LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh Việt Nam đang thực sự hòa nhập vào nền kinh tế thế giới bằng việc trở thành thành viên chính thức thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO. Nhờ đó, vị thế của nước ta tiếp tục được khẳng định, nâng cao trên trường Quốc tế. Điều này đem lại nhiều cơ hội thuận lợi cho nền kinh tế Việt Nam. Bên cạnh đó là những thách thức không nhỏ buộc chúng ta phải nỗ lực hết mình để có thể vượt qua những khó khăn trong bước đầu hội nhập. Chính trong thời điểm này đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế đều phải có những kế hoạch định hướng phát triển phù hợp với yêu cầu của thời đại mới. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hoạt động đầu tư cũng được chú trọng, đặc biệt là đầu tư phát triển. Muốn tiến hành đầu tư thì phải có nhà xưởng, máy móc, vì vậy sự hoạt động của các doanh nghiệp xây dựng là hết sức cần thiết. Hoạt động xây dựng thường sử dụng số vốn lớn, thời gian thực hiện lâu dài nên các doanh nghiệp khó có thể tự tài trợ toàn bộ vốn cho một dự án. Một trong những biện pháp quan trọng là đi vay tại các NHTM.
Điều đó cho thấy,khi nền kinh tế phát triển thì vai trò của các ngân hàng là rất quan trọng để đảm bảo cho hoạt động lưu thông tiền tệ được thông suốt, đáp ứng kịp thời yêu cầu về vốn cho nền kinh tế nói chung và cho hoạt động đầu tư nói riêng. Đối với NHTM, nghiệp vụ mang lại lợi nhuận chủ yếu là hoạt động cho vay. Phương châm hoạt động của các ngân hàng là an toàn – chất lượng – hiệu quả và tăng trưởng bền vững. Tuy nhiên, rủi ro có thể xảy đến với ngân hàng là khách hàng không có khả năng trả nợ. Để tránh rủi ro, biện pháp truyền thống được các ngân hàng áp dụng là yêu cầu tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Rõ ràng, biện pháp này mang tính tiêu cực, không thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Trước thực tế đó, biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng tín dụng là coi trọng thẩm định dự án đầu tư trong cho vay. Điều đó không chỉ có ý nghĩa với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng mà còn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho toàn xã hội. Nhận thấy tầm quan trọng của công tác thẩm định DAĐT đối với ngân hàng mà trong quá trình thực tập tại Ngân hàng ĐT & PT HN, em đã nghiên cứu đề tài: “ Công tác thẩm định dự án đầu tư xin vay vốn đối với các doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT HN. Thực trạng và giải pháp.”
Ngoài lời mở đầu và kết luận, bài chuyên đề của em gồm 2 chương:
- Chương I: Thực trạng công tác thẩm định dự án xin vay vốn đối với các doanh nghiệp xây lắp tại chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT HN trong thời gian qua.
- Chương II: Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định dự án đối với các doanh nghiệp xây lắp tại chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT HN trong thời gian tới.
MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU . 1
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DỰ ÁN XIN VAY VỐN ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP XÂY LẮP TẠI CHI NHÁNH TRONG THỜI GIAN QUA 3
1. Một vài nét khái quát về Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội . 3
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của chi nhánh 3
1.2. Cơ cấu tổ chức . 4
1.2.1. Phòng tín dụng: . 5
1.2.2. Phòng thẩm định và quản lý tín dụng . 5
1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của chi nhánh . 6
1.3.1. Những hoạt động chính của ngân hàng . 6
1.3.2 Tình hình huy động vốn tại chi nhánh . 7
1.3.3 Hoạt động tín dụng tại chi nhánh 11
2. Thực trạng công tác thẩm định đối với các doanh nghiệp xây lắp tại chi nhánh. 14
2.1. Quy trình thẩm định tại chi nhánh . 14
2.2. Nội dung thẩm định DAĐT . 16
2.3. Các phương pháp thẩm định được áp dụng tại chi nhánh đối với các doanh nghiệp xây lắp 19
2.3.1. Phương pháp thẩm định theo trình tự . 19
2.3.2. Phương pháp so sánh . 19
2.3.3. Phương pháp phân tích độ nhậy cảm . 20
2.3.4. Phương pháp dự báo 20
2.4. Đặc điểm các doanh nghiệp xây lắp xin vay vốn tại chi nhánh 21
2.4.1. Đặc điểm, lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp xây lắp xin vay vốn tại chi nhánh . 21
2.4.2. Tình hình thẩm định và cho vay đối với các doanh nghiệp xây lắp tại chi nhánh 22
2.5. Phân tích công tác thẩm định của một dự án cụ thể . 24
2.5.1. Đánh giá năng lực của khách hàng 26
2.5.2.Giới thiệu về dự án đầu tư: 27
2.5.2. Mục đích và sự cần thiết đầu tư dự án: . 29
2.5.3.Tổng vốn đầu tư và tính khả thi của phương án nguồn vốn: 29
2.5.4. Về thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ đầu ra: 30
2.5.5. Các nội dung về phương diện kỹ thuật: . 30
2.5.6. Về tổ chức thực hiện dự án: 32
2.5.7. Phân tích, tính toán và đánh giá hiệu quả về mặt tài chính, độ nhậy và khả năng trả nợ của dự án . 32
2.5.8. Đánh giá, phân tích rủi ro: . 33
2.5.9. Nhận xét chung . 33
2.6. Đánh giá chung về công tác thẩm định dự án tại chi nhánh . 36
2.6.1. Những kết quả đạt được 36
2.6.2. Những hạn chế . 39
2.6.3. Nguyên nhân 43
CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DAĐT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI 46
1. Phương hướng hoạt động của NH ĐT & PT HN trong thời gian tới. 46
1.1. Phương hướng hoạt động chung . 46
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định nói chung và đối với các doanh nghiệp xây lắp nói riêng 48
2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của công tác thẩm định trong cho vay tại Ngân hàng ĐT & PT HN 48
2.2. Nâng cao trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác thẩm định. 49
2.3. Nâng cao chất lượng thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin . 53
2.3.1. Đối với việc thu thập thông tin 53
2.3.2. Đối với việc lưu trữ thông tin 56
2.3.3. Vấn đề xử lý thông tin . 57
2.4. Hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý thẩm định 58
2.5. Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định . 59
2.5.1. Đối với nội dung thẩm định 59
2.5.2. Đối với phương pháp thẩm định . 60
2.6. Xây dựng quỹ thẩm định và quản lý hiệu quả quỹ này 61
2.7. Đầu tư trang thiết bị và công nghệ phục vụ thẩm định 61
3. Kiến nghị. . 62
3.1. Kiến nghị với Nhà nước . 62
3.2. Kiến nghị với NHNN Việt Nam . 63
3.3. Kiến nghị với Ngân hàng ĐT & PT VN . 65
3.4. Kiến nghị đối với chủ đầu tư 66
KẾT LUẬN . 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
73 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2551 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Công tác thẩm định dự án đầu tư xin vay vốn đối với các doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng dầu tư và phát triển Hà Nôi: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a kết quả không chính xác và cuối cùng là đi đến quyết định sai lầm.
Hiện nay nguồn thông tin về dự án hầu hết là do doanh nghiệp cung cấp. Những thông tin này mang tính một chiều nên khó đánh giá chính xác về dự án. Khi doanh nghiệp xin vay vốn tất nhiên họ sẽ muốn ngân hàng cho vay, do vậy chắc chắn doanh nghiệp sẽ chỉ muốn cung cấp những thông tin thuận lợi.
Ngoài những hồ sơ mà khách hàng cung cấp, cán bộ thẩm định cũng tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp và đi thực tế để lấy thêm thông tin. Tuy nhiên hình thức này cũng chỉ là phỏng vấn người đại diện của bên đi vay. Do đó hầu như không thu được thêm nhiều thông tin khác so với hồ sơ.
Ngân hàng có thể lấy thêm thông tin từ trung tâm thông tin tín dụng( CIC) của ngân hàng nhà nước nhưng cũng chỉ là thông tin về doanh nghiệp còn về dự án thì thường không được cập nhật.
Hiện nay việc lưu trữ thông tin ở ngân hàng cũng hạn chế nên nhiều khi có những dự án xây dựng ở nhiều giai đoạn , vay vốn nhiều lần nhưng mỗi lần vay ngân hàng đều phải thẩm định lại từ đầu. Tại đây cũng chưa có một phòng chức năng nào chuyên trách việc thu thập và lưu trữ thông tin phục vụ cho công tác thẩm định.
b.Đối với một số dự án, nội dung và phương pháp thẩm định còn sơ sài.
Hiệu quả của dự án được thể hiện bằng hệ thống các chỉ tiêu như NPV, IRR, T, B/C… nhưng ngân hàng thường chỉ quan tâm chủ yếu đến NPV và IRR thôi. Các chỉ tiêu tính toán được chỉ dưới dạng liệt kê mà chưa có sự phân tích, so sánh liên kết một cách khoa học. Cũng chưa có sự đối chiếu với tiêu chuẩn của ngành và của nền kinh tế.
Quyết định cho vay của ngân hàng còn dựa vào tài sản bảo đảm nên đôi khi thẩm định còn sơ sài, mang tính hình thức. Nhiều khi khách hàng vay vốn là những khách hàng thân thiết nên ngân hàng chỉ dựa vào quan hệ tín dụng trong quá khứ để cho vay còn dự án đầu tư thì chỉ được xem xét đại khái.
Thẩm định hiệu quả dự án mới chỉ ở trạng thái tĩnh, chưa đánh giá được sự biến động của dự án. Phân tích độ nhạy cũng chỉ trong phạm vi một yếu tố biến đổi trong khi đó xây lắp là lĩnh vực có nhiều biến động phức tạp. Đánh giá rủi ro có thể xảy ra với dự án còn chưa hiệu quả, chưa sử dụng các mô hình phân tích rủi ro.
Mặc dù trong quy trình thẩm định đưa ra rất nhiều nội dung, nhưng trong quá trình thực hiện thì một số nội dung không được xem xét đến hoặc chỉ được đề cập rất ít như trong việc phân tích thị trường và khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án còn khá sơ sài không đủ để đánh giá chính xác thị trường mục tiêu, những khó khăn trong việc tiêu thụ.
Có rất nhiều phương pháp thẩm định mà ngân hàng có thể áp dụng linh hoạt nhưng thực tế thì chủ yếu ngân hàng sử dụng phương pháp thẩm định theo trình tự. Đối với nhiều dự án có tính chất phức tạp thì nếu chỉ đơn thuần áp dụng phương pháp này thì không thực sự hiệu quả.
c. Xây dựng dòng tiền chưa hợp lý.
Khi xây dựng dòng tiền, việc tính toán vốn đầu tư ban đầu chưa hợp lý. Đối với các dự án xây dựng thì vốn đầu tư ban đầu là rất lớn nhưng lại không tập trung ở một thời điểm mà rải rác theo tiến độ thi công nên nếu tính tất cả vào một năm là không hợp lý. Ngân hàng cần xem xét thời gian giải ngân của mình để quy đổi vốn đầu tư cho phù hợp. Có như vậy thì mới đảm bảo rằng vốn đầu tư bỏ ra ở năm 0 thực tế là bao nhiêu. Thẩm định tổng vốn đầu tư ban đầu là rất quan trọng vì nó không chỉ tính toán mức vốn mà dự án phải bỏ ra mà còn giúp ngân hàng xác định được mức tài trợ cần thiết.
Dòng chi phí của dự án không đánh giá sát với thực tế. Chi phí xây dựng các công trình bao gồm chi phí nhân công, chi phí vật liệu, máy thi công, chi phí quản lý…nhưng các chi phí này ở các thời điểm khác nhau thì được tính toán khác nhau. Đặc biệt là các chi phí biến đổi như giá cả của vật liệu xây dựng, nhiên liệu, điện… luôn biến động theo thị trường và bị ảnh hưởng bởi lạm phát. Phần lớn cán bộ thẩm định mới chỉ quan tâm đến những chi phí trực tiếp mà chưa để ý đến những chi phí gián tiếp như các chi phí quản lý phân bổ cho dự án.
Đặc biệt là cán bộ thẩm định thường bỏ qua giá trị còn lại của dự án. Nó ảnh hưởng nhiều đến việc tính toán các chỉ tiêu hiệu quả sau này vì làm sai lệch dòng tiền. Đối với các doanh nghiệp xây lắp thì dòng thu hồi từ tài sản cố định vào năm cuối là khá lớn. Khoản thu này là từ các máy móc thi công công trình.
d. Trang thiết bị của ngân hàng chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu trong thời đại mới.
Mặc dù như đã nói ở trên ngân hàng cũng đầu tư mua sắm nâng cấp điều kiện cho các phòng làm việc. Tuy nhiên những trang thiết bị hiện có của ngân hàng chưa thể thỏa mãn là một ngân hàng hiện đại. Trong phòng đảm bảo mỗi người một máy tính nhưng chỉ có một số máy được quy định kết nối internet vì ngân hàng sợ việc truy cập có thể dẫn đến khả năng máy tính bị nhiễm virút ảnh hưởng đến dữ liệu của ngân hàng. Điều này làm giảm sự nhanh nhậy trong thu thập thông tin.
e. Khâu tổ chức và quản lý thẩm định chưa khoa học.
Chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa phòng tín dụng và phòng thẩm định. Trong ngân hàng có hai phòng cùng thực hiện công tác thẩm định là phòng thẩm định và phòng tín dụng. Tuy nhiên sự phối hợp này chưa được thực hiện tốt. Bởi vì phòng tín dụng sẽ cung cấp những thông tin về dự án cho phòng thẩm định nhưng hai phòng lại có những đánh giá hoàn toàn độc lập, không có sự trao đổi thảo luận trong quá trình làm việc. Mỗi phòng đứng trên quan điểm khác nhau để đánh giá dự án. Thẩm định là công việc khó đòi hỏi sự liên kết trong toàn hệ thống ngân hàng. Trong công tác thẩm định sẽ phát sinh nhiều vấn đề nếu có những trao đổi thường xuyên thì chắc chắn những kết luận đưa ra tăng thêm độ chính xác. Thực chất hiện nay cả hai phòng cùng làm công việc thẩm định là không hợp lý vì như vậy chỉ có theo chiều rộng mà không theo chiều sâu. Nên tốt nhất ngân hàng nên tập trung vào một đầu mối và tạo ra sự liên kết giữa đầu mối đó với các phòng khác trong hệ thống.
Hiện nay ngân hàng chưa có một nguồn kinh phí nào để thanh toán cho những chi phí phát sinh trong công tác thẩm định. Đối với các dự án thuộc lĩnh vực xây lắp muốn thẩm định tốt cần có những thông tin về nhiều lĩnh vực như luật đất đai, luật xây dựng, luật đấu thầu… mỗi dự án khác nhau được thiết kế và xây dựng riêng, vì vậy chi phí phát sinh theo sẽ khác nhau. Nguồn kinh phí thẩm định hiện nay chỉ là trả lương cho cán bộ, những khoản chi phí khác như mua thông tin và đi lại thì cán bộ tự chi. Với kinh phí như vậy thì khó có thể đảm bảo tốt cho chất lượng thẩm định.
2.6.3. Nguyên nhân.
a. Năng lực, kinh nghiệm cán bộ thẩm định còn hạn chế. Những cán bộ thẩm định trong tại chi nhánh hầu hết được đào tạo từ các trường thuộc khối kinh tế nên những hiểu biết về xây dựng còn yếu kém. Xây lắp là lĩnh vực phức tạp, có nhiều yếu tố mang tính kỹ thuật cao đòi hỏi phải có chuyên môn về xây dựng mới có thể hiểu được. Việc đọc, bóc tách bản vẽ là không hề đơn giản, việc xác định chi phí xây dựng cũng vậy. Hơn nữa đi kèm với hoạt động xây dựng là những quy định, pháp luật liên quan rất nhiều. Tuy nhiên cán bộ thẩm định không được đào tạo chính quy hoặc chỉ được học qua một lớp ngắn hạn về lĩnh vực này do đó không tránh khỏi những hạn chế nhất định.
b. Nguồn kinh phí cung cấp cho thẩm định còn ít. Chưa có quy định rõ ràng về chi phí cho thẩm định ngoài việc trả lương cho cán bộ theo chế độ. Đây là nguyên nhân rất khó khắc phục vì thực chất ngân hàng cũng là một tổ chức kinh doanh vì lợi nhuận. nếu kinh phí thẩm định lớn đồng nghĩa với việc tăng chi phí dẫn tới giảm lợi nhuận. Trong khi đó để cạnh tranh và ổn định thị trường thì ngân hàng không thể tăng lãi suất cho vay được.
c. Thẩm định là công việc rất khó vì đây là việc mang tính chất kiểm tra rất dễ sai sót, chứa đựng nhiều rủi ro. Thẩm định là đánh giá về hoạt động mà nó chưa xảy ra. Hơn nữa, kinh doanh trong lĩnh vực xây dựng chịu sự chi phối của nhiều yếu tố khách quan nên mức rủi ro càng lớn, khó lường trước. Do đó, thẩm định sẽ kèm theo rủi ro và có thể đi đến quyết định sai lầm. Có những yếu tố không thuận lợi mà chúng ta có thể xác định và chế ngự hoặc giảm thiểu nhưng có yếu tố thì không.
d. Do môi trường kinh tế và môi trường đầu tư chưa ổn định.
Hệ thống pháp luật của nước ta đang trong quá trình hoàn thiện nên các văn bản quy phạm pháp luật liên quan dến hoạt động đầu tư xây dựng luôn bị thay đổi khiến ngân hàng khó có thể kiểm soát.
Nền kinh tế chưa ổn định dẫn đến tình trạng lạm phát hay xảy ra, giá cả thị trường biến động thất thường nên khó xác định yếu tố đầu vào cũng như đầu ra. Vì vậy làm ảnh hưởng đến việc xây dựng dòng tiền.
e. Sự liên kết giữa các ngân hàng còn yếu.
Hiện nay các ngân hàng mới được thành lập rất nhiều, tuy nhiên chưa có sự hợp tác quan hệ mật thiết giữa các ngân hàng với nhau. Một doanh nghiệp có thể có quan hệ tín dụng với nhiều ngân hàng nên nếu các ngân hàng liên kết lại thì thông tin tín dụng về doanh nghiệp sẽ đầy đủ hơn, nhờ đó mà giảm thiểu rủi ro thông tin.
Các ngân hàng tại Việt Nam vẫn hoạt động theo phương châm mạnh ai nấy được. Ngân hàng nào cũng chỉ muốn thu hút khách hàng về phía mình mà chưa cùng nhau khai thác một khách hàng. Điều này ảnh hưởng đến công tác thẩm định cũng như kiểm soát quan hệ tín dụng của những doanh nghiệp lớn.
f. Trình độ lập dự án của khách hàng còn kém.
Nhiều dự án xin vay vốn thiếu rất nhiều hồ sơ cần thiết, ngân hàng đều phải yêu cầu bổ sung thêm. Nội dung dự án thì sơ sài không đủ căn cứ để đưa ra quyết định. Chính vì vậy làm kéo dài thời gian thẩm định do phải chờ đợi hoàn thiện hồ sơ. Thiếu số liệu gây khó khăn cho cán bộ thẩm định xác định các chỉ tiêu hiệu quả của dự án.
CHƯƠNG 2:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH DAĐT TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN HÀ NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Phương hướng hoạt động của NH ĐT & PT HN trong thời gian tới.
1.1. Phương hướng hoạt động chung.
Với việc gia nhập WTO, các ngân hàng nước ngoài sẽ có nhiều cơ hội hơn trong trong việc xâm nhập vào thị trường Việt Nam. Như vậy, sức ép cạnh tranh với các ngân hàng nội địa cũng tăng lên, điều đó thúc đẩy các ngân hàng phải nỗ lực hết mình trong cuộc cạnh tranh đầy thách thức này. Mục tiêu chung trong năm tới là đẩy mạnh tăng trưởng huy động vốn và phát triển dịch vụ ngân hàng. Lấy an toàn – chất lượng – hiệu quả và tăng trưởng bền vững làm phương châm hoạt động; Nâng cao sức cạnh tranh thông qua việc chuyển đổi mô hình cơ cấu tổ chức, hoạt động kinh doanh theo mô hình ngân hàng hiện đại. Từng bước ứng dụng công nghệ tiên tiến và công cụ quản trị hiện đại vào hoạt động kinh doanh. Thông qua quản trị tài sản Nợ - Có, quản trị kinh doanh, quản trị rủi ro, và đẩy mạnh tái cơ cấu đảm bảo cung cấp các dịch vụ có chất lượng cao cho khách hàng, tối đa hóa thu nhập và thực hiện tiết kiệm chi phí để gia tăng khả năng sinh lời, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Thực hiện tiến trình cổ phần hóa theo đúng chỉ đạo của Ngân hàng ĐT& PT Việt Nam. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và phát triển thương hiệu, văn hóa BIDV. Phấn đấu thành một ngân hàng có chất lượng hàng đầu trong toàn hệ thống, góp phần phục vụ đắc lực cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội trên địa bàn Thủ đô.
Theo định hướng của Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam là thực hiện chiến lược trở thành ngân hàng thương mại đa năng hàng đầu Việt Nam và là ngân hàng thương mại tầm cỡ trong khu vực vào năm 2010. Vì vậy các chi nhánh cũng phải nỗ lực hết mình để góp phần đạt được mục tiêu chung của toàn hệ thống.
Ngân hàng ĐT& PT Hà Nội xác định các chỉ tiêu cụ thể trong hoạt động kinh doanh trong 5 năm tới như sau:
Bảng 13 : Chỉ tiêu hoạt động cụ thể của Ngân hàng ĐT & PT HN
giai đoạn 2006 – 2010.
STT
Chỉ tiêu
1
Tốc độ tăng trưởng nguồn vốn huy động
18% - 20%/năm
2
Tốc độ tăng trưởng tín dụng
17%/năm
3
Tốc độ tăng trưởng đầu tư
>31%/năm
4
Tốc độ tăng trưởng thu dịch vụ ròng
32%
5
Tỷ trọng dư nợ trung dài hạn/ tổng dư nợ
<44%
6
Tỷ trọng dư nợ ngoài quốc doanh/ tổng dư nợ
> 48%
7
Tỷ trọng dư nợ có tài sản bảo đảm/ tổng dư nợ
> 65%
8
Tỷ lệ nợ xấu
< 7%
9
Cơ cấu dư nợ/ tài sản có
< 60%
10
Cơ cấu đầu tư/ tài sản có
> 20% - 22%
11
Lợi nhuận trước thuế tăng trưởng
15%/ năm
12
ROA
>1%
13
ROE
> 12% - 15%
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2005
2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác thẩm định nói chung và đối với các doanh nghiệp xây lắp nói riêng.
2.1. Nâng cao nhận thức về vai trò của công tác thẩm định trong cho vay tại Ngân hàng ĐT & PT HN.
Có lẽ đây là yếu tố đầu tiên quyết định đến chất lượng công tác thẩm định. Một khi vai trò của nó được đề cao thì việc thực hiện sẽ đạt hiệu quả hơn rất nhiều.
Nhận thức về vấn đề này cần xuất phát từ ban lãnh đạo của ngân hàng vì họ là người có thẩm quyền cao nhất trong việc quản lý và ra quyết định cho vay. Khi những người lãnh đạo cảm thấy phải quan tâm đến việc thẩm định thì họ sẽ quản lý chỉ đạo nhân viên tập trung vào việc đó.
Trong công tác thẩm định cán bộ thẩm định trực tiếp thực hiện công việc là nhân tố quan trọng tạo ra sự thành công của công việc. Vì vậy những người lãnh đạo ngân hàng phải làm sao để những cán bộ này thấy được tầm quan trọng của công việc họ đang làm. Phải làm sao xác định rằng thẩm định không chỉ là cơ sở để ngân hàng ra quyết định mà còn tạo lòng tin cho khách hàng tiến tới có thể tư vấn cho doanh nghiệp. Trong điều kiện hội nhập như hiện nay, lượng ngân hàng xuất hiện ngày càng nhiều nếu công tác thẩm định thực hiện tốt, các ngân hàng có thể trực tiếp thuê ngân hàng làm tư vấn, như vậy ngân hàng có thể thu hút được nhiều khách hàng và nhận ra những dự án có triển vọng để đầu tư.
Có thể tổ chức những buổi trao đổi thảo luận về vai trò của thẩm định tỏng hoạt động cho vay của ngân hàng. Có những quy định cụ thể chặt chẽ liên quan đến chuyên môn thẩm định. Làm được điều này thì bước đầu tạo cơ sở để tiến hành hoạt động thẩm định hiệu quả nhất.
2.2. Nâng cao trình độ, đạo đức của đội ngũ cán bộ thực hiện công tác thẩm định.
Sau khi đã có nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của thẩm định thì muốn thực hiện tốt công việc đòi hỏi người cán bộ phải có chuyên môn giỏi mới có thể hoàn thành tốt công việc. Con người là trung tâm của công tác thẩm định, vì vậy Ngân hàng ĐT & PT HN không thể không đầu tư vào đội ngũ này. Thẩm định là hoạt động mang tính rủi ro cao nên đòi hỏi phải chuẩn hóa đội ngũ này trên cả hai phương diện: trình độ và đạo đức. Trong xu thế hội nhập như hiện nay để có những cán bộ vừa hồng vừa chuyên thì trước hết xuất phát từ khâu tuyển dụng lao động. Sau đó là bồi dưỡng, đào tạo nâng cao năng lực của họ.
Trước hết, những cán bộ được tuyển vào vị trí thẩm định cần có những yêu cầu sau:
Là những người có lý lịch công tác rõ ràng, có phẩm chất đạo đức tốt, trung thực, bản lĩnh tư tưởng vững vàng. Thẩm định là môi trường dễ xảy ra rủi ro đạo đức. Cho nên nếu không có lập trường và bản lĩnh thì cán bộ thẩm định có thể bị mua chuộc vì mục đích vay được vốn của doanh nghiệp. Do vậy đạo đức nghề nghiệp trong thẩm định phải được đặt lên hàng đầu.
Yếu tố không thể thiếu trong điều kiện cạnh tranh là phải biết làm việc theo nhóm và có khả năng chịu áp lực công việc. Môi trường thẩm định luôn chứa đựng nhiều rủi ro nên áp lực đối với cán bộ thẩm định là rất lớn. Cán bộ còn phải biết làm việc theo nhóm thì mới tránh được những quyết định mang tính chủ quan của bản thân.
Không chỉ giỏi về chuyên môn mà cán bộ thẩm định phải thành thạo cả về ngoại ngữ và tin học, có khả năng sử dụng máy móc văn phòng hiện đại. Trong điều kiện hội nhập, để hướng tới một ngân hàng hiện đại thì chắc chắn trong thời gian tới trang thiết bị văn phòng sẽ được hiện đại hóa. Cán bộ thẩm định cần có những yếu tố trên mới có thể thích nghi với điều kiện làm việc mới, công tác thẩm định nhờ đó sẽ nhanh và hiệu quả hơn.
Cán bộ thẩm định còn phải là người hiểu biết nhiều lĩnh vực trong xã hội. Thẩm định dự án là đánh giá toàn bộ mọi khía cạnh của DADT nên cần phải có kiến thức tổng hợp mới có những đánh giá chính xác được. Trong điều kiện phát triển kinh tế như hiện nay thị trường và các biến vĩ mô luôn biến động khó lường, do đó, ngoài chuyên môn chính cán bộ thẩm định phải có khả năng phân tích, dự báo thị trường và phân tích diễn biến kinh tế vĩ mô một cách nhanh nhậy. Cán bộ thẩm định còn phải là người có khả năng giao tiếp và thuyết phục khách hàng. Vì trong quá trình thẩm định sẽ phải trực tiếp thu thập thông tin từ khách hàng và từ thực tế nên với khả năng giao tiếp tự tin và thuyết phục thì khách hàng sẽ có thiện cảm và sẵn sàng hợp tác.
Ngoài ra ngân hàng cũng nên ưu tiên tuyển dụng những người đã có kinh nghiệm trong vị trí tương tự.
Hình ảnh những cán bộ trẻ trung, năng động, tự tin làm tăng thêm lòng tin và ấn tượng tốt của khách hàng với ngân hàng.
Thứ hai, những cán bộ mới tuyển vào thường là những sinh viên mới ra trường, tuy họ có năng lực và rất nhiệt tình nhưng chắc chắn kinh nghiệm còn non nớt. Vì vậy cần tiếp tục bồi dưỡng, nâng cao năng lực của họ. Những cán bộ trẻ thường dễ tiếp thu những kiến thức mới nên dễ đào tạo và trong thời gian ngắn. Việc đào tạo này cần thực hiện thường xuyên để có thể cập nhật những phương pháp mới trong thẩm định. Để đào tạo được toàn diện, phù hợp với xu thế hội nhập thì không chỉ tiến hành trong nước mà phải học hỏi các nước trên thế giới.
* Đối với đào tạo trong nước.
Cần cho những cán bộ trẻ mới vào nghề làm việc với những cán bộ lâu năm nhiều kinh nghiệm. đây là hình thức đào tạo trực tiếp rất hiệu quả. Những người có kinh nghiệm tập trung dìu dắt, truyền đạt kinh nghiệm cho họ. Làm như vậy cũng sẽ tạo ra không khí làm việc thân thiện giữa cán bộ cũ và mới.
Tổ chức các khóa đào tạo nhằm nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ thẩm định. Đây là việc làm cần thực hiện thường xuyên mới có thể bắt kịp với những thay đổi trong hoạt động đầu tư. Để có thể thẩm định tốt nhất các DAĐT thuộc lĩnh vực xây lắp thì không chỉ mở những lớp chuyên về thẩm định mà còn có những lớp học về xây dựng như các khóa học về đọc bản vẽ, bóc tách bản tiên lượng…Ngoài ra các khóa đào tạo về luật như luật đầu tư, luật xây dựng, luật đấu thầu… cũng không thể bỏ qua. Có như vậy thì cán bộ thẩm định mới được trang bị đầy đủ các kiến thức liên quan đến DAĐT. Vì như đã nói, xây lắp là hoạt động phức tạp nếu không có hiểu biết về kỹ thuật thì khó có thể đưa ra những kết luận chính xác.
Hàng năm ngân hàng nên tổ chức những cuộc thảo luận trao đổi về kỹ năng cũng như phương pháp cũng như phương pháp thẩm định. Trong các cuộc trao đổi này có thể mời các chuyên gia có kinh nghiệm, những giảng viên lâu năm từ các trường đại học tham gia vì họ luôn luôn cập nhật những vấn đề mới. Sau những cuộc trao đổi đó, cán bộ thẩm định sẽ có được kiến thứ tổng hợp về lý luận và thực tiễn. Nhờ đó, giúp họ có khả năng phán đoán nhiều tình huống có thể ảnh hưởng đến dự án.
Với cuộc sống số như hiện nay, việc hiểu biết và có khả năng sử dụng công nghệ thông tin là điều bắt buộc đối với cán bộ ngân hàng. Người cán bộ giỏi phải là người biết ứng dụng khoa học hiện đại vào làm việc. Chính vì vậy mà ngân hàng cũng phải tổ chức khóa học về công nghệ thông tin. Bằng việc đó có thể tranh thủ sự tiến bộ của khoa học, giảm tải được những công việc thủ công, giúp quá trình thẩm định nhanh, chính xác, hiệu quả.
Một biện pháp để thúc đẩy khả năng tự học hỏi của cán bộ là khuyến khích hoạt động nghiên cứu khoa học, tổ chức cuộc thi cán bộ thẩm định giỏi. Thông qua đó mỗi người chủ động nghiên cứu bổ sung kiến thức mới. Những đề tài khoa học có chất lượng nên được áp dụng vào hoạt động của ngân hàng. Đây chính là dịp để cán bộ học hỏi và tự rút ra những bài học cho mình.
* Đối với hình thức đào tạo ở nước ngoài.
Có thể cử cán bộ giỏi đi học tập tại những nước có hệ thống ngân hàng phát triển để họ học tập kinh nghiệm làm việc tại nước đó. Đồng thời nên tổ chức những đoàn khảo sát sang các nước phát triển học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lý và thực hiện thẩm định của họ.
Trong thời gian tới sẽ có nhiều ngân hàng nước ngoài vào Việt Nam, Ngân hàng ĐT & PT HN cần nhanh chóng tiếp cận phương pháp làm việc hiện đại mới có thể cạnh tranh được.
Thứ ba, khi đã có những cán bộ giỏi thì phải làm sao để có thể giữ chân họ làm việc trung thành tại ngân hàng, toàn tâm toàn ý phục vụ ngân hàng. Hơn nữa cũng phải hạn chế rủi ro về đạo đức đối với cán bộ thẩm định.
- Ngân hàng ĐT & PT HN nên có chế độ đãi ngộ cụ thể, hợp lý với những người trực tiếp làm công tác thẩm định. Cần đảm bảo cán bộ thẩm định được trả lương tương xứng với sức lao động mà họ bỏ ra. Với khoản thù lao xứng đáng, người cán bộ thấy mình được tôn trọng, cảm thấy gắn bó với công việc, làm việc với tinh thần trách nhiệm cao hơn. Điều này hạn chế khả năng cán bộ thẩm định vì vật chất mà móc ngoặc với doanh nghiệp chấp nhận cho những DAĐT không hiệu quả vay vốn.
- Bên cạnh việc trả lương thì chế độ khen thưởng kịp thời sẽ thúc đẩy sự phấn đấu của mỗi cán bộ. Đối với những dự án mà công tác thẩm định nhanh, hiệu quả, dự án hoạt động tốt thì cán bộ sẽ được khen thưởng phù hợp. Hàng năm nên có danh hiệu thi đua cho cán bộ xuất sắc.
- Tạo môi trường làm việc thuận lợi cho nhân viên. Môi trường làm việc trong ngân hàng phải tạo được sự thân thiện, đoàn kết, đồng thời phải tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh. Đây là yếu tố ngoại cảnh có tác dụng giúp con người say mê làm việc và phát huy hết nội lực.
- Để tránh rủi ro về đạo đức thì việc phân định trách nhiệm là rất cần thiết. Những người làm tốt thì được khen thưởng còn tất nhiên cán bộ không hoàn thành nhiệm vụ hoặc vi phạm đạo đức nghề nghiệp cũng sẽ bị xử phạt. Để có thể xác định rõ trách nhiệm thì khi thẩm định một dự án phải phân công công việc cụ thể, tránh chồng chéo, trách nhiệm không rõ ràng.
Với những biện pháp trên chắc chắn ngân hàng sẽ có những nhân viên giỏi, trung thành, sẵn sàng làm việc vì ngân hàng trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt sắp tới.
2.3. Nâng cao chất lượng thu thập, lưu trữ và xử lý thông tin.
Như đã phân tích trong phần thực trạng, một điểm yếu của Ngân hàng ĐT & PT HN là chất lượng nguồn thông tin còn hạn chế. Vậy làm thế nào để khắc phục yếu kém này.
2.3.1. Đối với việc thu thập thông tin.
Đây là bước đầu tiên để có được thông về DAĐT cũng như về khách hàng. Làm tốt bước này thì mới có thể tiếp tục các bước sau một cách suôn sẻ. Trong điều kiện bùng nổ thông tin như hiện nay, nguồn thông tin là vô cùng phong phú và đa dạng, chúng ta có thể tìm kiếm thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng nhanh chóng. Điều quan trọng cần xác định thông tin về dự án có thể lấy từ nguồn nào, thu thập bằng cách nào để chính xác và hiệu quả nhất. Nguồn thông tin là căn cứ quan trọng để thẩm định, giúp ngân hàng giảm thiểu quyết định sai lầm như bỏ qua một dự án tốt hoặc chấp nhận một dự án không hiệu quả.
Ngân hàng có thể khai thác thông tin từ những nguồn sau:
- Thông tin về DAĐT từ phía doanh nghiệp xin vay vốn:
Doanh nghiệp xin vay vốn thì mục đích của họ là vay được đủ vốn để đầu tư cho dự án. Vì vậy thông tin mà họ mang đến thường thiếu sót, mang tính đại khái, những thông tin bất lợi có thể bị che giấu… Cho nên bên cạnh hồ sơ dự án mà doanh nghiệp cung cấp thì cán bộ thẩm định cần đến tận nơi làm việc của doanh nghiệp để xem xét điều kiện làm việc . Cần trao đổi với người trực tiếp lập và quản lý dự án để xem xét cách thức mà khách hàng định thực hiện dự án. Cán bộ thẩm định có thể tìm hiểu trước sau đó đặt ra những câu hỏi về biện pháp thực hiện, nhận định về thị trường của dự án, cách tính toán những chi phí, cách quản lý… dựa vào hệ thống các câu hỏi và trả lời có thể biết được cách thực hiện dự án có khoa học và hiệu quả không.
- Đối với nguồn thông tin trong nội bộ ngân hàng:
Trước hết, phải có hệ thống lưu trữ thông tin nội bộ. Hệ thống này sẽ giữ lại tất cả thông tin đã có tại ngân hàng từ tất cả các bộ phận, phòng ban. Đối với những khách hàng đã từng có quan hệ tín dụng với ngân hàng thì hồ sơ về doanh nghiệp sẽ được lưu trữ tại đây và cán bộ thẩm định có thể tham khảo bất kỳ lúc nào. Tăng cường sự trao đổi thông tin giữa các phòng ban. Có thể có người hiểu biết về dự án, họ sẽ giúp cán bộ thẩm định có thêm thông tin. Thông tin trong nội bộ cần được phân loại, xử lý cho dễ dàng tra cứu.
- Các nguồn thông tin từ bên ngoài ngân hàng:
Những nguồn thông tin này cực kỳ phong phú nhưng lại không đảm bảo về độ chính xác. Nó bao gồm thông tin chính thống và không chính thống. Do vậy, khi lựa chọn những thông tin này phải hết sức cẩn thận, lựa chọn nên theo hệ thống và chỉ tiếp nhận từ nguồn đáng tin cậy. Những nguồn này có thể từ cơ quan quản lý nhà nước, từ NHNN, từ công ty kiểm toán, trên mạng internet…
+ Thông tin từ cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng: một dự án đầu tư muốn được thực hiện phải được các cấp có thẩm quyền cho phép. Vì vậy, hồ sơ dự án sẽ được lưu trữ tại chính quyền địa phương nơi dự án xây dựng hoặc các cấp có thẩm quyền. Nguồn thông tin này rất đáng tin cậy. Tuy nhiên, những cơ quan này thường quan tâm đến hiệu quả kinh tế xã hội nhiều hơn còn ngân hàng quan tâm đến hiệu quả tài chính và khả năng trả nợ.
+ Thông tin từ ngân hàng nhà nước Việt Nam: cán bộ thẩm định có thể khai thác triệt để thông tin từ trung tâm tín dụng CIC. Đặc biệt là đối với khách hàng lần đầu quan hệ với Ngân hàng ĐT & PT HN . Những thông tin ở đây chủ yếu là về doanh nghiệp còn về dự án thì có thể không có. Tuy nhiên, dựa vào đây có thể đánh giá được mức độ tín nhiệm của doanh nghiệp, nhờ đó phần nào có thể xem xét độ tin cậy của hồ sơ dự án mà khách hàng cung cấp. mặc dù vậy nguồn thông tin này chính xác đến mức nào còn phụ thuộc vào báo cáo do các ngân hàng thương mại cung cấp. Bởi vậy, ngoài nguồn thông tin từ CIC, ngân hàng cũng phải chủ động khai thác thêm thông tin từ các bộ phận khác của NHNN như vụ tín dụng, vụ chiến lược khách hàng…
+ Thông tin từ các công ty kiểm toán: Nếu có nguồn thông tin này thì độ chính xác rất cao.
+ Thông tin từ các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng: Dựa vào các doanh nghiệp này có thể đánh giá tình hình hoạt động chung của ngành. Qua đó xác định được thị trường tiêu thụ của dự án, chi phí và thị trường của nguyên vật liệu đầu vào, những khó khăn hiện tại đối với ngành…thậm chí những thông tin này có thể lấy từ những doanh nghiệp xây lắp đã từng vay vốn tại ngân hàng.
+ Thông tin trên mạng internet: Ngày nay internet là công cụ hữu hiệu để tìm kiếm thông tin. Những thông tin này rất khó kiểm soát nên không thể coi là thông tin chính thức cho thẩm định. Cán bộ thẩm định chỉ nên sử dụng chúng để tham khảo mà thôi.
+ Trong thời gian tới, sẽ có nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư tại Việt Nam và có thể họ cũng có nhu cầu vay vốn tại Ngân hàng ĐT & PT HN. Ngân hàng nên chủ động để khai thác thông tin từ nước ngoài qua các cơ quan thông tin tín dụng của ASEAN, Châu Á…
2.3.2. Đối với việc lưu trữ thông tin.
Khi đã có được thông tin thì phải lưu trữ cẩn thận và khoa học để khi nào dùng có thể dễ dàng lấy ra. Việc này không chỉ đáp ứng cho thẩm định trực tiếp dự án mà còn có thể sử dung sau này. Với trình độ công nghệ thông tin như hiện nay thì lưu trữ là không mấy khó khăn. Tuy nhiên số dự án xin vay vốn tại Ngân hàng ĐT & PT HN rất nhiều nên phải sử dụng những phần mềm chuyên biệt. tốt nhất ngân hàng nên có một bộ phận chuyên thu thập và lưu trữ thông tin. Những dữ liệu này được lưu vào máy tính và được nối mạng nội bộ. Thông tin lưu trữ phải đảm bảo một số yêu cầu sau:
- Thông tin phải được chọn lọc nhằm đảm bảo độ tin cậy cho công tác thẩm định.
-Thông tin luôn được cập nhật kịp thời, chính xác, có tính thời sự, phù hợp với sự biến động của nền kinh tế.
- Thông tin phải phù hợp, có khả năng sử dụng cho hoạt động của ngân hàng. Có thể có rất nhiều thông tin cùng đến nhưng ngân hàng chỉ nên lưu trữ những gì phục vụ cho nghiệp vụ của mình mà thôi, còn thông tin ngoài luồng thì nên loại bỏ. Nếu phát hiện thông tin nào không còn phù hợp với hiện tại thì phải báo cho bộ phận lưu trữ xóa bỏ, tránh tình trạng nhầm lẫn, sử dụng thông tin không còn giá trị.
- Thông tin phải được sắp xếp có hệ thống thuận tiện cho việc tra cứu. Lượng thông tin được giữ rất nhiều nên cần sắp xếp chúng thành những nhóm chỉ tiêu. Làm như vậy thì mỗi lần muốn tìm thông tin thuộc lĩnh vực nào có thể nhanh chóng tìm đúng chỗ. Khi phân loại nên phân theo các tiêu thức như: loại hình doanh nghiệp( ngành nghề kinh doanh), quy mô doanh nghiệp,loại dự án, quy mô dự án, lĩnh vực hoạt động, thông tin thị trường, thông tin kinh tế xã hội…Sự sắp xếp hợp lý sẽ làm giảm thời gian truy cập, từ đó giảm thời gian thẩm định.
Nếu lưu trữ thông tin tốt thì ngân hàng có thể thu được nhiều thông tin cho những lần sử dụng sau mà không mất công sức, thời gian, chi phí để tìm lại những thông tin đã có. Lưu trữ cũng là tổng hợp dữ liệu để phân tích, đánh giá dự án.
2.3.3. Vấn đề xử lý thông tin.
Những thông tin thu được có thể đã được xử lý hoặc vẫn ở dạng thô. Trước khi lưu thông tin ngân hàng phải xử lý qua những thông tin này. Dữ liệu cần thể hiện cả dưới dạng định tính và định lượng. có nhiều số liệu chỉ dưới dạng cá biệt nên chúng ta phải tập hợp để biến chúng thành những con số phản ánh tổng quát. Từ những con số tuyệt đối, nhờ phương pháp thống kê ta sẽ tính toán được thành số tương đối, phản ánh xu thế biến động chung của chỉ tiêu được xem xét. Xử lý thông tin còn là việc lựa chọn, đánh giá mức độ chính xác và tầm quan trọng của nó. Xác định thông tin nào trực tiếp phục vụ cho công tác thẩm định, thông tin nào chỉ mang tính chất tham khảo. Xử lý thông tin đơn giản chính là việc phân loại thông tin cho tiện tra cứu.
Sau khi những thông tin này được xử lý sơ bộ phục vụ cho việc lưu trữ thì đến khi thẩm định, cán bộ lại tiếp tục xử lý kỹ hơn để xem xét hiệu quả dự án. Quá trình này phức tạp hơn rất nhiều và rất quan trọng đòi hỏi sự cẩn thận, tỷ mỷ của cán bộ thẩm định. Kết thúc quá trình này cán bộ thẩm định phải đưa ra được kết luận cuối cùng về dự án phục vụ cho việc ra quyết định cho vay.
2.4. Hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý thẩm định.
Tổ chức, quản lý tốt công tác thẩm định góp phần nâng cao chất lượng thẩm định DAĐT. Do mức độ phức tạp và nhiều rủi ro của công việc nên phải quản lý chặt chẽ nhằm rút ngắn thời gian, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả thẩm định. Hiện nay Ngân hàng ĐT & PT HN có hai phòng cùng làm công tác thẩm định là lãng phí. Thực chất làm như ngân hàng hiện nay mới chỉ có chiều rộng mà không có chiều sâu. Nhiều nội dung thẩm định bị trùng lặp không cần thiết. Như đã nói ở phần 1 trong chương này, để vai trò của công tác thẩm định được nâng cao, có khả năng tư vấn cho doanh nghiệp thì phòng thẩm định phải như một đơn vị độc lập, làm việc chuyên nghiệp. Muốn vậy, ngân hàng cần thực hiện những biện pháp sau:
Thứ nhất, ngân hàng nên tập trung đầu mối thẩm định tại phòng thẩm định và nâng cao năng lực làm việc của phòng này. Điều hành hoạt động của phòng này là trưởng phòng. Tất nhiên phòng thẩm định phải có sự phối hợp, trao đổi thông tin với các phòng khác. Sự tập trung này đảm bảo tính nhất quán, chuyên sâu và tránh tâm lý ỷ lại giữa các phòng với nhau. Đồng thời, sẽ giảm được chi phí thẩm định và không bị thẩm định trùng lặp.
Thứ hai, trong phòng thẩm định nên chia thành tổ thẩm định theo thực hiện theo loại hình dự án như tổ thẩm định đối với xây lắp, thẩm định cho vay dịch vụ, công nghiệp…Ngoài ra nên có tổ tư vấn về kỹ thuật, máy móc, pháp luật…đứng đầu mỗi nhóm là trưởng nhóm sẽ chỉ đạo những người trong nhóm làm việc theo phân công của trưởng phòng. Với lượng nhân viên ít thì có thể tổ chức quản lý dưới dạng ma trận. Như vậy khi cần thiết thì một người vẫn có thể đảm nhiệm công việc của nhiều nhóm.
Thứ ba, bố trí nhân sự sao cho phù hợp với năng lực và sở trường của mỗi người. Cách làm này không những tạo ra tâm lý làm việc thoải mái, nâng cao hiệu suất làm việc mà còn có thể bổ sung nhân sự kịp thời.
Thứ tư, thực hiện kiểm tra, kiểm soát với thường xuyên đối với hoạt động thẩm định. Kiểm tra phải được tiến hành cẩn thận trước, trong và sau quá trình thẩm định. Việc kiểm tra này nhằm khắc phục kịp thời những sai sót trong quá trình phân tích, tính toán. Đồng thời, quản lý cũng nhằm đảm bảo tiến độ và chất lượng thẩm định.
2.5. Hoàn thiện nội dung và phương pháp thẩm định.
2.5.1. Đối với nội dung thẩm định.
Hiện nay Ngân hàng ĐT & PT VN đã có một quy trình thẩm định chi tiết và khoa học, thường xuyên được bổ sung sửa đổi cho phù hợp với thực tế. Vì vậy Ngân hàng ĐT & PT HN cần thực hiện theo đúng quy trình này và có những điều chỉnh phù hợp với từng dự án cụ thể.
Dòng tiền của dự án cần được xây dựng dựa trên căn cứ khoa học, chính xác vì đây là cơ sở để xác định những chỉ tiêu hiệu quả của dự án.
- Vì những dự án xây dựng thường phải tuân theo các tiêu chuẩn và định mức của nhà nước, cho nên, chi phí xây dựng phải được xác định dựa vào hệ thống các quy định của ngành và chính phủ. Những định mức này thường được thay đổi phù hợp với thị trường, do đó, ngân hàng cần cập nhật những điều chỉnh thường xuyên liên quan đến giá cả của các yếu tố xây dựng.
Những dự án về xây dựng thường được thực hiện theo phương thức đấu thầu. Vì thế những khoản chi phí dự thầu cũng phải được tính toán chi tiết.
- Đối với doanh nghiệp xây lắp, tài sản cố định là không nhỏ, khi thẩm định cán bộ phải lựa chọn phương pháp tính khấu hao cho những tài sản đó. Đây là chỉ tiêu rất nhạy cảm, khi tính toán phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động và vòng đời của dự án. Đặc biệt, giá trị thu hồi vào năm cuối sẽ ảnh hưởng đến dòng tiền sau này.
- Đối với dự án kéo dài trong nhiều năm, vòng đời của dự án có thể vượt quá thời gian hữu dụng của máy móc nên khi tính dòng tiền phải xác định thêm chi phí nâng cấp, mua mới máy móc.
Bên cạnh đó, để đánh giá dự án một cách chính xác hơn thì ngoài việc tính toán NPV và IRR cán bộ thẩm định nên tính toán thêm một số chỉ tiêu hiệu quả tài chính như thời gian thu hồi vốn, tỷ số B/C…
Để tính toán các chỉ tiêu hiệu quả của dự án thì việc quan trọng là xác định hệ số chiết khấu. Hiện nay, việc dùng lãi suất cho vay dài hạn làm hệ số chiết khấu là không hợp lý vì nó chưa phản ánh được chi phí vốn phải bỏ ra của dự án. Một dự án thường sử dụng nhiều nguồn vốn khác nhau nên hệ số chiết khấu phải là chi phí sử dụng vốn bình quân gia quyền. Thông thường, khi vốn đầu tư bao gồm nợ và vốn chủ sở hữu thì công thức tính toán sẽ là:
2.5.2. Đối với phương pháp thẩm định.
Vì mỗi DAĐT có đặc thù riêng nên tùy thuộc vào đặc điểm của dự án mà lựa chọn phương pháp thẩm định cho phù hợp. Một dự án phải thẩm định nhiều nội dung, mỗi nội dung cũng có thể áp dụng một phương pháp riêng, cho nên có thể sử dụng kết hợp nhiều phương pháp trong cùng một dự án. Điều này phụ thuộc vào trình độ chuyên môn của cán bộ thẩm định.
Cần phân tích dự án trong trạng thái động.Một DAĐT xây dựng thường kéo dài trong nhiều năm, nó chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan. Trong môi trường kinh tế đầy biến động như hiện nay, dự án cũng như một cơ thể sống, nó luôn luôn phải vận động, thay đổi cho phù hợp với điều kiện thực tế. Do đó, để viêc thẩm định dự án được chính xác, có tính thuyết phục cao thì nhất thiết mọi sự tính toán phải đặt trong trạng thái động.
Tất nhiên, việc phân tích trong trạng thái này chính xác đến mức độ nào phải phụ thuộc vào khả năng phân tích và dự báo của cán bộ thẩm định. Để làm tốt, ngân hàng cần áp dụng những công cụ hiện đại vào phân tích như phần mềm kinh tế lượng, các mô hình xác suất, thống kê, mô hình toán…
Bên cạnh đó, những phương pháp phân tích rủi ro cũng hết sức quan trọng. Có thể sử dụng một vài phương pháp cơ bản như: phân tích độ nhậy, phân tích theo kịch bản, phân tích theo giả định, phân tích xác suất, phân tích theo lưu đồ, phân tích xương cá…
2.6. Xây dựng quỹ thẩm định và quản lý hiệu quả quỹ này.
Chi phí cho thẩm định của Ngân hàng ĐT & PT HN vẫn chỉ có tiền lương và thưởng cho cán bộ thẩm định mà không có một nguồn bổ sung nào khác. Trong khi đó, công tác thẩm định có rất nhiều chi phí phát sinh như chi phí đi lại, mua thông tin, chi phí đi thực tế… nhiều dự án thực hiện không phải ở gần ngân hàng mà có thể ở các tỉnh xa. Muốn thẩm định hiệu quả cán bộ thẩm định phải đến tận nơi dự án xây dựng để khảo sát. Tuy nhiên, nếu không có nguồn kinh phí nào chi cho những việc đó thì cán bộ không thể thực hiện bằng đồng lương của mình. Vì vậy, lập một quỹ thẩm định là yêu cầu cần thiết.
Khi quỹ này được thành lập thì lại đặt ra yêu cầu quản lý sao cho hiệu quả, tránh lãng phí. Cụ thể:
- Phải quy định mức chi phí tối đa cho một dự án. Với những dự án khác nhau thì chi phí thẩm định phát sinh là khác nhau. Do đó, có thể quy định mức này theo từng loại dự án.
- Quy định những công việc nào sẽ được cấp kinh phí từ quỹ này, công việc nào cán bộ tự chi trả.
- Phải quyết toán chi tiết với từng công việc.
2.7. Đầu tư trang thiết bị và công nghệ phục vụ thẩm định.
Hiện nay ngân hàng đã trang bị cho mỗi cán bộ một máy tính cá nhân, trong phòng có nối mạng internet. Tuy nhiên để tạo điều kiện thuận tiện cho cán bộ thẩm định khi thực hiện công việc ngân hàng cần xây dựng một phòng tra cứu thông tin để cán bộ thẩm định có thể tìm hiểu thông tin về thị trường, khách hàng, pháp luật... được dễ dàng. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần tiến hành nghiên cứu xây dựng và áp dụng các chương trình phần mềm phục vụ công tác thẩm định để tiết kiệm thời gian, đảm bảo thực hiện đầy đủ các phân tích theo yêu cầu của chương trình, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định.
3. Kiến nghị.
3.1. Kiến nghị với Nhà nước.
Nhà nước cần phải nhanh chóng tạo một môi trường đầu tư ổn định và thuận lợi cho doanh nghiệp, đưa những luật liên quan đến hoạt động đầu tư xây dựng áp dụng một cách hiệu quả như luật đầu tư, luật đất đai, luật xây dựng, luật đấu thầu. Việc xây dựng quy hoạch, định hướng phát triển kinh tế cho cả nước và cho từng ngành phải đảm bảo được tính hợp lý và ổn định, tránh trùng lặp. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho ngân hàng xử lý những vấn đề liên quan đến đầu tư. Một môi trường đầu tư ổn định sẽ hạn chế những thay đổi nằm ngoài dự tính của các biến số kinh tế, nhờ đó việc thẩm định rủi ro xảy ra với dự án được chính xác hơn.
Việc thiết lập hoạt động của các công ty tư vấn đầu tư, tài chính là rất cần thiết trong điều kiện hội nhập hiện nay. Những công ty này sẽ hỗ trợ rất nhiều trong việc cung cấp thông tin và tư vấn đầu tư không chỉ cho ngân hàng mà cho cả các doanh nghiệp xây lắp. Do đó, Nhà nước nên hỗ trợ, khuyến khích hoạt động của các công ty này nhằm tạo tính chuyên nghiệp và hiệu quả trong đầu tư. Tuy nhiên, phải có những quy định chặt chẽ hoạt động của các công ty này, tránh tình trạng hoạt động tràn lan, kém chất lượng ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Cần có biện pháp đẩy mạnh hoạt động kiểm toán Nhà nước cũng như kiểm toán độc lập đối với các doanh nghiệp xây dựng. Đây là nguồn thông tin khá chính xác hỗ trợ cho công tác thẩm định của ngân hàng. Nhà nước cần có chế tài xử lý nghiêm minh đối với những doanh nghiệp thực hiện sai chế độ kế toán, tài chính hoặc cố tình cung cấp những thông tin sai lệch cho ngân hàng để vay được vốn.
Nhà nước cần chỉ đạo hoạt động của các cơ quan thống kê nhằm tạo điều kiện để các cơ quan này đưa ra những thống kê chính xác, kịp thời về định mức trung bình của các ngành, lĩnh vực nói chung và lĩnh vực xây lắp nói riêng… giúp ngân hàng có cơ sở vững chắc để so sánh, đánh giá.
Nhà nước, chính quyền địa phương không nên can thiệp sâu vào hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Có như vậy thì ngân hàng mới có thể tự chủ trong vấn đề phát triển nghiệp vụ và quyết định cho vay và đầu tư mà không chịu sự chi phối chủ quan nào. Đặc biệt là đối với ngân hàng quốc doanh như Ngân hàng ĐT & PT HN, chịu sự chỉ đạo chặt chẽ của nhà nước. Trên thực tế, có nhiều địa phương vì lợi ích cục bộ đã yêu cầu ngân hàng cho vay một mức vốn cố định mặc dù ngân hàng chưa hề thẩm định DAĐT.
Chính phủ cần ban hành những quy định, nghị định về thanh toán thông qua tài khoản mà không dùng tiền mặt cho phù hợp với xu thế hiện nay. Với hệ thống lưu thông séc và hệ thống thanh toán thay thế thanh toán tiền mặt sẽ giúp ngân hàng dễ quản lý hoạt động sử dụng vốn của doanh nghiệp sau khi cho vay.
3.2. Kiến nghị với NHNN Việt Nam.
Hoạt động của hệ thống ngân hàng tại Việt Nam chịu ảnh hưởng của các cơ chế, chính sách của NHNN. Vì vậy, để các ngân hàng thương mại hoạt động hiệu quả, NHNN phải tăng cường vai trò chỉ đạo của mình.
Trước hết, NHNN cần có những sửa đổi bổ sung nhiều nội dung không còn phù hợp với điều kiện hiện nay của 2 luật ngân hàng. Cần phối hợp với các cơ quan hữu quan xây dựng các văn bản, quy phạm dưới luật hướng dẫn cụ thể 2 luật này.
NHNN cần có biện pháp nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm phòng ngừa rủi ro (TPR) và trung tâm thông tin tín dụng ( CIC). NHNN nên đưa ra mức độ rủi ro của từng loại ngành nghề, từng lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp để ngân hàng có những luận cứ so sánh, phân loại rủi ro. Xây dựng CIC trở thành nơi cung cấp nguồn thông tin đáng tin cậy cho các NHTM. Ngoài những thông tin do báo cáo của các NHTM gửi đến, trung tâm này cũng cần tích cực thu thập thông tin từ các nguồn như tổng cục thống kê, các Bộ, ban ngành hoặc là muc thông tin của các tổ chức quốc tế.
NHNN cần xây dựng và ban hành quy trình, nội dung thẩm định DAĐT thống nhất đối với NHTM trên cơ sở nghiên cứu của các cơ quan khoa học, của Bộ Kế hoạch Đầu tư và các ngân hàng cho phù hợp với thực tiễn. Hiện nay do chưa có sự thống nhất trong công tác thẩm định giữa các NHTM nên việc tính toán hiệu quả dự án có khi khác nhau. Điều này gây khó khăn trong việc các ngân hàng tham gia đồng tài trợ. Ví dụ, cùng một DAĐT nhưng do lãi suất chiết khấu tại các ngân hàng khác nhau nên khi thẩm định sẽ cho các chỉ tiêu hiệu quả tài chính khác nhau. Hàng năm NHNN nên tổ chức các buổi hội thảo về thẩm định trong toàn ngành để các ngân hàng học hỏi, tăng cường sự hiểu biết và hợp tác với nhau, cùng rút kinh nghiệm trong công tác thẩm định. Để tích lũy kinh nghiệm và cũng như học hỏi lẫn nhau thì bản thân các ngân hàng cần chủ động trong việc hợp tác, trao đổi thông tin và kinh nghiệm. Mỗi ngân hàng đều có đặc điểm và thế mạnh riêng, sự hợp tác này nhằm bổ sung hỗ trợ nhau cùng phát triển, đặc biệt là trong các dự án đồng tài trợ.
Chỉ đạo các NHTM liên kết với nhau thành hệ thống liên ngân hàng, hợp tác với nhau trong việc cung cấp thông tin khách hàng nhằm hạn chế rủi ro trong việc tiếp nhận thông tin. NHNN cần có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ xây dựng, Bộ Kế hoach và Đầu tư … để phân loại doanh nghiệp thống nhất, tránh tình trạng cùng một doanh nghiệp nhưng các ngân hàng đánh giá, xếp loại khác nhau gây khó khăn trong công tác thẩm định.
3.3. Kiến nghị với Ngân hàng ĐT & PT VN.
Hiện nay, quy trình thẩm định của Ngân hàng ĐT&PT VN khá đầy đủ ,chi tiết và khoa học. Tuy nhiên, từ những chính sách của chính phủ và NHNN cần ban hành những phụ lục bổ sung cho đầy đủ cập nhật những thông tin và phương pháp tiên tiến trên thế giới. Bên cạnh đó, cần cố gắng đưa ra một số chỉ tiêu tài chính cơ bản trong toàn hệ thống để cán bộ thẩm định dễ dàng so sánh, đánh giá. Đây là biện pháp quan trọng để nâng cao chất lượng công tác thẩm định, vì các ngân hàng thường có thói quen làm việc theo văn bản, áp dụng cứng nhắc so với thực tế.
Cần hỗ trợ chi nhánh trong việc thu thập thông tin. Ở Việt Nam, các NHTM thường kiểm tra thông tin đối với các khách hàng quan hệ lần đầu từ 2 nguồn cơ bản là CIC và TRP. Thực chất những nguồn thông tin này được tập hợp từ các báo cáo tài chính của các NHTM nên chưa cập nhật và tính thuyết phục chưa cao. Hiện nay, NH ĐT & PT VN đã thành lập phòng phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên, NHDT&PTVN cần tăng cường hơn nữa hiệu quả hoạt động của phòng này. Ngoài ra, nâng cao hiệu quả thu thập, xử lý dữ liệu từ các chi nhánh.
NHDT&PTVN nên nghiên cứu và nhanh chóng đưa trang thiết bị hiện đại, kỹ thuật tiên tiến và phương tiện vật chất cần thiết phục vụ cho hoạt động kinh doanh nói chung và nghiệp vụ thẩm định DAĐT nói riêng.
Bên cạnh đó, NHDT&PTVN cũng cần thường xuyên theo dõi, nắm bắt các chủ trương, kế hoạch của nhà nước, của các Bộ để kịp thời phổ biến cho các chi nhánh trong hệ thống. Từ đó xác định đúng đắn phương hướng hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là đối với hoạt động cho vay các DAĐT mang tính chất chiến lược.
Cần xây dựng phương pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định để đáp ứng được yêu cầu của tiến trình hiện đại hóa ngân hàng. Áp dụng các hình thức phong phú, đa dạng như đào tạo, huấn luyện, tổ chức các buổi hội thảo, các khóa tập huấn nghiệp vụ để cán bộ có dịp gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm… trong và ngoài hệ thống. Có kế hoạch tuyển dụng, bố trí nhân sự làm công tác thẩm định trong toàn hệ thống nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Thẩm định phương diện kỹ thuật đối với các dự án xây lắplà rất khó. Do vậy, NHDT&PTVN nên có những giải pháp cụ thể, hỗ trợ cho các chi nhánh bằng các biện pháp như tổ chức dịch vụ tư vấn kỹ thuật hoặc tuyển thêm nhân viên chuyên ngành kỹ thuật sau đó đào tạo nghiệp vụ ngân hàng.
Để tránh rủi ro đối với những khoản cho vay lớn, ngân hàng nên chuyển thẳng vào tài khoản của các đơn vị cung ứng vật tư hoặc đơn vị thi công theo các hợp đồng đã ký kết, biên bản nghiệm thu từng hạng mục công trình mà không cấp tiền mặt hoặc chuyển khoản vào tài khoản của các khách hàng trực tiếp vay vốn.
3.4. Kiến nghị đối với chủ đầu tư.
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác thẩm định DAĐT, chủ đầu tư cần phối hợp chặt chẽ với ngân hàng. Chủ đầu tư cần xác định rằng ngân hàng chính là một đối tác, là nhà tài trợ quan trọng cho dự án.
Trước hết, chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán, kiểm toán trong doanh nghiệp. Khi nộp hồ sơ xin vay vốn, chủ đầu tư cần chủ động tích cực cung cấp đầy đủ những tài liệu cần thiết cho ngân hàng theo đúng qui định, đảm bảo chính xác, trung thực vì đây là cơ sở quan trọng để ngân hàng tiến hành thẩm định. Với kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn, ngân hàng có thể tư vấn cho nhà đầu tư việc lập dự án nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
Mặt khác, chủ đầu tư cần nâng cao năng lực lập và thực hiện DAĐT. Dự án được lập phải dựa trên cơ sở khoa học và sát với thực tế. Muốn vậy, chủ đầu tư phải chấp hành theo đúng quy định của các văn bản pháp luật, thường xuyên tiến hành nghiên cứu thị trường, phân tích và dự báo xu hướng biến động của cung cầu. Cần có nhận thức đúng đắn về vai trò, vị trí của công tác thẩm định trong việc quyết định đầu tư để đảm bảo có những dự án đạt hiệu quả tốt nhất. Một dự án được lập cẩn thận, khoa học sẽ giúp việc thẩm định dễ dàng, khi phân tích có thể đưa ra quyết định chính xác, hơn nữa có thể chỉ ra những rủi ro có thể xảy ra để chủ đầu tư có biện pháp xử lý kịp thời.
Để giúp ngân hàng thực hiện tốt công tác thẩm định, chủ đầu tư cần thực hiện nghiêm túc những cam kết với ngân hàng. Khi tiến hành thực hiện dự án phải đảm bảo thực hiện đúng những nội dung đã xây dựng. Trong trường hợp có sửa đổi so với ban đầu hoặc có trục trặc phát sinh thì cần thông báo, phối hợp với ngân hàng để có biện pháp giải quyết phù hợp, kịp thời
KẾT LUẬN
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây lắp là khách hàng chủ đạo của Ngân hàng ĐT & PT HN, vì vậy, ngân hàng luôn tìm cách nâng cao chất lượng cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này. Hoạt động của ngân hàng dù phát triển đến đâu thì mục tiêu cơ bản vẫn là an toàn vốn, hiệu quả trong kinh doanh và sức mạnh trong cạnh tranh, cho nên khi cho doanh nghiệp vay vốn khâu thẩm định dự án là rất cần thiết. Trong những năm gần đây, công tác thẩm định DAĐT thực sự được Ngân hàng ĐT & PT HN quan tâm nên chất lượng tín dụng được nâng cao. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan khiến cho công tác thẩm định vẫn còn có nhiều bất cập cần khắc phục để nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Trên đây là một số đánh giá, nhận định của cá nhân em về tình hình thẩm định DAĐT đối với doanh nghiệp xây lắp tại Ngân hàng ĐT & PT HN và một số đề xuất về giải pháp để nâng cao hơn nữa chất lượng công tác thẩm định. Chắc chắn bài viết còn rất nhiều thiếu sót, vì vậy em rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô, bạn bè và các cô chú, anh chị trong Ngân hàng ĐT & PT HN để bài viết của em hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới cô giáo Thạc sĩ Trần Mai Hương – giảng viên Bộ môn Kinh tế đầu tư, các cô chú, anh chị trong phòng tín dụng 4- Ngân hàng ĐT & PT HN đã tận tình giúp đỡ, chỉ bảo em trong thời gian thực tập vừa qua.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế đầu tư . PGS.TS Nguyễn Bạch Nguyệt – TS. Từ Quang Phương. NXB Thống Kê 2004.
2. Thẩm định tài chính dự án. TS. Lưu Thị Hương. NXB Tài chính 2004.
3. Quy trình Thẩm định – Ngân hàng ĐT & PT HN .
4. Báo cáo tổng kết các năm – Ngân hàng ĐT & PT HN.
5. Luận văn Khóa 43, 44.
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
NH ĐT & PT HN : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Hà Nội.
NH ĐT & PT VN : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
DAĐT : Dự án đầu tư.
NHNN : Ngân hàng nhà nước.
NHTM : Ngân hàng thương mại.
TCT : Tổng công ty.
XDCB : Xây dựng cơ bản.
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ.
Sơ đồ 1: Cơ cấu tổ chức. 4
Sơ đồ 2: Quy trình thẩm định tại Ngân hàng ĐT & PT HN 15
Bảng 1: Nguồn vốn huy động của ngân hàng trong 5 năm 2002 – 2006. 8
Bảng 2 : Cơ cấu nguồn vốn huy động giai đoạn 2002 - 2006 9
Bảng 3: Tình hình sử dụng vốn tại chi nhánh trong thời gian qua. 12
Bảng 4: Cơ cấu sử dụng vốn giai đoạn 2002 – 2006. 13
Bảng 5: Doanh số cho vay theo lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp vay vốn tại Ngân hàng ĐT & PT HN 23
Bảng 6 : Tình hình thẩm định DAĐT đối với các doanh nghiệp xây lắp giai đoạn 2004 – 2006. 23
Bảng 7: Tổng vốn đầu tư của dự án 28
Bảng 8: Bảng xác định dòng tiền thu. 34
Bảng 9: Bảng tính chi phí đầu tư. 34
Bảng 10: Bảng xác định dòng tiền của dự án. 35
Bảng 11: Bảng cân đối trả nợ. 36
Bảng 12 : Khả năng trả nợ của các doanh nghiệp xây lắp giai đoạn 2004 – 2006. 39
Bảng 13 : Chỉ tiêu hoạt động cụ thể của Ngân hàng ĐT & PT HN giai đoạn 2006 – 2010. 47
Biểu đồ 1: Tình hình huy động vốn tại chi nhánh giai đoạn 2002 - 2006 10
Biểu đồ 2: Tình hình thẩm định dự án đối với doanh nghiệp xây lắp giai đoạn 2004 -2006 24
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công tác thẩm định dự án đầu tư xin vay vốn đối với các doanh nghiệp xây lắp tại Chi nhánh Ngân hàng ĐT & PT Hà Nôi Thực trạng và giải pháp.docx