Trung Quốc khi công khai ý tưởng chiến lược “một trục, hai cánh”, tức
là họ đã chuyển cho thế giới thông điệp rằng họ sẽ đóng vai trò lãnh đạo khu 
vực, dẫn dắt ASEAN và vị vậy, họ đã đứng trong cùng “mái nhà với ASEAN”. 
Điều đó cũng có nghĩa là họ sẽ phải tiếp tục thuyết phục các nước trong khu vực 
và không có cái gọi là “mối đe doạ từ Trung Quốc”, họ sẽ phải tạo dựng hình
ảnh “hoà bình phát triển” để “cùng hợp tác, cùng phồn vinh” với các nước xung 
quanh và để thực hiện mục tiêu Trung Quốc sẽ là một cực trong trật tự thế giới 
hai cực trong tương lai, chắc chắn Trung Quốc sẽ không muốn làm xấu đi hình
ảnh của họ trong con mắt của cộng đồng quốc tế, giữ hoà thuận với các nước 
láng giềng, nhất là với một nước ở điểm đầu kết nối chiến lược “một trục, hai 
cánh” lại có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc như nước ta.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 76 trang
76 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3079 | Lượt tải: 2 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Tác động của trung quốc đến thương mại toàn cầu, đến xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ tới năm 2020 và giải pháp thích ứng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vận tải đã qua sử dụng. 
 Trung Quốc áp dụng chế độ cấp phép nhập khẩu không tự động đối với 
10 dòng thuế HS 8 số theo cam kết quốc tế, chủ yếu là đối với các loại hóa chất 
gây nguy hại với tầng ô-zôn. 
 Trung Quốc áp dụng chế độ cấp phép nhập khẩu tự động đối với một số 
sản phẩm thuộc các nhóm gia cầm, dầu thực vật, thuốc lá, đồng, quặng đồng và 
quặng đồng tinh luyện, than, cao su tự nhiên, giấy loại, tơ phi-la-măng, nhôm và 
thép vụn. Thời gian xử lý cấp phép có thể kéo dài đến 10 ngày, và giấy phép có 
thời hạn tối đa là 180 ngày. Mặc dù về nguyên tắc, những mặt hàng này không 
bị hạn chế nhập khẩu nhưng việc duy trì chế độ cấp phép nhập khẩu tự động có 
thể gây chậm trễ cho việc xuất khẩu một số mặt hàng có tiềm năng của ta, chẳng 
hạn như cao su tự nhiên. 
 Nhập khẩu các mặt hàng như ngũ cốc (lúa mỳ, ngô, gạo), đường, thuốc lá, 
dầu thô và xăng dầu, phân bón, bông phải thông qua các công ty thương mại 
Nhà nước của Trung Quốc. 
 Hiện tại, Trung Quốc chưa áp dụng biện pháp chống bán phá giá, chống 
trợ cấp hay tự vệ nào đối với Việt Nam. Tuy nhiên, Trung Quốc đã từng áp dụng 
biện pháp chống bán phá giá và tự vệ đối với hàng hoá nhập khẩu từ các nước 
khác. Chỉ trong khoảng thời gian từ 1/1/2005 đến 30/6/2007, Trung Quốc đã tiến 
hành điều tra chống bán phá giá đối với 39 vụ việc, trong đó 27 vụ việc liên 
quan đến hoá chất và các sản phẩm hoá chất. Các đối tác thương mại của Trung 
Quốc bị điều tra chống bán phá giá là Nhật Bản (9 vụ), Đài Loan (7 vụ), EC (4 
vụ), Hàn Quốc (4 vụ), Singapore (4 vụ), Hoa Kỳ (4 vụ). Cũng trong khoảng thời 
gian này, 5 biện pháp tự vệ tạm thời và 1 biện pháp tự vệ chính thức đã được áp 
 54 
dụng, chủ yếu là đối với các sản phẩm : hàng dệt may, gạch men, kính nổi và 
nhựa PVC. 
 Về tiêu chuẩn, 46,4% số lượng các tiêu chuẩn quốc gia của Trung Quốc 
đã được xây dựng phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế, và Trung Quốc phấn đấu 
đưa con số này lên 85% vào năm 2010. Một số mặt hàng có tỷ lệ tiêu chuẩn 
quốc gia phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế ở mức độ cao là dây điện và dây cáp 
điện (100%), linh kiện tụ điện (100%), dụng cụ đo lường (100%), thiết bị 
chuyển mạch điện cao thế và hạ thế (100%), hàng điện tử (100%), đèn điện 
(100%). Những mặt hàng có tỷ lệ tiêu chuẩn quốc gia phù hợp với tiêu chuẩn 
quốc tế ở mức độ thấp là máy biến thế và các thiết bị tương tự (1%), các dụng cụ 
cầm tay (29%), thiết bị điện sử dụng trong ngành y tế (30%). 
 Về tiêu chuẩn đối với thực phẩm, Trung Quốc đã ban hành hơn 1.800 tiêu 
chuẩn quốc gia liên quan đến an toàn thực phẩm và 2.900 tiêu chuẩn chuyên 
ngành cho các ngành công nghiệp thực phẩm. 
 Trong lĩnh vực vệ sinh kiểm dịch, Trung Quốc ban hành danh mục những 
mặt hàng cần tiến hành giám định và kiểm dịch khi thông quan. Những mặt 
hàng cần tiến hành giám định và kiểm dịch bao gồm: động vậtvà sản phẩm động 
vật, thực vật và sản phẩm thực vật, phương tiện vận tải chuyên trở và bao bì 
đóng gói những sản phẩm trên, nguyên liệu thức ăn gia súc gia cầm. Việc giám 
định và kiểm dịch được tiến hành theo một trong ba phương pháp: i) Kiểm tra 
chứng từ và tiến hành giám định nếu cần thiết (hàng hoá có thể được thông 
quan trong vòng 1 ngày), ii) giám định cảm quan, kiểm tra chứng từ và tiến hành 
giám định nếu cần thiết (hàng hoá có thể được thông quan trong vòng 3 – 5 
ngày), iii) giám định (thời gian thông quan tuỳ thuộc vào loại hàng và mức độ 
rủi ro đi kèm, có thể kéo dài tới 20 ngày hoặc lâu hơn). Giữa Việt Nam và 
Trung Quốc đã ký hiệp định hợp tác trong lĩnh vực thú y và kiểm dịch động vật 
(ngày 30/5/2008), Hiệp định hợp tác trong lĩnh vực bảo vệ và kiểm dịch động 
vật (ngày 30/5/2008), Thoả thuận hợp tác kiểm tra, kiểm dịch và giám sát vệ 
sinh sản phẩm thuỷ sản xuất nhập khẩu (ngày 7/10/2004), Bản ghi nhớ về hợp 
tác kiểm dịch y tế biên giới hai nước (ngày 16/11/2006). Nội dung của các thoả 
 55 
thuận và hiệp định tập trung vào các hoạt động hợp tác giữa hai nước trong lĩnh 
vực vệ sinh kiểm dịch. 
 Trong lĩnh vực mua sắm Chính phủ, Trung Quốc hiện chưa tham gia bất 
kỳ điều ước song phương, khu vực hoặc đa phương nào về vấn đề này. Tuy 
nhiên, Trung Quốc hiện đang tham gia với tư cách quan sát viên trong Hiệp định 
mua sắm Chính phủ của WTO, (GPA) và đã có đơn xin gia nhập GPA vào ngày 
28/12/2007. 
 Trong lĩnh vực cạnh tranh, Trung Quốc tham gia các hoạt động liên quan 
đến cạnh tranh trong khuôn khổ APEC, OECD, UNCTAD và WTO. Trung 
Quốc có các hoạt động trao đổi và hợp tác với các cơ quan quản lý cạnh tranh 
của EC, Nhật Bản, Hàn Quốc và Hoa Kỳ. Trung Quốc cũng có hiệp định về hợp 
tác và trao đổi trong lĩnh vực Chống lại các hoạt động cạnh tranh không lành 
mạnh và chống độc quyền với Nga và Ca-dắc-xtan. Trung Quốc cũng đã ký hiệp 
định Đối thoại song phương về cạnh tranh với EC vào năm 2004. 
 Trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, các hoạt động bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ 
đang được Trung Quốc tăng cường. Trung Quốc là thành viên của Tổ chức Sở 
hữu trí tuệ thế giới (WIPO) và tham gia vào các hoạt động liên quan đến quyền 
sở hữu trí tuệ trong khuôn khổ APEC, WTO và WIPO. Trung Quốc cũng thành 
lập nhóm công tác về IPR với một số nước nhằm tăng cường công tác bảo hộ 
quyền sở hữu trí tuệ. Cơ quan quản lý về sở hữu trí tuệ của Trung Quốc có hai 
cấp; Cơ quan quản lý trung ương thuộc Hội đồng Nhà nước chịu trách nhiệm 
xem xét, cấp và đăng ký quyền sở hữu trí tuệ, các cơ quan quản lý địa phương 
chịu trách nhiệm giám sát và thực thi. 
 2. Tác động của việc Trung Quốc gia nhập WTO đối với phát triển 
XNK của Việt Nam 
 Việc Trung Quốc gia nhập WTO có nhiều tác động đối với Việt Nam. 
Trước hết, quan hệ thương mại hai nước sẽ được phát triển trên cơ sở luật pháp 
quốc tế, bình đẳng hơn, qui mô thương mại được mở rộng nhờ cắt gảim các 
hàng rào thương mại. Thứ hai, sự phát triển nhanh chóng của Trung Quốc sau 
khi gia nhập WTO tạo điều kiện cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường 
Trung Quốc. Thứ ba, Việt Nam tận dụng cơ hội phát triển và hiện đại hoá của 
 56 
Trung Quốc để nhập khẩu công nghệ, thu hút đầu tư từ Trung Quốc. Bên cạnh 
những tác động tích cực nói trên, việc gia nhập WTO của Trung Quốc có những 
tác động tiêu cực đối với Việt Nam. Trước hết, gia tăng sức ép cạnh tranh từ 
phía Trung Quốc. Thứ hai, việc Trung Quốc gia nhập WTO làm bùng nổ trao 
đổi thương mại giữa hai nước, tuy nhiên, cũng làm gia tăng nhiều bất cập trong 
quản lý thương mại biên mậu, kiểm soát chất lượng hàng nhập khẩu, gia tăng 
tình trạng buôn lậu ... 
 3. Tác động của chiến lược khai thác miền Tây của Trung Quốc đối 
với phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam 
 Đây là chiến lược có tác động trực tiếp đén quan hệ kinh tế của Việt Nam 
với Trung Quốc. Chiến lược này sẽ có tác động toàn diện trên tất cả các lĩnh vực 
đối với Việt Nam: 
 Về thương mại song phương Việt Nam - Trung Quốc: Chiến lược phát 
triển miền Tây của Trung Quốc mang lại những cơ hội hợp tác cho cả hai bên. 
Phía Trung Quốc, các doanh nghiệp thuộc hai tỉnh Quảng Tây và Vân Nam tăng 
cường xuất khẩu hàng hoá, thiết bị sang Việt Nam. Phía Việt Nam cũng xuất 
khẩu được một số mặt hàng như nông sản phẩm, nguyên vật liệu (cao su thiên 
nhiên) hàng tiêu dùng, tiêu biểu là công ty Bitis đã thành công trong khai thác 
thị trường ở đây. Khoảng 80% thương mại của công ty với Trung Quốc là với 
miền Tây Nam Trung Quốc10. Nhưng nhìn từ tổng thể có thể thấy rằng các 
doanh nghiệp phía Trung Quốc đã biết tranh thủ chiến lược ưu đãi của Chính 
phủ Trung ương để phát triển. Điều này thể hiện rất rõ qua kim ngạch xuất nhập 
khẩu của hai bên, phía Việt Nam bao giờ cũng ở tình trạng nhập siêu hàng hoá 
từ Quảng Tây, Vân Nam. Nhiều sản phẩm hàng hoá của Việt Nam phụ thuộc 
nhiều vào thị trường Trung Quốc như cao su, than đá v.v... Việt Nam dường như 
đang trở thành thị trường tiêu thụ những sản phẩm tiêu dùng, máy móc thiết bị 
của các tỉnh miền Tây Trung Quốc và cũng là nơi cung cấp nguyên vật liệu cho 
các thị trường trên. 
 Về hợp tác đầu tư phát triển nguồn hàng xuất khẩu: Trong chiến lược phát 
triển miền tây, Trung Quốc cũng khuyến khích các doanh nghiệp của khu vực 
10  5051221.htm 
 57 
này đầu tư ra nước ngoài, nhất là các doanh nghiệp có thực lực. Hiện nay, mức 
thu nhập bình quân đầu người của Quảng Tây và Vân Nam đã vượt 2000 USD, 
cao gấp đôi so với Việt Nam. Về mặt lý thuyết, khu vực phát triển hơn sẽ có 
điều kiện đầu tư nhiều hơn vào khu vực kém phát triển. Thực tế điều này cũng 
thể hiện rất rõ. Nhiều doanh nghiệp của Quảng Tây, Vân Nam đã đầu tư, nhận 
thầu các công trình của Việt Nam nhằm phát triển thị trường, mở rộng cơ hội 
làm ăn. Các doanh nghiệp của hai tỉnh trên thường đầu tư vào những tỉnh biên 
giới Việt Nam giáp với họ như đầu tư vào Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng 
Sơn, Quảng Ninh. Những ngành nghề đầu tư chủ yếu là ngành dịch vụ hoặc lắp 
ráp ô tô xe máy, khai thác khoáng sản v.v... qui mô đầu tư chưa phải là lớn, 
nhưng nó cũng đã tạo cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho người dân và chính 
quyền địa phương. 
 Về phát triển xuất, nhập khẩu: Chiến lược này cũng chú trọng phát triển 
ngành dịch vụ. Trong đó, nổi bật nhất là ưu tiên là phát triển ngành du lịch và 
những ngành phụ trợ cho du lịch. Thông qua ngành du lịch để làm phát triển 
ngành giao thông, thương mại, ăn uống, dịch vụ, gia công chế tạo đồ lưu niệm 
trong ngành du lịch. Đây là những kinh nghiệm thành công trong phát triển kinh 
tế của Vân Nam, Quảng Tây. Nhiều điểm du lịch nổi tiếng của khu vực này như 
Thạch Lâm, thành cổ Đại lý, Quế Lâm là những điểm du lịch hấp dẫn người 
Trung Quốc và cả người nước ngoài. Việt Nam cũng có những điểm du lịch nổi 
tiếng như Vịnh Hạ Long, được người Trung Quốc ví như Quế Lâm trên biển. 
Đây là điểm thu hút rất nhiều khách Trung Quốc, nhất là du khách Quảng Tây, 
Vân Nam đến thăm quan. Hai bên đã thiết lập tuyến vận chuyển trên biển, tàu 
khách du lịch từ Bắc Hải sang Vịnh Hạ Long. Đây là một cơ hội để hai bên có 
thể hợp tác phát triển cùng nhau trong thời gian tới. 
 Xây dựng kết cấu hạ tầng cho phát triển xuất nhập khẩu: Trong xây dựng 
cơ sở hạ tầng, chiến lược này chủ yếu xây dựng trên sáu lĩnh vực là xây dựng 
đường sắt, đường bộ, vận chuyển đường sông, xây dựng sân bay, khai thác năng 
lượng, phát triển ngành điện v.v... Trong đó, trọng điểm vẫn là hệ thống đường 
bộ, tăng cường cải tạo, xây dựng các tuyến đường sắt, sân by, đường ống dẫn 
khí thiên nhiên, các tuyến đường kết nối miền Tây với miền Đông, giữa miền 
Tây Bắc với miền Tây Nam để hình thành nên mạng lưới giao thông tổng hợp. 
 58 
 4. Tác động của chiến lược một trục hai cánh (Cực tăng trưởng 
mới ASEAN - Trung Quốc) đối với xuất nhập khẩu của Việt Nam 
 Chiến lược một trục hai cánh hay là Sáng kiến Cực tăng trưởng mới 
ASEAN – Trung Quốc là một trong những kế hoạch đẩy mạnh hợp tác kinh tế 
và gây vùng ảnh hưởng của Trung Quốc trong khu vực, nhất là đối với các nước 
ASEAN. Khác với chiến lược phát triển miền Tây là chỉ chú trọng vào phát triển 
các tỉnh của miền Tây Trung Quốc. chiến lược một trục hai cánh đã cho thấy nó 
có những điểm khác khi trực tiếp đề cập đến việc hợp tác với các nước ASEAN 
dưới những góc độ khác nhau. 
 Với vai trò cầu nối quan trọng giữa ASEAN và Trung Quốc, Việt Nam có 
vị trí vô cùng quan trọng trong sáng kiến mới về hợp tác ASEAN – Trung Quốc. 
Việt Nam và Trung Quốc đang hợp tác thực hiện sáng kiến Hai hành lang, một 
vành đai. Trung Quốc và Việt Nam cũng là những nước thành viên quan trọng 
trong hợp tác Tiểu vùng Mê Kông mở rộng. Hợp tác Việt Nam – Trung Quốc 
trong xây dựng vành đai kinh tế Vịnh Bắc bộ cũng đang tiến triển tốt đẹp. 
 Với chiến lược này, Trung Quốc coi Việt Nam là nước có ảnh hưởng 
nhiều nhất, nhất là hợp tác khai thác Biển Đông, Là tâm điểm ảnh hưởng của 
sáng kiến này, Việt Nam sẽ có cơ hội để đẩy mạnh hợp tác thương mại, đầu tư, 
dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng, phát triển kinh tế biển. Tuy nhiên, vấn đề mà 
phía Việt Nam lo ngại là Trung Quốc đang mở rộng vùng ảnh hưởng của mình, 
trong đó quan trọng nhất là vấn đề chủ quyền Biển Đông và hợp tác khai thác 
Biển Đông. Hiện tại Trung Quốc đang triển khai rất mạnh mẽ chiến lược này 
trên cả 3 hướng. 
 Với sáng kiến Cực tăng trưởng mới ASEAN – Trung Quốc, hay là chiến 
lược một trục hai cánh, Trung Quốc mong muốn mở rộng hợp tác hơn nữa với 
các nước ASEAN. Chiến lược này sẽ thúc đẩy sự phát triển vùng miền Tây – 
Nam rộng lớn của Trung Quốc, khai thác Biển Đông. Việt Nam nằm trong vùng 
ảnh hưởng lớn nhất của sáng kiến này. Bên cạnh những thuận lợi để hợp tác 
thương mại và đầu tư với Trung Quốc và các nước ASEAN, vấn đề còn gây 
tranh cãi là việc mở rộng vành đai kinh tế Vịnh Bắc bộ của Trung Quốc trong 
 59 
sáng kiến này. Tranh chấp vùng lãnh hải giữa các nước hiện nay đang là tâm 
điểm chú ý của các nước. 
 Việc tham gia hợp tác khu vực với Trung Quốc theo chiến lược “Một trục 
hai cánh” hay “Cực tăng trưởng mới ASEAN – Trung Quốc” sẽ gia tăng một số 
thách thức trực tiếp hoặc gián tiếp đối với phát triển thương mại của Việt Nam 
trong thời kỳ tới. 
 Trước hết Biển Đông là khu vực phức tạp có nhiều nước tranh chấp đòi 
chủ quyền và quyền tài phán quốc gia, luôn tiềm ẩn những nguy cơ xung đột, do 
đó Việt Nam sẽ phải đối mặt với những khó khăn trong việc giành và giữ chủ 
quyền quốc gia trong Vịnh Bắc bộ nói riêng và trên Biển Đông nói chung. 
 Để giải quyết tranh chấp trên biển, Trung Quốc dùng cả hai chiến thuật 
vừa xé lẻ vừa dùng áp lực tập thể. Ví dụ như có những tranh chấp với nhiều 
nước ở Trường Sa thì Trung Quốc tránh giải quyết chung mà đi vào đàm phán 
tay đôi như đã làm với Philippin. Còn vấn đề hợp tác Vịnh Bắc bộ thực chất là 
hợp tác song phương trên vành đai Vịnh Bắc bộ với Việt Nam thì lại quốc tế hoá 
thành hợp tác đa phương Trung Quốc – ASEAN. Trung Quốc rất chú trọng phát 
triển kinh tế biển và luôn coi tương lai kinh tế thế giới là kinh tế biển, vì vậy, 
Trung Quốc đòi hỏi rất lớn về chủ quyền trên Biển Đông. Thực tế tranh chấp 
biên giới và tranh chấp trên biển của Trung Quốc là rất gay gắt với tất cả các 
nước có chung biển mà đến nay vẫn chưa được giải quyết. Trong đó, giữa Trung 
Quốc và Việt Nam vẫn tồn tại những tranh chấp về chủ quyền trên biển và vùng 
lãnh hải, đặc biệt với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. 
 Thứ hai, Việt Nam có nguy cơ mất thị phần trên “sân nhà” và khó thâm 
nhập thị trường phía bạn. Do sức cạnh tranh (nhất là về giá) của hàng hoá Việt 
Nam nhìn chung còn thấp hơn so với sản phẩm cùng loại của Trung Quốc, nên 
khu kinh tế Vịnh Bắc bộ mở rộng có thể sẽ là “bàn đạp” để Trung Quốc đẩy 
mạnh xuất siêu sang Việt Nam (và các nước ASEAN). 
 Thứ ba, Việt Nam có nguy cơ phải hứng chịu những tác động đối với môi 
trường do ô nhiễm biển vùng Vịnh Bắc bộ, sự khai thác quá mức dẫn đến suy 
kiệt nguồn tài nguyên biển và ven biển (tài nguyên khoáng sản, dầu khí, nguồn 
lợi thuỷ hải sản), do đó ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh tế bền vững. 
 60 
Tài nguyên khoáng sản của Việt Nam thuộc khu vực vành đai Vịnh Bắc bộ có 
thể trở thành mục tiêu săn lùng, khai thác triệt để của các doanh nghiệp Trung 
Quốc thông qua các dự án hợp tác khai thác. 
 Ví dụ rất điển hình là vụ ô nhiễm váng dầu lan rộng khắp nhiều tỉnh từ 
Nam Trung bộ đến Nam bộ của Việt Nam mà cho đến nay vẫn không rõ nguyên 
nhân hay địa điểm phát sinh ô nhiễm dầu trên biển. Quá trình mở rộng hợp tác 
kinh tế khu vực Vịnh Bắc bộ nếu không có cơ chế quản lý và phân định quyền 
lợi, trách nhiệm rõ ràng thì nguy cơ ô nhiễm môi trường biển sẽ rất đáng lo ngại 
đối với Việt Nam. 
 Thứ tư, việc phát triển thương mại trên vành đai kinh tế Vịnh Bắc bộ, nếu 
chính quyền các địa phương của Việt Nam không quản lý và giám sát chặt chẽ 
sẽ dẫn tới tệ nạn khai thác lậu, buôn lậu, buôn hàng cấm, hàng giả (đồ cổ, ma 
tuý, động vật quí hiếm, hoá chất độc hại ...). Khi đó, khu vực vành đai Vịnh Bắc 
bộ có thể sẽ là tuyến đường đưa hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng độc hại ... 
của Trung Quốc vào Việt Nam, làm gia tăng các loại tội phạm kinh tế và tội 
phạm xã hội trên biển, đe doạ hoà bình và an ninh của khu vực Vịnh Bắc bộ. 
 Thứ năm, việc thực thi sáng kiến “Cực tăng trưởng mới ASEAN – Trung 
Quốc” tuy có tạo ra một số cơ hội cho Việt Nam tăng cường hợp tác kinh tế theo 
chiều sâu, nhất là hợp tác và phát triển kinh tế giữa các tỉnh và doanh nghiệp 
vùng biên giới hai nước, nhưng cũng có thể gia tăng nhiều thách thức đối với 
việc quản lý mậu dịch biên giới của Việt Nam. 
 Sự phát triển các Khu kinh tế cửa khẩu hay các khu kinh tế tự do tiếp giáp 
với Trung Quốc sẽ thúc đẩy mạnh mẽ các hoạt động giao lưu thương mại, trao 
đổi hàng hoá, dịch vụ XNK qua các khu vực biên giới hai nước, làm tăng kim 
ngạch mậu dịch hai chiều giữa hai bên. Tuy thế, nó cũng đang làm gia tăng các 
hiện tượng buôn lậu, gian lận thương mại, tác động đến thị trường trong nước về 
các vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm, an sinh xã hội, an ninh kinh tế ... 
 Việc tham gia vào sáng kiến dưới mô hình hợp tác kinh tế Vịnh Bắc bộ 
mở rộng giúp Việt Nam tạo lập thế và lực mới cho phát triển kinh tế theo không 
gian lãnh thổ theo mô thức “hướng ra biển”, phát huy tiềm năng kinh tế biển, 
gắn kết không gian kinh tế trong nước với khu vực và thế giới. Tuy nhiên, nếu ta 
 61 
không quản lý tốt việc xây dựng các kho hàng, trạm trung chuyển rất có thể dẫn 
đến ô nhiễm môi trường. 
 Thứ sáu, kinh tế và thương mại Việt Nam có thể bị lệ thuộc nhiều hơn vào 
nền kinh tế Trung Quốc. Về mặt kinh tế, cũng như các nước ASEAN khác, một 
quốc gia láng giềng có nhiều nét tương đồng như Việt Nam sẽ ngày càng bị ảnh 
hưởng bởi Trung Quốc và trở nên phụ thuộc hơn vào nền kinh tế này. Với việc 
giá nguyên liệu đầu vào tăng cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, Việt Nam là nước 
không tự sản xuất được mà phải nhập khẩu nên chắc chắn sẽ bị lệ thuộc vào điều 
đó gây tác động mạnh đến sản xuất trong nước. Điển hình là các ngành sản xuất 
như thép, xi măng, phân bón, giấy, nhựa, dệt may ..., chi phí đầu vào tăng cao 
nhưng đầu ra không tăng đã làm cho nhiều doanh nghiệp giảm lợi nhuận và thua 
lỗ. Nhiều mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam bị thu hẹp hoặc mất 
thị trường do sức cạnh tranh giảm vì những sản phẩm tương tự của các doanh 
nghiệp Trung Quốc có giá rẻ hơn nhiều. Các doanh nghiệp Việt Nam vốn đã 
thua doanh nghiệp Trung Quốc về năng lực cạnh tranh, trình độ công nghệ, thiết 
bị và qui mô sản xuất, nay lại bị đội giá đầu vào, càng tăng thêm phần khó khăn 
trong cạnh tranh và bị lệ thuộc hơn vào phía Trung Quốc. 
 Bên cạnh đó, ô nhiễm môi trường biển khu vực Vịnh Bắc bộ do khai thác 
quá mức dẫn đến suy kiệt nguồn tài nguyên biển và ven biển (tài nguyên khoáng 
sản, dầu khí, thuỷ hải sản) cũng là những thách thức không nhỏ đối với Việt 
Nam, gây ảnh hưởng đến phát triển kinh tế bền vững. Trong khi đó, tham gia 
vào sáng kiến này, phía Trung Quốc là bên được hưởng lợi nhiều nhất từ việc 
khai thác nguồn tài nguyên phong phú của biển. 
 Về thu hút đầu tư nước ngoài, với môi trường kinh doanh tốt hơn nên việc 
thu hút đầu tư nước ngoài của Trung Quốc chắc chắn sẽ mạnh mẽ hơn, hay nói 
cách khác Việt Nam sẽ khó cạnh tranh với Trung Quốc trong việc thu hút đầu tư 
nước ngoài. Bên cạnh đó, Trung Quốc mở cửa thị trường tài chính mạnh mẽ hơn 
Việt Nam, nhất là với các giao dịch tài khoản vãng lai, tài khoản vồn. Chẳng hạn 
Trung Quốc cho người nước ngoài đầu tư vào thị trường chứng khoán mạnh 
hơn, cho giữ tỷ lệ cồ phần trong các DN theo qui định cũng cao hơn Việt Nam. 
Chính vì vậy mà dòng vốn đầu tư chảy vào đây rất mạnh. Hiện các tập đoàn 
 62 
xuyên quốc gia đang muốn biến Trung Quốc thành công xưởng sản xuất cho cả 
thế giới. Quí 1 năm 2010, nước này thu hút tới 43 tỷ USD đầu tư nước ngoài, 
trong khi lượng đầu tư vào Việt Nam thấp hơn nhiều. 
 Thêm vào đó, việc phát triển nóng của Trung Quốc sẽ dẫn đến nhiều rủi 
ro tiềm ẩn, trong đó có việc khó kiểm soát được chất lượng và hiệu quả đầu tư. 
Có nhiều dự án khi đi vào hoạt động sẽ cho những sản phẩm chất lượng thấp, 
hoặc đầu tư qúa nhiều vào một số lĩnh vực sẽ dẫn đến dư thừa công suất làm cho 
lượng tồn kho lớn. Việt Nam ở cạnh Trung Quốc dễ phải hứng chịu những đợt 
sóng hàng kém chất lượng và hàng tồn kho này. Hơn nữa, do việc tăng cường 
hợp tác quá mức và với sức hút mạnh mà các tài nguyên của Việt Nam rất dễ 
chảy sang Trung Quốc, như hiện tượng chảy máu quặng sắt, thiếc trong thời 
gian vừa qua. Nếu chúng ta chủ yếu vẫn xuất thô và bừa bãi như hiện nay thì 
những nguồn lực để phát triển các ngành sản xuất trong tương lai sẽ bị cạn kiệt 
và gây nên tác động xấu với môi trường. Nói cách khác tức là chúng ta sẽ trở 
thành nơi cung cấp tài nguyên, khoáng sản để phát triển kinh tế Trung Quốc. 
 Vừa qua, việc Trung Quốc đề ra chính sách mới trong thu hút FDI có thể 
tạo ra sự lo ngại từ phía các nhà đầu tư nước ngoài. Đã có những dấu hiệu cho 
thấy Trung Quốc hạn chế thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực tài chính ngân 
hàng và mặc dù cơ chế mới về FDI của Trung Quốc tiếp tục được xem là tự do 
hơn so với các nước láng giềng ở châu Á, vẫn có những dấu hiệu cho thấy Trung 
Quốc đang dựng lên các rào cản đối với FDI thể hiện qua việc Trung Quốc đang 
trì hoãn và kiềm chế việc các nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần của các 
doanh nghiệp trong những ngành nhạy cảm. Chính sách hạn chế ưu đãi đầu tư 
trong những lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng, nguyên liệu, ô nhiễm môi 
trường, giá trị gia tăng thấp, sử dụng nhiều lao động của Trung Quốc sẽ tạo cơ 
hội cho Việt Nam thu hút đầu tư từ các nước và từ Trung Quốc vào những 
ngành sử dụng nhiều lao động, tận dụng lợi thế về nguồn nguyên liệu sẵn có như 
dệt may, da giày, chế biến nông sản, lắp ráp điện tử, ô tô, xe máy ... Tuy nhiên, 
Việt Nam cần cảnh giác với xu thế chuyển những ngnàh sản xuất gây ô nhiễm 
môi trường của Trung Quốc sang các nước khác mà Việt Nam là mục tiêu hàng 
đầu. Trong những năm gần đây, xuất hiện nhiều dự án sản xuất thép có vốn đầu 
 63 
tư từ Trung Quốc, làm cho sản lượng thép dự kiến sẽ cao gấp 3 lần so với nhu 
cầu trong nước đến năm 2020. 
 5. Tác động của chính sách tỷ giá và sử dụng công cụ tỷ giá trong 
chiến tranh thương mại 
 Việc tăng giá đồng Nhân dân tệ hiện nay đã không còn là một khả năng 
mà đã trở thành một xu hướng thực tế. Tuy nhiên do sự ràng buộc của nhiều 
quan hệ lợi ích, trong vòng hai năm gần đây, đồng Nhân dân tệ chỉ tăng giá chưa 
đầy 6%. Nhiều đối tác thương mại lớn nhất của Trung Quốc đang tiếp tục gây áp 
lực mạnh đòi Chính phủ Trung Quốc tăng giá đồng Nhân dân tệ (lên 30 – 40%) 
để lập lại cân bằng tỷ giá và giảm thâm hút thương mại (mức thâm hụt mậu dịch 
năm 2006 của Mỹ với Trung Quốc là 232,5 tỷ USD). 
 Có cơ sở để nói rằng cùng với sự tăng giá đồng Nhân dân tệ, sẽ xảy ra 
những hiệu ứng thương mại và đầu tư. Mức tăng giá càng lớn thì các hiệu ứng sẽ 
càng mạnh. Có thể nêu ra hai hiệu ứng chính là: 
 Thứ nhất, đồng Nhân dân tệ tăng giá sẽ kích thích các nền kinh tế tăng 
cường xuất khẩu vào Trung Quốc. Đối với nước ta, do những đặc điểm trong 
quan hệ thương mại với Trung Quốc (chủ yếu xuất khẩu hàng nguyên liệu thô, 
có mức thâm hụt thương mại rất lớn), sức hút nhập khẩu từ Trung Quốc do đồng 
Nhân dân tệ tăng giá sẽ có tác động rất mạnh. Cho đến nay, quan hệ thương mại 
Việt – Trung được định hình theo mô hình Việt Nam xuất khẩu nguyên liệu thô 
và nhập khẩu hàng chế tạo của Trung Quốc, với mức thâm hụt ngày càng lớn. 
Xu hướng thương mại này là đặc biệt bất lợi cho Việt Nam. Tuy nhiên, nó đang 
ngày càng được củng cố. 
 Thứ hai, đồng Nhân dân tệ tăng giá sẽ kích thích xu hướng đầu tư ra nước 
ngoài của các doanh nghiệp Trung Quốc. Hiện nay, mức dự trữ ngoại tệ của 
Trung Quốc đã lên hơn 1.000 tỷ USD. Con số này đang tiếp tục tăng. Nhiều 
doanh nghiệp Trung Quốc cũng có kim ngạch xuất khẩu lớn, tạo ra nguồn vốn 
ngoại tệ lớn, sẵn sàng được đầu tư ra bên ngoài. Khi đồng Nhân dân tệ tăng giá, 
cộng thêm vào đó là nỗ lực “hạ nhiệt” tăng trưởng của Chính phủ Trung Quốc, 
khó có thể nghi ngờ sự xuất hiện của làn sóng đầu tư ra ngoài của các doanh 
nghiệp Trung Quốc trong thời gian tới. Tuỳ theo mức độ tăng giá đồng Nhân 
 64 
dân tệ, làn sóng này sẽ gia tăng và được thực hiện dưới nhiều hình thức khác 
nhau - mua lại công ty, đầu tư chứng khoán, FDI. Chính phủ Trung Quốc cũng 
đã quyết định dành 1/3 số dự trữ ngoại tệ để lập Quĩ đầu tư và bảo hiểm đầu tư 
ra bên ngoài. Đây là một động thái đón đầu xu hướng tăng giá Nhân dân tệ. Tuy 
nhiên, xu hướng tăng giá NDT đang bị chững lại do lạm phát của Trung Quốc 
trong cuối năm 2010 tăng cao nhất trong vòng 10 năm qua. 
 Tựu trung lại, việc Trung Quốc điều chỉnh tỷ giá NDT theo hướng nâng 
giá trị đồng tiền này sẽ có tác động tích cực đối với thương mại và đầu tư Việt 
Nam. Nếu NDT tăng giá với mức cao sẽ làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng 
hoá Trung Quốc ở thị trường nội địa cũng như tại các thị trường khác. Điều này 
tạo cơ hội cho Việt Nam có thể mở rộng qui mô xuất khẩu. Tuy nhiên, cần thấy 
rằng, Việt Nam hiện tại chủ yếu là xuất thô sang Trung Quốc với tỷ trọng lớn là 
nhiên liệu, khoáng sản, nông sản chưa qua chế biến. Chỉ khoảng 10% kim ngạch 
xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc là hàng chế biến. Sự thay đổi tỷ giá 
ảnh hưởng rất ít tới cầu đối với các mặt hàng khoáng sản, nông sản. Hay nói 
cách khác các mặt hàng này ít co giãn khi có sự thay đổi giá cả tương đối. Các 
mặt hàng công nghiệp chế tạo chịu ảnh hưởng nhiều hơn khi có sự thay đổi tỷ 
giá. Do đó Việt Nam muốn tận dụng được cơ hội này phải có sự chuyển dịch cơ 
cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng mạnh tỷ trọng hàng xuất khẩu chế biến. 
Việt Nam cũng kỳ vọng từ sự tăng giá đồng Nhân dân tệ để thu hút FDI từ 
Trung Quốc và từ các nước. Nhân dân tệ tăng giá sẽ làm cho chi phí sản xuất tại 
Trung Quốc cao hơn so với các nước khác nếu như các điều kiện khác không 
thay đổi, do đó sẽ có sự chuyển dịch luồng FDI từ Trung Quốc sang các nước 
khác. Các nhà đầu tư Trung Quốc sẽ tìm cach đầu tư nhiều hơn ra nước ngoài. 
Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần thận trọng với sự chuyển hướng đầu tư này. Nếu 
không có chính sách thu hút FDI hợp lý, Việt Nam có thể là nơi tiếp nhận công 
nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường. 
 NDT tăng giá cũng làm tăng giá hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Trung 
Quốc. Trong đó, nhiều mặt hàng xuất khẩu chủ lực của ta có đầu vào nhập khẩu 
chủ yếu từ Trung Quốc. Nếu Việt Nam vẫn phụ thuộc ở mức độ lớn đầu vào 
nhập khẩu như hiện nay thì khó có thể tận dụng được cơ hội từ sự tăng giá NDT. 
 65 
Như vậy, trong ngắn hạn, sự tăng giá đồng Nhân dân tệ không ảnh hưởng 
lớn đến thương mại Việt Nam, nhất là xuất khẩu. Việt Nam có thể tận dụng cơ 
hội này trong dài hạn nếu đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu, nâng cao sức 
cạnh tranh của hàng xuất khẩu, cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư trong nước. 
 IV.- PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP ĐỂ VIỆT NAM THÍCH ỨNG 
VÀ ĐỐI PHÓ VỚI CÁC TÁC ĐỘNG BẤT LỢI TỪ PHÍA TRUNG QUỐC 
TRONG PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ TỚI 
 1. Phương hướng nâng cao khả năng thích ứng của Việt Nam trong 
phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc 
 - Phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc cần tính đến các yếu tố 
môi trường và phát triển bền vững. Xuất khẩu Việt Nam sang Trung Quốc chủ 
yếu là tài nguyên và sản phẩm có nguồn gốc đa dạng sinh học. Nếu không được 
quản lý tốt, chạy theo lợi ích trước mắt sẽ có nguy cơ suy thoái môi trường và 
cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Bên cạnh đó, Trung Quốc phát triển nhanh 
(nóng) cũng sẽ ảnh hưởng đến môi trường Việt Nam. Mở cửa biên giới, tự do 
hoá thương mại theo các Hiệp định quốc tế và khu vực kéo theo việc du nhập 
các sản phẩm, hàng hoá không thân thiện với môi trường và sức khoẻ con người 
vào nước ta. 
 Trong quan hệ với Trung Quốc ta cũng cần tính đến vấn đề tranh chấp 
thương mại. Với qui mô thương mại hiện nay, các tranh chấp thương mại sẽ gia 
tăng, đặc biệt là các biện pháp tự vệ (theo WTO) để hạn chế hàng nhập khẩu vào 
nước ta gây mất ổn định thị trường và thiệt hại cho người tiêu dùng Việt Nam. 
 - Lấy lợi ích dân tộc, lợi ích quốc gia là chuẩn mực và là thước đo đối với 
mọi giải pháp trong quan hệ hợp tác với Trung Quốc. Quán triệt nguyên tắc này 
chúng ta sẽ đủ tự tin, đủ bản lĩnh để chủ động trong tầm chiến lược cũng như 
trong việc ứng xử với từng tình huống để không lâm vào thế bị động. Chạy theo 
lợi ích ngắn hạn, cục bộ địa phương sẽ phải trả giá đắt trong quan hệ kinh tế với 
Trung Quốc. Kinh nghiệm cho thấy những toan tính cục bộ ngắn hạn trong hợp 
tác làm ăn với Trung Quốc đểu phải trả giá như xuất thô khoáng sản, cấu kết 
kinh doanh buôn bán hàng lậu. Trong những quyết định lớn, mang tính quốc gia 
 66 
cao lại càng đòi hỏi tuân thủ nguyên tắc này để tạo sự thống nhất về quan điểm 
và nhận thức trong toàn xã hội. 
 - Để hợp tác kinh tế hiệu quả với Trung Quốc phải thực hiện thành công 
chiến lược đẩy nhanh hơn nữa tăng trưởng kinh tế - xã hội một cách bền vững, 
nâng cao tiềm lực về mọi mặt của đất nước ta trong thời gian vài ba thập niên 
sắp đến. Nếu Việt Nam không lớn mạnh, bị tụt hậu thì việc tận dụng cơ hội phát 
triển từ Trung Quốc sẽ rất hạn chế và luôn luôn phải đối phó với những thách 
thức từ những vấn đề liên quan đến Trung Quốc cả về kinh tế lẫn chính trị. Do 
đó Việt Nam phải đẩy mạnh cải cách, coi việc hợp tác với Trung Quốc là sức ép 
để cải cách, đổi mới hơn nữa nền kinh tế. 
 - Phải tận dụng thời cơ để mở rộng nhanh chóng quan hệ kinh tế song 
phương, nhất là tận dụng thị trường Trung Quốc để thúc đẩy xuất khẩu hàng 
hoá và nhập khẩu phát triển sản xuất trong nước, thu hút đầu tư từ Trung Quốc 
và các tập đoàn đa quốc gia đang hoạt động tại Trung Quốc. Tận dụng ưu thế về 
địa kinh tế để phát triển các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ du lịch, vận tải, quá 
cảnh, kinh tế biển. 
 - Tranh thủ mở rộng quan hệ với Trung Quốc trong khung khổ ASEAN 
theo những nguyên tắc chung của tổ chức này, chú ý đến quan hệ song phương 
của Trung Quốc với các nước thành viên khác trong ASEAN. Trước hết là thúc 
đẩy hợp tác hiệu quả trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại tự do ASEAN – 
Trung Quốc, Hợp tác tiểu vùng Mê Kông mở rộng, Hợp tác Đông Á và khu vực 
khác mà hai nước tham gia. 
 - Đẩy mạnh hợp tác hai bên để thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững, giải 
quyết các vấn đề vướng mắc trên cơ sở luật pháp quốc tế, tôn trọng lợi ích của 
nhau với phương châm giữ vững hoà bình và hai bên đều thắng. Những vấn đề 
nhạy cảm cần giải quyết là tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, buôn 
lậu, chênh lệch cán cân thương mại ... 
 - Tận dụng cơ hội từ sự tăng trưởng của Trung Quốc, sự thiếu hụt về 
nguyên liệu và một số hàng hoá khác như nông sản, thuỷ sản để tăng cường 
xuất khẩu sang thị trường này. Trước hết phải củng cố và đẩy mạnh xuất khẩu 
những mặt hàng chủ lực đang xuất khẩu và đã đứng chân được tại thị trường 
 67 
Trung Quốc. Từng bước nâng cao chất lượng, tăng hàm lượng chế biến, giảm 
xuất khẩu thô. Khai thác tiềm năng xuất khẩu những mặt hàng mới theo hướng 
đầu tư từ các nguồn vốn trong nước và vốn FDI. Tận dụng cơ hội của mở cửa 
thương mại và đầu tư để thu hút FDI để đẩy mạnh xuất khẩu, tham gia vào các 
mạng sản xuất và chuỗi giá trị khu vực. Phấn đấu tăng tỷ trọng hàng công 
nghiệp xuất khẩu trong cơ cấu hàng hoá xuất khẩu sang Trung Quốc. Đẩy mạnh 
hợp tác thương mại theo hướng hợp tác đầu tư với các doanh nghiệp Trung 
Quốc. Nghiên cứu xây dựng các điểm tăng trưởng xuất khẩu mới trong giai đoạn 
2011-2015, 2016-2020 và xây dựng chương trình ở cấp quốc gia để thực hiện 
điểm tăng trưởng xuất khẩu này. Rà soát các chính sách, biện pháp hạn chế, cản 
trở xuất khẩu để có phương án tháo gỡ tạo môi trường thuận lợi cho xuất khẩu. 
Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hoá sang Trung Quốc trong 
giai đoạn 2011-2020 bình quân đạt mức 12%, đến năm 2015 đạt kim ngạch xuất 
khẩu khoảng 8,4 tỷ USD và đạt 15 tỷ USD vào năm 2020. 
 - Trong giai đoạn từ nay đến 2020, nhập khẩu của Việt Nam từ thị trường 
Trung Quốc vẫn tăng mạnh do mở cửa thương mại và nhu cầu về nguyên liệu, 
thiết bị, máy móc của Việt Nam vẫn còn lớn. Sẽ có sự chuyển giao công nghệ từ 
Trung Quốc sang Việt Nam trong những ngành sử dụng nhiều lao động như dệt 
may, da giày, lắp ráp điện tử. Dự báo, tốc độ tăng nhập khẩu vẫn ở mức cao từ 
nay cho đến 2015 và sau đó giảm dần trong giai đoạn 2016-2020. Dự kiến tốc 
độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân cho cả giai đoạn khoảng 14 – 150%/năm. 
 Do nhu cầu của Việt Nam về nhập khẩu các loại hàng hoá từ Trung Quốc 
còn rất lớn và cùng với việc miễn giảm thuế theo khuôn khổ ACFTA, hàng nhập 
khẩu từ Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng mạnh, trong khi xuất khẩu của nước ta tăng 
có mức độ và các giải pháp hạn chế nhập siêu chưa thể phát huy tốt hiệu quả thì 
tình hình nhập siêu từ Trung Quốc giai đoạn 2009 – 2015 chưa thể có sự thay 
đổi lớn thậm chí còn tăng đến 2015. Như vậy, vấn đề đặt ra là không phải tìm 
cách hạn chế nhập siêu bằng mọi giá mà khốngchế mức nhập siêu trong giới hạn 
cho phép, tức là mức nhập siêu không ảnh hưởng lớn đến ổn định kinh tế vĩ mô 
như nợ nước ngoài, cán cân thanh toán. 
 68 
 Cần phải có cách nhìn nhận vấn đề nhập siêu một cách tổng thể, trên tất 
cả các thị trường và phân tích sâu sắc ảnh hưởng của nó đối với tăng trưởng kinh 
tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Xử lý vấn đề nhập siêu một cách chủ động và bền 
vững chỉ có thể trên cơ sở đẩy mạnh xuất khẩu và phát triển sản xuất các mặt 
hàng thay thế nhập khẩu. Đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu dịch vụ, thu hút đầu tư 
từ Trung Quốc để bù đắp sự thâm hụt thương mại, không gây nên những biến 
động bất lợi đối với kinh tế vĩ mô. Bên cạnh đó cần tiếp tục hoàn thiện chính 
sách quản lý nhập khẩu để hạn chế nhập khẩu công nghệ, thiết bị lạc hậu, ô 
nhiễm môi trường, hàng hoá chất lượng thấp. Nỗ lực gia tăng xuất khẩu sang 
Trung Quốc là phương cách tốt nhất để cán cân thương mại Việt Nam – Trung 
Quốc trong giai đoạn 2016 -2020 được cải thiện và phấn đấu cân bằng vào năm 
2020. 
 - Lành mạnh hoá và nâng cao hiệu quả hoạt động trao đổi hàng hoá qua 
biên giới Việt – Trung để góp phần phát triển kinh tế, thương mại của các tỉnh 
giáp biên giới Việt – Trung. Thoả thuận với phía Trung Quốc để từng bước áp 
dụng các quyết định, tiêu chuẩn thống nhất cho hàng hoá xuất nhập khẩu qua 
biên giới của hai nước nhằm đưa hoạt động biên mậu vào nề nếp và ổn định. 
Xây dựng và nâng cấp cơ sở hạ tầng thương mại tại các tỉnh giáp biên giới Việt 
– Trung như đường giao thông, trung tâm thương mại, kho bãi, thông tin. Xây 
dựng cơ chế điều tiết, quản lý biên mậu linh hoạt, hiệu quả từ trung ương đến 
địa phương. Phát huy tối đa lợi thế về địa lý và điều kiện tự nhiên biên giới với 
Trung Quốc để phát triển hoạt động biên mậu giữa hai nước. Phát triển biên mậu 
Việt – Trung theo hướng văn minh, hiện đại, góp phần chống buôn lậu, đồng 
thời kết hợp với bảo vệ môi trường, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an 
toàn xã hội khu vực biên giới. Cần tăng cường hợp tác giữa hai nước trong công 
tác chống buôn lậu và gian lận thương mại. Chú trọng phối hợp giữa lực lượng 
biên phòng, hải quan, quản lý thị trường và các đội chống buôn lậu của hai nước 
trên tuyến biên giới và trên Vịnh Bắc bộ để ngăn chặn và chống buôn lậu. 
 - Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài nói chung và Trung Quốc nói 
riêng trong lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu để xuất khẩu trở lại Trung Quốc. 
Hiện nay, các nước trong khu vực có trình độ tương đương ta đã từng bước thâm 
nhập được vào mạng lưới sản xuất và kinh doanh của Trung Quốc như 
 69 
Philippin, Indonesia nhờ chính sách thu hút đầu tư nước ngoài. Thu hút đầu tư từ 
Trung Quốc là một định hướng lớn trong quan hệ kinh tế với Trung Quốc. Quan 
hệ hai nước sẽ phát triển bền vững, trên cơ sở bổ sung cho nhau nếu như hợp tác 
đầu tư có hiệu quả. Trung Quốc đang là nhà đầu tư tiềm năng. Do đó Việt Nam 
cần xây dựng định hướng chiến lược để thu hút đầu tư từ Trung Quốc và các nhà 
đầu tư nước ngoài đang đầu tư tại Trung Quốc. Một số lĩnh vực cần khuyến 
khích thu hút đầu tư từ Trung Quốc là (i) Nông, lâm, ngư nghiệp và chế biến 
nông sản, thực phẩm; (ii) Công nghiệp khai thác, chế biến khoáng sản; (iii)Các 
ngành công nghiệp chế tạo; (iv) Công nghiệp dệt, may, giày dép; (v) Công 
nghiệp điện tử; (vi)Xây dựng hạ tầng và kinh doanh bất động sản. 
 - Đa dạng hoá các hình thức hợp tác phát triển dịch vụ du lịch với Trung 
Quốc. Các hình thức chủ yếu cần được chú trọng phát triển gồm: Một là, mở 
rộng du lịch biên giới. Hai là, Các nước Trung Quốc, Việt Nam, cùng với 
Myanma, Lào, Campuchia cùng nhau khai thác tiềm năng du lịch của khu vực 
sông Mê Kông – Lam Thương. Ba là, xây dựng vành đai du lịch củavùng 
TâyNam Trung Quốc và bán đảo Trung Ấn, lấy Vân Nam và Việt Nam làm 
điểm hội tụ. Để hợp tác hiệu quả trong lĩnh vực du lịch, Việt Nam cần nhanh 
chóng hiện đại hoá cơ sở hạ tầng du lịch. Kết hợp các loại hình du lịch như sinh 
thái, lịch sử văn hoá, sức khoẻ. 
 - Tăng cường hợp tác về đào tạo nguồn nhân lực giữa hai nước, nhất là 
nguồn nhân lực trong ngành thương mại. Sử dụng, thực hiện các chương trình 
đào tạo cán bộ quản lý thương mại ở các cấp trình độ khác nhau từ đào tạo cán 
bộ giỏi đàm phán các hiệp ước thương mại song phương và đa phương đến đào 
tạo cán bộ quản lý chuyên ngành phù hợp với những đòi hỏi, yêu cầu của thị 
trường và phong cách, tư duy thương mại hiện đại. Tăng cường hợp tác trao 
đổi kinh nghiệm nghiệp vụ thông qua khảo sát, tham gia hội nghị, hội thảo khoa 
học chuyên đề trong nước cũng như các nước trên thế giới, trước hết là Trung 
Quốc. Nhà nước cần có sự hỗ trợ về cơ sở vật chất và nguồn kinh phí để đào tạo 
đội ngũ cán bộ thương mại cho các tỉnh trên hành lang kinh tế dưới nhiều hình 
thức như mở các lớp đào tạo trên đại học, tổ chức các khoá đào tạo, dành các 
suất học bổng cho các cán bộ chủ chốt của ngành tu nghiệp ở nước ngoài. Xây 
dựng đội ngũ cán bộ thương mại biết tiếng Trung Quốc, giỏi nghiệp vụ kinh 
 70 
doanh xuất nhập khẩu, thành lập bộ phận nghiên cứu thị trường để nắm bắt kịp 
thời những thay đổi về chính sách quản lý xuất nhập khẩu, các ưu đãi thuế quan 
và phi thuế quan ... của cả hai phía cũng như những biến động về nhu cầu thị 
trường để xây dựng kế hoạch phù hợp và có hiệu quả. Tăng cường trao đổi 
thông tin giữ hai nước, hợp tác áp dụng các hình thức trao đổi thương mại hiện 
đại như thương mại điện tử; (vi) Kết hợp chương trình hợp tác đào tạo và phát 
triển nhân lực của khu vực với chương trình hợp tác trong ACFTA11. 
 2. Đối sách của Việt Nam đối với chiến lược “Một trục hai cánh” và 
chính sách hướng Nam của Trung Quốc để phát triển xuất nhập khẩu 
trong thời kỳ tới12 
 - Thống nhất nhận thức về ý tưởng chiến lược “Một trục, hai cánh” là 
sáng kiến của Trung Quốc về cục diện mới của hợp tác khu vực. Việc Trung 
Quốc nhấn mạnh vai trò của Quảng Tây cũng đồng nghĩa với việc họ sẽ buộc 
phải tôn trọng và xác định vai trò “đầu mối” của Việt Nam trong bố cục chiến 
lược hợp tác này. Theo đó, Việt Nam sẽ trở nên rất quan trọng để Trung Quốc 
có trách nhiệm (cùng với các nước ASEAN) tạo dựng cho Việt Nam một thế 
chiến lược và sức mạnh cần thiết để đóng vai trò “cầu nối” trong chiến lược 
“Một trục, hai cánh”. Điều quan trọng hơn là bằng mọi cách chúng ta phải 
thuyết phục Trung Quốc coi “chiến lược hai hành lang, một vành đai kinh tế” là 
một bộ phận “hạt nhân” điểm đầu nối (HUB) của chiến lược “Một trục, hai 
cánh”, nghĩa là nâng cấp chiến lược hợp tác song phương Việt Nam - Trung 
Quốc về “Hai hành lang, một vành đai kinh tế” thành chiến lược hợp tác đa 
phương/khu vực, với sự tham gia của nhiều tập đoàn mạnh trong khu vực và 
trên thế giới, biến mô hình hợp tác yếu - yếu giữa hai bên biên giới Việt – Trung 
thành mô hình hợp tác mạnh - mạnh để cùng phát triển và cùng hưởng lợi trên 
toàn khu vực. 
11 Để đảm bảo sự thống nhất về phương hướng chung trong phát triển quan hệ thương mại với Trung Quốc, tiểu 
mục này của chuyên đề kế thừa kết quả nghiên cứu của đề tài NCKH cấp Nhà nước “Quan hệ hợp tác kinh tế 
của Việt Nam với Trung Quốc” mã số KX.01.01/06-10do PGS. TS. Nguyễn Văn Lịch làm chủ nhiệm, Viện 
Nghiên cứu Thương mại chủ trì, nghiệm thu năm 2009. 
12 Trong mục này, chuyên đề kế thừa và sử dụng quan điểm của Ths.. Vũ Thị Thanh Xuân trong đề tài NCKH 
cấp Bộ: “Chiến lược một trục hai cánh trong chính sách hướg Nam của Trung Quốc - Gợi ý một số đối sách 
vớivn”. Mã số: b2009-08.08, tháng 11/2010. 
 71 
 - Phản ứng tích cực trước thạm vọng của Trung Quốc về ý tưởng, “Một 
trục hai cánh”, chúng ta cần khéo léo đưa Trung Quốc trở lại với thực tế gần 
nhất để họ có thái độ và trách nhiệm nhất với từng cấu phần hợp tác đã cam kết, 
và qua phối hợp thực hiện, chúng ta sẽ có thêm kinh nghiệm để xử lý kịp thời, 
hiệu quả thuật “hợp tung”, “liên hoành” mà Trung Quốc đã vận dụng rất thiện 
nghệ trong thực thi chiến lược mở cửa đối ngoại. Về phần mình, chúng ta không 
quá sốt sắng với ý tưởng chiến lược “một trục, hai cánh” (vì quốc tế còn đang 
phản ứng rất dè dặt) song cũng không vì thế để tỏ ra thờ ơ, bàng quang với nó. 
Một động thái ngoại giao mang tính chia xẻ sáng kiến hợp tác khu vực và lồng 
ghép “hai hành lang, một vành đai kinh tế” vào chiến lược “một trục, hai cánh” 
(như Trung Quốc đã gọi là Chiến lược khai phát Vịnh Bắc bộ mở rộng) sẽ là 
một phản ứng phù hợp và sẽ là có lợi nhất cho Việt Nam trong các bước triển 
khai chiến lược hợp tác khu vực của Trung Quốc. 
 - Vì chiến lược “Một trục, hai cánh” là một phần rất quan trọng trong 
chiến lược toàn cầu của Trung Quốc nên có thể tận dụng được các cơ hội cũng 
như giảm thiểu được các tác động bất lợi của nó, chúng ta rất nên lập một dự án 
nghiên cứu toàn diện về chiến lược này, đặc biệt là nghiên cứu về tính khả thi 
của nó - điều đã và đang được phía Trung Quốc ráo riết đẩy nhanh. Để bảo vệ 
lợi ích và chủ quyền quốc gia cũng như tạo dựng môi trường hoà bình, ổn định 
cho sự cất cánh phát triển nhanh và bền vững trong giai đoạn tới, Việt Nam rất 
cần xây dựng sớm chiến lược mới về hợp tác khu vực - một chiến lược tổng thể, 
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực: chính trị, an ninh, kinh tế, quốc phòng và văn 
hoá ... để phản ứng có hiệu quả nhất đối với chiến lược này của Trung Quốc. 
 - Trong bối cảnh rất khó có thể ngăn cản được Trung Quốc thực hiện 
chiến lược đã đề ra, vậy nên một tiếp cận mang tính “phối hợp” với Trung Quốc 
có thể là sự lựa chọn thích hợp. Chúng ta có thể chủ động đề xuất hội thảo với 
sự tham gia của cả Trung Quốc và các nước ASEAN để xác định tính khả thi 
của ý tưởng chiến lược này, đặc biệt nhấn mạnh việc làm rõ các cơ chế hợp tác 
trên các cấp độ đa phương, khu vực và song phương trong khuôn khổ chiến 
lược “một trục, hai cánh”. Cần thẳng thắn đặt ra các vấn đề nổi cộm, và những 
hệ luỵ có thể xảy ra nếu chiến lược được triển khai để tìm ra những cơ chế giảm 
thiểu những tác động tiêu cực mà chiến lược này có thể mang lại. 
 72 
 - Phối hợp với Trung Quốc và luôn dựa vào “đa phương” (trước hết là 
ASEAN) để có thể thương lượng tốt nhất nhằm kiềm chế sự áp đặt của Trung 
Quốc trong quan hệ tay đôi nên được coi là cách xử thế hài hoà nhất cho một 
nước nhỏ trong quan hệ với một nước lớn khổng lồ. 
 - Để Việt Nam không là “sân sau” và Biển Đông của ta không là”ao nhà” 
của Trung Quốc, một mặt, chúng ta phải mạnh về mọi mặt để Trung Quốc nể 
trọng, mặt khác, chúng ta rất cần tạo dựng được các quan hệ đối tác toàn diện 
với các nước lớn khác như: Mỹ, Nhật và EU. Cần vận dụng khôn khéo và hiệu 
quả chiến lược “Vừa hợp tác, vừa kiềm chế” giữa các nước lớn để ta lôi cuốn họ 
ủng hộ chiến lược của ta, tránh bị mắc kẹt trong quan hệ giữa ta với Trung Quốc 
và các nước lớn, nghĩa là gia tăng sự hợp tác sâu của họ với ta để hình thành nên 
thế đối trọng với Trung Quốc. Các chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mê 
Kông, đặc biệt là hành lang kinh tế Đông - Tây với sự hỗ trợ tích cực của Nhật 
Bản cùng các chương trình đầu tư mới của Nhật theo công thức “Trung Quốc 
+1” để giảm thiểu rủi ro cũng như để kiềm chế Trung Quốc, ta nên bắt nhịp một 
cách tích cực hơn. Cũng tương tự như vậy, cần chuẩn bị về mọi mặt, nhất là 
nguồn nhân lực chất lượng cao để tiếp nhận các dòng đầu tư dựa trên tri thức và 
công nghệ của Hoa Kỳ, EU ... Kinh nghiệm quốc tế cho thấy, mở cửa hội nhập 
sâu rộng và gia tăng sự hiện diện về đầu tư từ các nước phát triển và nước lớn 
càng mạnh, thế đối trọng của quốc gia càng lớn và theo đó, thế cân bằng chiến 
lược của quốc gia sẽ được đảm bảo vững chắc hơn. Dĩ nhiên, nếu chúng ta có 
được các đầu tư nguồn, công nghệ tiên tiến từ các nước phát triển, chúng ta sẽ 
có điều kiện lựa chọn tốt hơn các đầu tư mang tính dịch chuyển cơ cấu từ chiến 
lược “Một trục, hai cánh” của Trung Quốc, nghĩa là chúng ta có thể tránh được 
các tiếp nhận đầu tư công nghệ cũ, sử dụng nguồn tài nguyên và gây ô nhiễm 
cũng như các đầu tư để biến nước ta thành vùng nguyên liệu của Trung Quốc. 
Đặc biệt, nếu chúng ta có nhiều tập đoàn dầu khí hàng đầu thế giới cùng thăm 
dò, khai thác ... chắc chắn thế đối tác của ta trong các chương trình cùng thăm 
dò, cùng khai thác với Trung Quốc và các nước ASEAN sẽ mạnh hơn rất nhiều. 
Tóm lại, để không lệ thuộc vào Trung Quốc, nhưng vẫn có thể tận dụng được 
các lợi ích từ sự phát triển của Trung Quốc nói chung, chiến lược “Một trục, hai 
cánh” nói riêng, Việt Nam trong khi cần tạo ra được các đối trọng với Trung 
 73 
Quốc, vẫn phải luôn thể hiện được động thái “phối hợp” tích cực với Trung 
Quốc, lựa chọn sáng suốt hơn trong tiếp nhận đầu tư và không bao giờ được 
thuận chiều đơn giản các tính toán của Trung Quốc. 
 - Trung Quốc khi công khai ý tưởng chiến lược “một trục, hai cánh”, tức 
là họ đã chuyển cho thế giới thông điệp rằng họ sẽ đóng vai trò lãnh đạo khu 
vực, dẫn dắt ASEAN và vị vậy, họ đã đứng trong cùng “mái nhà với ASEAN”. 
Điều đó cũng có nghĩa là họ sẽ phải tiếp tục thuyết phục các nước trong khu vực 
và không có cái gọi là “mối đe doạ từ Trung Quốc”, họ sẽ phải tạo dựng hình 
ảnh “hoà bình phát triển” để “cùng hợp tác, cùng phồn vinh” với các nước xung 
quanh và để thực hiện mục tiêu Trung Quốc sẽ là một cực trong trật tự thế giới 
hai cực trong tương lai, chắc chắn Trung Quốc sẽ không muốn làm xấu đi hình 
ảnh của họ trong con mắt của cộng đồng quốc tế, giữ hoà thuận với các nước 
láng giềng, nhất là với một nước ở điểm đầu kết nối chiến lược “một trục, hai 
cánh” lại có nhiều điểm tương đồng với Trung Quốc như nước ta. Phải chăng, 
đây là cơ hội mà chúng ta có thể tranh thủ sự trỗi dậy của Trung Quốc để đổi 
mới tư duy, tập trung nguồn lực, lựa chọn đối tác và đối sách hợp lý để bứt phá 
phát triển. Sự cường thịnh của đất nước chính là sức mạnh phòng thủ chiến lược 
và bảo đảm an ninh quốc gia tốt nhất. Nghĩa là trong 10 năm tới, chúng ta phải 
cất cánh phát triển nhanh và bền vững để tiến cùng thời đại, và đến lúc đó, nếu 
Trung Quốc triển khai cấp tập chiến lược “Một trục, hai cánh” chúng ta đã ở 
một tầm cao để sẵn sàng tham gia với vai trò được nể trọng nhất trong cục diện 
hợp tác mới của khu vực. 
 - Tận dụng cơ hội, nỗ lực vượt qua thách thức để vươn lên trong hội nhập 
và liên kết khu vực song phương. 
 Sự phát triển của Trung Quốc tạo ra các cơ hội và những thách thức đối 
với nước ta. Thực tế hợp tác khu vực cho thấy, những nước có trình độ phát 
triển thấp hơn Trung Quốc thu được lợi ích hơn trong quan hệ hợp tác kinh tế 
(Trần Văn Hoá)13. Các nước như Thái Lan, Singapore, Philippin, Indonesia đều 
đã thâm nhập thực sự vào thị trường Trung Quốc, tận dụng được cơ hội Trung 
13 Xem:Trần Văn Hoá:Thương mại và đầu tư Việt Nam – Trung Quốc trong điều kiện mở rộng hợp tác ASEAN 
và gia nhập WTO của Việt Nam. Tài liệu hội thảo “Định hướng phát triển qhht Việt Nam – Trung Quốc trong 
bối cảnh mới” ngày 27/7/2006. 
 74 
Quốc là thị trường lớn. Việt Nam đang gặp phải nhiều bất lợi trong quan hệ kinh 
tế với Trung Quốc. Chúng ta chưa có một chiến lược hợp lý, lâu dài trong hợp 
tác với Trung Quốc. Trung Quốc sẽ còn thực hiện nhiều ý đồ chiến lược để củng 
cố vị trí siêu cường của mình. Chính vì vậy, việc Trung Quốc thực hiện chiến 
lược Một trục hai cánh, một chiến lược có ảnh hưởng rất lớn đến tương lai phát 
triển của Việt Nam, là cơ hội tốt để chúng ta nhận thức rõ hơn về cơ hội và 
thách thức trong quan hệ với Trung Quốc. 
 75 
Danh mục tài liệu tham khảo 
1. Hồ An Cương (2003) Trung Quốc những chiến lược lớn, NXB Thông 
tấn, Hà nội 
 2. Đinh Quí Bộ (2004), Trật tự kinh tế thế giới, NXB Thế giới, Hà nội 
 3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2007), Bối cảnh trong nước và quốc tế và việc 
nghiên cứu xây dựng chiến lược 2011-2020 
 4. Bộ Ngoại giao (2001), Hợp tác kinh tế trên hành lang Đông-Tây, NXB 
Khoa học Xã hội, Hà nội 
 5. Kỷ yếu Hội thảokhh (2005), Việt Nam – Trung Quốc tăng cường hợp 
tác cùng nhau phát triển hướng tới tương lai, NXB Khoa học Xã hội, Hà nội 
 6. Trần Khanh (2006), Tác động của môi trường địa chính trị Đông Nam 
Á đến quan hệ ASEAN – Trung Quốc, Tạp chí Nghiên cứu Đông Á, số 76 
 7. Nguyễn Văn Lịch (2005), Phát triển thương mại trên hành lang kinh tế 
Côn Minh – Lào Cai – Hà Nội - Hải Phòng, NXB Thống kê, Hà nội 
 8. Nguyễn Văn Lịch (2009), Quan hệ hợp tác kinh tế của Việt Nam với 
Trung Quốc, đề tài NCKH cấp Nhà nước, Viện Nghiên cứu Thương mại, Hà nội 
 9. Nguyễn Ngọc Trân (2003), Một số vấn đề kinh tế toàn cầu hna 
 10. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội (2004), “Trung Quốc gia nhập WTO: 
Thời cơ và thách thức”, Hà nội 
 11. Trung tâm Thông tin và dự báo kinh tế -xã hội quốc gia (2007), 
Nghiên cứu xu thế liên kết kinh tế quốc tế - tác động đối với phát triển kinh tế 
Việt Nam, Tạp chí Thông tin và dự báo kinh tế - xã hội, số 17-3/2007 
 12. Vũ Thị Thanh Xuân (2010), Chiến lược một trục hai cánh trong chính 
sách hướng Nam của Trung Quốc, gợi ý một số đối sách với Việt Nam; đề tài 
NCKH B2009-08-60, Hà nội 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 tac_dong_cua_trung_quoc_5316.pdf tac_dong_cua_trung_quoc_5316.pdf