Nghiên cứu về chính sách tỷ giá và tác động của tỷ giá tới cán cân thương mại
của Việt Nam thời gian qua cho ta thấy được sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan
hệ mật thiết với kết quả của nền kinh tế vĩ mô. Đây là một biến số quan trọng ảnh hưởng
đến sự cạnh tranh của hàng hoá ngoại thương và những biến số khác trong nền kinh tế.
Sự thay đổi trong cán cân thương mại do biến động của tỷ giá là một vấn đề quan trọng
và cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô. Có hai lý do cho vấn đề này đó là: Thứ nhất là
những nhà hoạch định chính sách thường quan tâm đến việc ở mức độ nào thì cán cân
thương mại là tối ưu cho một nước; thứ hai là sự biến động của cán cân thương mại ảnh
hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc dân trong ngắn hạn, vì vậy, nghiên cứu tác động của
tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại giúp cho việc hoạch định mục tiêu của thu nhập
quốc dân.
37 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4631 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chính sách tỷ giá và tác động của tỷ giá hối đoái tới cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn từ 1989 đến 2013, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iá đồng Việt Nam so với nhân dân tệ của Trung Quốc cũng bị sụt
giảm mạnh. So với năm 1991, đồng nhân dân tệ đã tăng giá 50%, mức tăng giá này đã
kéo theo tình trạng hàng hóa Trung Quốc bị tăng cao, gặp khó khăn trong tiêu thụ trên
thị trường Việt Nam. Nhiều mặt hàng Việt Nam có cơ hội cạnh tranh với giá thấp hơn
các sản phẩm nội địa trên thị trường Trung Quốc.
Chúng ta có thể nhận thấy rằng việc xóa bỏ tỷ giá kết toán nội bộ, thống nhất tỷ
giá, đưa tỷ giá chính thức tiến gần tỷ giá thị trường nhằm đạt được mức tỷ giá hợp lý
những năm cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90 thế kỷ trước là một chủ trương đúng
đắn. Chủ trương này đã có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động nhập khẩu, giúp cải thiện
cán cân thương mại.
2.2. Chính sách tỷ giá thời kỳ từ năm 1993 đến năm 1997
Vào thời điểm cuối năm 1992, do kết quả sự can thiệp của Ngân hàng Nhà
nước vào thị trường ngoại tệ, tỷ giá dần ổn định khiến cho lượng ngoại tệ đầu cơ
trong các doanh nghiệp được tung ra, hướng mạnh vào kinh doanh xuất nhập khẩu .
Động thời có một lượng ngoại tệ được chuyển về do người Việt Nam ở nước ngoài
gửi về cho người thân tăng lên khoảng 300-400 triệu USD làm cung ngoại tệ lớn
hơn cầu ngoại tệ và kéo theo tỷ giá VND/USD giảm mạnh. Lĩnh vực tài chính - tiền
tệ bắt đầu trở ngại. Bên cạnh đó, cùng với việc quản lý các đại lý thu đổi ngoại tệ
còn lỏng lẻo, sự chênh lệch lớn giữa tỷ giá hối đoái ở thị trường chính thức và thị
trường chợ đen dẫn đến việc các đại lý lợi dụng danh nghĩa của Nhà nước để buôn
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
bán trục lợi, các ngân hàng không thu mua được lượng ngoại tệ đáng kể qua nguồn
này. Một mặt tình trạng này làm hạn chế khả năng kiểm soát các luồng ngoại tệ lưu
hành trong nước. Mặt khác làm gia tăng các giao dịch trên thị trường chợ đen bất
hợp pháp, tâm lý đầu cơ, găm giữ ngoại tệ tăng mạnh.
Việc ngân hàng Nhà nước khống chế chênh lệch giữa tỷ giá mua và tỷ giá bán
là cứng nhắc. Điều này làm cho tỷ giá vận hành thoát ly hoàn toàn quan hệ cung cầu
và không khuyến khích các tổ chức tín dụng, các ngân hàng thương mại hoạt động
theo đúng quan hệ nội tại của nó và thực tế không ít các ngân hàng thương mại đã
phá rào.
Trước những tồn tại của việc”thả nổi” mất kiểm soát tỷ giá, chính phủ đã thay
đổi cơ chế điều hành tỷ giá với những nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, quy định biên độ giao động của tỷ giá với tỷ giá chính thức được
công bố bởi Ngân hàng nhà nước (công bố tỷ giá chính thức mỗi ngày và xác định
rõ biên độ giao động); Tăng cường sức mạnh của các biện pháp hành chính mà cụ
thể là buộc các đơn vị kinh tế (trước hết là đơn vị kinh tế quốc doanh) có ngoại tệ
phải bán cho Ngân hàng theo tỷ giá nhất định.
Thứ hai, bãi bỏ hoàn toàn hình thức quy định tỷ giá nhóm hàng trong thanh
toán ngoại thương giữa ngân sách với các đơn vị kinh tế tham gia vào hoạt động
ngoại thương. Thay vào đó là việc áp dụng tỷ giá chính thức do Ngân hàng nhà nước
công bố.
Để hạn chế tác động của các yếu tố phi kinh tế, một mặt chính phủ đã tăng
cường công tác thông tin, cho công khai hoá một cách nhanh chóng và chính xác chỉ
số kinh tế quan trọng như tỷ giá chính thức, tỷ giá thị trường, chỉ số giá, sự biến
động giá vàng… Nhờ vậy hạn chế được hoạt động đầu cơ, giải tâm lý hoang mang.
Mặt khác, chính phủ cũng thông quan nhiều hình thức, tốc độ, mức can thiệp để thể
hiện rõ quyết tâm cải cách triệt để nền kinh tế nói chung và áp dập tắt nguy cơ bùng
nổ trở lại lạm phát nói riêng.
Ngoài ra, chính phủ cũng cho thấy có sự chú trong tăng cường thực lực kinh tế
cho hoạt động can thiệp vào tỷ giá bằng cách gia tăng mạnh mẽ dự trữ ngoại tệ, lập
quỹ ổn giá. Theo số liệu báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước cho thấy,
chính phủ thường dành một tỷ trọng khá lớn trong tổng lượng tiền cung ứng thêm
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
cho nền kinh tế để tăng tài sản có ngoại tệ. Những biện pháp can thiệp trên đã phần
nào xoá đi tâm lý găm giữ ngoại tệ, góp phần làm giảm giá đô la và tỷ giá được ổn
định trong những năm tiếp theo.
Thứ ba, đẩy mạnh hoạt động của trung tâm giao dịch ngoại tệ (trung tâm giao
dịch ngoại tệ tại trực tiếp Hồ Chí Minh được mở cửa từ tháng 8 năm 1991) để cho
các đơn vị kinh tế và các tổ chức tín dụng trao đổi, mua bán ngoại tệ với nhau theo
giá tự thoả thuận, tạo ra môi trường điều kiện để cung cầu thực sự gặp nhau. Sau đó,
tiến dần tới việc thành lập thị trường ngoại tệ liên Ngân hàng tháng 9 năm 1994.
Tính đến cuối năm 1992, đầu năm 1993, những biện pháp can thiệp đã đem
lại một kết quả như mong đợi, nạn đầu cơ ngoại tệ về cơ bản đã được giải toả, những
đồng ngoại tệ đã được hướng mạnh vào hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Tình
hình cung - cầu ngoại tệ đã được cải thiện với cùng kỳ trong những năm trước đó,
Đôla có xu hướng giảm giá. Mức tỷ giá trên thị trường chợ đen chỉ giao động trong
phạm vi từ 10200 đến 10400 đồng Việt Nam ăn 1 Đôla Mỹ. Thậm chí có lúc tỷ giá
tụt xuống ở mức 1USD = 9750VND. Mặc dù có nhiều ý kiến cho rằng tình hình này
phần lớn là nhờ vào lượng kiều hối vào nhiều (ước tính trong tháng 1 năm 1993,
nhân dịp tết nguyên đán, có trên 60.000 việt kiều về thăm quê đã đem theo một
lượng ngoại tệ khoảng 400 triệu Đôla Mỹ). Dĩ nhiên không thể phủ nhận đóng góp
của lượng kiều hối này vào việc làm gia tăng cung ngoại tệ trên thị trường. Trên
thực tế cho thấy, lượng kiều hối này tăng giảm hoàn toàn không ổn định qua các
năm và chỉ tập trung vào những thời gian ngắn nhất định trong năm, trong khi tình
hình cung - cầu ngoại tệ về tỷ giá hối đoái luôn được ổn định trong suốt thời gian dài
từ năm 1993 đến đầu năm 1997.
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Bảng 2: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn
1993- 1996
Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Mức
tỷ giá
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Thâm
hụt
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
1993 10640 100 2985,2 100 3924 100 938,8 100
1994 10955 102,9 4054,3 135,8 5825,8 148,5 1771,5 143,7
1995 10970 100,1 5448,9 134,4 8155,4 140 2706,5 149,7
1996 11100 101,2 7255,9 133,2 11143,6 136,6 3887,7 153,6
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống kê
Với các số liệu tính toán từ bảng 2 trên đây, việc tỷ giá dao động với biên độ +/-
0,5% trong giai đoạn 93-96 đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nhập khẩu. Nhập
siêu tăng gần gấp đôi trong năm 93, 94. Đặc biệt năm 1996, khi tỷ giá danh nghĩa bị ấn
định so với tỷ giá thực ở mức cao nhất 28% thì nhập siêu cũng đạt mức kỷ lục: 3,8 tỷ
đô la. Trung bình giai đoạn 94-96, cứ 1 đồng tăng giá nội tệ kéo theo hàng nhập khẩu
rẻ đi 1,4 đồng trong khi xuất khẩu sụt giảm 1,3 đồng. Điều này cho thấy tác động của
tỷ giá hối đoái lên ngoại thương Việt Nam trong bối cảnh tỷ giá hối đoái nội tệ bị ấn
định cao hơn so với giá trị thực vận động theo xu thế lí luận chung. Tỷ giá tăng đã kéo
lùi tốc độ tăng xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ nhập siêu và gây thiệt hại đến sản xuất
trong nước.
Đối với cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu, việc tỷ giá lên cao tạo điều kiện thuận
lợi cho các mặt hàng nhập khẩu hơn. Tỷ giá danh nghĩa được định cao hơn tỷ giá thực
bao nhiêu thì giá hàng nhập khẩu cũng được rẻ đi bấy nhiêu. Trước tình trạng hàng
trong nước cạnh tranh không nổi, năm 1994, nhà nước phải có chính sách cấm nhập
khẩu 17 mặt hàng nhằm bảo vệ sản xuất trong nước. Thời điểm này,hàng hóa xuất
khẩu lại gặp bất lợi. Trong 3 năm 1993-1995, nếu lấy năm 1992 làm mốc thì đồng Việt
Nam đã lên giá và giá hàng xuất khẩu đã bị đẩy đắt lên trên các thị trường ngoại quốc.
Ngoài ra, việc đồng Việt Nam tăng giá so với đồng đô la cũng góp phần khiến
đồng Việt Nam tăng giá so với các đồng tiền khác như Nhân dân tệ, Yên Nhật...Điều
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
này cũng khiến việc mở rộng thị trường trở nên khó khăn. Tuy nhiên do việc giới thiệu
sản phẩm Việt Nam tại thị trường nước ngoài bắt đầu được thực hiện mạnh mẽ nên qui
mô thị trường ngày càng được mở rộng. Ta nhận thấy thời kỳ này tỷ giá không ảnh
hưởng lớn đến hoạt động xuất-nhập khẩu
Trong bối cảnh nến kinh tế thế giới và thị trường tiền tệ quốc tế đầy biến
động mà nền kinh tế xã hội Việt Nam lại đạt được sự ổn định và tăng trưởng cao,
điều này đã thể hiện tính hợp lý về cơ bản của các tỷ số kinh tế vĩ mô và tất yếu là
có biến số tỷ giá hối đoái. Giai đoạn này là giai đoạn tăng giá mạnh của đồng tiền
Việt Nam. Chính điều này là nguyên nhân gây ra tình trạng thâm hụt lớn cán cân
thương mại của Việt Nam.
2.3. Chính sách tỷ giá thời kỳ từ năm 1997 đến nay
Đây là giai đoạn điều hành tỷ giá linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước. Chủ
trương điều hành tỷ giá một cách linh hoạt theo tình hình trong nước và quốc tế nhằm
khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu và tăng dự trữ ngoại tệ. Trong thời kỳ này
chúng ta sẽ cùng nghiên cứu các giai đoạn khác nhau tương ứng vơi sự phát triển của
kinh tế Việt Nam.
2.3.1. Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 1999
Đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam chịu những tác động mạnh mẽ của
cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Đồng Đô la lên giá mạnh so với tất cả các đồng
tiền trong khu vực Đông Nam Á. Trong tình hình đó Ngân hàng Trung ương đã tiến
hành điều chỉnh tỷ giá đồng Việt Nam: Tăng biên độ tỷ giá giao dịch lên +/-5% rồi
+/-10%, đồng thời giảm giá đồng tiền Việt Nam nhằm tạo ra một mức tỷ giá mới sát
với mức tỷ giá thực tế. Chính sách tỷ giá mới đã khiến cho đồng Việt Nam giảm giá
16% chỉ trong vòng một năm, khoảng cách giữa tỷ giá thực và tỷ giá danh nghĩa cũng
được thu hẹp. Điều này đã đem lại những tác động tích cực cho cán cân thương mại
Việt Nam: kim ngạch nhập khẩu tăng chậm, mức nhập siêu giảm xuống còn 2,4 tỷ
USD (giảm 36,8% so với năm trước). Đặc biệt trong năm 1999 mức nhập siêu chỉ còn
200 triệu USD.
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Bảng 3: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam
giai đoạn 1997 – 1999
Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Mức
tỷ giá
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Thâm
hụt
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
1996 11100 100 7255,9 100 11143,6 100 3887,7 100
1997 11175 100,7 9185 126,6 11592,3 104 2407,3 126,2
1998 12985 116,2 9360 101,9 11499,6 99,2 2139,6 122,9
1999 14004 107,85 11541.4 123,31 11742,1 102,109 200,7 101,7
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng Cục Thống Kê
Mặc dù vậy, đồng Việt Nam vẫn còn bị định giá cao so với các nước trong khu
vực, khiến cho giá hàng hoá Việt Nam tăng cao. Hàng hoá Việt Nam khó có thể cạnh
tranh được với các nước trong khu vực nên hoạt động xuất khẩu phần nào bị hạn chế
(tốc độ tăng xuất khẩu ở mức tương đối thấp: 1,9% trong năm 1998). Đồng thời việc
đồng Việt Nam bị định giá cao trong khu vực cũng khiến cho cơ cấu thị trường xuất
khẩu của Việt Nam chuyển dịch từ khối ASEAN sang thị trường châu Âu. Cuộc khủng
hoảng kinh tế khiến cho các quốc gia châu Á phải hạn chế nhập khẩu để dữ trữ ngoại
tệ cũng là một phần nguyên nhân của hiện tượng này.
Nói tóm lại, trong giai đoạn này, việc điều chỉnh tỷ giá ở Việt Nam đã mang lại
những kết quả hết sức tích cực: kiểm soát được nhập khẩu đồng thời mở ra những cơ
hội mới khi thay đổi thị trường xuất khẩu, từ đó cải thiện cán cân thương mại của Việt
Nam. Có thể nói đây là một giai đoạn thành công trong điều hành tỷ giá ở Việt Nam.
2.3.2. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2006
Giai đoạn này được đánh dấu bằng việc đồng EUR được lưu hành thống nhất
trên tất cả các quốc gia EU và trờ thành đối thủ nặng ký của USD. Trong bối cảnh này,
Việt Nam đã áp dụng cơ chế neo tỷ giá có điều chỉnh, đồng thời tỷ giá Việt Nam được
gắn với một “rổ tiền tệ” trong đó tỷ trọng của EUR được nâng lên.
Trong giai đoạn này, biên độ tỷ giá được nới rộng từ +/-0,1% lên +/-0,25% đối
với nghiệp vụ giao ngay và từ +/-0,4% lên +/0,5% đối với nghiệp vụ kì hạn ngày
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
1/7/2002. Tỷ giá nội tệ bị ép cao hơn giá trị thực khiến đồng Việt Nam bị định giá cao
hơn USD từ 10-20%.
Xuất khẩu Việt Nam thời kỳ này gặp nhiều khó khăn do không cạnh tranh được
với hàng hoá Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu tăng chậm (thấp nhất là hơn 3% năm
2001), đồng thời tốc độ tăng xuất khẩu luôn nhỏ hơn tốc độ tăng nhập khẩu, dẫn đến
tình trạng nhập siêu ở mức cao: đến tháng 10/2003, mức nhập siêu là 4,55 tỷ USD.
Bên cạnh đó, việc định giá cao đồng Việt Nam cũng dẫn đến tình trạng nhập khẩu
hàng loạt, kể cả những mặt hàng trong nước có thể sản xuất được do mức giá nhập
khẩu rẻ hơn mức giá hàng hoá trong nước.
Bảng 4: Tỷ giá hối đoái và cán cân thương mại Việt Nam
giai đoan 2000-2006
Năm
Tỷ giá chính
thức
(USD/VND)
Xuất khẩu Nhập khẩu Cán cân thương mại
Mức
tỷ giá
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Thâm
hụt
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
2000 14157 100 14483 100 15637 100 1154 100
2001 14752 104,2 15029 103,77 16218 113,72 1189 103,03
2002 15368 104,18 16706 111,16 19746 121,75 3040 255,68
2003 15608 101,56 20149 120,61 25256 127,90 5152 169,47
2004 15739 100,84 26485 131,45 31969 126,58 5484 106,44
2005 15873 100,85 32447 122,51 36761 114,99 4314 78,66
2006 16091 101,37 39826 122,74 44891 122,12 5065 117,41
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng cục Thống Kê
Tóm lại, diễn biến tỷ giá và cán cân thương mại Việt Nam giai đoạn 2000 –
2006 cho thấy ảnh hưởng của tỷ giá tới cán cân thương mại là tương đối rõ ràng, biến
động của tỷ giá và cán cân thương mại có xu hướng bám sát nhau: tỷ giá có xu hướng
tăng, trong khi cán cân thương mại giai đoạn đầu có chiều hướng tăng thâm hụt nhưng
sau đó lại được cải thiện dần. Tuy vậy nhưng trong giai đoạn này, cùng với quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam được cải thiện rõ rệt,
kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu đều tăng mạnh, góp phần không nhỏ cho quá trình
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
xây dựng và đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trên danh nghĩa Việt Nam áp đặt cơ chế tỷ
giá thả nổi có sự điều tiết của nhà nước nhưng trên thực tế đồng Việt Nam bị neo giữ
một cách cứng nhắc gây ra những tổn thất cho cán cân thương mại Việt Nam.
2.3.3. Giai đoạn từ năm 2007 đến nay
Ngày 7/11/2006, Việt Nam đã được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO). Đối với nước ta, sự kiện này có một ý nghĩa đặc biệt. Đây là kết quả của quá
trình đổi mới nhằm mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN và hội nhập kinh
tế quốc tế. Gia nhập WTO với những cơ hội và thách thức mới cho Việt Nam khi hội
nhập kinh tế quốc tế. Trước những cơ hội và thách thức đó, lựa chọn những bước đi
đúng đắn và phù hợp trong cơ chế điều hành tỷ giá là điều trăn trở của các nhà hoạch
định chính sách.
Thời gian này, chính phủ tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá theo hướng
khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tuy nhiên, trong bối cảnh đồng USD
đang giảm giá so với các ngoại tệ mạnh và các dòng vốn lớn đang vào Việt Nam làm
phức tạp thêm nỗ lực ngăn cản VND lên giá.
Bảng 5: Tỷ giá hối đoái và CCTM của Việt Nam từ năm 2007 đến nay
Năm
Tỷ giá chính thức
(USD/VND) Xuất khẩu Nhập khẩu
Cán cân thương
mại
Mức tỷ
giá
%Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Kim
ngạch
(triệu
USD)
%
Tăng,
giảm
Giá trị
(triệu
USD)
% Tăng,
giảm
2007 15738,30 100 48561 100 62765 100 -14204 100
2008 16179,00 102,8 62285 128,26 80714 128,597 -18029 126,93
2009 17490,00 108,1 57096 91,67 69949 86,66 -12853 71,29
2010 18921,30 108,18 72237 126,52 84839 121,29 -12602 98,05
2011 20229,00 106,91 96906 134,15 106750 125,83 -9844 78,11
2012 20828,00 102,96 114529 118,19 113780 106,59 749 -7,61
2013 21036,00 100,99 132200 115,43 131300 115,398 900 120,16
Nguồn: Tính toán dựa trên số liệu của Tổng Cục Thống Kê
So với cuối năm 2007, tỷ giá USD/VND năm 2008 đã tăng khoảng 9%, vượt xa
mức thay đổi quanh 1% những năm gần đây, trong khi đồng USD vẫn chiếm tỷ trọng
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
chi phối trong thanh toán quốc tế (khoảng 70%). Mức tăng vượt trội này đẩy chi phí
nhập khẩu, chi phí sản xuất kinh doanh của những ngành hàng có đầu vào lớn từ
nguyên liệu nhập khẩu, chi phí vay nợ ngoại tệ tăng cao. Đây cũng là năm nổi bật khi
trong báo cáo tài chính của nhiều doanh nghiệp chi phí của tỷ giá tăng đột biến.
Biến động khó lường của tỷ giá còn thể hiện ở sự trái chiều trong nửa đầu năm
2008 (giảm mạnh những tháng đầu năm, tăng đột biến ngay sau đó), gây xáo trộn kế
hoạch sản xuất kinh doanh của nhiều doanh nghiệp. Năm tháng đầu năm 2008, nhập
siêu đạt mức quá cao (14,4 tỷ USD), cao hơn mức nhập siêu cả năm 2007 (14 tỷ
USD). Nửa đầu năm 2008 lạm phát và nhập siêu gia tăng đã khiến nhiều người dân và
doanh nghiệp chuyển tài sản từ VND sang USD. Tỷ giá hối đoái trên thị trường tự do
có lúc đã lên đến mức 19.000 VND/USD, thậm chí 20.000VND, trong khi đó giá USD
trong các ngân hàng thương mại vẫn là trong khoảng 16.000 – 17.000 VND.
Trên thực tế, có doanh nghiệp nhập khẩu đầu tháng vay USD của ngân hàng để
nhập nguyên liệu được tính tỷ giá 16.243 đồng/USD, cuối tháng, doanh nghiệp mua
USD để trả nợ vay chỉ với tỷ giá 16.015 đồng/USD, nhờ tỷ giá giảm doanh nghiệp
được lãi. Trong khi đó, có doanh nghiệp xuất khẩu thu về 100.000 USD, nếu doanh
nghiệp thu tiền xuất khẩu trong tháng 8/2007 thì sẽ được chuyển ra VND với tỷ giá
16.245 đồng/USD, nhưng xuất khẩu tại thời điểm tháng 1/2008 thì chỉ còn 15.599
đồng/USD, doanh nghiệp sẽ thất thu 26 triệu đồng. Với sự biến động mạnh mẽ của tỷ
giá trong năm 2008 đã ảnh hưởng rất lớn đối với nền kinh tế, trước nhất là hoạt động
xuất nhập khẩu.
Năm 2009 có thể coi là năm “tiền tệ” tại Việt Nam. Tỷ giá USD/VND tăng
mạnh, nhập siêu cao, lạm phát đứng trước áp lực tăng trở lại vào năm 2010, khan hiếm
cục bộ USD, giá vàng sốt nóng, lãi suất ngân hàng lên kịch trần. Tỷ giá chính thức
giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần điều chỉnh, một lần vào tháng 3
(+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% và lần gần nhất là vào tháng 11
(+3,4%). Mặc dù sau mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ
giá trên thị trường không chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên
độ cho phép của Ngân hàng Nhà nước.Trên thực tế, điều này đã xảy ra từ đầu năm tới
nay, cho thấy thị trường ngoại hối luôn căng thẳng (theo dõi biểu đồ dưới).
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Biểu đồ 1:Diễn biến tỷ giá USD/VND 2008-2009
Biểu đồ cho thấy càng về cuối năm tỷ giá càng biến động và mất giá mạnh, thị
trường ngoại hối luôn có biểu hiện căng thẳng, đồng thời USD tín dụng thì thừa, USD
thương mại thì thiếu. Các ngân hàng không có ngoại tệ để bán cho doanh nghiệp và
nếu có bán thì mức tỷ giá cũng cao hơn mức tỷ giá trần do NHNN quy định. Những
bất ổn trên thị trường ngoại hối và tỷ giá hối đoái đã tiếp tục gây ra những khó khăn
cho hoạt động xuất nhập khẩu. Hơn nữa, đồng tiền mất giá còn ảnh hưởng đến lạm
phát trong nước do giá hàng nhập khẩu tăng mạnh.
Đến năm 2010,Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có quyết định nâng tỷ giá giữa
USD/VND thêm 2.1%, từ 18,544 lên 18,932, với biên độ được giữ nguyên ở mức +/-
3%, áp dụng từ ngày 18/08/2010.
Với sự nới rộng tỷ giá này, tỷ giá trần USD/VND có thể giao dịch sẽ tăng lên ở
mức 19,500. Đây là đợt điều chỉnh thứ 2 trong năm 2010 và là đợt thứ 3 kể từ ngày
25/11/2009 NHNN điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng.
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Biểu đồ 2: Biến động tỷ giá USD/VND trên thị trường năm 2009-2010
Mặc dù tỷ giá USD/VND vẫn tăng cao nhưng Việt Nam vẫn trong tình trạng
nhập siêu còn khá lớn. Mặc dù theo lý thuyết, tỷ giá USD/VND tăng (USD lên giá còn
VND giảm giá) sẽ thúc đẩy hoạt động xuất khẩu gia tăng, hạn chế nhập khẩu. Nhưng
trên thực tế khi tỷ giá USD/VND tăng, không những xuất khẩu tăng mà nhập khẩu
cũng tăng, đáng chú ý mức tăng của nhập khẩu mạnh hơn mức tăng của xuất khẩu,
nghĩa là cán cân thương mại vẫn thâm hụt. Đó là do ở Việt Nam có sự phụ thuộc quá
cao giữa xuất khẩu và nhập khẩu. Chính vì có sự phụ thuộc quá nhiều của xuất khẩu
vào nhập khẩu nên khi tỷ giá tăng xuất khẩu tăng thì nhập khẩu cũng tăng theo và tăng
nhiều hơn mức tăng của xuất khẩu, điều này lý giải tại sao cán cân thương mại vẫn
thâm hụt mặc dù xuất khẩu có gia tăng khi VND giảm giá.
Bước sang năm 2011, là một năm tương đối thành công của chính sách quản lý
ngoại hối với tỷ giá diễn biến tương đối ổn định, giá vàng trong nước tuy vẫn tiếp tục
tăng nóng nhưng đã bám sát hơn với giá vàng thế giới. Ngay từ đầu năm 2011, Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) đã điều chỉnh mạnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng với
quyết định số 230/2011/QĐ-NHNN ngày 11/2/2011: tỷ giá USD/VND tăng (giảm giá
VND) 9,3% từ 18.932 lên 20.693 VND/USD; biên độ giao dịch giảm từ +/-3% xuống
+/-1%. Mức tỷ giá mới phản ánh sát hơn cung – cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối.
Nhờ đó, tỷ giá thực hiệu quả REER tiến sát với trục gốc 100% và tỷ giá trên thị trường
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
tự do giảm nhiệt, chênh lệch thu hẹp dần từ 1.500VND/ 1USD thời điểm đầu năm
xuống còn 500VND/1USD vào tuần đầu tháng 3/2011. Do vậy mà cán cân thương mại
năm 2011 được cải thiện hơn đáng kể so với năm 2010, cán cân thương mại từ mức
thâm hụt 12.602 triệu USD giảm xuống còn 9.844 triệu USD.
Mặc dù kinh tế thế giới năm 2012 vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp, thị trường tài
chính toàn cầu vẫn tiềm ẩn rủi ro do khủng hoảng nợ công khu vực đồng tiền chung
Châu Âu chưa được giải quyết, nhiều ngân hàng trong khu vực Châu Âu bị hạ bậc tín
nhiệm; kinh tế Việt Nam đang phải đối mặt với rủi ro tăng trưởng kinh tế chậm lại,
hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn... nhưng về
cơ bản, diễn biến thị trường ngoại hối trong và ngoài nước không có nhiều biến động.
Tỷ giá hối đoái đã giữ được ổn định, sau thời kỳ điều chỉnh mạnh mấy năm trước đó,
thậm chí điều chỉnh quá mạnh đầu năm 2011. Kiều hối tăng mạnh (lên tới 9 tỷ USD
trong 9 tháng và cả năm khoảng 11-12 tỷ USD), tạo điều kiện để NHNN mua được số
lượng lớn ngoại tệ. Trên cơ sở ổn định tỷ giá, Việt Nam cũng đã tăng cường được
nguồn dự trữ ngoại tệ một cách ổn định: dự trữ ngoại tệ năm 2012 đã đạt 23 tỷ USD,
đạt mức cao nhất trong ba năm qua. Xuất khẩu cũng được tăng trưởng mạnh. Trong
những tháng đầu năm 2012, nhập siêu của cả nước có thể nói là rất thấp, có một vài
tháng Việt Nam đã cân bằng được cán cân thương mại. Điển hình nhất là trong 2 tháng
liên tiếp 6 và 7, Việt nam đã xuất siêu (tháng 6 xuất siêu 360 triệu USD, tháng 7 là 579
triệu USD). Tính đến cuối năm 2012, Việt Nam đạt mức thặng dư thương mại 749
triệu USD.
Bước sang năm 2013, trên cơ sở bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, NHNN tiếp
tục cam kết điều hành giữ biến động tỷ giá khoảng 2-3% trong cả năm. Để thực hiện
cam kết này, công tác điều hành tỷ giá tiếp tục được thực hiện linh hoạt kết hợp với
hoạt động mua bán của NHNN. Để phù hợp với tình hình lãi suất, duy trì ổn định thị
trường ngoại hối, ngày 28/6/2013, NHNN đã điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân
hàng từ mức 20.828 VND/USD tăng 1% lên mức 21.036 VND/USD; đồng thời thực
hiện một loạt các giải pháp hỗ trợ khác, trong đó có việc quy định lãi suất tối đa áp
dụng đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 6 tháng với mức trần là
7%/năm; điều chỉnh giảm lãi suất tối đa đối với tiền gửi bằng USD của tổ chức từ
2%/năm xuống 0,25%/năm, cá nhân từ 2%/năm xuống 1,25%/năm tại các tổ chức tín
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
dụng để hỗ trợ duy trì chênh lệch lợi tức giữa việc nắm giữ VND và USD nhằm đảm
bảo việc điều chỉnh tỷ giá không gây biến động trên thị trường. Nhờ vậy, tỷ giá và thị
trường ngoại hối năm 2013 vẫn duy trì được ổn định, NHNN tiếp tục thực hiện mua
ngoại tệ để tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Nhờ vậy mà cán cân thương mại Việt
Nam năm 2013 tiếp tục duy trì thặng dư của năm 2012, ước tính cán cân thương mại
thặng dư 900 triệu USD.
Cán cân thương mại chuyển sang xuất siêu không chỉ thể hiện sự chuyển đổi về
vị thế của Việt Nam trong quan hệ buôn bán với nước ngoài mà còn góp phần quan
trọng cải thiện cán cân thanh toán tổng thể, tăng khả năng dự trữ ngoại hối, góp phần
ổn định tỷ giá giữa ngoại tệ và VND. Xuất siêu cũng có nghĩa là hoạt động xuất khẩu
hàng hóa được gia tăng, trong bối cảnh nền kinh tế trong nước còn khó khăn, thị
trường vẫn chưa khởi sắc, tỷ lệ hàng tồn kho của doanh nghiệp còn khá cao. Đây thực
sự là tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, đánh giá ở góc độ khác là xuất siêu đạt được
trong bối cảnh hiện tại rất có thể còn do nền kinh tế vẫn khó khăn, nhu cầu đầu tư sản
xuất, kinh doanh của doanh nghiệp và tiêu dùng của thị trường còn hạn chế kéo theo
nhu cầu nhập khẩu nguyên liệu, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất và hàng tiêu dùng
giảm.
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ
CỦA CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI NHẰM CẢI THIỆN
CÁN CÂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.1. Mục tiêu cải thiện cán cân thương mại của Việt Nam tới năm 2020
Việt Nam vẫn đang trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá, trình độ phát
triển kinh tế còn chưa cao, cơ cấu sản xuất của nền kinh tế vẫn còn thiên về các mặt
hàng thô, chế biến với giá trị không cao, vì vậy chưa thể xoá bỏ được ngay tình trạng
nhập siêu. Mức nhập siêu cao hay thấp còn tuỳ thuộc kết quả thực hiện các chính sách
đẩy mạnh xuất khẩu và sử dụng hợp lý các nguồn vốn nhập khẩu. Theo đề nghị của Bộ
Công Thương, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày
25/7/2012 về Chương trình hành động thực hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa
thời kỳ 2011- 2020, định hướng đến năm 2030. Chương trình hành động thực hiện
Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 - 2020, định hướng đến năm 2030
(gọi tắt là Chương trình hành động) nhằm cụ thể hóa những nhiệm vụ và giải pháp chủ
yếu đã được nêu tại Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011 của Thủ
tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ
2011 - 2020, định hướng đến năm 2030, hướng tới các mục tiêu:
Tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa bình quân 11% - 12%/năm trong thời kỳ 2011
-2020.
Tăng trưởng nhập khẩu hàng hóa bình quân tăng 10% - 11%/năm trong thời kỳ
2011 -2020.
Giảm dần thâm hụt thương mại, kiểm soát nhập siêu khoảng 10% kim ngạch
xuất khẩu vào năm 2015 và tiến tới cân bằng cán cân thương mại vào năm 2020. Phấn
đấu cán cân thương mại thặng dư thời kỳ 2021 - 2030.
Để đạt được những mục tiêu trên, các quan điểm chủ đạo về phát triển xuất
khẩu trong giai đoạn 2006-2015 cần được quán triệt thực hiện:
Tiếp tục kiên trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để tăng kim ngạch
xuất khẩu nhằm thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động;
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Gắn kết thị trường trong nước với thị trường ngoài nước; gắn thị trường với sản
xuất; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa quan tâm mở rộng thị trường xuất
khẩu;
Giữ vững các thị trường lớn, trọng điểm, đồng thời đa dạng hoá hơn nữa thị
trường xuất khẩu để tránh lệ thuộc, rủi ro trong xuất khẩu;
Khuyến khích, tạo điều kiện và khai thác tối đa tiềm năng của mọi thành phần
kinh tế trong hoạt động xuất nhập khẩu nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp.
Từ khi gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO) tới nay, tỷ trọng xuất nhập
khẩu hàng hoá của Việt Nam biến đổi tương đối nhiều, do sự mở rộng sản xuất và đầu
tư ồ ạt từ nguồn vốn nước ngoài làm tăng tỷ trọng nhập khẩu máy móc nguyên nhiên
liệu đầu vào nhưng từ đó cũng là cho xuất khẩu tăng cao và có những dấu hiệu tích
cực. Nhìn chung bức tranh xuất nhập khẩu của Việt Nam trong thời gian tới sẽ có nhiều
biến động lớn do tình hình kinh tế ngày càng biến động mạnh mẽ, những diễn biến của
khủng hoảng kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến hầu hết các quốc gia. Là một nền kinh tế
mở và đang phát triển, Việt Nam luôn mong mong muốn cải thiện cán cân thương mại sao
cho hạn chế được tối đa tình hình thâm hụt thương mại trong nhiều năm, tuy nhiên điều
này không phải là dễ dàng khi kinh tế thế giới đang tăng trưởng tương đối chậm, sự đầu tư
và mở rộng sản xuất sẽ không thể mạnh mẽ và ồ ạt như trước. Vì thế Việt Nam nên có
những điều chỉnh chính sách kinh tế vĩ mô sao cho đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế
đã đề ra đồng thời khắc phục được vấn đề thâm hụt cán cân thương mại, đưa nó về trạng
thái cân bằng.
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của chính sách tỷ giá hối đoái
nhằm cải thiện cán cân thương mại Việt Nam
3.2.1. Biện pháp nhằm tăng cường hiệu quả chính sách điều hành tỷ giá
Nếu Việt Nam muốn tập trung vào mục tiêu tăng trưởng bền vững có nghĩa là
Việt Nam phải tiếp tục điều chỉnh chính sách tỷ giá trên cơ sở khuyến khích xuất khẩu,
lấy sự tăng trưởng của xuất khẩu làm một trong những động lực quan trọng thúc đẩy
quá trình tăng trưởng. Chính sách tỷ giá hối đoái khuyến khích xuất khẩu là phải duy
trì tỷ giá hối đoái sao cho những người cung cấp hàng hoá - dịch vụ trong nước có lãi
khi bán sản phẩm của họ trên thị trường thế giới. Điều này đòi hỏi tỷ giá hối đoái danh
nghĩa phải đựơc điều chỉnh để giữ nguyên hoặc làm tăng sức cạnh tranh của hàng hoá -
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
dịch vụ Việt Nam trên thị trường quốc tế. Thực hiện chính sách tỷ giá hối đoái thúc
đẩy xuất khẩu nghĩa là Ngân hàng nhà nước Việt Nam phải luôn điều chỉnh tỷ giá hối
đoái danh nghĩa phản ánh được những chênh lệch giữa tỷ lệ lạm phát trong nước và
thế giới. Đầu tư là một hoạt động gắn liền với những quyết dịnh dài hạn. Đầu tư cho
xuất khẩu chỉ thực sự được khuyến khích khi chính sách tỷ giá hối đoái có lợi cho sản
xuất xuất khẩu được cam kết duy trì dài hạn. Sản xuất cho thị trường thế giới thường
chịu sức ép cạnh tranh mạnh hơn và rủi ro cũng nhiều hơn. Vì vậy, ưu tiên cho xuất
khẩu đòi hỏi phải được nhà nước hỗ trợ về nhiều phương diện đặc biệt là trong giai
đoạn đầu khi nhà xuất khẩu mới ra nhập thị trường thế giới.
Nhiệm vụ của chính sách tỷ giá hối đoái là phải được điều chỉnh để góp phần
đảm bảo lợi ích cho các nhà sản xuất xuất khẩu. Sau nữa, chính sách tỷ giá khuyến
khích xuất khẩu phải đảm bảo nâng cao đựơc hiệu quả của hoạt động xuất khẩu. Hoạt
động xuất khẩu chỉ mang lại hiệu quả cao nhất cho nền kinh tế khi nó cho phép khai
thác tốt nhất những lợi thế so sánh của đất nước. Về nguyên tắc, hiệu quả thu được từ
xuất khẩu sẽ càng cao nếu chúng ta xuất khẩu được những ngành hàng mà sản xuất
dựa trên sự khai thác, thu hút và sử dụng nhiều nhất những yếu tố sản xuất tương đối
dồi dào ở trong nước. Là một nước mà nguồn lực vốn tương đối khan hiếm còn nguồn
lực lao động thì tương đối có sẵn thì giá của nguồn lực vốn phải đắt hơn tương đối so
với gía của nguồn lực lao động (tiền lương). Chính tín hiệu giá cả sẽ có những hướng
dẫn đúng và ảnh hưởng tích cực đến việc lựa chọn công nghệ và cơ cấu sản xuất. Như
vậy, chính sách tỷ giá có lợi cho xuất khẩu không đơn giản là mức tỷ giá hối đoái vừa
đủ khuyến khích một vài ngành xuất khẩu riêng biệt có thuận lợi đặc biệt nhưng lại ít
có những mối liên hệ trở lại đối với các khu vực khác nhau trong nền kinh tế. Tỷ giá
cần phải duy trì có lợi trước hết cho những ngành xuất khẩu mà quá trình sản xuất có
khả năng thu hút và sử dụng nhiều nhất các nguồn lực khá dồi dào và có lợi thế so
sánh lâu dài của đất nước.
Vì vậy, việc tiến tới xác lập một tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam có tính chất
cạnh tranh hiện nay là một điều cần thiết, hợp lý và không thể khác nhằm thúc đẩy
xuất khẩu, hạn chế sự tràn ngập của những hàng hoá nhập khẩu rẻ tiền, khuyến khích
việc lập kế hoạch và kiểm soát tài chính hợp lý cho mọi khoản vay nước ngoài, sao
cho nguồn lực quý hiếm và đắt giá này được sử dụng tiết kiệm và hiệu quả
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Thực tiễn phát triển và lựa chọn, điều hành chính sách tỷ giá hối đoái của nhiều
nước trong gần 30 năm qua khẳng định không có chính sách tỷ giá nào hiện nay đựơc
xem là có ưu thế tuyệt đối. Mỗi loại chính sách tỷ giá hối đoái đều có những điểm
mạnh điểm yếu nhất định. Nhưng kinh nghiệm của các nước cho thấy: một chính sách
tỷ giá hối đoái được sử dụng uyển chuyển phù hợp với điều kiện từng giai đoạn sẽ có
nhiều tác động tích cực đến quá trình tăng trưởng phát triển.
Xét trên nhiều góc độ khác nhau, việc xử lý chính sách tỷ giá hối đoái của Việt
Nam trong thời gian gần đây là tương đối hợp lý và do đó đã có những đóng góp tích
cực vào quá trình tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng việc điều chỉnh tỷ
giá hối đoái trong thời gian qua nhiều lúc còn chậm, bị động và chưa đúng mức. Trong
điều kiện nền kinh tế mới mở cửa từng phần, những hạn chế này phần nào đã không
đựơc bộc lộ và gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Nhưng nếu tiếp tục để điều này
xảy ra trong tương lai, khi Việt Nam đã mở cửa và hội nhập mạnh hơn thì hậu quả của
một chính sách tỷ giá kém linh hoạt sẽ có nguy cơ lấn át những tác động tích cực mà
một chính sách tỷ giá cố định tương đối tạo ra.
Với nền kinh tế ngày một hội nhập mạnh hơn và yêu cầu phải điều chỉnh lại cơ
cấu xuất nhập khẩu sang những hàng hoá dịch vụ có độ co giãn lớn hơn trong tương lai
(hàng hoá có chi phí kĩ thuật và chất xám ngày càng cao) tôi cho rằng Việt Nam cần
phải tiếp tục có một chính sách tỷ giá hối đoái được lựa chọn và điều chỉnh linh hoạt
hơn. Kinh nghiệm của các nước đã vấp phải cú sốc và khủng hoảng chỉ ra một chính
sách tỷ giá được xử lý linh hoạt sẽ có khả năng giảm sốc cho nền kinh tế tốt hơn là một
chính sách tỷ giá điều hành một cách cứng nhắc. Một chính sách tỷ giá hối đoái linh
hoạt hơn trong thời gian tới đối với Việt Nam được thể hiện cả trong cách lựa chọn xác
định và điều chỉnh tỷ giá. Trên thực tế, lịch sử phát triển của các chế độ tỷ giá hối đoái
cũng đã khẳng định ngay trong chế độ tỷ giá có tính cố định gần như tuyệt đối thì tỷ
giá vẫn phải được điều chỉnh, khi mà những điều kiện xác định tỷ giá thay đổi. Trong
điều kiện biến đổi nhanh và liên tục của nền kinh tế hiện đại, vấn đề điều chỉnh tỷ giá
hối đoái lại càng là một hiện tượng tất yếu hơn. Tính linh hoạt trong việc xác định tỷ
giá hàm ý rằng tỷ giá được xác định phải phản ánh được những thay đổi của các nhân
tố tác động đến giá cả trong ngắn hạn và dài hạn. Trong đó, phải đặc biệt chú ý đến các
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
nhân tố có tính rất nhạy cảm đối với tỷ giá hối đoái như là nhân tố lãi suất và những dự
kiến về tỷ giá.
3.2.2. Các biện pháp liên quan đến nhập khẩu
Các biện pháp liên quan đến hạn chế nhập khẩu chính là việc tạo lập lên những
hàng rào thuế quan và phi thuế quan nhằm ngăn chặn hàng hoá nước ngoài đưa vào thị
trường nội địa một cách ồ ạt. Tuy nhiên chính sách này không thể áp dụng lâu dài vì
hiện nay chủ trương của nước ta là hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế
giới, nên chủ trương bảo hộ hàng hoá trong nước chính là tự cô lập nền kinh tế của
nước mình.
Vì vậy, việc hạn chế nhập khẩu sẽ mang lại những tác động không tích cực đối
với nền kinh tế Việt Nam. Tuy nếu dỡ bỏ hoàn toàn và ngay lập tức các hàng rào thuế
quan hoặc các biện pháp phi thuế quan sẽ gây ra các cú sốc thương mại cho các doanh
nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp này
có thể sẽ có khả năng bị phá sản, ảnh hưởng tới tình hình kinh tế và xã hội của Việt
Nam; nhưng nếu không dỡ bỏ ta sẽ tự siết chặt quan hệ thương mại của mình với các
quốc gia. Việc cần làm là phải có những bước đi thích hợp nhằm xoá bỏ dần dần
những hàng rào đó, chuyển từ việc bảo hộ các ngành sản xuất bằng những hàng rào đó
sang giúp hướng dẫn các doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh.
Tuy nhiên, với một nền kinh tế đang phát triển như nước ta, những mặt hàng
sản xuất xuất khẩu chủ yếu là mặt hàng chế biến hoặc những sản phẩm thô, do vậy ta
cần phải nhập khẩu máy móc, thiết bị nguyên liệu để trợ giúp cho các sản phẩm xuất
khẩu. Nếu như chúng ta hạn chế nhập khẩu thì có nghĩa là chúng ta cũng hạn chế xuất
khẩu, như vậy tương đương với việc nền kinh tế của ta đang bị khủng hoảng và phải
thu hẹp sản xuất. Do đó không nên lạm dụng quá nhiều công cụ hạn chế nhập khẩu.
Nếu như thâm hụt thương mại quá nhiều (tức là nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu) và
liên tục mà nền kinh tế không có dấu hiệu tăng trưởng thì điều đó mới đáng lo ngại,
còn nếu nhập khẩu để giúp thúc đẩy sản xuất, tăng trưởng kinh tế thì có thể nhập khẩu
không phải là dấu hiệu nền kinh tế đi xuống.
3.2.3. Các biện pháp khuyến khích xuất khẩu
Trong tình hình xu hướng tự do hoá trong kinh tế ngày càng gia tăng và trở
thành một xu thế tất yếu mà tất cả các quốc gia vì quyền lợi của mình đều phải tham
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
gia, các biện pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hướng ra thị trường thế giới đang ngày
càng trở nên quan trọng và là những biện pháp thiết thực và hiệu quả nhất để cải thiện
thâm hụt cán cân thương mại đồng thời thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Lợi ích
quan trọng của việc tham gia hội nhập là thúc đẩy xuất khẩu để loại bỏ được các hạn
chế về số lượng và thuế quan đối với hàng xuất khẩu. Để khai thác được cơ hội này,
Việt Nam cần có một chiến lược phát triển theo hướng một mặt mở rộng thị trường
xuất khẩu, mặt khác xây dựng và phát triển cơ sở sản xuất xuất khẩu. Việc mở rộng thị
trường xuất khẩu phải hướng vào các thị trường có dung lượng thị trường lớn như
châu Âu và Mĩ. Việc phát triển cơ sở xuất khẩu theo hướng lựa chọn các ngành hàng,
mặt hàng mà Việt Nam có lợi thế so sánh, đầu tư phát triển công nghệ chế biến. Nhà
nước cần áp dụng một loạt các chính sách nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của
hàng hoá.
Như đã trình bày ở trên hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam chưa có những sản
phẩm mang hàm lượng chất xám và những sản phẩm yêu cầu khoa học kỹ thuật cao,
chủ yếu là hàng sơ chế; khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường
thế giới còn thấp, các nhà sản xuất xuất khẩu chưa bám sát thị trường để biết thị
trường cần gì để có thể đáp ứng và nâng cao sức cạnh tranh của mình. Dựa trên những
thiếu khuyết trong sản xuất xuất khẩu trên, tôi xin đưa ra một vài khuyến nghị nhằm
đẩy nhanh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong những năm tới:
Trước hết, để hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc đưa các mặt hàng mới ra thị
trường quốc tế hay thâm nhập vào các thị trường mới, cần phải cải tiến việc chi hỗ trợ
phát triển thị trường và xúc tiến thương mại. Nhà nước cũng cần tập trung hỗ trợ vào
những doanh nghiệp và những ngành hàng mới có tiềm năng phát triển chứ không nên
san đều cho các doanh nghiệp, sẽ rất tốn kém mà không hiệu quả.
Các doanh nghiệp cũng cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hoá xuất
khẩu của mình bằng cách: Tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới công nghệ để điều chỉnh
hợp lý cơ cấu hàng hoá xuất khẩu theo hướng nâng cao tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu
qua chế biến có giá trị gia tăng cao trong tổng kim ngach xuất khẩu, giảm tỷ trọng
hàng xuất khẩu là các sản phẩm khoáng sản và nông sản thô ở dạng sơ chế, tạo cơ sở
vững chắc cho việc gia tăng hàng xuất khẩu. Nới lỏng dần các biện pháp bảo hộ sản
xuất trong nước buộc các doanh nghiệp trong nước phải vươn lên trong cạnh tranh với
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
hàng hoá trong nước. Nâng cao chất lượng và mẫu mã sản phẩm đi đôi với giảm chi
phí đầu vào và hạ giá thành sản phẩm. Đồng thời đẩy mạnh liên doanh với nước ngoài
trong việc sản xuất và xuất khẩu sản phẩm.
3.2.4. Phối hợp đồng bộ các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm tăng cường hiệu quả
của chính sách tỷ giá.
Trong điều kiện hiện nay của Việt Nam, việc tiếp tục thúc đẩy mạnh thu hút
đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng việc làm, đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát lạm
phát để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao là một trong những mục tiêu được ưu
tiên hàng đầu. Việc thực hiện những mục tiêu này đều có liên quan chặt chẽ đến chính
sách tỷ giá hối đoái. Và việc lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái như thế nào sẽ có
những tác động trái ngược đến các mục tiêu trên, do đó có ảnh hưởng rất khác nhau
đến mục tiêu cuối cùng là chiến lược tăng trưởng bền vững. Điều này hàm ý rằng nội
dung của chính sách tỷ giá hối đoái trong dài hạn phụ thuộc vào chiến lược phát triển của
nền kinh tế. Và chiến lược phát triển kinh tế đến lượt nó lại phụ thuộc vào sự lựa chọn mô
hình cho sự phát triển.
Nền kinh tế chuyển đổi theo hướng mở rộng hơn khiến cho chính sách tỷ giá
của Việt Nam cũng được chuyển đổi theo để thích ứng với cơ chế và những điều kiện
kinh tế mới. Việt Nam đã có những thành công trong việc điều hành chính sách tỷ gía
góp phần chống lạm phát, đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng quan hệ kinh
tế đối ngoại, ổn định và tăng trưởng nhanh nền kinh tế… Để đạt được hiệu quả cao
như vậy chính sách tỷ giá phải dựa trên việc phối hợp đồng bộ với các chính sách kinh
tế vĩ mô theo nguyên tắc:
Chính sách tỷ giá có quan hệ chặt chẽ với chính sách tài chính tiền tệ của một
quốc gia. Vì vậy, nó chỉ có thể đạt được hiệu quả khi được phối hợp chặt chẽ với chính
sách tài chính - tiền tệ trong từng giai đoạn.
Chính sách tỷ giá có quan hệ trực tiếp với khía cạnh đối ngoại của chính sách
tài chính - tiền tệ quốc gia và có ảnh hưởng trực tiếp đến những cân đối bên ngoài nền
kinh tế. Vì vậy sự lựa chọn chính sách tỷ giá hối đoái phải ưu tiên trước hết cho việc
thiết lập và duy trì các mối cân bằng ngoại để tạo thêm những điều kiện cho sự hình
thành các mối cân bằng bên trong nền kinh tế.
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
Sự lựa chọn chính sách tỷ giá hiện nay của Việt Nam phải đảm bảo có khả năng
giảm sóc cho nền kinh tế trước các cú sốc bên ngoài cả trên thị trường sản phẩm và
trên thị trường tài chính tiền tệ. Một trong những nguyên nhân quan trọng đẩy nền
kinh tế nhiều nước rơi vào suy thoái và khủng hoảng trong những thập kỷ gần đây là
đã lựa chọn một chính sách tỷ giá không có khả năng che chắn cho nền kinh tế trước
các cú sốc.
Mục tiêu của chính sách tỷ giá và các chính sách kinh tế khác, trong đó phải
tính đến mục tiêu của chính sách tiền tệ, trong ngắn hạn thường có sự mâu thuẫn với
nhau. Vì vậy, một sự phối hợp vừa chặt chẽ vừa linh hoạt trong điều hành chính sách
có thể đem lại hiệu quả cao hơn cho chính sách tỷ giá và giảm thiểu được những hậu
quả rủi ro đối với nền kinh tế mà nó có thể gây ra.
Tỷ giá có tác động trực tiếp đến ngoại thương. Do đó, việc điều chỉnh tỷ giá hối
đoái phải đảm bảo không kìm hãm sự phát triển của xuất khẩu, hướng tới giảm thâm
hụt cán cân thương mại, khi chúng ta lựa chọn mô hình cho sự phát triển là hướng vào
xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế. Tiến tới, chính sách tỷ giá hối đoái phải được
điều chỉnh để góp phần thay đổi cơ cấu xuất nhập khẩu sao cho có thể khai thác tốt
nhất những lợi thế của đất nước và quốc tế.
Việc lựa chọn chính sách tỷ giá thả nổi có quản lý đòi hỏi hàm lượng của các
yếu tố thị trường như: quan hệ cung cầu về ngoại hối, sở thích của người tiêu dùng,
lạm phát, lợi tức của các tài sản nội ngoại tệ… phản ánh trong tỷ giá càng cao thì khả
năng có một chính sách tỷ giá có hiệu quả cao và chống đỡ được với các cú sốc đối với
nền kinh tế càng lớn.
Việc lựa chọn và điều hành chính sách tỷ gái phải hướng tới dần dần nâng cao
uy tín của VND trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại của nó. Đồng thời từng
bước tiến tới xây dựng VND có khả năng chuyển đổi rộng rãi trong thương mại và
thanh toán quốc tế.
Mỗi chính sách tỷ giá và cách điều hành tỷ giá chỉ đúng và phù hợp với những
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể ở từng giai đoạn. Vì vậy, việc lựa chọn và điều hành chính
sách tỷ giá phải thay đổi khi điều kiện và hoàn cảnh thay đổi. Và cần phải có sự nắm
bắt về những dự kiến trong tương lai, nhân tố có ảnh hưởng mạnh đến sự biến động
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
của tỷ giá hối đoái để có những biện pháp điều chỉnh kịp thời mà vẫn tạo ra sự ổn
định tương đối cho tỷ giá hối đoái.
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
KẾT LUẬN
Nghiên cứu về chính sách tỷ giá và tác động của tỷ giá tới cán cân thương mại
của Việt Nam thời gian qua cho ta thấy được sự biến động của tỷ giá hối đoái có quan
hệ mật thiết với kết quả của nền kinh tế vĩ mô. Đây là một biến số quan trọng ảnh hưởng
đến sự cạnh tranh của hàng hoá ngoại thương và những biến số khác trong nền kinh tế.
Sự thay đổi trong cán cân thương mại do biến động của tỷ giá là một vấn đề quan trọng
và cơ bản trong chính sách kinh tế vĩ mô. Có hai lý do cho vấn đề này đó là: Thứ nhất là
những nhà hoạch định chính sách thường quan tâm đến việc ở mức độ nào thì cán cân
thương mại là tối ưu cho một nước; thứ hai là sự biến động của cán cân thương mại ảnh
hưởng trực tiếp đến thu nhập quốc dân trong ngắn hạn, vì vậy, nghiên cứu tác động của
tỷ giá hối đoái đến cán cân thương mại giúp cho việc hoạch định mục tiêu của thu nhập
quốc dân.
Kinh nghiệm thực tế cũng khẳng định chính sách tỷ giá phù hợp với nền kinh tế
mở cửa và hội nhập rộng rãi là một chính sách tỷ giá hối đoái có cơ chế điều chỉnh linh
hoạt và có khả năng ứng phó được với những cú sốc từ bên ngoài. Nhưng một chính
sách tỷ giá hối đoái thích ứng với những tác động của nhân tố bên ngoài như vậy cũng
có nghĩa là làm tăng những dao động trong tỷ giá hối đoái và làm tăng rủi ro cho các
dòng vốn đầu tư vào Việt Nam, mà rủi ro luôn là biến số nhạy cảm nhất có tác động
tiêu cực tới các nhà đầu tư. Việc thực hiện chính sách tỷ giá là quyền lựa chọn của mỗi
quốc gia tuỳ thuộc vào tình hình kinh tế của từng nước, vào từng giai đoạn phát triển
kinh tế và diễn biến kinh tế thế giới và khu vực. Về mặt lý thuyết cũng như thực tế,
không có chính sách tỷ giá chung duy nhất, có hiệu quả cho mọi quốc gia. Vấn đề là ở
chỗ, sự lựa chọn chính sách tỷ giá phù hợp được thể hiện ở sự tăng trưởng kinh tế,
thương mại và đầu tư, nghĩa là các chỉ số kinh tế được cải thiện thường xuyên và có hệ
thống.
Tôi hy vọng đề tài nghiên cứu này sẽ là tài liệu hưu ich giup cac nhà hoach đinh
chinh sach thưc hiên tôt hơn nưa trong sư điều chỉnh chính sách tỷ giá nhằm cải thiện
cán cân thương mại Việt Nam và hướng tới mục tiêu cân bằng cán cân thương mại .
Ngoài ra, tác giả cũng mong muốn đây sẽ là tài liệu tham khảo có ích cho các bạn sinh
viên trong quá trình nghiên cứu và học tập.
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ VÀ TÁC ĐỘNG CỦA TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI TỚI CÁN CÂN THƯƠNG MẠI
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ 1986 ĐẾN 2013
TAI LIÊU THAM KHAO
1.GS.TS. Nguyễn Văn Tiến (2009), Giáo trình Tài chính quốc tế, nhà xuất bản
Thống kê.
2.PGS. TS. Nguyên Văn Công (2012), Giao trinh nguyên lý kinh tế vĩ mô, nhà
xuât ban Lao đông.
3. David Begg, Stanley Fischer, Rudiger Dornbusch (2012), Kinh tế hoc vĩ mô,
nhà xuât ban Thông kê.
4. Quyết định số 950/QĐ-TTg ngày 25/7/2012 về Chương trình hành động thực
hiện Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011- 2020.
5. Quyết định số 2471/QĐ-TTg ngày 28 tháng 12 năm 2011 của Thủ tướng Chính
phủ về việc phê duyệt Chiến lược xuất nhập khẩu hàng hóa thời kỳ 2011 –
2020.
6. Website của Ngân hàng nhà nước:
7. Website của Tổng cục Thống kê: .
Ledong.bn@gmail.com
Lê Thị Đông - FTU
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chinh_sach_ty_gia_va_tac_dong_cua_ty_gia_hoi_doai_toi_can_can_thuong_mai_viet_nam_giai_doan_tu_1989_den_2013_6137.pdf