Chương 11 Thuyết tương tác biểu trưng
Trong số các lý thuyết xã hội học hiện đại,thuyết
tương tác biểu trưng đã góp phần trả lời trực tiếp câu
hỏi về bản chất mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Thuyết này cho rằng xã hội được tạo nên từ các mối
tương tác xã hội giữa các cá nhân. Do vậycầnphảitập
trung nghiêncứu ýnghĩabiểutrưng vàýnghĩachủ
quanmàconngườigánchocácmốitương tác tạo nên
xãh ộicủa conngườivàtìmhiểusựảnhảnhhưởngcủa
mối tương tác biểu trưng đó đối với cá nhân.
18 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6142 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chương 11 Thuyết tương tác biểu trưng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 11
THUYẾT TƯƠNG TÁC BIỂU
TRƯNG
Nhóm: Hoàng Bích Diệp/ Mã SV: 08030120
Hồ Thu Phương/ Mã SV: 08030925
PHẦN 2
LÝ THUYẾT “TÔI SOI GƯƠNG” CỦA CHARLES COOLEY
1.Giới thiệu chung về lý thuyết tương tác biểu trưng:
Các đại biểu chính của thuyết tương tác biểu
trưng bao gồm Charles Cooley (1864-1929), George
Herbert (1863-1931), Meat Herbert Blumer (1900-
1987), Erving Goffman (1922-1982).
Thuyết tương tác biểu trưng cho rằng xã hội
được tạo thành từ sự tương tác của vô số cá nhân, bất
kỳ hành vi và cử chỉ nào của con người đều có vô số
các ý nghĩa khác nhau, hành vi và hoạt động của con
người không những phụ thuộc mà còn thay đổi cùng
với các ý nghĩa biểu trưng. Do đó, để hiểu được tương
tác xã hội giữa các cá nhân, giữa con người với xã hội,
cần phải nghiên cứu tương tác xã hội, cần phải lý giải
được ý nghĩa của các biểu hiện của mối tương tác đó.
Nguồn gốc của thuyết tương tác biểu trưng là các quan
niệm xã hội học của Max Weber, George Simmel, Robert Park
và một số trường phái Triết học. Sinh vật học và các lý thuyết
Tâm vật lý học ý thức, Tâm lý học hành vi và Tâm lý học xã hội.
Với tư cách là một viễn tượng xã hội học riêng biệt,
thuyết tương tác biểu trưng nổi lên từ truyền thống triết học
dụng hành Mỹ. Cách tiếp cận này được xây dựng vào cuối thế
kỷ 19 đầu thế kỷ 20 trong các bài viết của Charles S. Pierce,
William James và John Dewey (1859-1925). Các nhà tư tưởng
này đã thách thức thế giới quan cơ học và những giả định nhị
nguyên của thuyết duy lý cổ điển, vốn là triết học đã ngự trị tư
tưởng Tây phương từ thế kỷ 17.
(Bryan S. Turner (general editor). 2006. The Cambridge Dictionary of
Sociology. New York: Cambridge University Press, pp. 619-621.)
2. Giới thiệu chung về Charles Cooley:
Charles Horton
Cooley (1864-1929) nhà xã
hội học Mỹ nổi tiếng về lý
thuyết cái tôi nhìn trong
gương hay “tôi soi gương”
và khái niệm nhóm nguyên
thủy, giáo sư trường đại học
tổng hợp Michigan, là một
trong những người có công
đầu xây dựng trường phái
tương tác biểu trưng.
3.Giới thiệu chung về lý thuyết “Tôi soi gương”
Các lý thuyết “Tôi soi gương” là khái niệm
tâm lý xã hội tạo bởi Chharles Cooley năm 1902, nói
rằng một con người tự phát triển trong tương tác với
các cá nhân khác trong xã hội và nhận thức của
người khác. Thuật ngữ này dùng để chỉ những ngươi
định hình bản thân sựa trên nhận thức của người
khác. Người đó dựa vào những gì người khác cảm
nhận về mình về mình và xác nhận ý kiến của người
khác về mình.
4.Lý thuyết tương tác biểu trưng:
4.1.Mối quan hệ giữa con người và xã hội
Cooley cho rằng các mối tương tác lẫn
nhautheo kiểu tra đổi theo nhiều chiểu, nhiều mặt đã
gắn kết các cá nhân thành tổ chức xã hội, thành các
nhóm nhỏ, nhóm lớn, thành tổng thể xã hội. Trong quá
trình tương tác quan trọng nhất là giao tiếp giữa các
cá nhân, trong đó mỗi cá nhân phải biết đọc, hiểu
ngôn ngữ biểu hiện của người khác bởi hành vi của
mỗi cá nhân ảnh hưởng bởi ấn tượng của họ ở mỗi
người khác.
Sơ đồ : TỔNG THỂ XÃ HỘI
GIAO TIẾP
Sơ đồ
TỔNG THỂ XÃ HỘI
4.2.Phương pháp luận:
Cooley đặc biệt quan tâm tìm hiểu hành vi của cá
nhân trong mối tương tác xã hội nhất định, trong tình
huỗng xã hội cụ thể. Vai trò của cá nhân và cấu trúc xã
hội tương tác với nhau tạo thành những số phân con
người xã hội.
Tất cả tính cách, suy nghĩ, hành động, và thói
quen của một người đều bị ảnh hưởng bởi những đánh
giá, nhận xét của những người khác trong xã hội.
VAI TRÒ CÁ
NHÂN
CẤU TRÚC XÃ
HỘI
SỐ PHẬN CON
NGƯỜI
4.3.Lý thuyết “Tôi soi gương”:
Theo lý thuyết của ông, “cái tôi” (mà trong tâm lý học gọi là
“bản ngã”) ở mỗi người là kết quả của sự tương tác với người khác, của
tri giác người khác tức là nhìn vào người khác như là soi gương.
“Cái tôi trong gương” là cơ sở để cá nhân tự đánh giá, tự kiểm
soát. Tự điều chỉnh và tạo ta những mối tương tác xã hội, tổ chức xã
hội. Như vậy, câu hỏi “ta là ai?” có thể được trả lời dựa vào những ý
kiến, đánh giá của người khác mà ta có thể cẩm nhận được khi tương
tác với họ, chứ không hoàn toàn phụ thuộc vào bản thân ta. Điều này
cũng tương tự cách nói: nhìn vào người khác như nhìn vào tấm gương,
hay muốn biết ta là ai hyax xem người khác đối xử với ta thế nào. Trong
những câu ca dao tực ngữ của Việt Nam cũng có những câu tượng tự
như: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”. Hay câu nói: “Hãy cho tôi biết bạn
của bạn là ai, tôi sẽ nói cho bạn biết bạn là người thế nào”.
Cooley cho rằng “Cái tôi trong gương” gồm 3 yếu tố quan trọng là:
(1) Sự hình dung về vẻ bề ngoài của ta đối với một người khác.
(2) Sự hình dung về ấn tượng của người đó về vẻ bề ngoài đó.
(3) Sự tự cảm nhận của bản thân khi có hình dung đó.
Như vậy giống như quan niệm của
các nhà tương tác biểu trưng khác, quan
niệm của Cooley cho biết: cấu trúc xã hội,
tổ chức xã hội đề dựa trên nền tảng gồm
các sự kiện, bằng chứng bắt nguồn từ mối
tương tác xã hội và sự tri giác, hình dung
lẫn nhau của các cá nhân.
Nhóm nguyên thủy (Nhóm bậc
nhất)
Primary Group
Nhóm phát sinh (Nhóm bậc nhì)
Secondary Group
Đặc trưng cơ
bản
Là sự tương tác, hợp tác, giao tiếp
“mặt – đối – mặt” giữa các thành
viên của nhóm1.
Xuất hiện trên cơ sở nhóm
nguyên thủy với nghĩa là các cá
nhân của nhóm nguyên thủy
tương tác với các cá nhân khác
trong nhóm và ngoài nhóm tạo
các nhóm mới.
Mối tương tác có thể diễn ra
một cách gián tiếp chứ không
trực tiếp như trong nhóm
nguyên thủy.
Hình thức Nhóm nguyên thủy không những
gắn kết các cá nhân với nhau thành
một khối mà còn tạo ra bản sắc,
mục tiêu, lý tưởng của cả nhóm và
của mỗi cá nhân thành viên.
Tổ chức xã hội được thành lập một
cách chính thức để thực hiện hoạt
động nhằm mục tiêu xác định.
4.4.Phân loại dựa vào mối tương tác:
5. Kết luận:
Trong số các lý thuyết xã hội học hiện đại, thuyết
tương tác biểu trưng đã góp phần trả lời trực tiếp câu
hỏi về bản chất mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Thuyết này cho rằng xã hội được tạo nên từ các mối
tương tác xã hội giữa các cá nhân. Do vậy cần phải tập
trung nghiên cứu ý nghĩa biểu trưng và ý nghĩa chủ
quan mà con người gán cho các mối tương tác tạo nên
xã hội của con người và tìm hiểu sự ảnh ảnh hưởng của
mối tương tác biểu trưng đó đối với cá nhân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- chuong11_phan2_diep_phuong_6288.pdf