Thực tế chứng minh rằng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là quá trình tất yếu nhằm đưa Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, quan hệ sản xuất hợp lý phù hợp với lực lượng sản xuất . làm cơ sở để xây dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Thực hiện nhiệm vụ đó, những năm qua, chúng ta đã thu được nhiều thành công bước đầu. Từ một nước có nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, phải nhập khẩu lương thực, đã trở thành một trong ba quốc gia xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới. Cùng với ngành nông nghiệp các ngành, các lĩnh vực khác như công nghiệp, ngoại thương, du lịch, ngoại giao . cũng đạt được những thành công nhất định góp phần đưa Việt Nam từ một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế chậm, tỷ lệ lạm phát cao thành một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế khá và ổn định, tỷ lệ lạm phát ở mức thấp, ngày càng có vị thế trong khu vực và trên trường quốc tế. Từ đó cho thấy hướng đi và bước đi của chúng ta là đúng đắn, tạo thế và lực mới cho một thời kỳ phát triển cao hơn.
Xu hướng quốc tế hoá cùng điều kiện cụ thể riêng đã tạo cho Việt Nam nhiều cơ hội tiếp cận trình độ khoa học công nghệ cả về mặt kỹ thuật và quản lý . Tuy nhiên để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đưa đất nước tiến lên xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội thì vẫn còn rất nhiều thử thách cần phải vượt qua. Trong giai đoạn đầu thực hiện CNH-HĐH nhiệm vụ chủ yếu được xác định là tập trung các nguồn lực xây dựng và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ, máy móc thiết bị, chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp lạc hậu sang nền kinh tế hiện đại với cơ cấu công- nông nghiệp, dịch vụ hợp lý, phát triển sản xuất trong nước theo cả chiều rộng và chiều sâu. Để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư đó chủ yếu vẫn phải dựa vào nguồn vốn tín dụng trung và dài hạn từ hệ thống ngân hàng thương mại trong nước. Vai trò tín dụng trung và dài hạn sẽ được phát huy mạnh mẽ trong thời gian tới khi mà nguồn vốn tự tích luỹ của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay còn quá nhỏ bé, không thể đáp ứng nhu cầu đổi mới trang thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất là những hoạt động đòi hỏi khối lượng vốn lớn. Nguồn vốn cấp phát từ ngân sách rất hạn hẹp, không thể đầu tư dàn trải cho nhiều lĩnh vực mà chủ yếu chỉ tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng và những công trình công nghiệp lớn. Nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư khá dồi dào nhưng việc huy động chúng lại không dễ dàng. Trong bối cảnh đó thì việc các ngân hàng thương mại phải phát huy hết vai trò và thế mạnh của mình để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước.
Là một trong bốn hệ thống ngân hàng thương mại lớn nhất của cả nước, ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam luôn tự xác định cho mình nhiệm vụ đóng góp vào công cuộc xây dựng và phát triển chung đó của đất nước, chính vì vậy mà trong thời gian qua BIDV và Sở giao dịch 1 đã có nhiều nỗ lực trong việc mở rộng hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng chung dài hạn nói riêng nhằm đáp ứng tốt nhất nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp qua đó góp phần thực hiện mục tiêu chung của nền kinh tế. Tuy nhiên nếu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan rằng bên cạnh những kết quả tích cực đã đạt được thì hoạt động tín dụng chung dài hạn của BIDV và SGD vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng thực sự của mình. Trong khi rất nhiều doanh nghiệp đang thực sự thiếu và cần vốn thì bản thân SGD lại đang thừa vốn không thể giải ngân đặc biệt là ngoại tệ. Xuất phát từ thực tế đó em chọn đề tài “ Thực trạng hoạt động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam”.
Bố cục đề tài gồm ba chương:
* Chương 1. Lý luận chung về dự án đầu tư và cho vay dự án đầu tư.
* Chương 2. Thực trạng cho vay dự án đàu tư tại SGD1 Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
* Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động cho vay dự án đầu tư tại SGD1.
104 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2433 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng hoạt động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cũng như cho vay dự án đầu tư. Nguồn vốn huy động trung hạn và một phần ngắn hạn chiếm tỷ trọng áp đảo trong tổng nguồn vốn cho vay dự án đầu tư của SGD,điều này có khả năng tạo ra những bất lợi trong hoạt động ngân hàng nhất là khả năng thanh toán nếu như trên thị trường xảy ra những biến động bất thường khiến cho khách hàng ồ ạt rút tiền dù chưa đến hạn.
* Tỷ lệ dư nợ cho vay dự án của trên tổng dư nợ của SGD mặc dù được đánh giá là cao so với nhiều chi nhánh khác song vẫn còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu thực tế khi mà cả nước đang tập trung tất cả các nguồn lực cho đầu tư phát triển. Không những thế, trong tổng dư nợ cho vay dự án của Sở thì các khoản cho vay trung hạn lại chiếm ưu thế, cho vay dài hạn chiếm tỷ trọng rất thấp. Nếu so với tiềm năng về vốn cho vay dự án đầu tư của sở thì dư nợ cho vay còn xa mới tương ứng (chỉ đạt khoảng 65-70% tiềm năng).
* Trong cơ cấu cho vay theo thành phần kinh tế của SGD thì cho vay nói chung và cho vay dự án đầu tư nói riêng đối với những doanh nghiệp ngoài quốc doanh là quá thấp. Điều này sẽ gây ra những ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh của Sở bởi lẽ với xu hướng sắp xếp lại các doanh nghiệp như hiện nay nếu mảng tín dụng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không được quan tâm đúng mức thì SGD1 sẽ mất đi một lượng khách hàng không nhỏ.
* Trong quan hệ với khách hàng mặc dù đã có rất nhiều cố gắng song SGD vẫn chưa thực sự thể hiện được vai trò “người bạn của các doanh nghiệp”. Sự giúp đỡ của Sở mới đơn thuần dừng lại ở các hoạt động như điều chỉnh, gia hạn nợ, cho vay thêm vốn chứ chưa thực hiện được vai trò tư vấn, định hướng giúp khách hàng tháo gỡ khó khăn gặp phải trong hoạt động kinh doanh.
5.2.2.Nguyên nhân
5.2.2.1.Những nguyên nhân phát sinh từ phía ngân hàng:
* Trong hoạt động tín dụng, cho vay hai yếu tố rủi ro và lợi nhuận luôn là bạn đồng hành. Nếu ngân hàng chỉ chạy theo mục tiêu lợi nhuận cao mà thiếu sự thận trọng cần thiết thì có thể sẽ phải trử giá đắt cho những rủi ro gặp phải, nhưng ngược lại nếu vì quá lo sợ rủi ro mà không dám mở rộng cho vay thì sẽ để lỡ mất nhiều cơ hội kinh doanh và những khách hàng tốt. Đây là một vấn đề nan giải không chỉ SGD mà cả hệ thống BIDV đang gặp phải, vì quá coi trọng mục tiêu án toàn vốn nên SGD cũng như các chi nhánh khác đang có xu hướng thu hẹp cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh (điều này đã được chứng minh trong cuộc họp của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh Hà Nội tháng 4/2003 vừa qua). Vẫn biết cho vay đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thời gian qua gặp nhiều rủi ro song không phải tất cả các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đều như nhau. Đây là điểm mà SGD1 cũng như toàn hệ thống BIDV cần quan tâm nghiên cứu trong thời gian tới.
* Hoạt động Marketing trong ngân hàng chưa thực sự được chú ý. Công việc này mới chỉ đơn thuần được thực hiện dưới dạng những hoạt động bề nổi như tuyên truyền quảng cáo chứ chưa xuất phát từ thực tiễn của việc nghiên cứu nhu cầu thị trường, nắm bát nhu cầu khách hàng để tìm cách thoả mãn nhu cầu ấy. Lâu nay hoạt động Marketing vẫn thường được coi là nhiệm vụ của nhân viên giao dịch trong khi đây lại là nhiệm vụ của tất cả nhân viên ngân hàng. Điểm yếu này của SGD1 cần phải được khắc phục nhanh chóng nếu như muốn phát triển, tìm kiếm những khách hàng mới với những tiềm năng mới.
5.2.2.2.Nguyên nhân nảy sinh từ phía khách hàng.
* Khả năng của khách hàng là những doanh nghiệp trong việc đáp ứng yêu cầu tín dụng của các ngân hàng nói chung và SGD nói riêng còn khá thấp. Những vướng mắc chủ yếu trong thời gian qua tập trung vào việc các doanh nghiệp không đủ vốn tự có theo yêu cầu; không đủ tài sản thế chấp theo quy định (nhất là những doanh nghiệp ngoài quốc doanh); không có dự án khả thi...Để đảm bảo nguyên tắc an toàn vốn, theo quy định của ngành ngân hàng những doanh nghiệp vay vốn phải có một số vốn tối thiểu nhất định tham gia vào dự án (theo quyết định 324/1998 của NHNN thì với những dự án cải tiến kỹ thuật, mở rộng sản xuất, hợp lý hoá sản xuất tỷ lệ vốn tối thiểu là 10% tổng giá trị vốn đầu tư; dự án xây dựng cơ bản mới: 30%; Dự án phục vụ đời sống: 40%. Với tình trạng thiếu vốn phổ biến của các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay thì đây thực sự là rào cản rất khó vượt qua đối với những doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Vướng mắc thứ hai cũng không kém phần nan giải đó là tài sản thế chấp, theo tính toán hiện nay thì chỉ có 20% giá trị tài sản của các doanh nghiệp có thể được sử dụng làm tài sản thế chấp hợp pháp, con số này là quá nhỏ bé đối với nhu cầu vay vốn của họ. Và nếu có thể vượt qua được hai dào cản kể trên thì việc không có khả năng lập một dự án đầu tư khả thi lại tiếp tục gây ra những khó khăn ngăn cản các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn ngân hàng. Nhiều doanh nghiệp có phương án kinh doanh rất tốt nhưng do không cụ thể hoá được thành những dự án khả thi nên cũng không thể vay được vốn.
* Khả năng quản lý việc sử dụng vốn vay của các doang nghiệp cũng là một vấn đề rất đáng được quan tâm, hiện nay khả năng này cũng còn khá hạn chế điều này thể hiện phần nào từ khâu lập dự án đầu tư. Hạn chế về vốn kéo theo sự hạn chế về trình độ trang thiết bị, công nghệ lạc hậu làm giảm khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Trình độ lập dự án thấp nên nhiều dự án được lập ra ban đầu tưởng khả thi nhưng do không lường hết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện nên dẫn đến thua lỗ không trả được nợ vay. Tuy nhiên ngay cả khi có được một dự án khả thi, có được trang thiết bị hiện đại nhưng nếu khả năng quản lý kém cũng sẽ làm cho việc thực hiện dự án không đạt được những kết quả như dự tính.
* Tình trạng làm ăn thiếu trung thực, lừa đảo, chụp giựt vẫn thuờng xuyên xảy ra trong một số doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và giữa các doanh nghiệp với ngân hàng như sử dụng vốn vay sai mục đích, cung cấp thông tín không chính xác cho ngân hàng, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau... là một trong những nguyên nhân dẫn đến tâm lý nghi ngại trong việc xét cho vay của ngân hàng đối với các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
5.2.2.3.Những nguyên nhân khách quan.
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng không thuận lợi, các quy định của pháp luật liên quan đến tài sản thế chấp còn rất nhiều bất cập. Rất nhiều tài sản hiện nay không có đăng ký sở hữu, mà đây lại là điều kiện bắt buộc đối với các tài sản dùng làm tài sản thế chấp. Việc xử lý tài sản thế chấp khi có rủi ro xảy ra cũng gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại về mặt pháp lý.
Sự quản lý của các cơ quan chức năng đối với các doanh nghiệp cũng chưa thực sự chặt chẽ, tạo ra những khe hở cho các doanh nghiệp có những hành vi “lách luật”, lừa đảo doanh nghiệp bạn cũng như ngân hàng. Một vấn đề nữa là mặc dù Chính phủ đã quy định cho các ngân hàng có quyền tự chủ quyết định về việc cho vay của mình và chịu trách nhiệm về chính những quyết định đó, song trên thực tế không phải ngân hàng nào cũng có thể tự quyết định được về các khoản vay của mình nhất là các khoản vay theo kế hoạch nhà nước. Không ít trong số những dự án như vậy thực sự không đem đến lợi nhuận chi hoạt động kinh doanh của bản thân ngân hàng có khi còn xảy ra những rủi ro.
Hiện nay ở Việt Nam chưa có cơ quan chuyên trách về xếp hạng doanh nghiệp nhất là về phương diện uy tín, tín nhiệm và vì vậy các ngân hàng thiếu những thông tin đáng tin cậy khi xem xét, đánh giá các khách hàng để quyết định cho vay. Điều này một mặt hạn chế khả năng mở rộng tín dụng do ngân hàng không dám mạo hiểm giải ngân những khoản vay mà ngân hàng không cảm thấy chắc chắn, mặt khác cũng làm tăng thêm tình trạng, khả năng gặp rủi ro khi đánh giá, đầu tư vào doanh nghiệp của chính bản thân ngân hàng.
Nền kinh tế nước ta mặc dù đã chuyển sang cơ chế thị trường nhưng vẫn còn tồn tại những quan điểm, tư tưởng lạc hậu của cơ chế cũ, các cơ chế; chính sách; nền tảng pháp lý cho một thời kỳ phát triển kinh tế mới còn đang ở trong giai đoạn hoàn thiện nên không có được sự ổn định cao. Chính vì vậy, tâm lý dè dặt của các nhà đầu tư xuất hiện, họ không dám bỏ vốn đầu tư vào những dự án lớn, thời gian dài khiến cho việc mở rộng tín dụng của ngân hàng cũng gặp rất nhiều khó khăn. Hơn thế nữa, trong thời gian gần đây tình hình hoạt động của các doanh nghiệp gặp khá nhiều khó khăn, các doanh nghiệp trong nước vốn dĩ đã hạn chế về vốn, kỹ thuật, công nghệ lại phải cạnh tranh gay gắt với hàng ngoại nhập, hàng lậu, trốn thuế... nên càng khó khăn có những doanh nghiệp thua lỗ phải sản xuất cầm chừng. Đây cũng là một trong những nguyên nhân chính khiến nhu cầu vay vốn ngân hàng giảm sút.
chương 3:
MỘT SỐ GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CHO VAY DỰ ÁN ĐẦU TƯ TẠI SỞ GIAO DỊCH 1 NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
1. Định hướng chủ yếu về hoạt động kinh doanh tại SGD trong thời gian tới
1.1. Định hướng chung
Ý thức được các thời cơ, thách thức đối với hoạt động ngân hàng, quán triệt, tôn chỉ phương châm hành động của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam là: ”Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt động của ngân hàng”; Trên cơ sở quan hệ hợp tác hiệu quả, cùng có lợi, Sở giao dịch xác định: Coi dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là cơ hội hợp tác kinh doanh, hướng mọi hoạt động của Sở giao dịch vào việc phục vụ và nâng cao chất lượng phục vụ doanh nghiệp. Theo đó, các chính sách, biện pháp cụ thể như sau:
1.1.1. Tăng cường năng lực về vốn để đáp ứng các nhu cầu sản xuất kinh doanh:
Mở rộng mạng lưới và đa dạng hoá các hình thức, loại hình huy động bao gồm cả tổ chức kinh tế lẫn huy động dân cư, cả trong nước và ngoài nước.... đảm bảo vốn cho các chương trình phát triển kinh tế và nhu cầu của doanh nghiệp.
Chú trọng tạo một bộ mặt mang phong cách riêng của Sở giao dịch, tạo nên sự an tâm tin tưởng đối với người dân.
Nghiên cứu, thực hiện các hình thức huy động mới, thường xuyên theo dõi tình hình lãi suất thị trường, dự báo xu hướng biến động đưa ra lãi suất hợp lý, trong hoạt.
1.1.2. Nâng cao chất lượng tín dụng:
Xây dựng giới hạn tín dụng và hạn mức tín dụng cho từng khách hàng, có chính sách lãi suất phù hợp, kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu khách hàng để có thể gia tăng số dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, đồng thời tăng doanh số giao dịch.
Tăng cường thu thập thông tin về các chương trình đầu tư phát triển của thành phố, của các bộ ngành, các tổng công ty kết hợp với tình hình hoạt động doanh nghiệp nhằm lên kế hoạch tiếp cận cụ thể với các chính sách áp dụng phù hợp, đáp ứng đúng nhu cầu khách hàng.
Mở rộng tín dụng đối với các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh, có thị trường; các thành phần kinh tế khác như công ty cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có uy tín trong giao dịch.
Mở rộng hơn nữa tín dụng ngoại tệ với nhữnh khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ hoặc tìm được nguồn cung ngoại tệ từ các doanh nghiệp khác, xác định khả năng hỗ trợ ngoại tệ của Sở giao dịch đối với một số khách hàng có doanh số giao dịch lớn để nâng mức tăng trưởng tín dụng một cách an toàn trên cơ sở chính sách cung ứng ngoại tệ phù hợp vơí tình hình cung cầu.
1.1.3. Bảo lãnh:
Ngoài các loại hình bảo lãnh truyền thống có chất lượng cao, Sở giao dịch còn tiếp tục mở rộng thêm hình thức bảo lãnh thanh toán trả chậm trong nước (Xi măng, sắt thép...) cho các bên B là khách hàng của Sở giao dịch, thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ và các loại bảo lãnh khác theo yêu cầu của khách hàng.
1.1.4. Lãi suất:
Sở giao dịch cam kết chủ động áp dụng lãi suất cho vay, phí dịch vụ hấp dẫn, mang tính cạnh tranh hợp lý đối với khách hàng, trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi.
1.1.5. Dịch vụ và công nghệ ngân hàng:
Trang bị thêm các máy chủ loại lớn với tốc độ xử lý cao phục vụ các mảng dịch vụ cho khách hàng như Home Banking, Phone Banking, Internetbanking nhằm mở rộng hơn nữa các dịch vụ ngân hàng, tăng thêm hiệu quả sử dụng ATM.
Nghiên cứu triển khai mở rộng nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ tại các điểm giao dịch; tìm kiếm các đại lý đủ điều kiện thực hiện thu đổi ngoại tệ, thanh toán séc du lịch, mở tài khoản cá nhân, chuyển tiền kiều hối.
Chú trọng tăng cường khả năng tự xây dựng các chương trình phần mềm ứng dụng phục vụ các mặt nghiệp vụ, phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh doanh của SGD.
Tuân thủ và ngày càng hoàn thiện hơn quy trình ISO trong lĩnh vực công nghệ thông tin của ngân hàng.
1.1.6. Biện pháp tổ chức điều hành:
Quán triệt cho cán bộ nhân viên tình hình và nhiệm vụ kinh doanh năm 2003 để tạo sự thống nhất về nhận thức và quyết tâm.
Tiếp tục nâng cao chất lượng phục vụ, chất lượng sản phẩm, lấy chất lượng sản phẩm là chỉ tiêu hàng đầu trong kinh doanh.
Thực hiện tốt quy trình ISO trong hoạt động ngân hàng nhằm bảo đảm cung cấp sản phẩm và dịch vụ ngân hàng một cách nhanh chóng, hiệu quả, an toàn.
Từng bước nâng cấp các điều kiện vật chất, phương tiện giao dịch phục vụ khách hàng tạo ra môi trườngkinh doanh thuận lợi và văn minh.
Duy trì quan hệ với khách hàng thông qua các phòng nghiệp vụ và phòng quan hệ khách hàng để nắm bắt tâm tư nguyện vọng của khách hàng.
Tranh thủ sự chỉ đạo của Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam để tháo gỡ, xử lý kịp thời các vướng mắc về cơ chế trong quan hệ tín dụng.
Tổ chức hội thảo với khách hàng để tiếp thu ý kiến phản ánh, nắm bắt được nhu cầu của khách hàng để có chính sách phục vụ kịp thời.
1.2. Định hướng cho vay dự án đầu tư
Về cơ bản có thể nói mục tiêu của SGD trong thời gian tới vẫn là tăng cường hơn nũa hoạt động cho vay trung dài hạn đặc biệt là cho vay dự án đầu tư nhằm giúp đỡ các doanh nghiệp – khách hàng - tiếp tục mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, nhập công nghệ hiện đại, nhanh chóng tiếp cận trình độ khoa học kỹ thuật của thế giới. Đồng thời với việc mở rộng quy mô, hiệu quả của hoạt động cho vay dự án cũng được Ban giám đốc sở quan tâm đặt lên hàng đầu. Trong mọi trường hợp khi xem xét cho vay SGD đều lấy tiêu chí hiệu quả kinh tế và tính khả thi của dự án làm căn cứ ra quyết định. Cụ thể:
Tiếp tục đẩy mạnh hoạt động cho vay dự án với tỷ lệ tăng trưởng phù hợp với định hướng cơ cấu lại nợ của toàn ngành. Phấn đấu dư nợ trung dài hạn đạt 6000 tỷ đồng, trong đó tín dụng trung dài hạn thương mại 4.718 tỷ đồng chiếm 78%.
Đẩy mạnh hoạt động tín dụng phục vụ nền kinh tế bằng các biện pháp mở rộng khách hàng vay vốn là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, kết hợp với nhiều hình thức vay vốn, đa dạng hoá các sản phẩm tín dụng, duy trì tốc độ tăng trưởng tín dụng, đảm bảo cân đối, tăng trưởng tín dụng ngắn hạn cao hơn tín dụng dài hạn khoảng 2,1 lần.
Trọng tâm hoạt động cho vay dự án đầu tư trong năm 2003:
Tính toán tham gia đầu tư với mức vốn hợp lý thông qua đồng tài trợ hoặc cho vay trực tiếp đối với các dự án đầu tư ngành điện lực, dầu khí và các dự án trọng điểm mà nhà nước giao cho toàn hệ thống theo bảo lãnh của Bộ tài chính.
Những dự án đầu tư cơ sở hạ tầng bằng nguồn vốn ngân sách Nhà nước trung ương và địa phương, SGD có thể cho vay ứng trước vốn khi có đảm bảo sẽ thu được nợ từ ngân sách cấp phát trong phạm vi hàng năm với thời hạn vay không quá 5 năm theo đúng tinh thần chỉ đạo của BIDV.
Ưu tiên cho các dự án đầu tư theo chiều sâu, đầu tư đồng bộ để phát huy năng lực hiện có, nhanh chóng tạo ra những sản phẩm có tính cạnh tranh, thời hạn vay ngắn không quá 5 năm đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế. Cho vay các dự án có hiệu quả thuộc đối tượng được hưởng ưu đãi theo cơ chế của nhà nước.
Đào tạo nâng cao trình độ cán bộ đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của hoạt động tín dụng ngân hàng trong thời gian tới nhất là trong điều kiện hiện nay khi các phòng tín dụng số cán bộ mới chiếm tỷ lệ 60%.
Thực hiện hiện đại hoá thiết bị công nghệ, đảm bảo phục vụ tốt cho công tác thẩm định, quản lý cho vay dự án. Triển khai giao dịch một cửa nhằm tăng năng suất lao động và tăng cường khả năng quản lý tín dụng.
Trong cơ chế thị trường cạnh tranh ngày càng gay gắt, công cuộc phát triển nền kinh tế và xây dựng cơ sở hạ tầng có nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, cung ứng dịch vụ ngân hàng ngày càng đa dạng, phong phú và hiện đại đòi hỏi Sở giao dich phải phát triển tiến kịp yêu cầu đổi mới của nền kinh tế. Để tồn tại và phát triển SGD đã xây dựng cho mình một định hướng chiến lược cho mục tiêu đầu tư. hy vọng rằng trong một tương lai không xa SGD sẽ như một địa chỉ đầu tiên tìm đến của các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Với thành tích đạt được trong những năm qua, với đội ngũ can bộ trẻ trung, năng động, nhiệt tình ngày càng được nâng cao về số lượng, được trang bị kiến thức đầy đủ, với ý chí thống nhất và đoàn kết SGD sẽ ngày càng thực hiện tốt hớn công tác cho vay dự án giữ vuững tốc độ tăng trưởng ngày càng cao trong cho vay đầu tư phát triển. Đảm bảo tính an toàn và hiệu quả của mỗi đồng vốn cho vay góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế đất nước theo mục tiêu mà đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đề ra.
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cho vay dự án đầu tư tại SGD ngân hàng ĐT&PT Việt Nam.
Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam vừa là một ngân hàng thương mại quốc doanh, có chức năng nhiệm vụ như tất cả các ngân hàng thương mại quốc doanh khác vừa có nhiệm vụ phục vụ lĩnh vực xây dựng cơ bản. Thực tế đã chứng minh vai trò của hệ thống ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung cũng như SGD1 nói riêng với sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Cùng với thời gian chất lượng công tác cho vay dự án nhất là cho vay trung, dài hạn ngày càng cao thể hiện ở dư nợ quá hạn luôn dưới mức cho phép. Tuy nhiên như ở trên đã trình bày tín dụng trung, dài hạn có thời gian thu hồi vốn kéo dài nên tiềm ẩn rủi ro lớn, mà dư nợ lĩnh vực này lại chiếm trên 53% tổng dư nợ cho vay của SGD1 và trong tương lai còn tăng lên nữa. Do vậy, để đảm bảo sự tồn tại và phát triển vững chắc của hệ thống Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt nam cũng như SGD1 thì việc đề ra các giải pháp để nâng cao chất lượng cho vay các dự án đầu tư là vô cùng quan trọng.
Như đã phân tích ở chương 1, nâng cao chất lượng cho vay dự án đầu tư bao gồm việc mở rộng quy mô cho vay, đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu vay vốn của khách hàng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển ngày một lớn mạnh của ngân hàng, góp phần đóng góp vào sự phát triển chung của kinh tế đất nước. Trên cơ sở bám sát những yếu tố đó, kết hợp quá trình phân tích thực trạng cho vay dự án đầu tư và những định hướng nâng cao chất lượng cho vay dự án trong thời gian tới của SGD cũng như của BIDV có thể nhận thấy rằng: Để nâng cao chất luợng cho vay dự án thì trong thời gian tới SGD cần tiến hành cùng lúc một hệ thống các biện pháp xuyên suốt từ khâu tạo nguồn, thu hút khách hàng đến quản lý nguồn vốn vay trước trong và sau khi giải ngân. Tôi xin nêu một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác cho vay dự án đầu tư như sau:
2.1. Thực hiện việc xây dựng chính sách tín dụng một cách hợp lý.
Đứng về mặt chiến lược mà nói, một chính sách tín dụng phải thu hút được khách hàng, duy trì và phát triển được khách hàng để mở rộng quy mô hoạt động của một ngân hàng thương mại. Do vậy chính sách tín dụng, cho vay dự án trung, dài hạn phải chú ý đến chiến lược thu hút khách hàng có sự lựa chọn. Các tiêu chuẩn chính dể lựa chọn khách hàng, như:
Khách hàng có khả năng ổn định và phát triển kinh doanh lâu dài.
Khách hàng có đội ngũ quản lý giỏi, có khả năng thích ứng tốt với môi trường kinh doanh.
Khách hàng có triển vọng chiếm lĩnh thị trường ...
Khách hàng đang có khó khăn nhưng dự án đầu tư thực sự có hiệu quả. Những doanh nghiệp này SGD vẫn thực hiện đầu tư cho dự án đó, thông qua việc đầu tư giúp cho doanh nghiệp thoát khỏi khó khăn và phát triển đi lên.
Như vậy để thực hiện quan điểm chỉ đạo gắn công tác tín dụng trung dài hạn với sự tồn tại và phát triển của ngân hàng đầu tư và phát triển. Vừa phục vụ cho đầu tư phát triển vừa hỗ trợ các doanh nghiệp phát huy hiệu quả vốn tín dụng ngắn hạn, hạn chế thấp nhất rủi ro trong hoạt động tín dụng, vừa đảm bảo thu nhập cho ngân hàng. Chi nhánh phải chủ động nắm bất kịp thời chủ trương đầu tư hàng năm của địa phương để xây dựng chiến lược, kế hoạch cho vay trung, dài hạn hàng năm chi tiết đến từng ngành, từng chủ đầu tư, từng dự án.
Bên cạnh sự lựa chọn khách hàng, dự án để thực hiện chính sách tín dụng, lãi suất cũng là một chính sách quan trọng của bản thân ngân hàng để thu hút khách hàng. Về nguyên tắc mà nói lãi suất cao sẽ hạn chế sự vay vốn của khách hàng, lãi suất thấp sẽ thu hút nhiều khác hàng hơn. Song, chính sách lãi suất phải linh hoạt với từng khoản tín dụng, từng khách hàng và phải đảm bảo kết hợp hài hoà giữa lợi ích của ngân hàng và khách hàng.
Với đặc thù của loại hình cho vay dự án có thời hạn kéo dài, vốn của ngân hàng chịu rủi ro rất lớn do nhiều yếu tố lạm phát, thị trường. Để khắc phục tình trạng này SGD nên: Nghiên cứu áp dụng các hợp đồng tín dụng có lãi suất thả nổi (tức lãi suất thay đổi) để giảm rủi ro cho cả ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên khi áp dụng hình thức này vấn đề cốt lõi là SGD phải có một chiến lược về kinh doanh và một chiến lược dự báo xu thế thị trường.
2.2. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án.
Thẩm định một dự án đầu tư gồm nhiều phần như: Sự cần thiết phải đầu tư, công nghệ, nguyên liệu, thị trường, tài chính dự án... Đứng trên giác độ là Ngân hàng, ở đây tôi xin nhấn mạnh vấn đề cơ bản về thẩm định tài chính dự án đầu tư. Việc thẩm định này ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả dự án còn nhằm bảo đảm sự an toàn cho các nguồn vốn tín dụng của Ngân hàng.
Tuy lâu nay phương pháp thẩm định tài chính dự án đầu tư đã được nghiên cứu và vận dụng thích ứng với thực tiễn nền kinh tế nhưng dưới tác động của các quy luật kinh tế thị trường đòi hỏi việc hạch toán kinh doanh phải chặt chẽ, hạn chế thấp nhất rủi ro thì phương pháp thẩm định cũ đã bộc lộ một số thiếu sót sau:
Phương pháp thẩm định cũ còn khá đơn giản, phiến diện không thích hợp với những yếu tố phức tạp đa dạng của môi trường kinh doanh hiện nay. Chẳng hạn: ít chú ý phân tích rủi ro, chưa tính toán đủ chi phí vốn đầu tư, chưa đề cập nhân tố lạm phát...
Phương pháp thẩm định cũ nghiên cứu dự án đầu tư ở trạng thái tĩnh bằng các chỉ tiêu, các con số gộp, tổng cộng, chưa chú ý trạng thái động như quá trình diễn biến của dự án và cũng chưa chú ý đến giá trị của tiền tệ theo thời gian.
Trước thực tế này việc nghiên cứu hoàn thiện phân tích tài chính dự án đầu tư là rất cấp thiết cả về mặt lý luận và thực tiễn. Nội dung chính của việc nghiên cứu phương pháp thẩm định là hệ thống chỉ tiêu làm căn cứ đánh giá hiệu quả tài chính dự án đầu tư. Trong phạm vi chuyên đề này em xin nêu một số vấn đề sau:
Một là: Hiệu quả tài chính cũng như bao loại hiệu quả khác, bản chất của nó không chỉ được thực hiện trên một mặt nào đó mà trên nhiều khía cạnh khác nhau, nó là hệ thống chỉ tiêu có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Hệ thống chỉ tiêu đó có thể chia làm 3 nhóm. Một nhóm phản ánh khả năng sinh lợi như doanh thu, lợi nhuận, suất đầu tư... Một nhóm phản ánh mức độ rủi ro của dự án. Một nhóm phản ánh khả năng hoàn vốn từ dự án như hệ số hoàn vốn, điểm hoà vốn, tỷ lệ thu hồi nội tại...
Hai là: Sau khi xác định được hệ thống chỉ tiêu cần thiết để thẩm định tài chính DAĐT vấn đề là tính toán các chỉ tiêu như thế nào:
Các chỉ tiêu thẩm định xét cho đến cùng đều được xây dựng, tính toán trên cơ sở lợi ích của dự án. Khi tính toán phải tính đủ các yếu tố cấu thành nên cho mọi loại hình dự án cũng như cho cả các dự án đặc thù.
Cuối cùng việc vận dụng tính toán các chỉ tiêu không thể không chú ý đến tính khả thi. Tiêu điểm của vấn đề là dữ liệu. Các yếu tố cấu thành chỉ tiêu, phương pháp tính toán chỉ tiêu phải đảm bảo dựa trên cơ sở những số liệu có thể thu thập được trong, ngoài dự án hoặc dự kiến một cách tương đối chính xác trong thực tế như giá cả, sản lượng, lãi suất...
Ba là: Mặc dù hệ thống chỉ tiêu cũng như cách tính toán là nội dung chính của thẩm định tài chính dự án đầu tư nhưng điều cuối cùng là phải có phương pháp đánh giá, nhìn nhận để có kết luận xác đáng từ việc phân tích trên. Mỗi chỉ tiêu sẽ có vai trò quan trọng khác nhau chút ít trong từng loại hình dự án. Nói cách khác căn cứ vào từng loại hình dự án mà xem chỉ tiêu nào là quan trọng hơn. Ví dụ như một dự án dài hạn mang lại lợi ích to lớn về mặt xã hội thì NPV không dương vẫn có thể cho vay.
2.3. Chú trọng phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi cho vay.
Đứng trên giác độ Ngân hàng trước các quyết định cho vay dự án trung, dài hạn theo em cần quan tâm phân tích các chỉ tiêu tài chính sau:
2.3.1. Xem xét các chỉ tiêu về cơ cấu vốn của doanh nghiệp:
Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn tự có và vốn đi vay. Nguồn gốc và cấu thành hai loại vốn này xác định sự ổn định tài chính và khả năng thanh toán dài hạn của doanh nghiệp, các doanh nghiệp thường muốn sử dụng vốn tự có ít nhất nhưng mang lại hiệu quả cao nhất vì nếu doanh nghiệp chỉ góp một phần nhỏ trong toàn bộ vốn hoạt động thì rủi ro trong kinh doanh chủ yếu do người cho vay gánh chịu. Trong khi đó doanh nghiệp nắm phần lợi rõ rệt vì chỉ bỏ ra một số vốn ít nhưng lại được quyền sử dụng một lượng tài sản lớn mà không phải chia sẻ quyền kiểm soát. Đặc biệt khi mà hoạt động của doanh nghiệp đang phát triển lãi thu được trên tiền vay lớn hơn lãi suất tiền vay, thì doanh nghiệp càng vay càng hiệu quả và khi đó rủi ro đến với người cho vay càng lớn.
Ngân hàng luôn muốn mở rộng cho vay nhất là với các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả song nếu cho vay quá nhiều ngân hàng sẽ trở thành người đỡ đòn rủi ro cho doanh nghiệp. Do đó khi phân tích ngân hàng cần quan tâm đến cơ cấu vốn của doanh nghiệp.
*Tỷ số nợ = Nợ phải trả/Tổng nguồn vốn của DN
Hoặc
* Tỷ số tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu/ Tổng nguồn vốn của DN
Tỷ số này cho biết tổng số vốn của doanh nghiệp chiếm bao nhiêu trong tổng số vốn mà doanh nghiệp đưa vào sản xuất kinh doanh. Tỷ số này càng lớn càng tốt, càng có sự bảo đảm cao cho các khoản nợ, nhất là khi doanh nghiệp bị đặt vào tình trạng thanh lý tài sản thì vốn tự có này để bù đắp phần thiếu hụt phát sinh khi chuyển nhượng tài sản.
* Tỷ số nợ dài hạn = Số nợ dài hạn/Nguồn vốn chủ sở hữu
Tỷ số này cao phản ánh doanh nghiệp phụ thuộc nhiều vào chủ nợ, đó là cấu trúc vốn mạo hiểm. Tỷ số này càng cao thì an toàn trong đầu tư càng giảm. Theo kinh nghiệm ở một số nước, người cho vay chỉ chấp nhận tỷ số này < 1. Nghĩa là tỷ số này càng gần 1 doanh nghiệp càng ít khả năng được vay vốn dài hạn.
* Tỷ số tài trợ TSCĐ = Nguồn vốn dài hạn/Giá trị TSCĐ
Tỷ số này luôn phải lớn hơn 1 mới mang lại cho doanh nghiệp sự ổn định và an toàn tài chính. Tỷ số này nhỏ hơn 1 có nghĩa doanh nghiệp đang dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư dài hạn. Tình hình tài chính của doanh nghiệp không bình thường, việc cho DN vay vốn đầu tư lúc này là quá mạo hiểm.
2.3.2. Xem xét khả năng trả nợ của doanh nghiệp.
Khả năng sinh lời là yếu tố chính đo độ bền kinh tế và tài chính của doanh nghiệp, là điều kiện cho sự phát triển trong tương lai của doanh nghiệp. Không có sinh lời hoặc khả năng sinh lời thấp doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển, đồng thời khả năng sinh lời là một trong các nguồn trả nợ chính cho các khoản vay dài hạn. Vì vậy ngân hàng luôn quan tâm đến chỉ tiêu này.
Khả năng sinh lời của doanh nghiệp được đánh giá qua nhiều chỉ tiêu. Có thể xem 3 chỉ tiêu chính sau:
Tỷ suất lợi nhuận
=
Lợi tức sau thuế
Doanh thu
Doanh thu thuần
Tỷ suất lợi nhuận
=
Lợi tức sau thuế + Lãi phải trả về tiền vay
Tổng tài sản
Tổng tài sản
Tỷ lệ sinh lời của tổng tài sản:
=
Lợi tức sau thuế + Trả lãi tiền vay
Tổng tài sản
Nếu như tỷ suất lợi nhuận doanh thu đo lường hiệu quả hoạt động chung của doanh nghiệp thì tỷ suát lợi nhuận tổng tài sản đo lường thành tựu của doanh nghiệp trong sử dụng tài sản để sáng tạo ra thu nhập một cách độc lập với những hoạt động tài trợ cho những tài sản đó, còn tỷ lệ sinh lời của vốn thường xuyên cho thấy khả năng sinh lời của vốn sử dụng lâu dài trong doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có khả năng sinh lời cao thì rủi ro mất khả năng chi trả càng thấp.
Để đánh giá khả năng trả nợ của doanh nghiệp còn có thể được xem xétt qua các tỷ số sau:
Khả năng hoàn trả nợ vay.
=
Vay dài hạn.
Khả năng tự tài trợ.
Vì nguồn vốn vốn trả nợ dài hạn là khả năng tự tài trợ (Lợi nhuận + khấu hao). Tỷ số này nêu lên thời hạn lý thuyết tối thiểu cần thiết để hoàn trả toàn bộ vốn vay. Tỷ số này càng nhỏ càng tốt.
Khả năng thanh toán lãi:
=
Lãi tức trước thuế + Lãi phải trả của khoản nợ dài hạn
Lãi phải trả của khoản nợ dài hạn.
Tỷ số này thường được tính để đánh giá độ an toàn của việc hoàn trả nợ. Số tiền thu được trước khi trả lãi lợi tức và các khoản tiền lãi cố định là số tiền để sẵn sàng để thanh toán tiền lãi cho các khoản nợ vay dài hạn. Thông thường khả năng thanh toán lãi được xem là an toàn, hợp lý nếu doanh nghiệp tạo ra khoản thu nhập gấp hơn hai lần khoản lãi cố định phải trả hàng năm.
Trên đây là một số chỉ tiêu tính toán nhưng cũng như khi ta thẩm định tài chính doanh nghiệp, điều quan trọng là tính chính xác của số liệu. Cái khó ở đây là cơ sở của số liệu lấy từ Báo cáo tài chính của doanh nghiệp nhưng báo cáo chỉ phản ánh các sự kiện tài chính trong quá khứ trong khi ta lại quan tâm nhiều hơn đến tình hình tài chính tương lai của doanh nghiệp. Đó là chưa nói đến một số doanh nghiệp còn vì lợi ích riêng của mình mà đưa những thông tin sai vào báo cáo. Do vậy để thực hiện tốt giải pháp này đòi hỏi trình độ của cán bộ tín dụng phải được nâng cao rất nhiều.
2.4. Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn:
Thực tế hoạt động những năm vừa qua công tác huy động vốn ở SGD có nhiều chuyển biến tích cực, vốn huy dộng có thời hạn trên một năm ngày càng chiếm tỷ trọng cao. Năm 2001,2002 nguồn vốn tự huy động đã đáp ứng được 100% nhu cầu vốn lưu động, vốn trung hạn bằng VNĐ và một phần vốn cho dài hạn. Để có nguồn vốn tương đối ổn dịnh phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, chính sách huy động vốn của SGD phải khắc phục một số điểm sau:
Thói quen sử dụng dịch vụ ngân hàng, gửi tiền vào ngân hàng của đại bộ phận dân cư chưa hình thành một cách phổ biến. Ngay cả dân cư thành thị, hoạt động ngân hàng còn xa lạ với họ.
Mạng lưới ngân hàng còn mỏng, các hình thức huy động vốn chưa đa dạng, chưa phong phú, chưa linh hoạt theo nhu cầu sử dụng và khả năng của từng bộ phận vốn nhàn rỗi.
Để có thể tiến tới đảm bảo cho toàn bộ nhu cầu vốn trung, dài hạn (cả bằng VNĐ và USD) SGD cần chú trọng phát triển các phương thức huy động đã có như tiền gửi có kỳ hạn, tiết kiệm trên một năm, kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng... Đồng thời tiến hành đẩy mạnh huy động nguồn vốn ngắn hạn (có số dư tăng và ổn định) để dành một tỷ lệ cho vay trung và dài hạn bằng việc đa dạng hoá các hình thức huy động với các điều kiện, lãi suất linh hoạt phù hợp với từng nhóm đối tượng khách hàng, với tính chất của các bộ phận vốn nhàn rỗi trong dân cư. Đổi mới triệt để phong cách phục vụ, xử lý nhanh chóng, chính xác, với giá dịch vụ thấp để cạnh tranh với các ngân hàng khác trên địa bàn để duy trì và mở rộng nguồn vốn tiền gửi của các doanh nghiệp và dân cư.
Chuẩn bị các tiền đề, các điều kiện để sớm tham gia vào thị trường chứng khoán, tăng khả năng huy động vốn từ nền kinh tế
2.5. Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng:
Chất lượng tín dụng phụ thuộc khá nhiều vào chất lượng các công việc từ khâu hoạch định chủ trương, chính sách, đến việc thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, ra quyết định đầu tư, kiểm tra sử dụng vốn vay, thu nợ... Thực tiễn cho thấy ngoài những yéu tố khách quan đem lại sự thành công hay thất bại của dự án đều có nhân tố chủ quan của con người với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ kinh tế. Đương nhiên ngoài yếu tố chủ quan cố ý vì mục đích tư lợi cũng có yếu tố do trình độ khả năng bất cập không thể hoặc chưa thể làm được.
Để có được những cán bộ ngân hàng vừa có "tâm" vừa có "tầm" chi nhánh phải coi trọng việc đào tạo và đào tạo lại lực lượng cán bộ ngân hàng là rất cần thiết và cần đặt ra những tiêu chuẩn cán bộ như sau:
Cán bộ ngân hàng phải có lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định với mục tiêu phát triển của ngân hàng đề ra. Mọi cán bộ ngân hàng phải nhận thức đầy đủ vị trí, vai trò của mình trong từng lĩnh vực công tác cụ thể, luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, có ý thức kỷ luật tốt, liêm khiết.
Phải có kiến thức nghiệp vụ chuyên môn vững vàng, nắm bắt kịp thời các chủ trương, chính sách của Nhà nước, ngành, địa phương; biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo lý luận đã học vào thực tiễn trong khuôn khổ cho phép của pháp luật. Không ngừng tự trau dồi kiến thức qua văn bản nghiệp vụ của ngành, chi nhánh, sách báo... Để từ đó có sự cập nhật những thông tin liên quan đến hoạt động của ngân hàng. Nếu không làm được những điều này cán bộ ngân hàng sẽ không kiểm soát được chất lượng công tác mà mình đảm nhận.
Như vậy ở những vị trí khác nhau những người làm công tác tín dụng cần có thêm những tiêu chuẩn cụ thể sau:
* Đối với cán bộ xây dựng chiến lược về tín dụng:
Trước hết phải là người có trình độ lý luận về nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, ngoài ra phải là người có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường, giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp phán đoán tốt và phải có khả năng dự báo. Từ đó có thể xây dựng chiến lược tín dụng phù hợp với thực tế, đảm bảo tính khả thi.
Am hiểu pháp luật vì hoạt động tín dụng liên quan đến hầu hết các ngành thuộc mọi thành phần kinh tế. Do vậy cũng liên quan đến hầu hết các ngành luật của hệ thống pháp luật trong nước và quốc tế. Đảm bảo hệ thống chính sách tín dụng không chồng chéo, các quy định phù hợp với hệ thông luật pháp.
Phải có có kiến thức ngoại ngữ, tin học vì đây là cơ sở, phương tiện để tiếp xúc, nắm bắt nhanh nhạy những sự kiện kinh tế mới phát sinh, để lường trước những biến động trong tương lai. Ngoài ra phải am hiểu về marketing ngân hàng, tuy đây là lĩnh vực khá mới mẻ ở nước ta, nhưng có như vậy chính sách tín dụng mới khai thác được triệt để khách hàng hiện có và có chiến lược khai thác khách hàng tiềm năng.
* Đối với cán bộ trực tiếp giao dịch với khách hàng:
Đây là bộ phận có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đến những phán quyết tín dụng của SGD. Do vậy, ngoài việc được đào tạo cơ bản về nghiệp vụ ngân hàng, chấp hành nghiêm túc trình tự tác nghiệp tín dụng, họ cần có thêm những tiêu chuẩn sau:
Am hiểu sâu sắc tình hình tài chính, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có khả năng dự báo xu hướng phát triển, hoặc phát hiện những rủi ro tiềm ẩn từ khoản vay, từ chính doanh nghiệp. Từ đó tham mưu kịp thời cho lãnh đạo hướng xử lý cụ thể.
Có những hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, pháp luật để tránh tình trạng ngân hàng vô tình thành kẻ tiếp tay cho một số cán bộ doanh nghiệp chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Phải có trình độ ngoại ngữ, tin học nhất định vì với xu hướng phát triển của xã hội, thì việc cập nhật thông tin mới là vô cùng quan trọng, nó là cơ sở ban đầu cho mọi phán quyết tín dụng. Hơn nữa, ngày càng nhiều nghiệp vụ tín dụng liên quan đến các công ty, ngân hàng nước ngoài do vậy nhu cầu sử dụng thành thạo máy vi tính, biết giao dịch bằng một ngoại ngữ ngày càng trở nên bức thiết.
SGD nên có kế hoạch bồi dưỡng cán bộ với những nội dung cơ bản như: Nghiệp vụ, pháp luật, tin học, ngoại ngữ... và định kỳ đánh giá nhận xét cán bộ qua đó để phân loại, xắp xếp lại cán bộ. Những cán bộ tín dụng nào không đủ tiêu chuẩn sẽ bố trí cho làm công tác khác. Cùng với việc phân loại cán bộ ngân hàng nên xây dựng chế độ thưởng, phạt công minh nhằm gắn liền lợi ích vật chất với công việc được giao, nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng.
2.6. Phát triển hệ thống thông tin:
Trong thời đại ngày nay với sự tiến bộ vượt bậc của khoa học, công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin - tin học, con người có thể khai thác được lượng thông tin vô tận trong thời gian gần như tức thời để phục vụ, hỗ trợ cho mục tiêu hoạt động của mình. Vì vậy nếu không có sự đầu tư quan tâm thích đáng đến công nghệ đầu tư thông tin - tin học thì ngân hàng sẽ rất bất lợi trong cạnh tranh khi môi trường kinh doanh ngày càng được mở rộng và trở nên thống nhất.
Những năm gần đây, ban lãnh đạo ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã giành sự quan tâm đặc biệt cho đầu tư, ứng dụng tin học phục vụ hoạt động của ngành và coi đây là một trong những biện pháp đột phá để tăng khả năng cạnh tranh, sẵn sàng hội nhập và ngày càng khẳng định vị thế của ngân hàng. Tuy nhiên ứng dụng tin học mới chủ yếu để phục vụ công tác thanh toán, kế toán, lưu trữ số liệu hoạt động kinh doanh của ngân hàng mà chưa quan tâm đúng mức đến những thông tin phục vụ tín dụng.
Như trên đã nêu tầm quan trọng của thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp mà trong đó thông tin chính xác là nền tảng của mọi phân tích, đánh giá. Trong tình hình trên việc ngân hàng tự xây dựng cho mình một hệ thống thông tin quản lý, lưu trữ và dự báo riêng là rất cần thiết. Điều đó cho phép ngân hàng có được nguồn thông tin tin cậy, nhanh chóng, do tự mình xây dựng, kết hợp các thông tin nhiều chiều khác để trợ giúp, phục vụ kịp thời yêu cầu công việc. Đây thực chất là hoạt động tổng kết trên diện rộng quá trình thực hiện đầu tư.
Nội dung: Hệ thống thông tin này phải được tiến hành thống nhất trong toàn hệ thống ngân hàng đầu tư. Tất cả cán bộ tín dụng đều có nhiệm vụ cập nhật thông tin vào mạng theo những tiêu thức thống nhất về tất cả các dự án, khách hàng ngân hàng đã thẩm định. Trước khi cho vay một dự án mới, cán bộ tín dụng chi nhánh có thể truy nhập vào hệ thống bất cứ lúc nào và đều có được thông tin cơ bản như Chủ trương đầu tư hiện tại của Nhà nước, của ngành, các chỉ tiêu, thước đo, suất đầu tư, thiết bị, công nghệ, khả năng cung cấp nguyên liệu, thị trường tiêu thụ, khả năng cạnh tranh của sản phẩm, giá thành các sản phẩm hiện tại, giá bán, so sánh với hàng nhập khẩu...
2.7.Nâng cao vai trò của công thanh tra kiểm soát
Thanh tra kiểm soát là nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng, do đó khi ngân hàng mở rộng đầu tư tín dụng thì vai trò của công tác thanh tra kiểm soát cũng phải được nâng lên với mức tương ứng.
Công tác thanh tra, kiểm soát được đề cập ở đây không đơn thuần chỉ là kiểm tra khách hàng mà quan trọng là kiểm tra thanh lọc những cán bộ tín dụng mất phẩm chất, tiêu cực, gây thất thoát tài sản và làm mất uy tín của ngân hàng.
3.Kiến nghị
Từ chỗ đầu tư tín dụng theo kế hoạch Nhà nước cho khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước là chủ yếu không có tài sản thế chấp và không có vốn tự có tham gia vào dự án chuyển sang việc đầu tư cho vay phải có tài sản làm đảm bảo, có bảo lãnh của bên thứ 3 và có vốn tự có tham gia vào dự án 50% (NĐ178/1999/NĐ-CP) mặc dù giải pháp của Chính Phủ cuối năm 2000 quy định tỷ lệ này là 30% và việc tổ chức tín dụng cho vay không có bảo đảm bằng tài sản thế chấp theo quy định của chính phủ. Với thực trạng doanh nghiệp hiện nay vốn tự có rất thấp, tình hình sản xuất kinh doanh khó khăn nên việc thực hiện đầu tư cho dự án rất khó khăn, hơn nữa việc thực hiên quy định đảm bảo tiền vay của chính phủ khó thực hiện được. Từ những lý do trên và những tồn tại rút ra từ hoạt động cho vay dự án trung, dài hạn của SGD1Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, tôi xin kiến nghị như sau:
3.1. Đối với Nhà nước
- Nhà nước cần tạo lập môi trường pháp lý đầy đủ, ổn định cho hoạt động đầu tư tín dụng của ngân hàng đối với các doanh nghiệp.
Ở nước ta Luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng mới ra đời là sự cần thiết khách quan, nhưng việc đưa luật vào cuộc sống đòi hỏi phải có sự linh hoạt và phù hợp với nền kinh tế nước ta hiện nay. Các văn bản dưới luật cần phải được ban hành đầy đủ và đồng bộ từng bước phù hợp với thực tế nền kinh tế trong từng thời kỳ, không thể áp dụng một cách máy móc - nó không những không thúc đẩy sự phát triển mà còn gây cản trở cho sự phát triển. Trước mắt cần ban hành luật kiểm toán để làm cơ sở cho việc nghiên cứu đánh giá tài chính doanh nghiệp một cách chính xác; luật về thế chấp tài sản... Sự đồng bộ, phù hợp của hệ thống pháp luật sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp hoạt động ổn định, mặt khác đảm bảo tính an toàn, hiệu quả cho hoạt động tín dụng ngân hàng.
- Nhà nước phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế. Nghĩa là Nhà nước phải xác định rõ chiến lược phảt triển kinh tế, hướng đầu tư một cách ổn định, lâu dài, ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên. Đây là điều kiện để ổn định giá trị tiền tệ, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, khuyến khích sản xuất. Trên cơ sở đó đảm bảo khả năng thu hồi vốn của ngân hàng.
- Chính phủ cần có thái độ dứt khoát sắp xếp lại các doanh nghiệp, chỉ để lại các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, thực sự cần thiết cho quốc kế dân sinh nhằm tạo điều kiện cho đầu tư có trọng điểm, hiệu quả. Đồng thời chỉ đạo các ngành, các cấp có trách nhiệm cấp đủ vốn tự có cho các doanh nghiệp này để nó có đủ khả năng cạnh tranh và vay vốn ngân hàng. Bên cạnh việc sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước phải đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khắc phục khó khăn về vốn, có nhiều cơ hội đầu tư nâng cao công suất thiết bị, mở rộng môi trường kinh doanh.
- Chính phủ nhanh chóng đánh giá tình hình hoạt động của thị trường chứng khoán trong thời gian qua, khắc phục những tồn tại, hạn chế để thị trường này hoạt động có hiệu quả. Bởi vì sự hoạt động của thị trường này sẽ đem lại tính lỏng cao cho các khoản đầu tư của Ngân hàng cũng như doanh nghiệp. Sự phát triển của thị trường chứng khoán là nơi cung cấp dồi dào nguồn vốn cho tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng và của doanh nghiệp.
- Chính Phủ phải có chính sách đẩy mạnh phát huy nội lực để chủ động hội nhập. Đây là yếu tố có tính quyết định, cần phải làm để các cấp, các ngành, các thành phần kinh tế và mọi người dân Việt Nam nhận thức đúng về hội nhập để chủ động tìm kiếm và tham gia hội nhập. Từ đó không thờ ơ hoặc không thấy rõ tính bức xúc của hội nhập, ỷ lại và trông chờ vào sự bảo hộ của Nhà nước. Các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải khai thác có hiệu quả và phát huy nội lực, đổi mới kỹ thuật công nghệ, nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, tăng tính hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường trong nước và quốc tế.
-Thành lập một tổ chức chuyên mua bán nợ nhằm giúp đữ các ngân hàng xử lý các khoản nợ không lành mạnh, xử lý tài sản thế chấp. Hoạt động chủ yếu của các tổ chức này là mua lại các khoản nợ “có vấn đề” của ngân hàng sau đó thực hiện các biện pháp khai thác hoặc thanh lý để thu hồi nợ. Đặc điểm của tổ chức này là họ có trình độ chuyên môn, có kinh nghiệm trong việc quản lý kinh doanh, mua bán bất động sản cùng với nhiều biện pháp khai thác, thanh lý khác nên công việc thu hồi nợ sẽ được tiến hành một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn để ngân hàng tự làm.
-Thành lập cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm doanh nghiệp. Cơ quan này sẽ có trách nhiệm thu thập, xử lý, phân tích thông tin về tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có đăng ký để tiến hành đánh giá, xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp đó. Trên cơ sở bảng tín nhiệm các doanh nghiệp của các tổ chức này, các NHTM sẽ có được những đánh giá chính xác về doanh nghiệp vay vốn. Để đảm bảo hiệu quả hoạt động của tổ chức này, Chính phủ có thể quy định bắt buộc chỉ có những doanh nghiệp nào có đăng ký tại cơ quan xếp hạng tín nhiệm mới được ngân hàng xxem xét cho vay vốn. Bằng cách làm này, các doanh nghiệp sẽ phải tự giác tham gia đăng ký xếp hạng để có đưopực giấy chứng nhận nếu muốn vay vốn ngân hàng. Ngoài tác dụng giúp đỡ ngân hàng trong việc thẩm định khách hàng, hoạt động của tổ chức này còn tạo động lực thúc đẩy các doanh nghiệp tự hoàn thiện, nâng cao nănng lực tài chính; năng lực sản xuất kinh doanh; uy tín của mình để có được vị trí xếp hạng cao. Đó cũng là một cách để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài.
Giải quyết được những vấn đề trên chính là một trong những nhân tố tiên quyết tạo nên năng lực cạnh tranh dài hạn, tăng sức mạnh của các doanh nghiệp và cũng chính là sức mạnh của nền kinh tế, là nền tảng vững chắc cho hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng, hoạt động ngân hàng nói chung. Ngân hàng vững vàng cùng doanh nghiệp của mọi thành phần kinh tế chủ động hội nhập khu vực và quốc tế.
3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước.
Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho các ngân hang thương mại. Thông tin được nói ở đây không chỉ là những thông tin về doanh nghiệp mà còn là những thông tin có tính chất định hướng cho hoạt động của các NHTM. Những thông tin về doanh nghiệp sẽ được thu thập và cung cấp qua trung tâm thông tin tín dụng của NHNN(CIC), bao gồm thông tin về khả năng tài chính, hiệu quả kinh doanh, hệ số an toàn vốn, quan hệ tín dụng của khách hàng với các NHTM, với các doanh nghiệp khác. Đây sẽ là căn cứ đáng tin cậy để các NHTM sử dụng trong quá trình thẩm định khách hàng.
Cùng với thông tin về các doanh nghiệp, NHNN còn phải nắm vững để cung cấp cho các ngân hàng thương mại những thông tin về phương hướng nhiệm vụ, mục tiêu quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế của đất nước, của từng vùng, từng khu vực trong từng thời kỳ; tư vấn cho các ngân hàng thương mại về những lĩnh vực, những nhóm ngành mũi nhọn cần tập trung đầu tư vốn tín dụng nhằm góp phần thực hiện những chủ trương đường lối phát triển chung, đồng thời phát huy hiệu quả đồng vốn, bảo đảm an toàn tín dụng cho các NHTM.
Ngân hàng Nhà nước cần tăng thêm quyền tự chủ cho các ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng thương mại. Sụ quản lý của NHNN chỉ nên dừng lại ở những vấn đề vĩ mô, những vấn đề chung nhất mang tính định hướng chứ không nên đưa ra những quy định quá cụ thể, chi tiết liên quan đến những vấn đề mang tính đặc thù riêng của mỗi ngân hàng, bởi lẽ điều kiện hoạt động của các NHTM không giống nhau nếu đưa ra những quy định cụ thể áp dụng chung cho mọi ngân hàng thì sẽ gây khó khăn cho các ngân hàng trong việc thích ứng với môi trường kinh doanh cụ thể của mình.
Thực hiện rà soát sửa đổi lại các văn bản hướng dẫn, quy định nhằm đáp ứng với xu hướng hội nhập và phù hợp với thông lệ quốc tế.
3.3. Đối với ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam
Có kế hoạch đào tạo nâng cao trình độ mọi mặt của cán bộ tín dụng qua các đợt học tập tập trung ngắn hạn về từng chuyên đề cụ thể như thẩm định dự án, phân tích tài chính doanh nghiệp, các văn bản luật liên quan đến ngân hàng.
Nâng mức uỷ nhiệm trong việc giải quyết cho vay dự án trung, dài hạn ở chi nhánh, qua đó nâng cao hơn trách nhiệm và tạo chủ động linh hoạt cho chi nhánh giải quyết.
Xây dựng hệ thống thông tin toàn ngành qua mạng phục vụ công tác thẩm định dự án .
Xây dựng hệ thống các tiêu thức để phân loại, đánh giá khách hàng theo từng ngành kinh tế thống nhất. Căn cứ vào đó các chi nhánh xây dựng chiến lược khách hàng phục vụ nhu cầu kinh doanh của mình.
3.4. Đối với Sở giao dịch1
Nâng cao hơn nữa vai trò tư vấn của ngân hàng trong lĩnh vực thẩm định dự án. Từ đó có thể tìm kiếm các dự án có hiệu quả để cho vay.
Chủ động nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng qua việc học các văn bản, chế độ mới ban hành.
Trong thời gian tới trong khi chờ ngân hàng Trung ương thiết lập và triển khai hệ thống thông tin toàn ngành SGD cần đặc biệt chú ý tới công tác thông tin và công tác marketing Ngân hàng. Trong đó công tác thông tin cần phải chú ý tới quá trình thu nhập thông tin, xử lý thông tin (thông tin thực sự có chất lượng).
KẾT LUẬN.
Nâng cao chất lượng cho vay nói chung và cho vay dự án đầu tư nói riêng là một vần đề vô cùng quan trọng đối với hoạt động của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, nó không chỉ là vấn đề sống còn của ngân hàng thương mại mà nó còn có ý nghĩa to lớn trong việc phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc củng cố hoàn thiện và nâng cao chất lượng cho vay dự án đầu tư là một vần đề đòi hỏi phải được thực hiện thường xuyên và nghiêm túc.
Qua nghiên cứu về công tác cho vay dự án đầu tư tại SGD1 ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam và để có cơ sở đánh giá đúng hoạt động cho vay dự án, chuyên đề này đã nêu tóm tắt khái quát về lý luận có liên quan đến hoạt động cho vay dự án của ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường, đồng thời đánh giá thực trạng cho vay tại SGD1 ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Nội dung chủ yếu đi sâu phân tích công tác thẩm định dự án, việc chấp hành qui trình tín dụng cho vay, thu nợ đối với tín dụng trung, dài hạn.
Tuy những mặt đạt được rất nhiều, song cũng còn những tồn tại khó khăn không chỉ do SGD mà còn liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành. Với kiến thức đã được trang bị ở trường và qua tìm hiểu thực tế tôi xin nêu ra một số giải pháp và đề xuất kiến nghị mong muốn sẽ góp phần giải quyết những vấn đề đang đặt ra nhằm nâng cao chất lượng cho vay dự án đối với ngân hàng thương mại nói chung và SGD1 nói riêng.
Nội dung đề tài tương đối rộng, phức tạp, mặt khác bản thân còn nhiều hạn chế cả về lý luận cũng như thực tế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Một lần nữa em rất mong được sự góp ý của các Thầy, Cô giáo, Ban lãnh đạo và các anh chị đang công tác tại SGD để chuyên đề của em được hoàn chỉnh hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO.
Đánh giá kinh tế và những phương pháp quyết định đầu tư. ( ĐHKTQD thành phố Hồ Chí Minh- NXB Mũi Cà Mau,1994).
Quyết định dự toán vốn đầu tư. ( Harold bierman, jr.& saymour smidt- NXB Thống kê, 1995).
Commercial Bank. (Petter.S.Rose).
Commercial Bank. ( Edward Reed & Edward Gill).
Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại. ( ĐHKTQD).
Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư. ( ĐHKTQD).
Giáo trình Tài chính doanh nghiệp. ( ĐHKTQD).
Văn kiện đại hội 9.
Luật ngân hàng nhà nước, luật các tổ chức tín dụng.
Tín dụng ngân hàng. ( Hồ Diệu).
Thời báo ngân hàng, thời báo kinh tế, tạp chí thị trường tài chính tiền tệ số ra các năm 2000,2001,2002.
Báo cáo thường niên SGD &BIDV các năm 2000,2001,2002.
Các tài liệu khác.
NHẬN XÉT CỦA CƠ QUAN THỰC TẬP
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng hoạt động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho vay dự án đầu tư tại Sở giao dịch 1 ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.doc