từ 5,8 NDT/USD xuống 8,7 NDT/USD, tỷ lệ điều chỉnh (thực chất là phá giá
đồng NDT) lên tới 50%. Để chính sách điều chỉnh tỷ giá giữ được ổn định, không bị
giới đầu cơ thao túng, Trung Quốc đã thực hiện chính sách thắt chặt quản lý ngoại
hối, nhằm mục đích tập trung ngoại tệ về Nhà nước, đảm bảo cung cầu ngoại tệ
thông suốt.
Từ năm 1994 đến năm 1996, Trung Quốc thực hiện chính sách kết hối ngoại tệ
bắt buộc theo quy định tại Sắc lệnh số 91 ngày 25/12/1993 của Chính phủ và quy
định về cải cách cơ chế quản lý ngoại hối ngày 28/12/1993 của Ngân hàng nhân dân
Trung Quốc. Theo đó, các nguồn thu ngoại tệ của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội
49
(trừ các doanh nghiệp FDI) phải kịp thời chuyển về nước và bán hết cho các ngân
hàng được ủy quyền. Khi có nhu cầu sử dụng các doanh nghiệp và tổ chức xã hội
được mua ngoại tệ của các ngân hàng ủy quyền.
Cho đến cuối năm 1997, khi dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 139,89
tỷ USD, Trung Quốc mới nới lỏng chính sách kết hối ngoại tệ. Ngày 15/10/1997,
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc ban hành Chỉ thị số 402 cho phép một số doanh
nghiệp (Công ty xuất nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất có giấy phép kinh doanh
xuất nhập khẩu) được giữ lại một phần ngoại tệ trên tài khoản với mức tối đa không
quá 15% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm.
Năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 286,4 tỷ USD, chính
sách kết hối ngoại tệ tiếp tục được nới lỏng. Tại Chỉ thị số 87 của Cục Quản lý
ngoại hối Trung Quốc ban hành ngày 9/9/2002 quy định các công ty và doanh
nghiệp được giữ ngoại tệ trên tài khoản, mức tối đa không quá 20% tổng nguồn thu
ngoại tệ từ giao dịch vãng lai. Từ năm 2003 đến năm 2006, Cục Q uản lý ngoại hối
yêu cầu các ngân hàng thương mại thực hiện chính sách kết hối ngoại tệ theo Chỉ thị
số 87 nói trên.
Đến năm 2007, Dự trữ ngoại hối Trung Quốc đã tăng lên tới 1.528,249 tỷ
USD. Ngày 13/8/2007 Cục Quản lý ngoại hối ban hành Chỉ thị số 48 cho phép các
tổ chức kinh tế căn cứ nhu cầu sử dụng ngoại tệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh
được quyền giữ lại số ngoại tệ từ giao dịch vãng lai trên tài khoản. Như vậy, sau 13
năm Trung Quốc mới xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ, chính sách này được xóa
bỏ khi nền kinh tế nhiều năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát thấp, CCTT, CCTM
dư thừa lớn, dự trữ ngoại hối cao.
Chính sách thắt chặt quản lý ngoại hối còn thể hiện ở các quy định về hạn chế
cho vay ngoại tệ trong nước. Từ năm 1994 đến năm 2002, các ngân hàng thương
mại Trung Quốc không được phép cho các doanh nghiệp trong nước vay ngoại tệ.
Đến ngày 6/12/2002 Cục Quản lý ngoại hối mới có văn bản (Chỉ thị số 125 về cải
cách cơ chế cho vay ngoại tệ trong nước) cho phép các ngân hàng thương mại cho
các tổ chức kinh tế trong nước vay ngoại tệ. Khi vay vốn ngoại tệ các tổ chức kinh
tế phải làm thủ tục mở tài khoản vay ngoại tệ tại các ngân hàng được ủy quyền. Các
50
ngân hàng thương mại có trách nhiệm đăng ký khoản cho vay với cơ quan quản lý
ngoại hối.
Gần đây, khi nền kinh tế Trung Quốc đã lớn mạnh, dự trữ ngoại hối tới
2.847,3 tỷ USD, chính sách tỷ giá của Trung Quốc làm cho các nước Mỹ, phương
Tây đau đầu. Ngày 5/8/2008, Thủ tướng Trung Quốc Ôn Gia Bảo mới ký Sắc lệnh
sửa đổi Điều lệ quản lý ngoại hối cho phép tự do hóa các giao dịch vãng lai và nới
lỏng quản lý với giao dịch vốn với nội dung gần tương tự với pháp lệnh ngoại hối
của Việt Nam.
Nhờ thực hiện một loạt các biện pháp quản lý chặt chẽ về ngoại hối, Trung
Quốc đã thành công trong việc điều hành cơ chế tỷ giá, đảm bảo đáp ứng được đầy
đủ nhu cầu ngoại tệ cho nền kinh tế phát triển vững chắc. Từ năm 1994 đến nay đã
gần 20 năm, sau khi điều chỉnh tỷ giá, Trung Quốc vẫn giữ được thị trường ngoại tệ
ổn định, dựa trên cơ sở cân đối được cung cầu ngoại tệ. Với chính sách Nhà nước
quản lý chặt chẽ các nguồn thu ngoại tệ sau khi điều chỉnh tỷ giá, đã góp phần tăng
quyền sở hữu ngoại tệ của các ngân hàng thương mại, đó chính là chìa khóa thành
công giúp cho các ngân hàng có đủ ngoại tệ bán cho các tổ chức kinh tế và cá nhân
có nhu cầu.
Cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc trong thời gian qua đã
thu được nhiều kết quả, có những đóng góp quan trọng của việc điều hành cơ chế tỷ
giá linh hoạt, chủ động của các cơ quan chức năng Trung Quốc. Những kinh
nghiệm thành công cũng như các khó khăn trong cải cách kinh tế của Trung Quốc là
những bài học quý giá cho các nước chuyển đổi nền kinh tế như Việt Nam nghiên
cứu và vận dụng.
3.1.2. Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Chính phủ Hàn Quốc đặt trọng tâm của chính sách kinh tế là hướng về xuất
khẩu thông qua điều chỉnh chế độ tỷ giá linh hoạt, giảm thuế nhập khẩu, hỗ trợ tài
chính cho doanh nghiệp xuất khẩu. Hàn Quốc mở rộng xuất khẩu phối hợp các
chính sách giảm chi phí nhập khẩu và gánh nặng nợ, khuyến khích và tăng cường
tiết kiệm thông qua tăng lãi suất, phá giá nội tệ để giảm thâm hụt thương mại.
Chuyển chế độ tỷ giá từ cố định sang linh hoạt dựa vào yếu tố thị trường: khi USD
51
lên giá thì để thị trường tự điều tiết, khi USD giảm giá thì tăng cung đồng KRW để
đẩy mạnh xuất khẩu.
Duy trì biên độ dao động ổn định tỷ giá trong thời gian dài nhằm thu hút vốn
đầu tư trong nước và nước ngoài.
Khắc phục tình trạng đôla hóa thông qua việc gắn đồng bản tệ với một giỏ
ngoại tệ.
3.1.3. Kinh nghiệm của Malaysia
Malaysia mạnh dạn nới lỏng chính sách tiền tệ, ban hành quy định mới kiểm
soát ngoại hối sau khủng hoảng tiền tệ năm 1997, hạn chế tối đa lượng ngoại tệ
mang ra nước ngoài, khôi phục tính độc lập của đồng Ringgit (MYR), thực hiện chế
độ TGHĐ cố định, ấn định tỷ giá ở mức 3,8 MYR/USD, tránh việc gia tăng lãi suất
nhằm giảm chi phí vay vốn, gia tăng mạnh xuất khẩu, giảm thiểu ảnh hưởng tiêu
cực của khủng hoảng khu vực.
Chế độ TGHĐ cố định và kiểm soát ngoại hối đã giúp Malaysia giảm lạm
phát, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 6,5% hàng năm và dự trữ ngoại tệ, cán cân
vãng lai luôn thặng dư, củng cố lòng tin vào sự phục hồi kinh tế và thu hút đầu tư
nước ngoài.
3.1.4. Kinh nghiệm từ cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ ở Mehico và
Thái Lan
Cả hai cuộc khủng hoảng đều mang đậm tính chất khủng hoảng tài chính -
tiền tệ, khởi đầu từ một cú sốc “tỷ giá” do những quyết định thả nổi - phá giá bản tệ
mà Chính phủ mỗi nước đột ngột đưa ra, sau những cố gắng kiềm giữ bản tệ cố định
cao giả tạo và quá sức chịu đựng của dự trữ quốc gia.
Hai cuộc khủng hoảng đều mang tính quốc tế sâu sắc cả về tác động lan
truyền lẫn những nổ lực hỗ trợ của các tổ chức tài chính quốc tế về mặt tài chính
nhằm vượt qua khủng hoảng và cả những thông điệp cảnh báo chung về chính sách
tăng trưởng kinh tế mà chúng đưa ra cho tất cả các nước, nhất là các nước thuộc các
thị trường mới trổi dậy trong số các nước đang phát triển. Tỷ lệ vốn ngắn hạn lớn,
không ổn định và mong manh là vấn đề có tác động rất nhạy cảm khi thị trường tiền
52
tệ trong nước có đột biến. Sự rút vốn đồng loạt và ồ ạt xảy ra là yếu tố gây rối loạn
vốn thị trường trong nước.
Cuộc khủng hoảng ở mỗi nước là hợp lực của một loạt nguyên nhân khác
nhau, trong số đó có 3 nguyên nhân chính và đặc trưng là:
Có sự sai lầm và chậm trể trong việc điều hành chính sách tỷ giá. Ở cả hai
nước, cuộc khủng hoảng đều là kết quả của sự “lệch pha”, thiếu đồng bộ trong phối
hợp chính sách tỷ giá phục vụ cho chính sách phát triển hướng về xuất khẩu. Cụ thể
là giá trị đồng bản tệ của cả hai nước đều bị gắn kết cứng nhắc vào đồng USD, được
duy trì cao một cách giả tạo và kéo dài - sản phẩm của quan niệm coi đó như là biểu
hiện và sự cần thiết để ổn định và phát triển kinh tế cũng như để khuyến khích đầu
tư và tạo điều kiện cho vốn nước ngoài đổ vào trong nước. Đồng pêsô Mêhico được
Chính phủ thường xuyên can thiệp nâng giá suốt từ năm 1987, khiến tỷ giá danh
nghĩa của nó chỉ trên 3 Pêso/USD thay vì thực chất phải là 9 pêsô/USD. Còn ở Thái
Lan, tỷ giá thực xấp xỉ 30 baht/USD bị kìm giữ lâu dài ở mức 25 - 26 Baht/USD.
Với chính sách tỷ giá trên đã làm giảm sức cạnh tranh hàng xuất khẩu của mỗi
nước, giảm nguồn thu ngoại tệ do xuất khẩu mang lại cũng như làm tiêu hao nhanh
chóng nguồn dự trữ ngoại tệ quốc gia, do những cố gắng bán USD ra để giữ giá
đồng bản tệ, chính nó đã tạo điều kiện và làm tăng tác hại của hoạt động đầu cơ tài
chính trong nước.
Cơ cấu nền tài chính quốc gia không lành mạnh do thiếu sự định hướng,
kiểm soát và điều chỉnh đúng đắn kịp thời, biểu hiện ở chỗ thâm hụt về tài khoản
vãng lai cao, mất khả năng thanh toán các khoản nợ, đầu tư kém hiệu quả, tăng tiêu
dùng xa xỉ...
Cuộc khủng hoảng xảy ra vào lúc cả hai nước đều có thâm hụt về tài khoản
vãng lai lớn tới 8% GDP và chịu sức ép nặng nề của gánh nặng nợ nần, trong đó
chủ yếu là nợ ngắn hạn. Từ đầu năm 1991 đến tháng 12/1994 có đến 90 tỷ USD vốn
ngắn hạn đổ vào M êhicô, trong đó hơn 50% là bằng con đường phát hành tín phiếu
kho bạc và trái phiếu chính phủ. Đến cuối năm 1993, nợ nước ngoài của Mêhicô là
140 tỷ USD bằng 39% GDP, tương đương 294% thu nhập xuất khẩu và gấp nhiều
lần dự trữ ít ỏi của nước này. Còn Thái Lan, hầu như toàn bộ thâm hụt cán cân
53
thanh toán vãng lai là do vốn vay ngắn hạn. Tính đến cuối năm 1996, nợ nước ngoài
của Thái Lan đã tăng vọt từ 28 tỷ USD năm 1990 lên 98 tỷ USD, chiếm 25% tổng
sản lượng quốc gia và vượt 3 lần mức dự trữ quốc gia; hơn nữa, 65% các khoản vay
phải thanh toán trong thời hạn 1 năm. Nếu thời hạn vay ngắn nhưng lại được đầu tư
tập trung vào một lĩnh vực, thì một khi thị trường này bế tắc thì khả năng trả nợ sẽ
khó và nợ quá hạn sẽ lớn, gây mất ổn định trong hệ thống tài chính (trường hợp đầu
tư vào thị trường bất động sản)
Điều nguy hiểm nữa là cả hai nước đều bị sa lầy vào tình trạng đầu tư không
hiệu quả như chi cho bảo vệ cá nhân và an ninh quốc gia, chi cho bất động sản, khu
vực kinh tế nhà nước (ở M êhicô chiếm 18% GDP và ở Thái Lan chiếm 35% GDP);
và tỷ trọng những khoản nợ khó đòi trong nước rất cao, làm mất khả năng thanh
toán của các con nợ nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đây là di sản nặng
nề nhất và khó giải quyết nhất của cả hai nước
Những bất ổn trong đời sống chính trị - xã hội của mỗi nước làm cho các lý
do trực tiếp về kinh tế trên đây trở nên nhạy cảm và trầm trọng hơn
3.2. Bài học về chính sách tỷ giá của các nước đối với Việt Nam trong
tình hình kinh tế hiện nay
- Tuỳ thuộc điều kiện cụ thể và độ tự do hoá tài chính, tự do hoá thương
mại, năng lực kinh tế của mỗi nước mà lựa chọn chế độ TGHĐ thích hợp, điều hành
một cách linh hoạt, đồng bộ và phối hợp chặt chẽ các chính sách kinh tế vĩ mô, hỗ
trợ và bổ sung lẫn nhau nhằm đạt tới sự cân bằng trong ngắn hạn cũng như hạn chế
tác động bất lợi trong dài hạn; nếu tỷ giá thay đổi không đi liền với thay đổi chính
sách thương mại thì không phát huy hiệu quả của chính sách. Trong chiến lược phát
triển kinh tế cũng như điều hành vĩ mô, cần duy trì một thế cân bằng tương đối giữa
các mục tiêu như: sản phẩm, tăng trưởng, tỷ giá hối đoái, lãi suất, ngân sách, cán
cân thương mại nói riêng và cán cân thanh toán nói chung. Một quốc gia có thể thay
đổi chế độ TGHĐ tuỳ từng thời kỳ phát triển kinh tế, không thể áp dụng rập khuôn
của quốc gia khác.
- Điều chỉnh tỷ giá linh hoạt hợp lý sát với thị trường dựa trên quan hệ
cung cầu có sự điều chỉnh của nhà nước theo từng giai đoạn phát triển kinh tế, chọn
54
thời điểm và mức điều chỉnh phù hợp khi cán cân thanh toán thâm hụt. Thay đổi tỷ
giá theo hướng giảm giá thực đồng tiền đáng kể như Trung Quốc (1994), Thái Lan
(1997) là điều kiện để thay đổi chính sách thương mại bởi vì tỷ giá thực quyết định
năng lực cạnh tranh quốc tế về giá cả thông qua điều chỉnh tỷ giá hay kiểm soát lạm
phát. Tỷ giá linh hoạt là nhân tố ổn định hoá tự động giúp điều chỉnh áp lực tăng
hoặc giảm giá và đưa ra được tỷ giá cân bằng.
Kinh nghiệm của Thái Lan, Hàn Quốc v.v.cho thấy tác động tích cực của
cơ chế điều hành tỷ giá linh hoạt. Nền kinh tế Việt Nam có nhiều nét giống Thái
Lan trước năm 1997 như cán cân thương mại thâm hụt và được bù đắp bằng thặng
dư cán cân vốn; Thái Lan đã quyết định điều chỉnh linh hoạt tỷ giá để vượt qua
khủng hoảng tiền tệ. Việt Nam đã học tập kinh nghiệm các nước trong việc áp dụng
cơ chế tỷ giá linh hoạt phù hợp với quốc gia nhỏ đang hội nhập quốc tế và có độ mở
thương mại cao. Bên cạnh đó Việt Nam đang cố gắng chuyển hướng từ xuất khẩu
sản phẩm thô sang xuất khẩu sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao; thực hiện
đổi mới công nghệ và năng lực sản xuất để đa dạng sản phẩm xuất khẩu
- Gắn liền các biện pháp can thiệp của chính phủ với điều hành TGHĐ dựa
trên quan hệ cung cầu ngoại tệ; không thể dựa hẳn vào quy luật thị trường hay sử
dụng quá nhiều biện pháp hành chánh. Phá giá trong điều kiện cho phép góp phần
cải thiện cán cân thương mại; phải có nghệ thuật lựa chọn thời điểm và mức độ phá
giá.
Để thực hiện kế hoạch mở cửa kinh tế đối ngoại, đồng thời tạo điều kiện cải
thiện cán cân thương mại, Trung Quốc đã đưa tỷ giá chính thức lên ngang bằng với
tỷ giá thị trường. Việc điều chỉnh thống nhất hai loại tỷ giá được thực hiện từ ngày
01/01/1994. Trung quốc đã cho đồng nhân dân tệ phá giá tới 35%, tỷ giá chính thức
được điều chỉnh từ mức 5,7 CNY/USD lên 8,7 CNY/USD. Kèm theo đó là các quy
định các doanh nghiệp thực hiện chế độ kết hối ngoại tệ 100%, các doanh nghiệp có
nhu cầu ngoại tệ thanh toán hàng nhập khẩu được mua ngoại tệ tại các ngân hàng
thương mại. Riêng các giao dịch phi thương mại không được phép mua ngoại tệ của
các ngân hàng.
55
- M ở cửa thị trường vốn không đồng nghĩa với việc buông lỏng, mất kiểm
soát các dòng vốn chảy vào trong nước, tự do hoá trên tài khoản vốn nên được tiến
hành thận trọng và phối hợp theo đúng trình tự, phải quan tâm đến việc duy trì một
tỷ lệ hợp lý về các mối quan hệ tỷ lệ sau:
+ Giữa vốn trong nước và vốn vay nước ngoài.
+ Giữa vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn trong gọi vốn từ nước ngoài.
+ Giữa thời hạn vay vốn nước ngoài và đối tượng được đầu tư.
Mức độ tự do hóa chế độ quản lý ngoại hối sẽ phụ thuộc vào khả năng
chống đỡ những cú sốc của nền kinh tế từ bên ngoài. Việt Nam cần tiếp tục duy trì
kiểm soát chặt chẽ việc chuyển vốn ngoại tệ ra khỏi lãnh thổ mình đặc biệt là nguồn
vốn ngắn hạn.
Xử lý tỷ giá phải được đặt trong mối quan hệ với lãi suất, dự trữ ngoại tệ,
cán cân thương mại, thâm hụt ngân sách; luôn phải cân nhắc tới lý thuyết bộ ba bất
khả thi. Phải xác định nguyên nhân dẫn đến biến động bất lợi trong lạm phát và tỷ
giá để NHTW quyết định có nên can thiệp hay không.
- Đảm bảo sự độc lập nhất định giữa NHTW với Chính phủ trong việc ra
quyết định và điều hành chính sách tiền tệ. Thông qua dự báo về kinh tế, NHTW
kiến nghị các biện pháp với Hội đồng chính sách tiền tệ quốc gia và thường xuyên
công bố thông tin minh bạch rõ ràng về định hướng chính sách.
Xây dựng một hệ thống tài chính - ngân hàng đủ mạnh, có kinh nghiệm trong
việc điều chỉnh chính sách tài chính tiền tệ. Nhằm đổi mới bộ phận tài chính yếu
kém, một quốc gia đang phát triển cần cải thiện hạ tầng tài chính, kênh thông tin,
hoàn thiện khả năng thanh toán của hệ thống tài chính trong nước.
Việt Nam đang trong tiến trình hội nhập quốc tế và là quốc gia đi sau nên có
điều kiện học hỏi kinh nghiệm của các nước láng giềng trong điều tiết tỷ giá và
kiểm soát lạm phát nhằm điều chỉnh tỷ giá thực hiệu quả.
NHNN Việt Nam đã sử dụng các biện pháp như: điều chỉnh giảm lãi suất
ngoại tệ, nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng nhằm hạn
chế tăng trưởng tín dụng ngoại tệ và thúc đẩy tăng cung ngoại tệ giúp bình ổn thị
56
trường. Sử dụng biện pháp cứng rắn, quyết liệt xử phạt các giao dịch mua bán ngoại
tệ trái phép với sự phối hợp giữa Ngân hàng nhà nước và Bộ công an.
Tăng dự trữ ngoại hối thông qua việc mua ngoại tệ trên thị trường hối đoái khi
nguồn cung ngoại tệ dồi dào. Thông tin công khai và nhất quán trong điều hành tỷ
giá vào 2 năm gần đây, giúp tạo niềm tin trong dân chúng và các nhà đầu tư trong,
ngoài nước góp phần ổn định thị trường ngoại hối.
57
KẾT LUẬN
Trong thời kì kinh tế hội nhập, các quốc gia phải liên kết và hợp tác với nhau
để cùng phát triển. Chính sách tỷ giá giống như một cây cầu nối giữa một quốc gia
và các quốc gia còn lại. Để quan hệ hợp tác trở nên thuận lợi và vững chắc thì chính
sách tỷ giá phải hài hòa, hợp lí sao cho có thể thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại
quốc tế giữa các nước, tạo điều kiện cho quốc gia hội nhập ngày càng sâu rộng vào
thị trường quốc tế. Hi vọng bài viết này có thể giúp làm rõ hơn phần nào những vấn
đề liên quan đến tỷ giá cũng như chính sách tỷ giá của Việt Nam.
58
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Thanh toán quốc tế và tài trợ ngoại thương của PGS.TS
Nguyễn Văn Tiến (Trường Học viện Ngân hàng)
2. Tài chính quốc tế của PGS.TS Nguyễn Văn Tiến (Trường Học viện Ngân
hàng)
3. Tạp chí Tài chính, số 2/2013: bài viết “Chính sách tỷ giá và những vấn đề
đặt ra” Trần Thị Lương Bình (2013)
4. Tham khỏa luận văn của Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí
Minh.
5. Một số trang web điện tử
www.gov.vn
www.sbv.gov.vn
www.adb.org
www.bloomberg.com/
www.thuvienphapluat.vn
www.vneconomy.vn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- nhom_7_tcqt_8086.pdf