Chuyên đề Biện pháp hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009 - 2010

Giai đoạn 2001-2008, nhóm sản phẩm công nghiệp và thủ công mỹ nghệ là nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng cao nhất đạt 27.8%/năm, chiế m 41.03% tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 của cả nước. Tỷ trọng của nhóm hàng này tăng khá mạnh qua các năm với nhiều mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, điện tử và linh kiện máy tính đạt tốc độ tăng cao. Năm 2001 tỷ trọng của nhóm này là 33,9% đã tăng lên 44.1% vào năm 2008 với kim ngạch đạt được trên 28 tỷ USD. Nhìn chung đây là nhóm hàng có qui mô và tốc độ tăng trưởng cao nhất và cho thấy nhiều tiềm năng phát triển trong thời gian tới.

pdf105 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2386 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Biện pháp hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ó sự góp mặt cuả các doanh nghiệp đến từ Algeria. 69 CHƢƠNG III: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP HỖ TRỢ XUẤT KHẨU ĐỂ THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2009-2010 1. Mục tiêu và phƣơng hƣớng xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009-2010 * Mục tiêu và phƣơng hƣớng xuất khẩu “Năm 2009 sẽ là thách thức lớn cho xuất khẩu Việt Nam” đây là nhận định của hầy hết các doanh nghiệp, hiệp hội ngành hàng. Mục tiêu tổng quát của hoạt động xuất khẩu giai đoạn 2009-2010 là phát triển xuất khẩu với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, làm động lực thúc đẩy tăng trưởng GDP, giải quyết việc làm và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng có lợi thế cạnh tranh, tích cực phát triển các mặt hàng khác có tiềm năng thành những mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới, theo hướng nâng cao hiệu quả xuất khẩu. Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao; tăng sản phẩm chế biến, chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỷ trọng hàng xuất khẩu thô. * Các chỉ tiêu tăng trƣởng: 1.1. Về hàng hoá xuất khẩu 70 Bảng 3.1 : Dự báo kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2009-2010 Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; tăng % Nội dung Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Trị giá tăng Trị giá tăng Trị giá tăng Tổng số 63.500 30,8 66.660 5,0 74.650 12,0 1. Nhóm nhiên liệu, khoáng sản 12.500 31,7 7.980 - 36,2 7.500 - 6,0 2. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản 12.666 27,7 12.140 - 4,2 13.270 9,3 3. Nhóm chế biến, CN và TCMN 38.334 31,5 46.540 21,4 53.880 15,8 (Nguồn: Theo chỉ tiêu do Quốc hội đề ra: Mục tiêu phấn đấu tăng trưởng XK 13% trong năm 2009 - tương đương với kim ngạch xuất khẩu (XK) khoảng 72 tỉ USD. Tuy nhiên trong bối cảnh dự báo XK trong năm 2009 sẽ gặp rất nhiều khó khăn, thì doanh nghiệp và Bộ Công Thương đều nhận định rằng mục tiêu này rất khó thực hiện trong khi năm 2009 chưa phải là năm kinh tế toàn cầu sẽ hồi phục. Mục tiêu tăng trưởng cho xuất khẩu được dư đoán sẽ dừng ở mức 5% cùng với việc đưa ra hàng loạt biện pháp thúc đẩy XK và hạn chế nhập siêu. Đến năm 2010 khi mà nền kinh tế cả thế giới ổn định trở lại sẽ là cơ hội để xuất khẩu Việt Nam tăng mạnh trở lại với mức ước đạt 12%. Với mục tiêu „chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng có giá trị gia tăng cao, tăng sản phẩm chế biến chế tạo, sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, giảm dần tỉ trọng hàng thô, theo đó, tỉ trọng của các nhóm hàng nông lâm thuỷ sản và nhiên liệu 71 khoáng sản sẽ có xu hướng giảm dần và nhóm hàng công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng dần. Quan điểm này dựa trên những nhận định quan trọng sau:  Thứ nhất, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nguyên, nhiên liệu sẽ có xu hướng giảm dần do tác động của sự sụt giảm cả về giá và lượng xuất khẩu dầu thô và than đá theo kế hoạch đã được đề ra trong những năm tới; đặc biệt là kể từ năm 2009, khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất bắt đầu đi vào hoạt động và sẽ sử dụng nguồn dầu thô trong nước.  Thứ hai, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản sẽ có xu hướng giảm dần do hạn chế về khả năng mở rộng qui mô nuôi, trồng và chủ yếu phải dựa vào gia tăng hàm lượng chế biến để nâng cao giá trị xuất khẩu.  Thứ ba, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng chế biến, công nghiệp và thủ công mỹ nghệ sẽ có xu hướng tăng mạnh do có nhiều điều kiện để mở rộng qui mô sản xuất (đặc biệt là thông qua hoạt động của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài sẽ bắt đầu đi vào hoạt động trong giai đoạn này), phát triển thị trường mới, mặt hàng mới, đồng thời nâng cao giá trị gia tăng nhờ đổi mới công nghệ. Đây cũng chính là nhóm hàng có điều kiện tăng trưởng để bù vào sự giảm sút của xuất khẩu dầu thô.  Thứ tư, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của nhóm hàng khác, hàng mới sẽ có xu hướng tăng do nhiều mặt hàng mới được phát hiện, có tiềm năng phát triển, chưa bị hạn chế về sản xuất và thị trường. 72 1.2. Phương hướng xuất khẩu các mặt hàng chủ lực 1. 2.1. Nhóm nhiên liệu và khoáng sản Dự kiến, tổng KNXK nhóm nhiên liệu và khoáng sản sẽ giảm từ 12,5 tỷ USD năm 2008 xuống còn 7,5 tỷ USD năm 2010 với mức giảm tỷ trọng tương ứng là 19,7% năm 2008 xuống còn 10% năm 2010. Bảng 3.2: KNXK nhóm nhiên liệu, khoáng sản giai đoạn 2008-2010 Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; tăng % Nội dung Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Trị giá tăng Trị giá tăng Trị giá tăng Tổng cả nhóm 12.500 34,7 7.980 -36,2 7.500 -6,0 Tỷ trọng / tổng KNXK 19,7 12,0 10,0 1. Dầu thô 10.900 28,4 6.480 -40,6 6.100 -5,9 2. Than đá 1.600 60,0 1.500 - 6,3 1.400 -6,7 (Nguồn: Dự kiến, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm nhiên liệu sẽ giảm từ 13,3 tỉ USD năm 2008 xuống còn 8,6 tỉ USD năm 2010 với mức giảm tỉ trọng tương ứng là 20,3% năm 2008 xuống còn 10,3% năm 2010. Dầu thô: có thể nói, năm 2008 là năm cuối cùng của nước ta xuất khẩu toàn bộ dầu thô khai thác được từ năm 2009, một phần đáng kể dầu thô khai thác ở mỏ Bạch Hổ sẽ giành cho nhà máy lọc dầu Dung Quất, dự kiến vận hành vào cuối tháng 2/2009. Trong giai đoạn đầu, nhà máy Dung Quất sẽ sử dụng toàn bộ dầu thô Bạch Hổ, sau đó sẽ sử dụng 85% dầu Bạch Hổ và 15% dầu nhập khẩu từ Trung Đông. Nếu vận hành thành công, trong năm 2009, nhà máy Dung Quất sẽ sử dụng khoảng 4 triệu tấn dầu (khoảng 60 công suất thiết kế) và 6,5 triệu tấn trong năm 2010. Đối với than là mặt hàng chiến lược của nền kinh tế , theo dự tính, thì đến năm 2012, Việt Nam sẽ trở thành quốc gia nhập khẩu than. Vì vậy mà 73 xuất khẩu mặt hàng này cũng sẽ giảm dần do chủ trương kiểm soát chặt xuất khẩu tài nguyên. Nhìn chung, việc XK nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản có nhiều thuận lợi về thị trường và giá cả. Tuy nhiên, sản lượng XK sẽ ngày càng giảm đi. Việc tăng trị giá XK phụ thuộc rất nhiều vào giá. Do đó, công tác nghiên cứu dự báo thị trường là hết sức cần thiết, quan trọng để đảm bảo XK có hiệu quả hơn. 1.2.2. Nhóm nông, lâm, thuỷ sản Dự kiến, giai đoạn 2008-2010, tốc độ tăng trưởng KNXK tăng bình quân 11%/năm; tỷ trọng có xu hướng giảm dần từ 19,9% năm 2008 xuống 17,8% năm 2010 với KN đạt 13,3 tỷ USD vào năm 2010. Cụ thể như sau: Bảng 3.3: KNXK nhóm nông lâm thuỷ sản giai đoạn 2008-2010 Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; tăng % Nội dung Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Trị giá tăng Trị giá tăng Trị giá tăng Tổng cả nhóm 12.666 27,7 12.140 - 4,2 13.270 9,3 Tỷ trọng / tổng KNXK 19,9 18,2 17,8 1. Thuỷ sản 4.500 19,6 5.100 13,3 5.700 11,8 2. Gạo 2.830 89,9 1.920 -32,2 2.060 7,3 3. Cà phê 1.930 0,9 1.750 -9,3 1.850 5,7 4. Rau quả 371 21,2 440 18,6 520 18,2 5. Cao su 1.650 18,4 1.470 -10,9 1.600 8,8 6. Hạt tiêu 320 18,1 340 6,3 360 5,9 7. Nhân điều 910 39,1 950 4,4 1.000 5,3 8. Chè các loại 155 18,3 170 9,7 180 5,9 (Nguồn: 74 a) Thủy sản Việt Nam là một trong số 10 nước xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới. Năm 2008 xuất khẩu thủy sản đã đem lại cho đất nước 4,562 tỷ USD. Các thị trường xuất khẩu thuỷ sản quan trọng nhất của Việt Nam là Mỹ, EU, Nhật và Hàn Quốc, chiếm hơn 50% tổng kim ngạch xuất khẩu. Theo dự kiến, kim ngạch xuất khẩu năm 2009 sẽ đạt 5,1 tỷ USD và phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch 5,7 tỷ USD, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 14,9% giai đoạn 2008-2010. Thị trường chính vẫn là EU, Mỹ, Nhật Bản, Hàn quốc, Nga, các nước ASEAN. b) Gạo Theo dự báo của Tổ chức Nông lương thế giới (FAO), sản lượng lúa năm 2008tăng nhưng thị trường gạo sẽ giảm. Do đó xuất khẩu gạo năm 2009 sẽ có nhiều thay đổi, khó khăn hơn năm 2008 và “sẽ là một năm cạnh tranh quyết liệt”. Nguyên nhân là do kinh tế suy thoái từ khủng hoảng tài chính toàn cầu và tín dụng sẽ bị thắt chặt, ảnh hưởng đến thương mại trong đó có mặt hàng gạo. Bên cạnh đó lượng gạo tạm trữ, tồn kho khá lớn cũng góp thêm gánh nặng cho việc tiêu thụ năm 2009. Dự kiến xuất khẩu gạo sẽ dao động ở mức khoảng 4 - 4,5 triệu tấn/năm trong giai đoạn 2009-2010 với kim ngạch xuất khẩu khoảng 2 tỷ USD/năm. Thị trường xuất khẩu gạo trong giai đoạn 2009-2010 vẫn chủ yếu hướng tới các nước châu Á, châu Phi. Ngoài ra, để đa dạng hóa thị trường có thế hướng tới khai thác thị trường Nhật Bản, Trung Quốc, Australia và New Zealand. c) Cà phê Hiệp hội Cà phê - Ca Cao Việt Nam dự báo, xuất khẩu cà phê Việt Nam trong năm 2009 ước đạt 980 nghìn tấn với giá trung bình khoảng 1.800 USD/tấn, tương đương với kim ngạch khoảng 1,764 tỉ USD, giảm 8,6% về 75 lượng và giảm 17,4% về trị giá so với năm 2008, và đến năm 2010 đạt trên 1,85 tỷ USD. Trong vài năm vừa qua, ngành cà phê đã đạt được nhiều kết quả tốt nhưng có thể thấy, sự phát triển của ngành cà phê chưa thật sự vững chắc, biểu hiện ở các mặt chủ yếu sau đây: - Chất lượng cà phê xuất khẩu thấp, không ổn định, chưa xuất theo tiêu chuẩn xuất khẩu dẫn đến bị ép cấp, ép giá, làm giảm giá trị xuất khẩu. - Khâu tổ chức thu mua trong nước chưa tốt dẫn đến đầu vụ người dân thường phải bán vội cà phê với giá thấp. Hệ thống đại lý thu mua cà phê hình thành một cách tự phát, chủ yếu là các đại lý tư nhân, hệ quả là khi giá cả thị trường biến động mạnh dẫn đến đổ vỡ theo dây chuyền từ đại lý tới các nhà xuất khẩu. - Việc sơ chế cà phê của Việt Nam hiện nay chưa tương xứng với sự phát triển nhanh chóng của ngành sản xuất cà phê. Vì vậy, cà phê hạt xuất khẩu có chất lượng không cao. Tổn thất sau thu hoạch cà phê khá lớn, giá xuất khẩu thường thấp hơn 10% giá các sản phẩm cùng loại trên thế giới. - Nhiều diện tích cà phê đã chuyển sang giai đoạn gìà cỗi, phát triển không theo quy hoạch. d) Cao su Dự kiến, năm 2009 xuất khẩu 700 nghìn tấn đạt kim ngạch 1,47 tỷ USD, tăng 7,6% về lượng nhưng giảm 11% về trị giá so với năm 2007 do giá xuất khẩu giảm 20%. Phấn đấu đến năm 2010 xuất khẩu được 770 nghìn tấn, với mức giá trung bình khoảng trên 2000 USD/tấn và đạt kim ngạch khoảng 1,6 tỷ USD, kim ngạch tăng bình quân 5,5%/năm. Hiện nay, tỷ trọng cao su xuất khẩu dạng thô, sơ chế còn cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này. Trong khi đó, giá cao su và sản phẩm cao su đã qua chế biến thường cao hơn gấp nhiều lần so với cao su xuất khẩu thô. 76 Thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore, Đức, Hoa Kỳ và Nhật Bản. Trong đó, lượng cao su xuất khẩu vào Trung Quốc chiếm tới 59,9% lượng xuất khẩu cả nước năm 2007. 1.2.3. Nhóm chế biến, CN và TCMN Bảng 3.4: KNXK nhóm chế biến, CN và TCMN giai đoạn 2008-2010 Đơn vị tính: kim ngạch triệu USD; tăng % Nội dung Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Trị giá tăng Trị giá tăng Trị giá tăng Tổng cả nhóm 38.334 27,3 46.540 21,4 53.880 15,8 Tỷ trọng trong tổng KNXK 60,4 69,8 72,2 1. Dệt may 9.200 18,7 10.300 12,0 11.500 11,7 2. Giày dép 4.550 13,9 5.000 9,9 5.400 8,0 3. Điện tử, linh kiện máy tính 2.750 27,7 4.100 49,1 5.500 34,1 4. Mây tre, cói và thảm 220 -0,5 250 13,6 285 14,0 5. Gốm, sứ 340 2,7 390 14,7 445 14,1 6. Sản phẩm đá quý, kim loại quý 800 193, 0 600 - 25,0 690 15,0 7. Sản phẩm gỗ 2.800 16,5 3.000 7,1 3.400 13,3 8. Sản phẩm nhựa 950 33,6 1.200 26,3 1.450 20,8 9. Xe đạp và phụ tùng 85 4,9 100 17,6 110 10,0 10. Dây điện, cáp điện 1.040 17,8 1.350 29,8 1.600 18,5 11. Túi xách, vali, mũ, ô dù 850 34,1 1.100 29,4 1.300 18,2 12. Sản phẩm cơ khí 2.120 54,6 2.800 32,1 3.500 25,0 13. Hàng hóa khác 12.629 55,8 16.350 29,5 18.700 14,4 (Nguồn: 77 a) Dệt may Năm 2008 Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu hàng dệt may lớn thứ hai vào Mỹ, chỉ sau Trung Quốc. Dự kiến, KNXK năm 2009 đạt 10,3 tỷ USD và đến năm 2010 sẽ đạt kim ngạch 11,5 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 14%/năm. Đối với mặt hàng này, bên cạnh yếu tố nâng cao giá trị tăng thêm của sản phẩm, việc mở rộng qui mô sản xuất và tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu là yếu tố cơ bản để có thể tăng KNXK trong thời gian tới. Thời gian qua, ngành dệt may Việt Nam ngoài việc giảm về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu, số lao động bị cắt giảm tạm thời cũng đã lên tới 100 nghìn người. Vì vậy, bên cạnh việc chú trọng khai thác thị trường nội địa, việc tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu là giải pháp được nhiều doanh nghiệp dệt may triển khai. Các thị trường trọng điểm vẫn là các thị trường có sức mua lớn như Mỹ, EU, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và các thị trường nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng Kông, Singapore, Anh… Đối với thị trường Mỹ: Tiếp tục hoàn thiện hệ thống điều hành hai chiều giữa Bộ Công Thương và Hải quan. Đồng thời triển khai hoạt động của Tổ kiểm tra cơ động. Tổ chức làm việc với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu lớn để nắm rõ khả năng sản xuất, xuất khẩu luôn luôn nắm thế chủ động và đưa ra kế hoạch đẩy mạnh xuất khẩu phù hợp. Trong khi kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ, EU và các thị trường nhập hàng dệt may lớn của Việt Nam đều giảm vì khủng hoảng tài chính- kinh tế thì hàng dệt may xuất sang Nhật lại tăng trưởng khá. Ngoài thuận lợi nhờ Hiệp định đối tác kinh tế Việt- Nhật giúp nhiều mặt hàng dệt may được giảm thuế, các nhà xuất khẩu dệt may Việt Nam còn lợi thế khi vào Nhật nhờ đồng yên của nhật đang tăng giá so với đô la Mỹ. Vì vậy Nhật Bản 78 chính là thị trường đầy tiềm năng mà Việt Nam cần đẩy mạnh xuất khẩu trong thời gian tới. Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu như: (1) Tổ chức, liên kết với Nhật Bản hỗ trợ xây dựng Trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu dệt may và Trung tâm đào tạo chất lượng cao và hợp tác quốc tế cho ngành dệt may (2) Tổ chức xúc tiến thương mại tại Nhật Bản để đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường này. Đối với thị trường EU: Nghiên cứu tác động của thị trường EU khi Trung Quốc được bãi bỏ hạn ngạch dệt may để giúp các doanh nghiệp định hướng mặt hàng và nước xuất khẩu mà hàng dệt may có khả năng cạnh tranh cao. Ngoài ra cần phải giảm tỉ lệ gia công hàng dệt may xuất khẩu và thực hiện “Thời trang hóa sẽ tạo ra thương hiệu cho dệt may Việt Nam. Đây cũng là xu hướng tất yếu và lâu dài của ngành công nghiệp dệt may thế giới, vì nó mang lại nhiều lợi ích và giá trị hơn so với làm gia công. b) Giầy dép Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế hiện nay về da giày (xếp thứ 4 về xuất khẩu giày dép), riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt 3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày dép các loại năm 2008 đạt 4,7 tỉ USD. Dự báo đến năm 2010, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn chưa cao do mẫu mã chưa đẹp, chưa tự đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, điều kiện kinh tế và hạ tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo nhận định của các chuyên gia 79 kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn là lấy công làm lãi. Về thị trường xuất khẩu, thị trường xuất khẩu da giày Việt Nam ngày càng được mở rộng và ổn định cụ thể: Thị trường EU: Trong những năm vừa qua, giày dép Việt Nam xuất khẩu vào EU tăng trưởng nhanh về khối lượng và kim ngạch xuất khẩu. Hết năm 2008, EU vẫn là thị trường lớn nhất tiêu thụ giày dép của Việt và chiếm 54% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của Việt Nam. Thị trường Mỹ: Trong năm 2008, xuất khẩu vào Mỹ 1 tỉ USD, đây vẫn là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của toàn ngành. Hiện nay và trong những năm tới, Mỹ sẽ là thị trường xuất khẩu mục tiêu đối với sản phẩm giày dép của Việt Nam và các sản phẩm xuất khẩu chính sẽ là giày thể thao, giày da nam nữ. Thị trường các nước Đông Á: Đây là khu vực thị trường có những phong tục tập quán tương đối giống Việt Nam, cùng nằm ở khu vực châu Á. Các sản phẩm chủ yếu xuất khẩu từ Việt Nam sang các thị trường này là giày thể thao, giày da nam nữ, dép đi trong nhà. Năm 2008, xuất khẩu vào: Nhật Bản đạt 137,6 triệu USD, Trung Quốc đạt 107,2 triệu USD, Hàn Quốc đạt 64,3 triệu USD. c) Điện tử và linh kiện máy tính Dự kiến năm 2009, KNXK đạt trên 4 tỷ USD và đến năm 2010 đạt 5,5 tỷ USD, tăng bình quân 37%/năm giai đoạn 2008-2010. Sản phẩm điện tử và linh kiện máy tính của Việt Nam hiện được xuất khẩu sang 40 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, trong đó EU là một trong những thị trường chủ lực. Ngoài các thị trường truyền thống trên, sản phẩm điện tử và linh kiện máy tính của Việt Nam còn được tiêu thụ mạnh ở một số thị trường mới như các Tiểu Vương quốc Ả rập Thống nhất, Ucraina, Nam Phi. 80 Theo đánh giá, đây là mặt hàng có nhiều khả năng tạo ra sự tăng trưởng đột biến trong thời gian tới và rất có thể với những định hướng phát triển phù hợp thì đây sẽ là mặt hàng tạo kim ngạch xuất khẩu lớn của Việt Nam vì những lý do cơ bản sau: Thứ nhất, Theo đánh giá của Bộ Công Thương, xuất khẩu điện tử và linh kiện máy tính tăng mạnh là nhờ số dự án đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này ngày càng nhiều, trong đó có nhiều dự án quy mô vốn lớn. Đơn cử như dự án sản xuất máy in của tập đoàn Canon, nhà máy sản xuất chip điện tử và linh kiện máy tính của tập đoàn Intel (1 tỉ USD), dự án của Tập đoàn Nidec, Nhật Bản sản xuất đầu đọc quang học và mô tơ siêu nhỏ (1 tỉ USD), dự án của Tập đoàn Foxconn (Đài Loan) sản xuất linh kiện điện tử (1 tỉ USD), Tập đoàn Samsung (Hàn Quốc) sản xuất linh kiện điện tử tại Bắc Ninh (650 triệu USD) và nhiều dự án đầu tư khác của các công ty vệ tinh của các tập đoàn lớn đã có hoạt động tại Việt Nam. Thứ hai, đối thủ cạnh tranh lớn nhất của Việt Nam là Malaysia, Thái Lan và Trung Quốc, tuy nhiên, lợi thế về nhân công đã và đang có sự dịch chuyển từ Malaysia và Thái Lan sang Việt Nam. Trong khi đó tại các nước như Trung Quốc, Malaysia... giá thuê đất, giá nhân công tăng vì vậy Việt Nam trở nên có lợi thế. Thứ ba, về nhu cầu của thị trường thế giới đối với mặt hàng điện tử và linh kiện máy tính có thể coi là khổng lồ và đầy tiềm năng. Năm 2007, nhập khẩu các mặt hàng điện tử của thế giới đạt mức 500 tỷ USD và tăng khá đều đặn khoảng 8-10%/năm trong 5 năm qua. Về thị trường xuất khẩu, hiện nay ta đang xuất khẩu mặt hàng này chủ yếu sang các nước ASEAN, Nhật Bản và Hàn Quốc, Mỹ. Trong thời gian tới có thể nhắm tới Trung Quốc, Hồng Kông, EU (nhất là Đức) và đặc biệt là các nước thành viên mới của EU. 81 d) Sản phẩm gỗ Mặt hàng đồ gỗ đã khẳng định được vị trí vững chắc trong cơ cấu xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam trong những năm gần đây, với kim ngạch xuất khẩu lớn nhất Việt Nam trong nhiều năm qua, cụ thể năm 2008 đạt 2,8 tỷ USD tăng 16,5% so với năm 2007. Phấn đấu, năm 2010 xuất khẩu sản phẩm gỗ sẽ đạt kim ngạch 3,4 tỷ USD, tăng bình quân 12%/năm. Về thị trường xuất khẩu, ngoài các thị trường tiềm năng như Nhật Bản, EU (Pháp, Đức), xuất khẩu vào thị trường Mỹ vẫn cho thấy những khả năng tăng trưởng cao trong những năm tới do Việt Nam có nhiều lợi thế về giá nhân công rẻ và thuế xuất nhập khẩu đồ gỗ của Việt Nam vào Mỹ thấp. 2. Đề xuất một số biện pháp hỗ trợ xuất khẩu để thúc đây xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2009-2010 * Nhận định chung về giai đoạn 2009 – 2010: Tăng trưởng trong nền kinh tế thế giới (với những điều khoản ngang nhau về sức mua) sẽ tiếp tục chậm lại trong năm 2009, xuống khoảng 3,2% từ 3,8% trong năm 2008, trước khi tăng trở lại vào năm 2010, khoảng 4%. Tăng trưởng kinh tế ở Mỹ, một thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, sẽ giảm xuống chỉ còn 0,5% vào năm 2009 do sự suy thoái tạm thời ở trong nước, nhưng sẽ lại được cải thiện đôi chút trong năm 2010. Mức tăng trưởng chậm hơn của Mỹ sẽ ảnh hưởng đến tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, châu Á (không kể Nhật Bản) không được dự báo là phải chịu sự suy thoái nặng, và như vậy nhu cầu trong khu vực sẽ giúp Việt Nam tăng xuất khẩu. 2.1. Về phía Nhà nước Nhà nước có nghĩa vụ trong việc tạo môi trường kinh doanh thuận lợi nhằm huy động được các nguồn lực và sự tham gia của các thành phần kinh tế để phát triển xuất khẩu. Trong thời gian tới, bên cạnh những cơ chế, chính sách đã và đang được triển khai thực hiện, Nhà nước cần tập trung vào một số hướng giải pháp lớn sau đây: 82 2.1.1. Các giải pháp nhằm giảm chi phí giao dịch, kinh doanh cho doanh nghiệp xuất khẩu - Mở rộng quyền kinh doanh nhập khẩu nguyên vật liệu là đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu như nguyên phụ liệu sản xuất hàng dệt may, giày dép, nguyên liệu sản xuất đồ gỗ... cho các doanh nghiệp, kể cả các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam nhằm giảm bớt chi phí đầu vào, nâng cao sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu của Việt Nam. - Có chính sách để thúc đẩy sự hình thành các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là trong một số lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may, dày dép, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa... nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn. - Mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép sự tham gia một cách mạnh mẽ hơn nữa của các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động kinh doanh cung ứng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tại Việt Nam như dịch vụ logistics, dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ giao nhận, kho vận...; từng bước xoá bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh ở một số lĩnh vực dịch vụ như bưu chính viễn thông, điện, kinh doanh cảng biển... để nâng cao hiệu quả hoạt động trong những lĩnh vực này và từ đó giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu. - Cải thiện cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động xuất khẩu như cảng biển, sân bay, đường giao thông, kho ngoại quan... còn yếu kém và chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao trong thương mại quốc tế. Về vấn đề này, có thể nói vấn đề bức xúc nhất là những con đường giao thông trên bộ và các cảng biển Việt Nam. Mỗi năm khoảng 90% lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam đi qua hệ thống cảng biển. Trong những năm gần đây, khối lượng hàng thông qua cảng đã tăng đáng kể, từ 91,4 triệu tấn năm 2001 đến 83 181,11 triệu tấn trong năm 2007 (tăng 97% trong 6 năm). Dự báo rằng khối lượng hàng hóa này sẽ tăng lên 218 triệu tấn vào năm 2010, hơn gấp đôi vào năm 2015, và đạt tới 854 triệu tấn năm 2020. Mặc dù khối lượng container thông qua các cảng Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng nhưng trong giới kinh doanh xuất nhập khẩu và các chuyên gia về logistics đều cho rằng hàng hóa Việt Nam bị xếp dỡ 2 lần. Nếu là hàng xuất khẩu thì xếp dỡ 1 lần tại cảng Việt Nam, sau đó tàu container cỡ nhỏ vận chuyển tới cảng trung chuyển trong khu vực, thường là Singapore, xếp dỡ lần thứ 2 lên các tàu container cỡ lớn, sau đó mới ra thế giới. Xu hướng tàu container ngày càng có kích thước lớn để giảm chi phí vận tải biển được cho là tác động không tốt tới xuất nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam, khi hạ tầng cảng biển trong nước vẫn chưa đầu tư theo kịp đà phát triển này. Chúng ta đang thiếu những cảng nước sâu cho phép container trọng tải lớn đi qua. - Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu để phấn đấu đến năm 2010 giảm thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa... - Sớm triển khai ký kết các thỏa thuận về thanh toán quốc tế qua ngân hàng với một số thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện còn đang gặp khó khăn trong giao dịch và bảo đảm thanh toán như Trung Quốc, Nga và các nước Trung Đông, châu Phi; đồng thời ký kết các thỏa thuận song phương và công nhận lẫn nhau về kiểm dịch thực vật, tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm, nhất là các thị trường xuất khẩu trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore, Australia, New Zealand. để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thanh toán cũng như đáp ứng các tiêu chuẩn về 84 kiểm dịch thực vật, vệ sinh an toàn thực phẩm, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông, thuỷ sản. - Các Bộ Khoa học và công nghệ, Nông nghiệp và phát triển nông thôn tiến hành đàm phán và ký mới các hiệp định về sự phù hợp và công nhận lẫn nhau của các sản phẩm xuất khẩu, trước hết là đối với các mặt hàng nông sản thực phẩm, tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường các nước. 2.1.2. Các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống chính sách tài chính, tín dụng và đầu tư phục vụ xuất khẩu - Về chính sách tín dụng: Đổi mới chính sách tín dụng theo hướng xoá bỏ bao cấp, thực hiện nguyên tắc lãi suất theo thị trường nhưng bảo đảm các chức năng sau: + Cấp tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng có độ rủi ro cao với thời gian trả nợ dài hơn, điều kiện tiếp cận vốn thuận lợi hơn. + Bảo lãnh cho các doanh nghiệp xuất khẩu để vay vốn tại các ngân hàng thương mại. + Cấp tín dụng cho các nhà nhập khẩu. - Về chính sách thuế: + Hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện tốt chính sách hoàn thuế đối với các nhà nhập khẩu nguyên liệu để cung cấp cho các nhà sản xuất hàng xuất khẩu trong nước. + Giảm 30% số thuế thu nhập phải nộp quý IV năm 2008 và số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 đối với thu nhập từ hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. + Giãn thời hạn nộp thuế thu nhập doanh nghiệp trong thời gian 9 tháng đối với số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp năm 2009 của các doanh 85 nghiệp vừa và nhỏ và của các doanh nghiệp có hoạt động sản xuất, chế biến nông, lâm, thủy sản, dệt may, da giầy, linh kiện điện tử. + Tạm hoàn 90% số thuế GTGT đầu vào đối với hàng hóa thực xuất khẩu trong trường hợp doanh nghiệp chưa có chứng từ thanh toán và hoàn nốt 10% còn lại khi có chứng từ thanh toán. + Điều chỉnh giảm thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số nhóm hàng là nguyên liệu đầu vào của sản xuất, trong nước chưa sản xuất được hoặc có sản xuất nhưng không đáp ứng đủ nhu cầu để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp giảm chi phí, nâng cao sức cạnh tranh. + Giãn thời gian ân hạn nộp thuế đối với một số ngành hàng phù hợp với chu kỳ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm (đóng tầu, sản xuất cơ khí…). Thực hiện linh hoạt chính sách về ân hạn thời hạn nộp thuế nhập khẩu (từ 275 ngày lên 365 ngày) đối với hàng hóa, vật tư nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu. - Về chính sách tiền tệ: + Có các biện pháp cụ thể để tạo điều kiện tăng cường khả năng tiếp cận nguồn vốn tín dụng cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; cho sản xuất, kinh doanh hàng xuất khẩu, doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm như: tiếp tục giảm lãi suất cho vay theo tín hiệu thị trường; giảm dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng; giảm lãi suất cơ bản xuống dưới 10% đến cuối tháng 12/2008. + Hướng dẫn các tổ chức tín dụng thực hiện việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận quy định tại Nghị quyết số 23/2008QH12. + Tiếp tục thực hiện việc cơ cấu lại thời hạn nợ và áp dụng các giải pháp xử lý nợ vay vốn ngân hàng phù hợp với quy định của pháp luật đối với nông dân và doanh nghiệp gặp khó khăn. + Điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, hiệu quả; điều chỉnh linh hoạt tỷ giá ngoại tệ theo hướng khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu. 86 Chỉ đạo các ngân hàng thương mại điều chỉnh lãi suất các hợp đồng vay nợ xuống theo lãi suất hiện hành; không phạt do quá hạn đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp khó khăn. - Về chính sách đầu tƣ: +Tiếp tục phát huy chính sách khuyến khích đầu tư, trong đó chủ trương khuyến khích đầu tư phát triển sản xuất hàng xuất khẩu cần được thi hành một cách triệt để và nhất quán hơn. + Chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. + Đầu tư có trọng điểm vào các ngành hàng sản xuất hướng xuất khẩu + Phát triển hợp lý các khu công nghiệp và khu chế xuất 2.1.3. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xúc tiến xuất khẩu + Đổi mới phương thức hoạt động và tổ chức quản lý, sử dụng Quĩ Ngoại giao kinh tế nhằm phát huy tác dụng của Quĩ này trong hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu theo hướng chuyển giao việc quản lý Quĩ này từ Bộ Ngoại giao sang Bộ Thương mại, tránh tình trạng người làm công tác xúc tiến thương mại trực tiếp là các tham tán thương mại thường phải bị động như hiện nay. Trên cơ sở đó, hàng năm Bộ Thương mại sẽ giao nhiệm vụ cho các cơ quan thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài xây dựng chương trình xúc tiến xuất khẩu vào thị trường sở tại và báo cáo Đại sứ thông qua chương trình này trước khi báo cáo Bộ Thương mại để tổng hợp, phân bổ kinh phí chung cho các thị trường theo từng năm. + Tập trung các hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước vào tổ chức các chương trình lớn nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia, đặc biệt là tới các thị trường nhập khẩu lớn, thị trường nhập khẩu có nhiều tiềm năng đối với hàng hoá của Việt Nam thông qua các kênh truyền thông lớn của quốc tế như CNN, BBC, The Economist... 87 + Đẩy mạnh hơn nữa các hoạt động xúc tiến thương mại cấp cao để thúc đẩy hợp tác, đầu tư và buôn bán giữa Việt Nam với các nước, thu hút các tập đoàn đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam để từ đó tạo nên những làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam trong các lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu có nhiều tiềm năng. + Đổi mới công tác tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại theo hướng chú trọng vào khâu tổ chức và cung cấp thông tin thị trường, giảm bớt các chương trình khảo sát thị trường mang tính nhỏ lẻ, tăng cường hoạt động xúc tiến thông qua việc hỗ trợ tổ chức các đoàn vào... + Chủ động mời nhà nhập khẩu nước ngoài đến giao dịch tại các sự kiện xúc tiến thương mại ở Việt Nam là một trong những hình thức mới mà Cục Xúc tiến thương mại, Bộ Công Thương đang đề xuất để đẩy mạnh xuất khẩu. 2.1.4. Các giải pháp nhằm hỗ trợ đào tạo phát triển nguồn nhân lực cho một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu “Con người là yếu tố quyết định sự thành đạt của một doanh nghiệp” chính vì vậy mà việc đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu của từng ngành là rất cần thiết và cần được xây dựng một cách chiến lược: - Tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may, da giày, sản phẩm gỗ, sản phẩm nhựa. Ngoài ra chính phủ có thể phối hợp với ngân hàng trong việc cho người lao động vay tiền để học nghề, để tiến tới xã hội hoá việc dạy nghề, hàng năm. - Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước trong lĩnh vực lao động và việc làm nhằm tăng cường chăm lo, bảo vệ lợi ích cho người lao động, nâng cao mức thu nhập và điều kiện sống cho người lao động. 88 2.1.5. Các giải pháp nhằm dự báo và nhằm đẩy mạnh xuất khẩu theo ngành hàng Những bài học về công tác dự báo yếu kém chính là động lực để Chính phủ không ngừng phải tăng cường và giám sát chặt chẽ công tác dự báo và cảnh báo sớm tình hình xuất khẩu theo từng ngành hàng. Tuy có nhiều cơ quan dự báo và phân tích kinh tế, nhưng công tác này chưa thật sự được coi trọng đúng tầm, chưa được tổ chức chặt chẽ, hiệu quả và thiếu cơ chế thích hợp để tranh thủ ý kiến các chuyên gia độc lập. Ngoài ra Bộ công thương hoặc các cơ quan thực hiện công tác dự báo cần phải có tính trách nhiệm hơn khi đưa ra những nhận đinh và dự đoán cho xuất khẩu. Đặc biệt, cần nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu bộ đối với thông tin do bộ đó đưa ra. 2.2. Về phía doanh nghiệp Các doanh nghiệp xuất khẩu là những người trực tiếp đứng trên mặt trận thương mại quốc tế, vì vậy mà các doanh nghiệp cần kịp thời tận dụng những điều kiện thuận lợi từ phía Nhà nước để đẩy mạnh sản xuất, đổi mới tổ chức hoạt động nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Một số kiến nghị đưa r acho doanh nghiệp xuất khẩu trong thời gian tới là: 2.2.1. Các giải pháp nhằm xây dựng và củng cố mối liên kết với người cung ứng nguyên liệu phục vụ sản xuất - Các Bộ thực hiện chức năng chủ sở hữu nhà nước của mình để chỉ đạo các doanh nghiệp nhà nước có qui mô lớn, có vị thế trên thị trường như Tổng công ty Rau quả, Tổng công ty Cà phê... xây dựng phương án liên kết với người sản xuất nguyên liệu để sản xuất hàng xuất khẩu, bảo đảm ổn định chất lượng và nguồn cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Trên cơ sở đó sẽ thúc đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác xây dựng mối liên kết với người nông dân. 89 - Các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong lĩnh vực dệt may, giày dép, đồ gỗ, kể cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chủ động tiến hành việc lập đề án xây dựng các trung tâm nguyên phụ liệu để được vay vốn từ Ngân hàng Phát triển để xây dựng các trung tâm này. 2.2.2. Các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động của doanh nghiệp - Các doanh nghiệp cần tích cực triển khai việc áp dụng các mô hình quản trị doanh nghiệp, mô hình quản lý chất lượng trong tổ chức sản xuất và kinh doanh nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và chất lượng sản phẩm xuất khẩu. - Đổi mới công tác quản trị nhân lực trong các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, nhằm tiêu chuẩn hoá hoạt động tuyển dụng, đánh giá và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp này để nâng cao khả năng đáp ứng những tiêu chuẩn điều kiện về lao động đặt ra từ phía các nhà nhập khẩu. - Khai thác hiệu quả những tiện ích của công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử nhằm mở rộng cơ hội tiếp cận thị trường, nắm bắt nhanh chóng nhu cầu của khách hàng, tiết kiệm chi phí giao dịch, quảng cáo. thông qua đó nâng cao hiệu quả sản xuất, kinh doanh. - Nâng cao trình độ hiểu biết pháp luật thương mại quốc tế để sẵn sàng đối phó với tranh chấp thương mại trên thị trường ngoài nước cũng như chủ động yêu cầu Chính phủ có biện pháp xử lý khi các đối tác nước ngoài có các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường Việt Nam (bán phá giá, trợ cấp). - Tăng cường sử dụng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất và kinh doanh như dịch vụ tư vấn, dịch vụ nghiên cứu và thăm dò thị trường, dịch vụ pháp lý... để nâng cao chất lượng, hiệu quả và tính chuyên nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 90 2.3. Các giải pháp cho từng ngành hàng 2.3.1 Một số giải pháp cho ngành Thủy sản Một số khó khăn đối với ngành xuất khẩu thuỷ sản: - Khó khăn chủ yếu hiện nay là các nước đang áp dụng các hành vi bảo hộ thương mại, các hàng rào kỹ thuật, kiểm dịch chặt chẽ và thường xuyên ban hành các tiêu chuẩn mới khắt khe hơn về dư lượng kháng sinh và an toàn vệ sinh thực phẩm. - Thiếu nguyên liệu trong nước để sản xuất xuất khẩu trong khi thuế nhập khẩu ở mức cao 10-20%, hầu hết các nhà máy chế biến thủy sản chỉ hoạt động được khoảng 70% công suất do thiếu nguyên liệu chế biến - Việc tiếp cận nguồn vốn vay từ các ngân hàng và vay ưu đãi gặp khó khăn. - Nguyên liệu sản xuất thiếu trong khi thuế nhập khẩu nguyên liệu ở mức cao, chưa có sự liên kết chặt chẽ giữa vùng sản xuất với chế biến. - Bên cạnh đó, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản còn phải đối mặt với những yếu kém trong khâu marketing, sử dụng internet để tiếp thị cũng như đội ngũ quản lý, lao động đáp ứng trình độ... Một số giải pháp: - Duy trì tốc độ phát triển của ngành thủy sản hiện nay trên cơ sở tăng cường các yếu tố đảm bảo phát triển bền vững như: tái tạo nguồn lợi, an toàn cho ngư dân, từng bước điều chỉnh cơ cấu nghề cá, giảm khai thác ven bờ, phát triển đánh bắt xa bờ. - Việc đánh bắt xa bờ là một định hướng đúng đắn tuy nhiên việc triển khai cần phải thận trọng hơn nữa. Vừa qua Dự án đầu tư đánh bắt hải sản xa bờ (ĐBXB) bằng nguồn vốn tín dụng ưu đãi là một chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước được đầu tư trong thời gian dài (từ 1997-2003). Tuy nhiên, kết quả kiểm tra ban đầu cho thấy: 91 trên 50% tổng số các tàu ĐBXB gặp khó khăn, làm ăn không hiệu quả, việc đầu tư các dự án này bộc lộ nhiều thiếu sót, yếu kém dẫn tới hiệu quả không cao: tỷ lệ trả nợ vốn vay của các dự án rất khiêm tốn, có những dự án đến nay không trả được đồng vốn nào cho Nhà nước. - Nhanh chóng triển khai chương trình “Đánh bắt xa bờ bằng công nghệ vũ trụ”. Trung tâm Địa Tin học thuộc Đại học Quốc gia TP HCM đã có ý tưởng sử dụng ảnh viễn thám vệ tinh để xác định vị trí đàn cá. Không chỉ giúp ngư dân nâng cao hiệu quả của những chuyến đánh bắt xa bờ và giúp các cơ quan chức năng kiểm soát được tàu thuyền trên biển, công nghệ viễn thám còn có thể ứng dụng để khảo sát xói lở - bồi tụ dải ven biển và thành lập bản đồ bề mặt đại dương; nghiên cứu rất nhiều yếu tố hải dương học và nguồn lợi hải sản như dòng chảy, nước trồi, nhiệt độ, độ mặn, phân bố phù dung, hải sản... cung cấp thông tin cho công tác quản lý nuôi trồng thủy sản ven bờ. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với một đất nước có tới 3.000 km bờ biển với hàng triệu km2 thềm lục địa và hơn 3.000 hòn đảo, quần đảo như Việt Nam. - Các cơ quan quản lý và các doanh nghiệp đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất lượng hàng thuỷ sản từ khâu nuôi trông – nguyên liệu tới thành phẩm đề giữ uy tín cho hàng thuỷ sản của Việt Nam cũng như đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu; Nghiên cứu và lai tạo các giống mới có chất lượng cao. - Xem xét giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu thủy sản xuống 0-0,5%. - Đẩy mạnh việc cho vay vốn ưu đãi nuôi trồng thuỷ sản đối với người dân và doanh nghiệp qua Ngân hàng phát triển Việt Nam. Tự chủ sản xuất và cung cấp thức ăn nuôi trồng thuỷ sản có chất lượng cao, giá 92 thành hạ. Nâng cao công tác kiểm tra chất lượng đi đôi với việc giảm thủ tục hành chính đối với nguyên liệu nhập khẩu. 2.3.2. Một số giải pháp cho ngành gạo Một số giải pháp: - Tạo điều kiện thuận lợi cho thương nhân, cho cư dân các nước có chung đường biên giới với nước ta hợp tác sản xuất tiêu thụ gạo và các loại nông sản. Hiện nay cơ chế của nhà nước về việc này đã khá rõ ràng nhưng khi thực hiện vẫn còn nhiều vướng mắc về thủ tục hải quan, thuế xuất nhập khẩu. - Do đặc điểm sản xuất lúa của Việt Nam, lượng lúa hàng hoá thường tập trung theo vụ nhất là vụ Đông Xuân (trên 50% sản xuất gạo hàng hoá cả năm) nên cần kết hợp những hợp đồng xuất khẩu lớn, hợp đồng tập trung với các hợp đồng thương mại để chủ động đảm bảo tiêu thụ hết lúa hàng hoá kịp thời có lợi cho người sản xuất. - Cơ chế điều hành xuất khẩu cũng cần được điều chỉnh theo hướng mở cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu theo cơ chế thị trường. - Tổ chức tốt công tác dự báo tình hình mùa vụ, thị trường. Đồng thời, nghiên cứu đầu tư xây dựng hệ thống kho chứa hiện đại từ nguồn ngân sách nhà nước để nâng cao khả năng dự trữ, đảm bảo cân đối cung cầu và an ninh lương thực trong nước. 2.3.3. Một số giải pháp cho ngành cà phê - Nhà nước cần thực hiện những giải pháp cho ngành cà phê mà chỉ có Nhà nước mới có thể làm được. Đó là: Tổ chức lại ngành cà phê Việt nam, trong đó xây dựng được các hình thức tổ chức thích hợp như hợp tác xã; nhóm hộ sản xuất v.v… tránh hình thức phân tán, nhỏ lẻ như hiện nay. - Ngoài ra, Nhà nước cần có chính sách miễn hoặc giảm thuế đối với những nguồn tài chính mà các doanh nghiệp dùng để đầu tư nhằm đổi 93 mới trang thiết bị công nghệ, hộ trợ về mặt ứng dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật cho nông dân thông qua các nhà khoa học. - Tăng cường hơn nữa trong việc xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng cho các vùng sản xuất cà phê như đường xá, hồ đập thủy lợi, điện, nước v.v… - - Tăng cường đầu tư cho nghiên cứu khoa học công nghệ một các toàn diện đối với cây và ngành cà phê. - Nâng cao chất lượng cà phê Việt Nam: xây dựng kế hoạch tuyên truyền vận động và khuyến khích người nông dân, doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu áp dụng TCVN 4193-2005. - Mở rộng các chủng loại mặt hàng cà phê, sản xuất cà phê chất lượng cao, cà phê hữu cơ, cà phê đặc biệt, hảo hạng. - Một hướng đi quan trọng để mở rộng thị trường cà phê trong nước, lâu nay chưa được quan tâm, là khuyến khích người dân tiêu dùng cà phê. Việt Nam là nước sản xuất cà phê lớn thứ hai thế giới, nhưng lượng tiêu dùng cà phê lại vô cùng nhỏ bé. Trong khi đó, Brazil sản xuất cà phê lớn nhất thế giới, cũng là nước tiêu dùng cà phê lớn thứ hai thế giới (sau Mỹ), và đứng đầu trong các nước sản xuất cà phê. Các nghiên cứu khoa học nghiêm túc của Brazil cho thấy, uống cà phê rất có lợi cho sức khoẻ. Việt Nam cần quan tâm đầu tư cho một chương trình xúc tiến tiêu dùng cà phê như Brazil đã làm có hiệu quả. - Không chỉ cà phê mà ngành hồ tiêu, ca cao, hạt điều của Việt Nam cũng đặc biệt cần được chú trọng ở khâu chất lượng. Đặc biệt là, mặt hàng hồ tiêu từ năm 2001 đến nay, Việt Nam luôn chiếm ngôi vị số 1 thế giới về số lượng xuất khẩu, với mức bình quân 70.600 tấn/năm, chiếm 31,2% thị phần thế giới. 94 2.3.4. Một số giải pháp cho ngành cao su - Đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm xuất khẩu, giảm tỷ trọng cao su xuất khẩu dạng thô, từng bước nâng cao hàm lượng chế biến. Chuyển đổi cơ cấu sản phẩm (sản xuất các loại mủ LATEX, CV, SVR10, RSS...) cho thích ứng với một số thị trường khác như EU, Bắc Mỹ để thâm nhập sâu vào khu vực thị trường này, giảm dần sự phụ thuộc và thị trường Trung Quốc. - Tăng cường thu hút đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài sản xuất các sản phẩm chế biến từ cao su như săm lốp, găng tay, phao cứu sinh, dụng cụ bằng cao su... để nâng cao giá trị gia tăng. 2.3.5. Một số giải pháp chung cho ngành dệt may, da giầy Hình thành chợ nguyên phụ liệu cho ngành dệt may và da giày để phục vụ tốt cho hoạt động sản xuất của hai ngành này. Xem xét việc cho phép nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư xây dựng và kinh doanh chợ nguyên phụ liệu cho dệt may, da giày. Tăng cường tìm kiếm bạn hàng và ký kết hợp đồng xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tăng cường năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm và gia tăng tỷ lệ nguyên phụ liệu trong nước tự đáp ứng được. Nhằm giải quyết tình trạng thiếu nhân lực của ngành, các doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ để giảm thiểu lao động. Bên cạnh sự nỗ lực của các doanh nghiệp như tăng lương, tăng phúc lợi cho người lao động thì chính quyền địa phương cũng như chính các doanh nghiệp cần quan tâm giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân. Đầu tư cho việc nghiên cứu mẫu, mã, mốt thời trang quốc tế, nắm bắt kịp thời xu thế lớn trong ngành thời trang. 2.3.6. Một số giải pháp cho ngành Điện tử và linh kiện máy tính: + Đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này thông qua các khung chính sách thuận lợi. Phát triển cơ sở hạ tầng và chuẩn bị đồng bộ các 95 yếu tố phụ trợ là giải pháp cơ bản nhất để thu hút đầu tư sản xuất và xuất khẩu ở lĩnh vực này. + Tăng tỷ trọng sản phẩm điện tử chuyên dùng và phụ tùng linh kiện bằng việc tập trung sản xuất, lắp ráp các sản phẩm điện tử chuyên dùng, các sản phẩm công nghệ cao để nâng cao năng lực công nghệ của các doanh nghiệp. + Tận dụng tiềm năng sản xuất vật liệu điện tử, lĩnh vực mà Việt Nam có nhiều lợi thế về tài nguyên. Ưu tiên phát triển một số lĩnh vực của công nghiệp phụ trợ như: chế tạo khuôn mẫu, đúc, ép nhựa, đột dập kim loại, xử lý bề mặt (sơn, mạ…) phục vụ cho quá trình sản xuất phụ tùng linh kiện cho ngành công nghiệp điện tử. + Tăng cường công tác xúc tiến thương mại ở cấp Chính phủ và doanh nghiệp theo hướng thu hút các tập đoàn sản xuất điện tử lớn trên thế giới vào đầu tư sản xuất, xuất khẩu tại Việt Nam. 2.3.7. Một số giải pháp cho ngành Gỗ - Về các giải pháp chính sách để tháo gỡ khó khăn cho ngành gỗ, Hiệp hội Gỗ và lâm sản VN đề nghị, trong giai đoạn trước mắt, Chính phủ tạm thời không thu thuế xuất khẩu đối với các sản phẩm gỗ; dãn nợ đối với các khoản nợ đến hạn trả những hàng hoá của các doanh nghiệp chưa bán được hàng; giảm và cho chậm nộp thuế thu nhập doanh nghiệp; kéo dài thời hạn trả nợ gốc vay để mua gỗ nguyên liệu thêm 65 ngày (thời hạn cũ là 275 ngày). - Tăng cường đầu tư, tạo năng lực mới cho sản xuất, chế biến sản phẩm gỗ xuất khẩu; tăng cường thu hút FDI. Đẩy mạnh hiện đại hoá công nghiệp chế biến quy mô lớn, từng bước phát triển và hiện đại hoá công nghiệp chế biến quy mô nhỏ ở các vùng nông thôn và làng nghề truyền thống. - Các doanh nghiệp trong ngành chế biến gỗ cần liên kết chặt chẽ với nhau để hình thành chuỗi giá trị sản xuất, chế biến gỗ xuất khẩu, trong đó, mỗi doanh nghiệp sẽ chuyên môn hoá một khâu để hoàn chỉnh sản phẩm… 96 - Quy hoạch và kế hoạch phát triển nguồn nguyên liệu ổn định cho chế biến gỗ, xúc tiến việc xin cấp chứng chỉ rừng: Tổ chức tốt việc nhập khẩu nguyên liệu gỗ; đồng thời tăng cường trồng rừng nguyên liệu gỗ lớn để khẩn trương đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho chế biến. Trong chiến lược sản phẩm, cần hướng tới phát triển các sản phẩm nội thất (indoor), đồng thời tăng tỷ lệ hàng cao cấp trong cơ cấu các mặt hàng gỗ nội thất. Nhìn chung, các sản phẩm công nghiệp sẽ có nhiều khả năng để có thể tăng tốc phát triển nhanh trong giai đoạn tới do kết quả của quá trình thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài trong 2 năm gần đây tăng mạnh, triển vọng về mở rộng thị trường, phát triển những mặt hàng mới mà thế giới có nhu cầu cao là rất lớn. Trong năm 2008 và các năm tiếp theo, chắc chắn các dự án này sẽ đem lại nguồn lực sản xuất to lớn để đóng góp vào hoạt động mở rộng xuất khẩu của khu vực công nghiệp. Trong nhóm hàng này, việc gia tăng kim ngạch xuất khẩu của hầu hết các mặt hàng đều tập trung vào yếu tố gia tăng qui mô xuất khẩu. Các mặt hàng mới có tốc độ phát triển cao, không bị hạn chế về cơ cấu và thị trường như: sản phẩm nhựa, túi xách - vali - mũ - ô dù… sẽ trở thành những mặt hàng chủ lực trong giai đoạn tới. 97 KẾT LUẬN Năm 2009, do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, xuất khẩu tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức như: thị trường xuất khẩu đã và đang bị thu hẹp mạnh, nhu cầu nhập khẩu và khả năng thanh toán tại các thị trường chủ lực có xu hướng giảm, sức ép cạnh tranh từ các nước châu Á gia tăng, đặc biệt là đối với các mặt hàng nông sản, thủy sản, dệt may, giầy dép, điện tử; năng lực sản xuất nhiều mặt hàng nông sản, khoáng sản như lúa gạo, cà phê, cao su, dầu thô đã đến ngưỡng, khó có khả năng tăng trưởng cao về sản lượng như những năm trước; một số mặt hàng công nghiệp có kim ngạch lớn như dệt may và da giày chịu tác động của một số quy định mới từ năm 2009 như Mỹ bỏ hạn ngạch hàng dệt may đối với Trung Quốc, EU không gia hạn quy chế GSP đối với hàng da giày xuất khẩu của Việt Nam...; nhiều mặt hàng xuất khẩu hiện đang gặp phải rào cản thương mại liên quan đến tiêu chuẩn chất lượng, quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm...; giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới có xu hướng tiếp tục đứng ở mức thấp và khó có thể tăng trong năm 2009; đối với doanh nghiệp FDI ngoài những khó khăn nêu ở trên còn có những bất cập khác như một số cơ chế chính sách cần được cụ thể hơn, các vấn đề về quy hoạch, về cơ sở hạ tầng... Tuy nhiên “trong Nguy có Cơ”, có những khó khăn về giá cả và thị trường nhưng xuất khẩu năm 2009 cũng có những cơ hội: Lãi suất cho vay giảm mạnh và điều kiện tiếp cận tín dụng thuận lợi hơn năm 2008. Chính phủ giành sự quan tâm đặc biệt đến thúc đẩy sản xuất, xuất khẩu, cụ thể: ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ-CP ngày 11 tháng 12 năm 2008 về những giải pháp cấp bách nhằm ngăn chặn suy giảm, duy trì tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội. Theo đó, Chính phủ đưa ra các nhóm giải pháp nhằm ngăn chặn suy giảm tăng trưởng kinh tế; áp dụng nhiều chính sách tài chính, tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp như chính sách miễn, giảm, hoãn, giãn thời gian nộp 98 thuế...., chính sách điều hành tỷ giá linh hoạt, áp dụng hỗ trợ lãi suất cho doanh nghiệp vay vốn lưu động để sản xuất, kinh doanh đồng thời chỉ đạo quyết liệt việc đơn giản hóa các thủ tục hải quan, thủ tục hoàn thuế để tạo điều kiện tối đa cho doanh nghiệp xuất khẩu. Chúng ta tin rằng, bằng sự phối hợp và nỗ lực của Chính phủ, doanh nghiệp và các hiệp hội ngành nghề, xuất khẩu của Việt Nam sẽ thực hiện được những mục tiêu đề ra trong thời gian tới, và đó sẽ là điều kiện tiên quyết để nước ta trở thành một nước Công nghiệp vào năm 2020. Xin chân thành cám ơn! 99 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. PGS.TS. Đỗ Đức Bình, TS. Nguyễn Thường Lạng; Giáo trình Kinh tế quốc tế. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội 2008. 2. GS.TS Bùi Xuân Lưu, PGS.TS. Nguyễn Hữu Khải; Giáo trình Kinh tế Ngoại thương. Nhà xuất bản Lao động – Xã hội 2006. 3. 4. 5. 6. 7. au_2008_ke_hoach_2009.html 8. _te_viet_nam_sau_2_nam_gia_nhap_wto.html 9. _giai_phap_thuc_hien_ke_hoach_nam_2009_cua_nganh_cong_thuong.h tml 10. et_cua_thu_tuong_chinh_phu_nguyen_tan_dung.html 11. 007 12. số liệu 13. Đề án phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006 – 2010 của Bộ Thương mại.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf4497_8386.pdf