Đề tài Thực trạng thương mại điện tử Trung Quốc hiện nay

PHẦN MỞ ĐẦU 1)Lý di chọn đề tài Trong thời buổi công nghiệp hóa hiện đại hóa,công nghệ thông tin phát triển,thương mại điện tử trở thành cầu nối giữa khách hàng với doanh nghiệp và trở thành có triển vọng lớn nhất trong tương lai.Thương mại điện tử giúp cho khách hàng dễ dàng hơn trong việc mua hàng hóa và doanh nghiệp cũng tiết kiệm được nhiều chi phí qua các khâu trung gian,đảm bảo uy tín đối với khách hàng.Khách hàng lựa chọn sản phẩm mà mình định mua,rồi điền thông tin vào form order của doanh nghiệp bán hàng, còn doanh nghiệp xử lí thông tin qua hệ thống trung tâm được bảo mật tuyệt đối,quá trình chỉ gói gọn trong vài giây,hết sức đơn giản.Chính vì vậy thương mại điện tử là sự lựa chọn tối ưu của hầu hết người tiêu dùng trên thế giới,còn các doanh nghiệp đang dần thương mại hóa việc trao đổi mua bán hàng hóa bằng điện tử.Trong tương lai thương mại điện tử sẽ trở thành ngành có triển vọng nhất trong tương lai, tuy nhiên cần có bàn tay của chính phủ.10 nước có thương mại điện tử phát triển nhanh nhất thế giới bao gồm: Đan Mạch,Anh,Thủy Điển,Na Uy,Phần Lan, Mỹ, Singapore, Hà Lan,Hồng Kông,Thụy Sỹ.Cơ sỏ hạ tầng nghèo nàn và chi phí kết nối cao hạn chế sự tăng trưởng thương mại điện tử ở các nước kém phát triển.Trung Quốc hiện đang là một trong những con rồng của Châu Á về phát triển kinh tế thương mại,khoa học kỹ thuật,kết cấu cơ sở hạ tầng đảm bảo cho việc phát triển thương mại điện tử,vì vậy thương mại điện tử là một ngành then chốt không thể thiếu,góp phần không nhỏ vào việc đóng góp cho GDP của Trung Quốc. 2)Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài: Việc nghiên cứu thương mại điện tử Trung Quốc giúp ta có được cái nhìn sâu hơn về cách thức họ quản lí nền kinh tế nói chung cũng như thương mại điện tử nói riêng,chúng ta có thể biết được làm thế nào họ có được ngành thương mại điện tử lớn mạnh đến như vậy và họ còn gặp phải những khó khăn nhược điểm nào, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm đối với ngành thương mại điện tử còn non trẻ ở Việt Nam.Việt Nam vừa gia nhập WTO,đứng trước những thử thách và cơ hội để phát triển ngành thương mại điện tử.Nhưng chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm người đi trước,đó là Trung Quốc, họ đã làm được gì và chưa làm được gì. 3)Nội dung nghiên cứu: Khi nghiên cứu một vấn đề trước hết chúng ta phải đi vào khía cạnh tổng quát của vấn đề,ta phải hiểu thế nào là thương mại điện tử,vai trò và tầm quan trọng của nó đối với nền kinh tế nói chung.Thương mại điện tử làm thay đổi việc kinh doanh trên thế giới như thế nào?Những thành tựu,thực trạng đổi mới,những khó khăn trong thương mại điện tử của Trung Quốc.và từ những khó khăn và thành tựu đó ta rút ra bài học kinh nghiệm đối với thương mai điện tử của Việt Nam về cách quản lí,hành lang pháp lí tạo đà phát triển cho thương mại điện tử. Bởi Việt Nam đang đứng trước cơ hội và thử thách,cơ sở hạ tầng còn thấp hành lang pháp lí ,thủ tuc hành chính còn rườm rà khiến ko chi riêng ngành thương mại điện tử mà cả nền kinh tế Việt Nam khó mà phát triển nếu như không sửa đổi học tập kinh nghiêm từ các nước đi trước. NẾU CÓ THẮC MẮC GÌ VỀ BÀI VIẾT BẠN LIÊN HỆ SỐ ***********

doc37 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2634 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thương mại điện tử Trung Quốc hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu bán lẻ. Tốc độ tăng trưởng của nó thì nhanh gấp 3 lần so với các cửa hàng offline. Những ông lớn trong lĩnh vực bán lẻ như Wal-mart và Target cũng đang rất tích cực sử dụng Internet, song song với hệ thống cửa hãng đại lý của mình. Nếu không ưng ý một sản phẩm mua qua mạng, khách hàng có thể mang đến trả trực tiếp tại cửa hàng, thay vì hì hục ra bưu điện gửi trả website. Nhưng thường thì những website thương mại trực tuyến thuần túy như Amazon.com hay đưa ra những mức giá hời hơn. Chi phí vận hành rẻ hơn (vì không tốn tiền thuê cửa hàng, kho bãi), cho phép họ liên tục trình làng những chương trình khuyến mại, giảm giá đầy hấp dẫn. Đó là lý do vì sao Amazon.com đứng đầu tuyệt đối về doanh thu của làng thương mại điện tử thế giới trong mùa mua sắm Giáng sinh vừa qua. Qua đó ta có thể rút ra bài học kinh nghiệm trong việc phát triển thương mại điện tử: - Phối hợp việc sử dụng Internet với các mục tiêu kinh doanh của công ty. Cán bộ quản lý hàng đầu trong doanh nghiệp cần điều hành TMĐT thay cho việc giao cho các cán bộ kỹ thuật công nghệ thông tin (TT). - Đảm bảo rằng công ty có đủ nguồn lực để tiếp thị và duy trì kinh doanh, chứ không phải chỉ để thiết kế và cài đặt website của mình. Một số chuyên gia gợi ý rằng 1/3 nguồn nhân lực nên dành cho chi phí khởi sự, 1/3 dành để khuyến mãi và 1/3 cuối cùng để cập nhật và duy trì. - Có một số sản phẩm thích hợp với hình thức bán và giao hàng qua mạng Internet hơn so với một số sản phẩm khác. Âm nhạc, sách, phần mềm, dịch vụ du lịch, dịch vụ tài chính được xếp hàng đầu trong lĩnh vực thương mại điện tử. Các sản phẩm khác như máy tính, xe ôtô, vật dụng gia đình ngày nay cũng đã được chào bán qua mạng Internet. - Mạng Internet có thể được sử dụng để giảm chi phí thông tin liên lạc, tạo ra mối quan hệ chặt chẽ hơn giữa các tổ chức ở nhiều nơi khác nhau, lưu trữ và sử dụng thông tin kinh doanh và liên lạc, hợp lý hoá quá trình quản lý bán hàng và cung 3)Các nhân tố ảnh hưởng đến thương mại điên tử ở các nước: Ở hầu hết cá nước trên thế giới,để có được thị trường thương mại điện tử lớn mạnh như vậy phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.Trước hết đó là sự phát triển chung của nền kinh tế tại nước đó,bởi thương mại điện tử cũng là trao đổi mua bán.Muốn có một ngành thương mại điên tử mạnh thì trước đó ngành thương mại truyền thống phải có một nền tảng vững chắc.Nền kinh tế xã hội phát triển tạo điều kiện nâng cao kết cấu cở sở hạ tầng,khoa học kĩ thuật phát triển kéo theo công nghệ thông tin cũng phát triển,đăc biệt là mạng internet.Muốn người tiêu dùng sử dụng việc mua bán qua mạng nhiều thì trước hết phải có thật nhiều người sử dụng mạng internet.Nếu như không có internet thì thương mại điện tử không tồn tại bởi thương mại điện tử giao dịch chủ yếu bằng internet.Bởi vậy muốn phát triển thương mại điện tử trước hết phải có một mạng internet có băng thông đường truyền đủ lớn để doanh nghiệp và khách hàng có thể dễ dàng giao dịch qua mạng hơn. Thứ hai,yếu tố góp phần không nhỏ vào việc tạo điều kiện cho việc phát triển thương mại điện tử đó là sự quản lí của Nhà nước. Sự phát triển của Thương mại điện tử trên thế giới đã làm thay đổi cách thức kinh doanh, giao dịch truyền thống và đem lại những lợi ích to lớn cho xã hội. Tuy nhiên bên cạnh đó cũng phải thừa nhận rằng những rủi ro gặp phải trong quá trình giao dịch, kinh doanh trên mạng là hiện thực và việc này đòi hỏi phải có các giải pháp không chỉ về mặt kỹ thuật mà còn cần phải hình thành được một cơ sở pháp lý đầy đủ. Những kinh nghiệm thực tế trên thế giới cho thấy để thúc đẩy thương mại điện tử phát triển thì vai trò của Nhà nước phải được thể hiện rõ nét trên hai lĩnh vực: cung ứng dịch vụ điện tử và xây dựng một hệ thống pháp luật đầy đủ, thống nhất và cụ thể để điều chỉnh các quan hệ thương mại điện tử. Nếu như chúng ta thiếu đi một cơ sở pháp lý vững chắc cho thương mại điện tử hoạt động thì các doanh nghiệp và người tiêu dùng sẽ rất lúng túng trong việc giải quyết các vấn đề có liên quan và về phía các cơ quan Nhà nước cũng sẽ rất khó có cơ sở để kiểm soát được các hoạt động kinh doanh thương mại điện tử. Hơn thế nữa thương mại điện tử là một lĩnh vực mới mẻ cho nên tạo được niềm tin cho các chủ thể tham gia vào các quan hệ thương mại điện tử là một việc làm có tính cấp thiết mà một trong những hạt nhân là phải tạo ra được một sân chơi chung với những quy tắc được thống nhất một cách chặt chẽ. Trong tiến trình hội nhập với thế giới với tư cách là thành viên của APEC, Việt nam đang tích cực tham gia và ủng hộ "Chương trình hành động chung" mà khối này đã đưa ra về thực hiện "Thương mại phi giấy tờ" vào năm 2005 đối với các nước phát triển và năm 2010 đối với các nước đang phát triển. Việt nam cũng tích cực tham gia vào lộ trình tự do hoá của Hiệp định khung e-ASEAN và thực hiện theo "Các nguyên tắc chỉ đạo Thương mại điện tử" mà các nước trong khối đã thông qua. Chính vì thế những đòi hỏi của pháp lý quốc tế chúng ta phải đáp ứng để có thể hoà nhập và theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới. Một yếu tố nữa góp phần không nhỏ đối với phát triển thương mại điện tử,đó là nhu cầu của người tiêu dùng.Khách hàng luôn là yếu tố quan trọng nhất,họ có quan tâm đến hinh thúc mua bán giao dịch qua mạng internet hay không?Doanh nghiệp cần phải có chiến lược phú hợp để phát hiên nhu cầu ,gơi mở nhu cầu của khách hàng,cần phải xem xem họ có thực sự quan tâm đến việc trao đổi mua bán qua mạng intermet hay không hay họ ưa kiểu thương mại truyền thống nghĩa là được nhìn tận mắt sản phẩm mà họ định mua. Chương II:Phân tích thực trạng thương mại điện tử Trung Quốc hiện nay 1)Đặc điểm và quá trình phát triển thương mại điện tử Trung Quốc trong những năm vừa qua: Một trong những nước đang phát triển ở châu Á thành công trong việc phát triển TMĐT là Trung Quốc. Khái niệm TMĐT được đưa vào Trung Quốc năm 1993, và giao dịch trực tuyến đầu tiên ở Trung Quốc được thực hiện vào năm 1996. Dự án đẩy mạnh phát triển  TMĐT giữa các doanh nghiệp nhằm đẩy mạnh thông tin hóa của nền kinh tế quốc dân được bắt đầu thực vào năm 1998. Việc chuyển từ khái niệm sang thực hành của TMĐT bắt đầu từ năm 1999. Mở rộng từ B2C đến C2C và B2B (nổi lên từ cuối năm 1999), TMĐT đã thể hiện được vị trí quan trọng của mình ở Trung Quốc. Tốc độ tăng trưởng Internet ở Trung Quốc thật đáng kinh ngạc. Theo CNNIC (Trung tâm Internet Trung Quốc), tính đến 30 tháng 6 năm 2007 có 162.000.000 người sử dụng Internet, số lượng Computer Hosts là 67.100.000, số lượng website là 1.311.600, với tốc độ băng thông ra quốc tế là 312.342 Mbit/s. Các con số này đã lý giải vì sao TMĐT ở đất nước đông dân nhất thế giới này phát triển nhanh chóng ngang tầm các quốc gia phát triển về công nghệ. Bảng 1: Tốc độ tăng trưởng Internet ở Trung Quốc Năm Số người           sử dụng Dân số % Dân số Nguồn cung cấp 2000 22.500.000 1.288.307.100 1,7% ITU 2001 33.700.000 1.288.307.100 2.6% ITU 2002 59.100.000 1.288.307.100 4,6% ITU 2003 69.000.000 1.288.307.100 5,4% CNNIC 2004 94.000.000 1.288.307.100 7,3% CNNIC 2005 103.000.000 1.289.664.808 7,9% CNNIC 2006 137.000.000 1.317.413.495 10,4% CNNIC Công ty IResearch vừa cho biết rằng tổng doanh số quảng cáo trực tuyến của Trung Quốc đã vượt qua 3 tỷ Nhân Dân Tệ (NDT) trong năm 2005, tức khoảng 374 triệu USD. Thị trường quảng cáo trực tuyến ở Trung Quốc hiện đang có tốc độ tăng trưởng hàng đầu thế giới, với tổng doanh số năm 2005 là 3,13 tỷ NDT, tăng 77,1% so với năm 2004 và tăng đến 760% so với năm 2001. Tỷ lệ của quảng cáo trực tuyến trong tổng doanh số quảng cáo đã tăng từ 0,5% trong năm 2001 lên 2,3% trong năm 2005. Tổng doanh số quảng cáo trên mạng Sina đạt đến 680 triệu NDT, chiếm 21,7% thị phần quảng cáo online Trung Quốc; mạng Sohu chiếm 15% thị phần; NetEase chiếm 8%; QQ chiếm 3,8% và TOM chiếm 2,2%. Tổng thị phần của 5 mạng lớn nhất Trung Quốc này đã chiếm đến 53,4% thị phần quảng cáo trực tuyến tại Trung Quốc. Quảng cáo về nhà đất, sản phẩm CNTT và dịch vụ trực tuyến là 3 lĩnh vực quảng cáo đứng hàng đầu trong lĩnh vực quảng cáo. Riêng Samsung đã chi đến 60,35 triệu NDT để quảng cáo cho các sản phẩm của mình, trở thành công ty đứng hàng đầu về số tiền chi cho quảng cáo online tại Trung Quốc; tiếp sau là China Mobile với 41,1 triệu NDT và NetEase với 39,13 triệu NDT. IResearch dự báo rằng quảng cáo trực tuyến ở Trung Quốc trong năm 2006 sẽ đạt gần đến 5 tỷ NDT và sẽ lên tới 36,7 tỷ NDT (khoảng 4 tỷ USD), vào năm 2010 Theo số liệu của một cuộc nghiên cứu mới đây, doanh thu từ thương mại điện tử trong năm 2005 của Trung Quốc đạt kỉ lục 553,1 tỉ Nhân Dân Tệ (NDT) (68,72 tỉ USD), tăng 58% so với năm 2004. Theo kết quả cuộc nghiên cứu của Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Tiển Internet Trung Quốc (China Internet Development Research Centre - CIDRC) thuộc Học Viện Khoa Học Xã Hội Trung Quốc, thị trường khách hàng-với-khách hàng (consumer-to-consumer - C2C) đã trở thành điểm nhấn của sự phát triển, với doanh thu 13,5 tỉ NDT (1,68 tỉ USD), gấp 3 lần năm 2004. Năm 2005, trang web đấu giá nội địa Taobao.com có 70% người dùng của thị trường C2C Trung Quốc, kiểm soát số giao dịch trị giá 9,7 tỉ NDT (1,2 tỉ USD), đánh bại chi nhánh dịch vụ đấu giá eBay của Mỹ tại Trung Quốc, trở thành website C2C số 1 quốc gia này nhờ đưa ra các dịch vụ miễn phí. Tháng 12/2005, trong một cuộc điều tra của CIDRC với 3.483 nhười dùng mạng tại 5 thành phố là Bắc Kinh, Thượng Hải, Trùng Khánh, Tây An, Tề Nam cho thấy, đến cuối năm 2005, hơn 71,3% người dùng mạng đã từng mua bán trực tuyến (con số này ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương trung bình là 70%). 95% số người được hỏi lạc quan về tương lai của kinh doanh trực tuyến, cho thấy sẽ tiếp tục có sự tăng trưởng của thương mại điện tử trong năm 2006. Ông Ma Haitao, người lãnh đạo cuộc nghiên cứu của CIDRC nói, có hơn 60 triệu mặt hàng trực tuyến. Sách và các mặt hàng nghe-nhìn được mua bán trực tuyến nhiều nhất, nhưng doanh thu từ máy tính, điện thoại di động, máy ảnh số, máy nghe nhạc MP3, vé máy bay, các đồ phụ kiện cũng đã tăng lên. Sự phát triển của các hình thức thanh toán trực tuyến như Paypal và Alipay đã khiến 70% người mua hàng trực tuyến thích giao dịch trực tuyến hơn là trả tiền mặt. Tuy nhiên, 43% người được hỏi vẫn còn băn khoăn về chất lượng hàng hóa trực tuyến và các dịch vụ hậu mãi Khi nói về thương mại điện tử Trung Quốc chúng ta không thể không nói đến những gương mặt điển hình trong thương mại điển tử.Ở đây chúng tôi muốn nói tới Jack Ma, Jack Ma hiện được coi là ông trùm lớn nhất trong ngành kinh doanh công nghệ thông tin ở Trung Quốc. Giới trẻ nước này từ vài năm nay đã tôn ông là thần tượng kinh doanh của họ.  Những gì mà Jack Ma đạt được với Alibaba.com đã được người Trung Quốc ghi nhận chẳng kém gì tỉ phú giầu nhất thế giới Bill Gates, ông chủ của Microsoft. Jack Ma hiện cũng đã trở thành một trong những tỉ phú Đôla của thế giới sau phi vụ bán lại 35% cổ phần của công ty cho tập đoàn Yahoo. Đây là một phi vụ nổi tiếng đã thu hút sự quan tâm bất thường của giới truyền thông trong năm 2005. Cả Alibaba.com và Yahoo đều rất hài lòng với hợp đồng đã được ký kết của mình. Theo đó, có thể biết rằng đây là một hợp đồng đầu tư có giá trị lớn nhất của một tập đoàn nước ngoài vào thị trường Trung Quốc. Các phương tiện truyền thông đều đưa tin Jack Ma và Công ty Alibaba.com đã thu về 1,7 tỉ USD trong đó có 1 tỉ USD tiền mặt để đổi lấy việc Yahoo nắm giữ 35% cổ phần của Alibaba.com cùng với 1 trong 4 ghế thành viên quản trị của công ty. Trong khi tập đoàn Yahoo, cũng của một ông chủ người Mỹ gốc Trung Quốc là Jerry Yang, loan tin về một hợp đồng liên doanh thì ông chủ Jack Ma lại nói theo một chiều hướng khác. Ông thông tin lại rằng đây không phải là một liên doanh “Joint Venture” và khẳng định ban lãnh đạo cũ vẫn nắm toàn quyền kiểm soát Alibaba. Yahoo còn phải đồng ý đưa các khách hàng của hệ thống chi nhánh Yahoo tại Trung Quốc về với Alibaba.com. Jack Ma tự hào rằng như thế chính ông mới là người kiểm soát lại các chi nhánh của Yahoo. Các chuyên gia tính rằng giá trị thật sự của hợp đồng mà Jack Ma đã ký kết với Yahoo phải là 4 tỉ USD. Được coi là thần tượng của lĩnh vực kinh doanh công nghệ cao nhưng điều đáng ngạc nhiên là ông trùm kinh doanh Internet Jack Ma lại là một người ngoại đạo thật sự. Chính bản thân Jack Ma cũng không hề giấu giếm điều này. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu mà thương mại điện tử Trung Quốc đạt được,thì nó còn gặp phải rất nhiều những khó khăn. Báo cáo mới đây của Bộ Thương mại Trung Quốc cho biết, thương mại điện tử nước này hiện chưa phát triển mạnh do 3 trở ngại chính là thanh toán qua mạng không thuận lợi, thiếu chính sách thuế và sự yếu kém của dịch vụ chứng thực điện tử. Thanh toán qua mạng đóng vai trò quan trọng trong thương mại điện tử. Song sự an toàn, thuận tiện cũng như hiệu quả của loại hình này là một đòi hỏi không thể thiếu. Tuy nhiên, nhận thức về vấn đề đó ở Trung Quốc vẫn chưa cao. Mặt khác, do thiếu các chế tài bảo vệ của pháp luật, trọng tài kinh tế và sự hiểu biết về trách nhiệm pháp lý nên rất khó khăn khi có tranh chấp xảy ra. Thêm vào đó, hiệu quả thanh toán qua mạng của Trung Quốc vẫn còn rất thấp, thời gian thanh toán qua ngân hàng thường kéo dài (khoảng 10 ngày), chi phí lại cao... Thứ hai là vấn đề thuế. Trong khi thương mại điện tử là một loại hình kinh doanh hoàn toàn mới, khác xa so với các loại hình truyền thống, Trung Quốc vẫn chưa có chính sách thuế cho lĩnh vực này. Bản báo cáo của Bộ Thương mại đề xuất với chính phủ các dự thảo luật phù hợp để đảm bảo cho sự phát triển thương mại điện tử trong tương lai. Trên thực tế, các quốc gia có nền kinh tế phát triển ở mức độ khác nhau sẽ có chính sách thuế khác nhau đối với thương mại điện tử. Chẳng hạn, ở Mỹ, thương mại điện tử, các sản phẩm kỹ thuật số và truy cập Internet được miễn thuế hoàn toàn, trong khi ở châu Âu chỉ tính thuế giá trị gia tăng đối với thương mại điện tử. Trở ngại thứ ba là hạn chế trong hệ thống dịch vụ chứng thực điện tử của Trung Quốc. Trong số các tập đoàn cung cấp dịch vụ này cho thương mại điện tử nước này, khoảng 1.000 tập đoàn là làm việc theo lối truyền thống với chất lượng dịch vụ không cao. Do vậy, nhu cầu phải cung cấp một dịch vụ giao nhận và giao dịch nhanh chóng hiện đại đang rất bức thiết tại Trung Quốc. Bản báo cáo trên cho rằng chính phủ nên giữ một vai trò tích cực trong việc khuyến khích và hỗ trợ thương mại điện tử cho các tập đoàn kinh doanh truyền thống. Mặt khác cũng nhấn mạnh bản chất của thương mại điện tử và cảnh báo rằng các hoạt động thương mại theo hình thức này không chỉ cần xây dựng các mạng lưới là đã đủ. 2)Thương mại điện tử ở Việt Nam: Nghèo đói và tụt hậu! đó là nỗi “sợ hãi” chung của bất kì một dân tộc nào. VN cũng vậy. Có lẽ trong lịch sử chưa lúc nào người Việt Nam chịu cúi đầu trước giặc ngoại xâm. Bất kể kẻ đó có sức mạnh lớn đến thế nào. Thế nhưng hiện nay, dường như chúng ta lại đang phải vật lộn trước sự nghèo đói, và lạc hậu, thậm trí là đang “ngủ quên” trên sự đói nghèo và trì trệ! …hãy để tôi giải thích cho ý kiến đó…Đa số người dân, đều thỏa mãn với chỉ số phát triển “một con số”, thỏa mãn với những điều kiện hiện tại! Cả báo đài, dường như cũng tập trung về những cái chúng ta “đã làm được” nhiều hơn là những cái chúng ta chưa làm được, hay những cái chúng ta cần làm,cần khắc phục ngay để có thể đuổi kịp các nước trong khu vực. Mô hình chung, nó tạo ra một sự ngộ nhận rằng Việt Nam đang “vững bước” tiến lên, không hề sai sót! - Mọi thứ trôi qua, bất kể đó là cơ hội – hay thách thức, bất kể VN lắm bắt – hay bỏ qua người dân vẫn sống, tỷ lệ đói nghèo vẫn giảm, tăng trưởng vẫn đều đặn. Đôi khi là một số thông tin về tham nhũng, về tệ nạn, hay về sự xuống dốc của đạo đức, lối sống. Sự mất đi của giá trị đạo đức và tinh thần. Nhưng nó không đủ để cho người dân “thực sự quan tâm” trước những mối lo lắng thường nhật của bản thân, của gia đình. Dần dà dường như người dân, đặc biệt là giới trẻ trở lên “lãnh đạm” với chính trị, với những thách thức mà Việt Nam đáng phải đối mặt. - Hội nhập ngay trước mắt, không chỉ ở nguyên nhân lao động không được đào tạo mà chính sự thiếu hiểu biết về làn sóng toàn cầu hóa, về kinh tế thế giới, thậm trí cả kinh tế Việt Nam của tuyệt đại đa số người dân đã và sẽ trở thành “rào càn lớn nhất” cho việc thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển hậu gia nhập WTO. Liệu chúng ta đã “sẵn sàng”, liệu chúng ta đã “chuẩn bị” kĩ lưỡng để “chiến thắng” khi vào WTO? Đó không chỉ là sự chuẩn bị về luật pháp, về thể chế, mà thực tế còn đòi hỏi, đó còn là sự hiểu biết về nền kinh tế TG, hiểu biết về WTO, hiểu biết về luật lệ quốc tế, văn hoá của các vùng lãnh thổ khác nhau mà chúng ta thiết lập quan hệ thương mại. Đồng thời củng cố chất lượng của nguồn lao động vốn không được đào tạo bài bản. Có như vậy, chúng ta mới nghĩ đến chuyện cạnh tranh, học hỏi cái này, cái kia, rồi nghĩ đến chuyện vươn ra đuổi kịp TG. Chúng ta không thể phó thác cho may rủi, hay cho những nhận định chủ quan rằng doanh nghiệp năng động, người dân năng động tự khắc sẽ “hội nhập thành công”. Tự họ sẽ tìm ra cách để cạnh tranh được với doanh nghiệp nước ngòai, tự họ sẽ ý thức được tầm quan trọng của việc học hỏi cho mình một kĩ năng để có thể “tồn tại” trong hội nhập. Chúng ta đặt lên vai người dân, đặt lên vai doanh nghiệp những thử thách rất lớn, mà chưa giúp họ được nhiều trong việc nhận thức về nó, càng chưa giúp họ được nhiều những điều kiện ban đầu “chắc chắn” để có họ thể chiến thắng. -Mọi việc sẽ không quá phức tạp nếu chúng ta chỉ so sánh với mình trong quá khứ, tiếp tục bảo hộ và “sống một mình”. Nhưng mọi chuyện sẽ là tệ hại khi chúng ta thực sự tham gia vào toàn cầu hóa. Chưa nói đến việc các giá trị truyền thống có thể bị đe dọa, rằng cây oliu có thể sẽ bị “chiếc lexus đè bẹp”. Chỉ riêng nói về kinh tế, động lực chính buộc chúng ta hội nhập. Có “quá nhiều” điều chúng ta phải lo lắng trong tương lai “không xa lắm”. Đặc biệt là cho cộng đồng các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhưng cũng chính họ, sẽ là những cơ cấu “năng động” hơn cả, là những “bộ phận” của nền kinh tế, có khả năng hội nhập nhanh chóng nhất,ít đau đớn nhất và thành công nhất vào nên kinh tế TG. - Hơn lúc nào hết, chúng ta cần mau chóng tìm ra một con đường (đường tắt thì càng tốt) để có thể củng cố sức mạnh của cộng đồng các doanh nghiệp VN trước thềm hội nhập. Đồng thời củng cố “sức mạnh và giá trị” của nguồn lao động, vốn chưa được đào tạo của đất nước. Bởi vì đó chính là những động lực và là cơ sở để Việt Nam vững bước trong nền kinh tế TG. - Có lẽ sẽ lạc đề, nếu tôi đi quá sâu vào nền kt VN hiện tại, và những thách thức trong hội nhập vì chủ đề chúng ta đề cập tới chỉ là TMĐT. Nhưng TMĐT càng có ý nghĩa quan trọng ở VN hơn, khi chúng ta nhận thấy rằng, rất nhiều những khó khăn chúng ta đang gặp phải thì Thương mại điện tử, có thể là một phần lời giải cho bài toán đã được đề cập ở trên. Một trong những trở ngại lớn nhất của Thương Mại VN là sự vắng bóng gần như hoàn toàn của mạng lưới phân phối “của VN” tại nước ngoài. Bên cạnh đó việc quảng bá doanh nghiệp, xây dựng thương hiệu, điều tra thị trường gặp rất nhiều khó khăn và tốn kém, nằm ngoài sức của đa số doanh nghiệp VN. Điều này đã khiến các doanh nghiệp của ta, không có nhiều lựa chọn khi đầu tư ra nước ngoài. Họ có thể đơn giản là “chọn một lối tắt”, kiểu như xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty nhập khẩu, hoặc nhận là đơn vị gia công cho một thương hiệu sẵn có mạng lưới phân phối trên thị trường. Chịu sự “thua thiệt” về lợi nhuận, với vị thế của kẻ yếu. Thậm trí còn luôn luôn đối mặt với nguy cơ bị “hủy hợp đồng”. Các doanh nghiệp gia công hàng may mặc và giầy dép, đã có không chỉ một dẫn chứng về câu chuyện của một số doanh nghiệp đứng trước bờ vực phá sản do không thể kí tiếp hợp đồng ngay sau khi đã vay tiền và mở rộng nhà máy để sản xuất, bởi “càng về sau” thì giá “càng giảm”, doanh nghiệp “không chịu được” đành Chia tay. Đây là điển hình khiến không ít các doanh nghiệp phải cân nhắc kĩ trước khi ký hợp đồng gia công cho nước ngoài, hoặc vay tiền mở rộng cơ sở sản xuất để đáp ứng nhu cầu của đói tác về quy mô. Khi mà người nắm đằng chuôi lại là các công ty có được mạng lưới phân phối. - Kết hợp với những hạn chế về phân bổ hạn ngạch, rất nhiều ngành của ta phát triển còn ở mức “dưới tiềm năng’ hoặc chưa đạt được lợi nhuận “xứng đáng”. Hạn ngạch đã được rỡ bỏ sau khi ta ra nhập WTO, “vòng kim cô” đã đựơc tháo. Và sẽ ra sao nếu TMĐT giúp chúng ta xd kênh phân phối, kênh nghiên cứu thị trường, quảng bá thương hiệu và sản phẩm, nó sẽ giúp chúng ta tiếp cận gần hơn với người tiêu dùng trên khắp thế giới với chi phí không đáng kể. Khi đó, chúng ta có thể chủ cho “số phận doanh nghiệp mình”. “lời ăn lỗ chịu” – đó là những thách thức nhưng cũng là những cơ hội mà doanh nghiệp VN cần chớp lấy, vì sự phát triển lâu dài. - Khó khăn thứ 2 là nguồn nhân lực quản lí, điều hành của ta còn yếu kém, và thiếu kinh nghiệm hoạt động trong môi trường cạnh tranh cần tính chuyên nghiệp cao.TMĐT lại một lần nữa giúp chúng ta các công cụ quản lí sản xuất và điều hành và phân tích kinh doanh hữu hiệu. Đó là sự xuất hiện của thư kí, của kế toán, của “chiến lựợc” gia điện tử, điều đó cũng đồng nghĩa với việc giảm được tối đa chi phí nhân công “không cần thiết”, tăng tính cạnh tranh và chuyên nghiệp của doanh nghiệp. - Giáo dục nói chung và đào tạo đại học, cao đẳng, trung cấp nói riêng, đó là những nơi đào tạo trực tiếp ra nguồn lao động phục vụ phát triển, dường như đáng quá tải, đó là chưa kể đến chất lượng chưa đáp ứng được nhu cầu. Thì bên cạnh đó, việc phát triển như vũ bão của CNTT, của TMĐT, có thể giải quyết nhu cầu rât lớn của việc tự đào tạo, tự nghiên cứu hay đào tạo trực tuyến, tìm kiếm và tra cứu tài liệu với chi phí rẻ chưa từng thấy. - Hay nói cách khác, chính những thiếu sót mà các doanh nghiệp VN gặp phải khi hội nhập sẽ là cơ hội để TMĐT của VN cất cánh. - “TMĐT không phải là một phương thức mới của thương mại. Thực ra nó đánh dấu sự bắt đầu của một hệ thống tạo ra của cải vật chất mới. Nó là một cơ hội thương mại tuyệt vời để phát triển kinh tế”. Đó là lý do tại sao cả những nước nghèo lẫn các nước giầu đang đổ tiền vào khai thác TMĐT, dựa vào TMĐT đề theo đuổi những “tham vọng riêng của mình”. - Nhờ sự phát triển vượt bậc của CNTT những năm gần đây, các nước đã bắt đầu ý thức được việc phải xây dựng một hệ thống tạo ra của cải vật chất mới trong một nền văn minh mới. Cũng giống như hệ thống nhà máy, đường xá, cầu cống, cửa hàng.. là những yễu tố của một hệ thống tạo ra của cải vật chất trong xã hội công nghiệp. Bất cứ ai làm chủ được hệ thống tạo ra của cải vật chất mới này sẽ làm chủ nền văn minh mới, trong tương lai không xa. - Và điều đáng nói ở đây là, cũng giống như xã hội tư bản,(xã hội có một hệ thống tạo ra của cải vật chất lớn gấp nhiều lần công xã nguyên thủy,chiếm hữu nô lệ hay phong kiến). Hệ thống tạo ra của cải vật chất mới ở thời đại thông tin này cũng có khả năng tạo ra của cải vật chất lớn hơn nhiều so với tích lũy ở xã hội tư bản. Tuy mới chỉ ở giai đoạn đầu xây dựng cơ sở hạ tầng cho một xã hội mạng, tuy nhiên, những doanh nghiệp ứng dụng được những hạ tầng cơ bản ấy đã có một “sức mạnh” cực kì to lớn, đóng góp vai trò quan trọng trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. - Một vd điển hình là vụ sát nhập “lịch sử” giữa American Online và Time Warner, tổng tài sản của 2 công ty này khoảng 185 tỷ đô, trong khi đó dự chữ ngoại tệ của Đài Loan (hàng thứ ba - thứ tư trên thế giới) chỉ chưa tới 100 tỷ đô. 2 tập đoàn lớn có tài sản lớn hơn cả số tiền mà 200 triệu người Đài Loan tích góp suốt mấy chục năm. Nguyên nhân là ở đâu, đó là do tại Mỹ nơi có hạ tầng mạng tốt nhất, họ đã và đang xây dựng một “xã hội mạng” mà Cái cốt lõi của xã hội mạng là TMĐT. Không quá nếu khẳng định rằng bất cứ ai làm chủ được TMĐT thì sẽ làm chủ nền văn minh sắp tới. Nền văn minh của xã hội thông tin. - Việc gia nhập WTO đông nghĩa với việc chúng ta “chấp nhận” tham gia vào Toàn Cầu Hóa, một xu thế tất yếu của lịch sử thế kỉ này. Tuy nhiên, để có thể đứng vững trong cơn lốc toàn càu hóa, chúng ta phải triệt để khai thác những công cụ, những sức mạnh, những lợi thế nó đem lại, trước khi, những yếu kém của chúng ta nhấn chìm chính chúng ta, trước những cơ hội,những thách thức vô cùng mới mẻ và khắc nghiệt. Thương mại điện tử là một trong những lực mạnh mẽ nhất thúc đẩy toàn cầu hóa trong thời kì mới. Và đây là một cơ hội lớn chưa từng có trong lịch sử để các công ty nhỏ, các nước nhỏ có cơ hội đuổi kịp các nước giầu có. - Nhắc đến Trung Quốc, người ta nghĩ ngay đến đây là “công xưởng” của TG, nghĩ đến nguồn nhân công khổng lồ và hàng hóa rẻ tiền, thì có lẽ ,chỉ trong vài năm trở lại đây, người ta đã bắt đầu thay đổi cái nhìn về TQ. Nếu như nhắc đến TQ, nhắc đến thành công của hội nhập tại đây thì người ta hay liên tưởng ngay đến sự phát triển “vượt bậc – bất ngờ” của ngành xe hơi nước này, nhưng với tôi đó chỉ là “phần nổi của tảng băng”. Không chỉ công nghiệp của họ bắt đầu đuổi kịp thế giới, mà trong những ngành kĩ thuật cao, ứng dụng những công nghệ hiện đại nhất, họ cũng tạo được vị thế nhất định của mình. Một trong những ngành mới mẻ nhất đó là TMĐT. Cần nói thểm rằng, cho đến thời điểm này, chưa có bất kì một trang web hay một dịch vụ công nghệ cao nào của nước ngoài được đánh giá là “thành công” tại TQ. Tất cả các dịch vụ của yahoo, google, ebay, đều có những “đối trọng nội địa” không dễ bị khuất phục, mà thực tế là họ đã vượt mặt những “ông trùm lắm tiền nhiều của” này với ngay cả những dịch vụ “tâm đắc nhất”. Đó là Baidu với dịch vụ tìm kiếm, Shanda với trò chơi, Sina với cổng thông tin. Và đặc biệt đó là mạng alibaba trong lĩnh vực “môi giới hôn nhân” trong thương mại (là nơi các doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm, gặp gỡ và kí kết hợp đồng), trang Taobao chuyên về đấu giá là đối thủ đã “giành lại TQ” trong lĩnh vực này từ tay ebay. Với những cơ sở dữ liệu đầu tiên được xây dựng vào năm 1995, Jack Ma chỉ với 2000$ tạo dựng lên trang web tiền thân mạng alibaba.com, rồi sau đó là Taobao. Đó là kể cả việc Jack Ma và mạng Alibaba đã từng bị “đóng cửa” 2 năm (kể từ năm 1997) trong một đợt “chống internet” của TQ, nó mở cửa trở lại vào 1999 và nhận được 25 triệu đô đầu tư từ nước ngoài để xây dựng lên mạng Alibaba ngày nay. - Đó là ở Trung Quốc, và chẳng có lí do gì để chúng ta nghi ngờ việc hình thành một alibaba, một ebay, một Taobao của Việt Nam, mở rộng và chiếm lĩnh thị trường TMĐT toàn cầu. Sự cố chodientu.com của gần đây, cũng là một bài học đắt giá cho những ai đã, đang và sắp lập nghiệp “bằng thương mại điện tử” và đó còn là bài học cả cho những người quản lí, điều hành, hoạch định chính sách về yêu cầu nâng cao trình độ, nâng cao hiểu biết và nâng cao “ý thức” trong cộng đồng những người sẽ xây dựng bộ mặt TMĐT Việt Nam. Tất cả mọi hành động phải vì một mục đích chung là “phát triển TMĐT Việt Nam” bất kì ai “có những hành động gây tổn hại” đến lợi ích chung của quốc gia (trong trường hợp này là TMĐT) sẽ phải bị “trừng phạt đích đáng”. Có rất nhiều lựa chọn cho những người trẻ tuổi đối mặt và sử lí những vấn đề ẩn sau “chợ điện tử”, nhưng thực tế họ đã có chọn lựa “tồi” nhất. Khó ai có thể “ước lượng” được phương hại mà hành động ấy đã gây ra cho chodientu nói riêng và TMĐT VN nói chung “lớn” đến mức nào. Nhưng nó sẽ còn lớn hơn nhiều, nếu chúng ta không rút ra bài học từ chính “nhận thức” của những “người trong cuộc” để ngăn chặn những hành động “phá hoại” tương tự trong tương lai. - Và đến thời điểm này, có lẽ ít ai còn băn khoăn việc chúng ta có nên đầu tư cho TMĐT hay không, mà vấn đề hiện nay là phải đầu tư như thế nào cho hiệu quả. Đây là lúc chúng ta cần ngồi lại, bàn bạc những “được – mất” khi tham gia vào thương mại điện tử toàn cầu .Cũng giống như chúng ta đã ngừng tranh cãi có nên tham gia vào quá trình toàn cầu hóa hay không, mà vấn đề cần thảo luận là chúng ta hội nhập như thế nào để hạn chế những tiêu cực và tận dụng được sức mạnh của toàn cầu hóa_trong đó TMĐT là một trong những công cụ “đầy quyền lực” mở đường cho làn sóng Toàn Cầu Hóa mởi trong thế kỉ này. - Và đứng trước ngưỡng cửa việc hội nhập ngày một sâu rộng, Việt Nam nếu không muốn bị tụt hậu, thì chỉ còn cách tiến lên. Trong tay chúng ta, có thứ vũ khí mạnh nhất, nhưng đồng thời chính chúng, sẽ tạo cho ta một yếu điểm lớn nhất, nếu chúng ta không sử dụng được lợi ích của toàn cầu hóa, của TMĐT, thì chính chúng sẽ nhấn chìm chúng ta. - Ngay cả tại thị trường nội địa, số người sử dụng internet và đtdd của VN là tương đối lớn và còn tăng trưởng mạnh trong tương lai, đa số họ là thanh thiếu niên, và với “thói quen” thích mua sắm và tham gia các hoạt động giả trí, đây cũng có thể là nguồn thu không nhỏ cho các nhà cung cấp dịch vụ, và nhà bán lẻ. Đó cũng là 1 phần hạ tầng cơ sở cho TMĐT, dường như “đang sẵn sàng” chờ đợi một sự thay đổi lớn về dịch vụ. - Việc đầu tư cho hạ tầng “xã hội mạng” là tất yếu, nhưng đầu tư như thế nào là vấn đề mang ý nghĩa sống còn. “Cơ sở hạ tầng cho xh mạng” ở đây bao gồm hạ tầng về công nghệ, về văn hóa, về trình độ, và cách thức người dân đối mặt với cơn bão toàn cầu hóa, cơn bão đổi mới công nghệ, đổi mới tri thức, là thứ mà người dân Việt Nam vốn ngại thay đổi. Chính vì lẽ đó, khoản đầu tư lớn nhất để xd hạ tầng mạng phục vụ cho TMĐT nói riêng và phục vụ cho việc phát triển đất nước nói chung trong tương lai đó chính là đầu tư cho giáo dục. Tuy nhiên, không biết nếu nói rằng giáo dục (đặc biệt là giáo dục đại học) hiện nay đang “khủng hoảng” hoặc “ lâm vào bế tắc và lạc hậu” thì có làm cho những nhà giáo dục tự ái hay không? Nhưng có lẽ đã đến lúc chúng ta thẳng thắn nhìn nhận hiện thực của giáo dục nước nhà. Bắt mạch, kể đơn cho nó, và cho dù có phải sử dụng những liều thuốc đắng nhất, thì chúng ta vẫn phải làm, nếu không muốn mọi thứ đều đổ vỡ sau hội nhập. Theo như một bài báo từng được đăng trên Vietnamnet dẫn một tài liệu nước ngòai rằng chất lượng giáo dục của ta đang kém Thái Lan 50 bậc? Các chỉ số về trí tuệ, …cũng chỉ khoảng 3/10. Có lẽ “người Việt Nam” không thông minh “như chúng ta tưởng”, hay là cách giáo dục của chúng ta hiện nay “có vấn đề”...? - Liệu bấy nhiêu đó đã đủ là lý do để chúng ta phải gay gắt với ngành giáo dục? thúc dục dục đổi mới nhanh chóng, chí ít là nếu muốn phát triển những lĩnh vực liên quan TMĐT tại Việt Nam. Bởi đối với TMĐT, trí tuệ, sáng tạo và công nghệ là những điều kiện “không thể thiếu”. Với những ngành khác, công nghệ chúng ta dùng có thể lạc hậu “đôi chút” vì dịch vụ chúng ta là ứng dụng cho “dân Việt Nam” và họ có “đòi hỏi không cao”,nhưng với TMĐT, lạc hậu với công nghệ, đồng nghĩa với việc chúng ta từ bỏ tất cả mọi hoạt động kinh doanh, kể cả việc cung cấp các dịch vụ trong nước. Bởi vi không một khách hàng nào đến với những dịch vụ lỗi thời. Họ có quyền chọn dịch vụ tốt nhất, và họ phải làm thế để đảm bảo cho quyền lợi của mình. Cạnh tranh trong thời đại thông tin là cạnh tranh về tốc độ, về công nghệ, về bảo mật, về dịch vụ và về “đáp ứng đuợc những nhu cầu mới nhất và tốt nhất”, bất kể bạn là ai, bạn ở đâu. - Thế nhưng đáng tiếc là trong những năm gần đây, tại VN,công trình khoa học tầm cỡ khu vực còn hiếm chứ chưa nói đến tầm cỡ quốc tế, mà chỉ có nghiên cứu khoa học mới tạo cho chúng ta được những lợi thế dẫn đầu trong TMĐT, một ngành chỉ có một vài kẻ thắng và số còn lại sẽ mất tất cả. Nếu không chuẩn bị kĩ lưỡng, đây sẽ trở thành thất bại thảm hại đối với thương mại nước nhà. Dẫn thông tin từ Viện Chiến lược và Chương trình Giáo dục, Báo cáo cho biết chỉ số chất lượng giáo dục Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm trên thang điểm 10. So sánh với 12 nước ở châu Á, Việt Nam chỉ đứng trên... một nước. Đó là Indonesia, với 3,44 điểm! Còn inđô thế nào thì mình chắc không phải bàn thêm. - Cạnh tranh ở đây mang tính “sống còn” và không thể thỏa hiệp giống như thời xã hội công nghiệp.Với một dịch vụ thời đại này, sẽ chỉ có một vài công ty có thể đứng vững, số còn lại sẽ phá sản. Trụ lại là những doanh nghiệp cung ứng những dịch vụ tốt nhất. Nó chỉ lụi bại khi suất hiện kẻ khác, cung câp dịch vụ tốt hơn nó, đó là sự nghiệt ngã thực sự, là đỉnh điểm của cơ chế thị trường phi điều tiết. Điển hình đó cũng giống như trong một đội bóng, có thể cầu thủ mạnh nhất có số lương bằng lương tất cả các cầu thủ còn lại cộng lại. Có người cho đó là bất công? Nhưng đó là thực tế, là quy luật mà người thua (kẻ yếu) buộc phải tuân theo dù muốn hay không. Đó chính là sự cạnh tranh trong thời đại thông tin. Cực kì khốc liệt nhưng mang lại lợi ích to lớn “vô cùng” cho kẻ chiến thắng. Là cơ hội lớn nhất trong lịch sử từ trước tời giờ, trao cho các nước nghèo, cho họ cơ hội đuổi kịp các nước giầu. Các doanh nghiệp Việt Nam, cũng có thể nghĩ tới sự chuyển mình giống như một “THÁNH GIÓNG” thực sự, thậm trí còn hơn cả thế! Giấc mộng trở thành triệu phú, tỷ phú hoàn toàn có thể thực hiện chỉ bằng một ý tưởng, một sự sáng tạo “độc nhất vô nhị” và bạn sẽ là người chiến thắng, chiến thắng tuyệt đối! Tất nhiên điều đó cũng đồng nghĩa với việc mỗi cá nhân, mỗi doanh nghiệp phải có “trách nhiệm” hơn trong việc bảo vệ tài sản ảo, tài sản trí tuệ , và tài sản tương lai của mình Dù trong thời gian qua internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển vượt bậc nhưng khó có thể nói đã có một cơ sở thương mại điện tử vững chắc.Tuy nhiên chỉ trong vòng từ đầu năm đến nay,thương mại điện tử ở Việt Nam cũng đã có những dấu hiệu khởi sắc.Số người truy cập internet tăng lên gấp năm lần,từ 3,2 triệu người năm 2003 đến 15 triệu người năm 2007,chiếm tỉ lệ 16% dân số cả nước. Nếu như trước năm 2007, hoạt động thương mại điện tử chưa gây được nhiều sự chú ý của công chúng Việt Nam, thì nay hoạt động kinh doanh qua mạng, thanh toán trực tuyến đã trở thành quen thuộc với nhiều người tiêu dùng. Theo tin từ Bộ Công Thương, đến nay, Việt Nam đã có khoảng 38% số doanh nghiệp có website và hơn 93% số doanh nghiệp kết nối Internet sử dụng vào sản xuất kinh doanh. Sự ra đời của một số dịch vụ kinh doanh trực tuyến như 123mua.com.vn, viettravel.com.vn, pacificairlines.com.vn..., đặc biệt là sự ra mắt mới đây của mạng ebay.com.vn đã tạo ra “cú hích” khuyến khích các doanh nghiệp tìm cách tiếp cận và phát triển hoạt động kinh doanh trực tuyến. Khảo sát mới đây của Vụ Thương mại điện tử (Bộ Thương mại) cho thấy, hiện đã có gần 8% doanh nghiệp Việt Nam tham gia sàn giao dịch điện tử và 55% trong số đó tham gia nhiều hơn 1 sàn. Trong khi đó, cách đây 2 năm, gần như không có doanh nghiệp tham gia sàn giao dịch thương mại điện tử. Khảo sát về giao dịch với đối tác và khách hàng bằng các phương tiện điện tử cho thấy có tới 81,5% doanh nghiệp sử dụng email thường xuyên trong các giao dịch với đối tác. Website và thư điện tử là những phương tiện điện tử mới mà doanh nghiệp sử dụng nhiều do chi phí thấp nhưng hiệu quả cao; đáng chú ý là thư điện tử đã trở thành phương tiện được sử dụng nhiều nhất trong giao dịch thương mại. Phương thức giao dịch điện tử đa dạng nhưng hình thức giao hàng ít thay đổi. Tiền mặt giao hàng vẫn được doanh nghiệp áp dụng tới 75%, trong khi số doanh nghiệp cho phép thanh toán trực tuyến rất thấp, chỉ có 3,2%. Các doanh nghiệp cho phép thanh toán trực tuyến chủ yếu là các doanh nghiệp tập trung ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Tp.HCM. Cũng theo số liệu điều tra, tỷ lệ đầu tư cho thương mại điện tử thời gian qua đã tăng lên đáng kể. Năm 2005 chỉ có khoảng 17,5% doanh nghiệp dành trên 5% tổng chi phí hoạt động thường niên để đầu tư cho thương mại điện tử, nhưng đến năm 2006 có hơn 50% số doanh nghiệp đầu tư trên 5%; trong đó có 13,6% doanh nghiệp có mức đầu tư trên 15%. Theo ông Trần Thanh Hải, Vụ phó Vụ Thương mại điện tử cho biết: các cản trở ngại đối với việc phát triển thương mại điện tử do nhận thức của người dân và doanh nghiệp về thương mại điện tử còn thấp, hệ thống thanh toán còn bất cập... Bên cạnh đó, mô hình kinh doanh sàn thương mại điện tử hỗ trợ giao dịch doanh nghiệp với doanh nghiệp (B2B) cũng đang phát triển tại Việt Nam. Đến nay có khoảng 30 sàn giao dịch thương mại điện tử B2B đang hoạt động với số cơ hội kinh doanh và số lượng thành viên tương đối lớn. Ngoài đăng tải cơ hội kinh doanh mua bán hàng hóa và dịch vụ, các sàn giao dịch đã cung cấp các hỗ trợ khác như đấu giá, đấu thầu trực tuyến, các bản tin điện tử, tìm kiếm thông tin. Tuy nhiên, tiện ích lớn nhất của phần lớn sàn thương mại điện tử B2B đang giới hạn ở đăng tải nhu cầu mua bán. Hầu như chưa có sàn nào có tiện ích hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp tiến hành đàm phán tiến tới giao kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng và trợ giúp sau bán hàng. Đáng chú ý là số lượng các sàn thương mại điện tử B2B đã tăng lên khá nhanh trong năm 2006, nhưng phần lớn đều có mô hình kinh doanh tương tự nhau và là các sàn kinh doanh tổng hợp. Theo đánh giá nhiều chuyên gia: xu hướng các doanh nghiệp tham gia các sàn giao dịch thương mại điện tử ngày càng phổ biến bởi có nhiều tiện ích: mở rộng kênh tiếp xúc với khác hàng hiện có; thu hút khách hàng mới; xây dựng hình ảnh doanh nghiệp; tăng lợi nhuận và giảm chi phí kinh doanh... Theo kết quả điều tra của Bộ Thương mại trong năm 2006 với 1.000 doanh nghiệp, số lượng doanh nghiệp có website đã chiếm đến 20-25%, nhưng tính năng thương mại điện tử tại các website này còn rất mờ nhạt. Chức năng website chủ yếu là giới thiệu về công ty, chiếm 93,8%; giới thiệu sản phẩm, dịch vụ chiếm 62,5%; trong khi tính năng giao dịch thương mại điện tử cho phép đặt hàng chỉ chiếm 27,4%, hoạt động thanh toán trực tuyến chỉ chiếm vẻn vẹn 3,2%. Hoạt động thương mại điện tử mới chỉ manh nha ở các doanh nghiệp lớn, đại đa số các doanh nghiệp nhỏ tại Việt Nam vẫn đang nằm ngoài guồng quay của phương thức kinh doanh hiện đại này. Rõ ràng, thương mại điện tử Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn khởi đầu, nhưng theo dự báo, đến năm 2010, cả nước sẽ có khoảng 80% doanh nghiệp Việt Nam ứng dụng thành công thương mại điện tử; 10% hộ gia đình từ thành phố, vùng nông thôn đến các hải đảo xa xôi chuyển sang hình thức mua bán dịch vụ trực tuyến. Tuy nhiên, theo ông Hưng, để thương mại điện tử ở Việt Nam thực sự bùng nổ đúng nghĩa, các cơ quan quản lý Nhà nước và đặc biệt là các doanh nghiệp còn nhiều việc phải làm. Số liệu thống kê của Trung tâm Internet Việt Nam cho thấy, hiện tại có 15 triệu người Việt Nam sử dụng Internet và trong 3 năm tới, số người sử dụng Internet ở Việt Nam vào khoảng 30 triệu người. Thị trường rộng lớn này cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế của cả nước, theo đánh giá của các chuyên gia sẽ là tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử trong những năm sắp tới. Do đó, “cộng đồng doanh nghiệp cần có nhận thức đầy đủ về vai trò và lợi thế mà thương mại điện tử có thể mang lại trong thời đại toàn cầu hóa”- ông Hưng nhấn mạnh. Đi sau các nước chừng 10 năm về TMĐT, trong năm qua, Việt Nam đã có nhiều nỗ lực trong xây dựng hành lang pháp lý, đẩy mạnh đào tạo, nâng cao nhận thức cho nguời dân. Các hoạt động TMĐT trong năm qua đã có nhiều khởi sắc, đặc biệt là sự phát triển của các loại hình dịch vụ trực tuyến như mua bán qua mạng, game online, dịch vụ giải trí trực tuyến… Tuy nhiên, phần lớn các dịch vụ này vẫn chủ yếu hướng đến người tiêu dùng đơn lẻ (B2C, C2C). Trong khi đó, cơ cấu phổ biến trong thương mại điện tử trên thế giới hiện nay là B2B (chiếm trên 90%) và chính loại hình B2B mới mang lại những giá trị giao dịch lớn (ước tính chiếm 85% giá trị giao dịch TMĐT). Thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn hiểu đơn thuần TMĐT là bán hàng/dịch vụ trên mạng. Với những doanh nghiệp lớn, quy trình sản xuất phức tạp và mạng lưới đối tác rộng thì B2B là giải pháp lý tưởng để giúp cho quá trình sản xuất vận hành một cách nhịp nhàng từ khâu nguyên liệu đầu vào đến đầu ra sản phẩm. Để đẩy mạnh hơn nữa các giao dịch B2B, theo ông Trần Thanh Hải, vụ phó Vụ TMĐT, một vấn đề cần khắc phục trong năm 2006 này là thực hiện chuẩn trao đổi dữ liệu điện tử (EDI). Bên cạnh các vấn đề như an toàn thông tin, đảm bảo bí mật riêng tư trong giao dịch điện tử thì chuẩn EDI là nền tảng cho TMĐT phát triển. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được quan tâm ở Việt Nam. Hiện chưa có một doanh nghiệp nào ứng dụng EDI ngoài cảng Hải Phòng. Ở đây rất cần đến vai trò của Tổng Cục Tiêu Chuẩn Đo Lường Chất Lượng trong việc thiết lập chuẩn EDI cho từng ngành. Đồng thời, cũng cần có nhiều hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp nhận thức về EDI. Đối với loại hình B2C và C2C, các giao dịch trực tuyến còn vướng mắc ở khâu thanh toán trực tuyến. Cho đến nay, thanh toán điện tử vẫn chưa thực hiện được do chưa thiết lập được cổng thanh toán trực tuyến (payment gateway) kết nối các ngân hàng với nhau và với các tổ chức cung cấp dịch vụ thanh toán quốc tế. Không chỉ có các ngân hàng, nhiều doanh nghiệp cũng quan tâm tới việc xây dựng cổng thanh toán trực tuyến và cho biết khả năng kỹ thuật hiện nay đã cho phép làm được, tuy nhiên vẫn cần phải có sự cho phép của Ngân Hàng Nhà Nước trong khi Ngân Hàng Nhà Nước chỉ xem xét việc này sau khi nghị định về giao dịch điện tử trong lĩnh vực ngân hàng được ban hành. Tuy nền tảng cho TMĐT chưa thực sự hoàn thiện nhưng theo đánh giá của Vụ TMĐT thì 2005 vẫn được coi là năm đánh dấu sự kết thúc của giai đoạn 1 (giai đoạn định hình của TMĐT ở Việt Nam). Theo nhận định của Vụ TMĐT, năm 2006 sẽ là năm chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ của TMĐT ở Việt Nam. Mặc dù vậy, do sự phát triển quá nhanh của TMĐT nên không tránh khỏi những quan điểm trái ngược giữa cơ quan quản lý với nhau, giữa cơ quan quản lý với cộng đồng người sử dụng Internet và làm TMĐT. Chẳng hạn quy định hiện nay cấm kinh doanh tên miền, nhưng từ vụ khiếu nại của một khách hàng với Trung Tâm Internet Việt Nam (VNNIC) xảy ra mới đây, dư luận cho rằng chẳng có lý gì để cấm kinh doanh tên miền. Với việc mua bán tài sản ảo trong game cũng vậy. Một số quan chức của Bộ VHTT cho rằng tài sản ảo không phải là tài sản thực nên không được pháp luật công nhận. Tuy nhiên, Bộ Thương Mại lại ủng hộ việc công nhận tài sản ảo là tài sản theo quy định của Bộ Luật Dân Sự, nghĩa là trị giá tính được bằng tiền, có thể chuyển nhượng, mua bán. Việc công nhận hay không công nhận tài sản ảo sẽ quyết định đến sự phát triển của thế giới ảo. Theo ông Nguyễn Thanh Hưng, vụ trưởng Vụ TMĐT, khi khoa học công nghệ phát triển, khái niệm về tài sản thay đổi, do đó luật pháp cũng nên thay đổi theo để điều chỉnh các hoạt động này. Tài sản ảo ở đây bao gồm địa chỉ email, tên miền, vật ảo, số điện thoại di động… Có một thực tế là việc mua bán bất động sản trên thế giới ảo còn sôi động hơn cả thế giới thực. Ông Hưng dẫn chứng một người đã chi 50.000 bảng Anh để mua một hòn đảo trên mạng và giá trị hòn đảo này sẽ còn tăng hơn nữa. Vậy thì tài sản ảo cũng có giá trị và được định giá hẳn hoi. Tất nhiên việc này không dễ giải quyết trong một sớm một chiều nhưng cũng nên nghiên cứu để điều chỉnh kịp thời. Vấn đề này các quốc gia khác trên thế giới cũng đang gặp phải. Đơn cử, Mỹ là quốc gia nghiên cứu nhiều nhất về tài sản ảo nhưng cũng chưa có văn bản luật chính thức nào cho loại tài sản này. Chương III: Bài học kinh nghiệm và phương hướng cho thương mại điện tử Việt Nam trong thời gian tới. 1) Bài học kinh nghiệm từ thương mại điện tử của Trung Quốc: Qua việc nghiên cứu thương mại điện tử Trung Quốc ta thấy mọtt so vấn đề cần chú trọng đối với thương mại điện tử Việt Nam,đó là:Thanh toán qua mạng,chính sách thuế,dịch vụ chứng thực điện tử. Thanh toán qua mạng đóng vai trò quan trọng trong thương mại điện tử. Song sự an toàn, thuận tiện cũng như hiệu quả của loại hình này là một đòi hỏi không thể thiếu. Tuy nhiên, nhận thức về vấn đề đó ở Trung Quốc vẫn chưa cao. Mặt khác, do thiếu các chế tài bảo vệ của pháp luật, trọng tài kinh tế và sự hiểu biết về trách nhiệm pháp lý nên rất khó khăn khi có tranh chấp xảy ra. Thêm vào đó, hiệu quả thanh toán qua mạng của Trung Quốc vẫn còn rất thấp, thời gian thanh toán qua ngân hàng thường kéo dài (khoảng 10 ngày), chi phí lại cao...Bởi vậy chúng ta cần chú trọng hơn nữa đối viêc thanh toán qua mạng,đảm bảo sự an toàn đối với khách hàng và doanh nghiệp. Thứ hai là vấn đề thuế. Trong khi thương mại điện tử là một loại hình kinh doanh hoàn toàn mới, khác xa so với các loại hình truyền thống, Trung Quốc vẫn chưa có chính sách thuế cho lĩnh vực này. Bản báo cáo của Bộ Thương mại đề xuất với chính phủ các dự thảo luật phù hợp để đảm bảo cho sự phát triển thương mại điện tử trong tương lai. Trên thực tế, các quốc gia có nền kinh tế phát triển ở mức độ khác nhau sẽ có chính sách thuế khác nhau đối với thương mại điện tử. Chẳng hạn, ở Mỹ, thương mại điện tử, các sản phẩm kỹ thuật số và truy cập Internet được miễn thuế hoàn toàn, trong khi ở châu Âu chỉ tính thuế giá trị gia tăng đối với thương mại điện tử. Thứ ba là hạn chế trong hệ thống dịch vụ chứng thực điện tử của Trung Quốc. Trong số các tập đoàn cung cấp dịch vụ này cho thương mại điện tử nước này, khoảng 1.000 tập đoàn là làm việc theo lối truyền thống với chất lượng dịch vụ không cao. Do vậy, nhu cầu phải cung cấp một dịch vụ giao nhận và giao dịch nhanh chóng hiện đại đang rất bức thiết tại Trung Quốc. Qua đó Thương mại điện tử Việt Nam phải cố gắng khắc phục tất cả những yếu kém nhược điểm của nước đã đi trước la Trung Quốc đã gặp phải,để hoàn thiện hơn nữa ngành thương mại điện tử. 2)Phương hướng phát triển thương mại điện tử Việt Nam trong thời gian tới: Hiện nay Thương mại điện tử ở Việt Nam được tận dụng phục vụ việc marketing, bán hàng cho doanh nghiệp là chính. Ngoài ra, một số website sàn giao dịch B2B, siêu thị điện tử B2C, website C2C như rao vặt, đấu giá..., website thông tin (tin tức là chính)... đã được xây dựng và đưa vào hoạt động. Thanh toán qua mạng trong và ngoài nước vẫn còn rất ít ỏi và bất tiện. Doanh số từ mô hình B2B vẫn hầu như chưa có, trong khi doanh số B2B xấp xỉ 80 – 90% tổng giá trị giao dịch Thương mại điện tử trên toàn cầu. Trong giai đoạn 2006 – 2010, xu hướng phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam sẽ đi theo 03 nhóm: -Các doanh nghiệp tận dụng Thương mại điện tử phục vụ marketing, bán hàng, hỗ trợ khách hàng, mở rộng thị trường, xuất khẩu... -Các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực Thương mại điện tử với những website Thương mại điện tử, kinh doanh trên mạng. -Doanh nghiệp bắt đầu tận dụng Thương mại điện tử trong B2B để mua sắm nguyên vật liệu phục vụ việc kinh doanh sản xuất một cách tự động hoặc bán tự động. Tiềm năng phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam là cao, vì các lý do sau: Việt Nam là nước xuất khẩu nhiều mặt hàng, TMĐT giúp doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng trên toàn thế giới. Việt Nam có thể “xuất khẩu” dịch vụ, sản phẩm thông tin, sản phẩm tri thức bằng cách bán qua mạng Internet. Du lịch Việt Nam cần tận dụng TMĐT để quảng bá, cho đặt dịch vụ qua mạng, thanh toán qua mạng, hỗ trợ du khách qua mạng... Nhà nước chủ trương thúc đẩy TMĐT phát triển. CNTT, Internet ở Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển nhanh. Chính những khả năng, lợi ích TMĐT mang lại cho doanh nghiệp, nhà đầu tư... là động cơ lớn thúc đẩy doanh nghiệp tham gia TMĐT. Nhân lực Việt Nam tiếp thu công nghệ mới nhanh, đặc biệt là CNTT . 3)Giải pháp cho thương mại điện tử Việt Nam: Việt Nam đã trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO.Đặt ra thách thức không nhỏ cho doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước khi tham gia giao diện điện tử.Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trước những trước những gian lận thường trực trên internet vấp phải những rào cản về thể chế chính trị,ranh giới địa lí trong khi thương mại điện tử lại mang tính toàn cầu.Các đối tượng vi phạm dễ dàng lẩn tránh sự trừng phạt của pháp luật và việc thi hành việc phán quyết xuyên quốc gia rất tốn kém,khó thu thập đầy đủ chứng cứ,tài liệu phục vụ quy trình giải quyết tranh chấp.Vì vậy chúng ta có thể đưa ra một số giải pháp khắc phục tinh trạng này: - Nâng cao nhận biết của người tiêu dùng và doanh nghiệp về các hành vi gian lận thương mại trực tuyến. - Hợp tác quốc tế trong việc thực thi các phán quyết của các cơ quan quốc gia trong giải quyết tranh chấp. - Hoàn chỉnh khung pháp lí đối với người tiêu dùng. - Nâng pháp lệnh bảo vệ người tiêu dùng thành luật(1999). - Hợp tác chia sẻ thông tin điều tra lien quan đến tội phạm công nghệ cao. - Tham gia vào các tổ chức kinh tế địa phương. - Thành lập ủy ban điều phối và bảo vệ người tiêu dùng để bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh trong thời kì hội nhập WTO. Bên cạnh đó ngành thương mại điện tử nói chung muốn phát triển thì rất cần sự can thiệp của nhà nước,thể hiện qua một số giải pháp: - Nhà nước phải tạo điều kiện môi trường cho ngành thương mại điện tử còn non trẻ phát triển hết mức. - Có một hành lang pháp lí rõ rang đẻ tránh gian lận trong thương mại điện tử. - Phát triển kết cấu hạ tầng cở sở tạo điều kiện cho công nghệ thông tin phát triển từ đó thương mại điện tử mới có thể phát triển.Đặc biẹt chú trọng phát triển và ở rộng mạng lưới internet,bởi internet chính là thị trường của thương mại điện tử. KẾT LUẬN Có thể nói thương mại điện tử Trung Quốc đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn khiến cả thế giới phải ngạc nhiên,điển hinh là tập đoàn Alibaba.Với chất lượng dịch vụ tốt,số lượng khách hàng dăng kí sử dụng Alibaba ngày càng tăng lên. Alibaba.com có hai website con là Alibaba International và Alibaba China. Alibaba International hiện là cổng thương mại điện tử cho giao dịch giữa các doanh nghiệp lớn nhất thế giới với 2.5 triệu người đăng ký sử dụng từ hơn 200 quốc gia. Mỗi ngày, có hơn 500.000 người truy cập vào trang này. Nhờ website, một cơ sở sản xuất đồ chơi quy mô gia đình của Trung Quốc cũng có thể bán hàng trực tiếp cho một công ty Mỹ. Còn Alibaba China đã trở thành website thương mại điện tử tiếng Trung lớn nhất thế giới, với khoảng 14 triệu người đăng ký sử dụng. Năm 2006, doanh thu của Alibaba.com là 200 triệu USD, tăng gấp đôi so với năm 2005. Dự báo, đến năm 2009, doanh thu của công ty sẽ là 1,3 tỷ USD. Tuy nhiên Trung Quốc không phải là không có những khó khăn nhất định đối với ngành thương mại điện tử của mình. Và qua việc nghiên cứu thương mại điện tử Trung Quốc,Việt Nam đã rút ra được những bài học hết sức to lớn,từ đó tạo điều kiện phát triển thương mại điện tử lên một tầm cao mới.Nhưng Việt Nam cũng có lối đi riêng của mình bởi hoàn cảnh kinh tế xã hội điều kiện cơ sở hạ tầng của 2 nước la hoàn toàn khác nhau.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng thương mại điện tử Trung Quốc hiện nay.DOC
Luận văn liên quan