Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế

Thực hiện cải cách hành chính trong khâu nhận thủ tục và cấp giấy phép đầu tư. Khi nhận các dự án đầu từ và cấp phép phải xem xét thật kỹ hiệu quả kinh tế mà dự án đó mang lại trong ngắn hạn và dài hạn. Chúng ta đang rất cần vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế nhưng cũng phải lựa chọn công nghệ và dự án kèm theo tiêu chí môi trường và phát triển bền vững. Không nên lựa chọn các dự án tuy có mức đầu tư lớn nhưng lại là công nghệ cũ và tác hại đến môi trường, dự án phải hài hòa với mục tiêu quy hoạch phát triển của từng vùng và của cả nước. Thủ tục đăng ký kinh doanh và cấp phép sau khi đã được chấp thuận thì cần phải rút ngắn thời gian thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tránh trường hợp chồng chéo thủ tục giữa các bên làm kéo dài thời gian đang ký và gây phiền hà tốn kém cho các nhà đầu tư. Hiện nay, Thông tư 66/2010 hướng dẫn việc xác định giá cho các giao dịch đã ra đời nhưng văn bản hướng dẫn cụ thể các mức phạt hay các hình thức xử phạt cụ thể vẫn chưa cụ thể rõ ràng. Thiết nghĩ, Chính phủ cần ban hành qui chế xử phạt cụ thể cho các trư ờng hợp phát hiện hành vi chuyển giá, phổ biến rộng rãi cho mọi thành phần kinh tế và nhà đầu tư đều biết và chấp hành. Việc cụ thể hóa hình thức phạt và mức phạt sẽ tạo nên sư công bằng và hiệu quả trong công tác kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm đồng thời giảm các tiêu cực có thể xảy ra trong công tác kiểm tra. Dựa vào kinh nghiệm của các quốc gia khác thì Việt Nam có thể xây dựng cho mình một tỷ lệ phạt cho các trường hợp thực hiện hành vi chuyển giá. Tương tự như mức phạt tại Mỹ thì Việt Nam có thể áp dụng như sau: Khi cơ quan thuế xem xét các nghiệp vụ chuyển giao tại MNC trên cơ sở áp dụng các phương pháp xác định giá thị trường theo hướng dẫn tại Thông tư 66/2010, nếu phát hiện có sai biệt giữa giá doanh nghiệp kê khai với giá thị trường, đồng thời doanh nghiệp không chứng minh được lý do hợp lý của sự sai biệt này thì cơ quan thuế có thể áp dụng mức phạt từ 25% đến 45% tùy theo mức độ sai lệch lớn hay nhỏ. Trường hợp cơ quan thuế xem xét sự khác biệt này dựa vào lợi nhuận sau khi áp dụng các phương pháp căn bản so sánh lợi nhuận của doanh nghiệp với lợi nhuận bình quân ngành thì có thể đưa ra một tỷ lệ phạt sao cho phù hợp, đồng thời phải đảm bảo tính răn đe cho các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp có đầy đủ chứng từ hợp pháp để chứng minh sự khác biệt về giá cả là hợp lý thì doanh nghiệp sẽ không bị xử lý phạt 3.3 Thông qua các nguồn tài trợ Nâng cao tỉ lệ sở hữu nội địa ở các công ty con của MNCs Việt Nam: chúng ta cần tạo điều kiện rộng rãi cho các MNCs FDI Việt Nam thu hút vốn qua kênh thị trường chứng khoán, và dần dần tiến đến dạng MNCs Việt Nam hóa, khi đó công ty con hoạt động ở Việt Nam, chi có công nghệ và bản quyền là của công ty mẹ. Công ty mẹ sẽ hưởng tiền phí và phần cổ tức trên lượng cổ phần đóng góp. Như vậy thì vì quyền lợi của các cổ đông ở Việt Nam, các MNCs FDI Việt Nam sẽ hạn chế hiện tượng chuyển giá để tránh thuế. Tuy nhiên đây là m ột quá trình lâu dài và đòi hỏi nhiều chiến lược thích hợp.

doc34 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3452 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyển giá trong hoạt động đầu tư quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ư (MNC) là nếu hành vi chuyển giá bị phát hiện thì các MNC sẽ bị thực hiện chế tài phạt về hoạt động chuyển giá tuỳ theo mức độ vi phạm và theo quy định về chống “chuyển giá” của từng quốc gia. Hình thức phạt có thể là phần trăm áp dụng trên số thuế phải nộp hoặc phạt chuyển giá bằng mức thuế bổ sung cho những điều chỉnh vượt ngoài phạm vi mục tiêu, phạt trên số thuế trốn tránh được. - Kết quả hạch toán của từng công ty con của tập đoàn không phản ánh thực chất kết quả hoạt động kinh doanh, cho nên từng công ty thiếu cơ sở thực tiễn tin cậy để xây dựng chiến lược kinh doanh cho chính mình. - Phân tích hoạt động tài chính của tập đoàn phức tạp vì chính sách thuế, chi phí của từng nước thay đổi dẫn tới chiến lược “chuyển giá” của công ty thay đổi. b. Đối với nước xuất khẩu vốn đầu tư (nơi có công ty mẹ của các tập đoàn đa quốc gia): Khi các khoản thuế VAT, thuế TNDN, thuế nhập khẩu ở nước xuất khẩu vốn cao hơn ở nước nhập khẩu vốn, nếu không xét đến các yếu tố khác thì nước được lợi hơn là nước quy định mức các loại thuế thấp. Cụ thể việc nâng giá chuyển giao từ công ty con sang công ty mẹ, lợi nhuận được núp bóng dưới các hình thức nâng giá nguyên vật liệu, trả phí đơn vị, tư vấn… sẽ chạy từ công ty mẹ ra nước ngoài sang các công ty con vì nơi đây có mức thuế thấp. Hình thức này làm cho nước có nhà đầu tư xuất khẩu vốn thất thu một khoản thuế do hoạt động “chuyển giá” của các MNC gây ra. c. Đối với nước tiếp nhận đầu tư (nơi có các công ty con của các tập đoàn đa quốc gia): - Trong một số trường hợp, công ty mẹ bán giá nguyên liệu rẻ, hỗ trợ tiền quảng cáo, chi phí tiếp thị… cho các công ty con, để các công ty con ở nước ngoài này sản xuất sản phẩm với giá thành thấp, nhờ đó mà chiếm lĩnh thị trường, loại đối thủ cạnh tranh là những nhà sản xuất nội địa cùng ngành hàng ra khỏi thị trường. Và khi đã độc quyền thì các công ty con mới nâng giá lên cao đạt được lợi nhuận siêu ngạch, lúc bấy giờ công ty mẹ mới nâng giá nguyên vật liệu đầu vào lên cao để chuyển lợi nhuận về nước. - Mặt khác, khi các MNC bán hàng hóa, nguyên liệu, dịch vụ với giá cao cho các công ty con ở nước ngoài, khiến lượng ngoại tệ thực chất là tiền lời của các công ty con được chuyển về công ty mẹ, làm cho lượng ngoại tệ (vốn) rời khỏi quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư, tác động xấu đến hoạt động vĩ mô của quốc gia tiếp nhận đầu tư. Tóm lại, hoạt động “chuyển giá” của các công ty đa quốc gia trong nhiều trường hợp làm cho nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ, sức cạnh tranh yếu bị phá sản, tác động tiêu cực đến nền kinh tế - xã hội của nước tiếp nhận đầu tư. Nhiều nhà kinh tế trên thế giới nghiên cứu nghiêm túc hiện tượng “chuyển giá” trong đầu tư quốc tế đã đưa ra kết luận: tác động tiêu cực lớn hơn, nhiều hơn so với lợi ích do chuyển giá mang lại cho nước xuất khẩu vốn, lẫn nước nhập khẩu vốn. Vì vậy, chính phủ các nước đã và đang tìm các giải pháp chống “chuyển giá” trong đầu tư quốc tế. Kinh nghiệm chống chuyển giá của một số nước trên thế giới. Như ta đã biết, hiện tượng chống “chuyển giá” đã xuất hiện từ lâu trên thế giới – khi các công ty đa quốc gia hình thành mạng lưới trên toàn cầu. Tuy nhiên, luật chống chuyển giá chỉ xuất hiện khoảng hơn một thập kỉ trở lại đây mà thôi. Dựa vào các cơ sở phân tích như trên, ta đi tóm lược lại một số nguyên nhân dẫn đến hiện tượng Chống chuyển giá như sau: Một là, tác hại của thủ thuật chuyển giá không chỉ là ngân sách nhà nước bị mất đi một khoản thuế lớn, mà hàng năm chúng ta còn phải cân đối một lượng ngoại tệ không nhỏ cho việc nhập về những máy móc, nguyên liệu cao hơn giá trị thực của nó. Hai là, nguy hiểm hơn, nó còn tạo ra một mội trường kinh doanh cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp trong nước. Ba là, khi tình trạng thua lỗ ảo kéo dài, trong liên doanh bị kiệt sức và rút vốn, nhường sân cho đối tác là những dẫn dắt cho tình trạng thôn tính của những doanh nghiệp nước ngoài, cá lớn nuốt cá bé. Chính vì vậy, luật chống chuyển giá ra đời trong hơn một thập kỉ trở lại đây phần nào hướng dẫn và kiểm soát hiện tượng chuyển giá của các tập đoàn đa quốc gia. Tuy không mang tính triệt để nhưng góp phần giảm thiểu lượng vốn thất thoát ra nước ngoài của các quốc gia trên thế giới. Dưới đây, ta đi nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước điển hình trên thế giới để từ đó có những đánh giá và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong giai đoạn phát triển hội nhập. Kinh nghiệm chống Chuyển giá của Hoa Kỳ Năm 1998, Hoa Kỳ ban hành đạo luật IRS ( Internal Revenue Service) section 482 dựa trên nguyên tắc giá thị trường đề làm cơ sở xác định giá chuyển giao giữa các MNC’s. 4.1.1 Định nghĩa định giá chuyển giao: Là việc sử dụng các phương pháp để xác định giá cả của các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ trong một MNC phù hợp với thông lệ quốc tế và được chấp nhận bởi các quốc gia mà có các công ty con của công ty MNC đang hoạt động. Việc xác định giá chuyển giao là cần thiết cho công tác quản trị của các công ty thành viên trong MNC’s, nhưng khi giá chuyển giao nội bộ cao hoặc thấp hơn giá thị trường thì xảy ra hoạt động chuyển giao. Do vậy, nguyên tắc giá thị trường là cơ sở rất quan trọng cho việc xác định giá cả chuyển giao giữa công ty mẹ, công ty con. 4.1.2 Các phương pháp định giá chuyển gia trong IRS section 482: Phương pháp tự do có thề so sánh được (Comparable Uncontroller Price – CUP): phương pháp này dựa vào đơn giá sản phẩm, được áp dụng trong trường hợp giao dịch độc lập có điều kiện tương đương với giao dịch liện kết. Tuy nhiên, khi đi vào thực tế thì phương pháp này lại không phát huy được hiệu quả khi xác định giá chuyển giao của các tài sản hữu hình, vì công ty phải xuất trình rất nhiều tài liệu mà những tài liệu này rất khó để kiểm chứng tính trung thực của nó Phương pháp giá bán lại (Resales Price Method): phương pháp này áp dụng trong trường hợp không có giao dịch mua tương đương, không có thêm công đoạn gia công, lắp ráp làm tăng giá trị hàng hóa. Phương pháp chi phí vốn cộng thêm ( Cost plus Method): Phương pháp này được lựa chọn khi giao dịch liện kết thuộc khâu sản xuất khép kín để bán cho các bên liên kết hoặc cung ứng đầu vào và bao tiêu đầu ra cho bên liên kết. Hai phương pháp giá bán lại và chi phí vốn cộng thêm được sử dụng rất rộng rãi ở Mỹ vì doanh nghiệp dễ xuất trình các tài liệu khi được đòi hỏi và cũng không quá phức tạp khi thu thập các thông tin và tài liệu Phương pháp chiết tách lợi nhuận (Profit Slipt Method): Phương pháp này cho phép tính ra thu nhập thuần trước thuế, là cơ sở để tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Phương pháp này ở Mỹ là dễ ứng dụng nhất và ít tốn kém nhất nhưng độ tin cậy của nó thì không cao. Phương pháp chiết tách lợi nhuận có thể so sánh được ( The Comparable Profit Method): Các bên liên kết cùng thực hiện một giao dịch liên kết tổng hợp. Được mệnh danh là cường quốc số 1 về kinh tế của thế giới, những kinh nghiệm về Chống Chuyển giá của Hoa Kỳ tạo ra tiền đề cũng như cơ sở để các nước áp dụng vào tình hình thực tế của đất nước. Từ bài học ấy, có thể rút ra được là: Phải hoàn thiện các văn bản pháp luật nhằm đặt ra cơ sở pháp lý cho việc phát hiện ra và phạt hiện tượng chuyển giá Tùy vào từng trường hợp mà áp dụng các phương pháp định giá chuyển giao phù hợp, có thể kết hợp nhiều phương pháp để xác định hiện tượng chuyển giá. Coi trọng công tác lưu trữ tài liệu tài chính của các công ty đa quốc gia để theo dõi một cách có hệ thống. Song song đó, tuyển chọn, đào tạo về nghiệp vụ và trình độ nhân viên thuế của các cơ quan quản lý để có nghiệp vụ giỏi, đối thoại với các đại diện tài chính của các công ty đa quốc gia nhằm phát hiện ra một cách thuyết phục các hành vi chuyển giá của các công ty này. Kinh nghiệm chống chuyển giá của Trung Quốc Tiếp theo, ta đi nghiên cứu thêm kinh nghiệm về Chống chuyển giá của một nước ở châu Á để có cái nhìn cận cảnh và dựa trên nhiều điểm tương đồng về hoàn cảnh lịch sử, địa lý vói Việt Nam. Và đất nước chúng ta quan tâm ở đây là Trung Quốc. Lựa chọn này dựa trên mấy cơ sở tiêu biểu như sau: Trung Quốc và Việt Nam cùng là nước Á Đông. Có rất nhiều năm có cùng thể chế, chính sách giống nhau, cùng có xuất phát điểm như nhau là đi theo con đường phát triển XHCN, và hiện nay thì đang trong quá trình phát triển theo nền kinh tế thị trường với sự tham gia điều tiết và quản lý kinh tế của nhà nước. Năm 1998, Trung Quốc cũng đã xây dựng luật chống chuyển giá dựa theo hướng dẫn của OECD, cũng lấy nguyên tắc giá thị trường là cơ sở để xác định giá chuyển giao tương tự như Hoa Kỳ. Tuy nhiên, luật chống chuyển giá của Trung Quốc có một số điểm khác biệt như sau: Thứ nhất, Cơ chế hạch toán thuề đối với các nhà đầu tư nước ngoài không thống nhất trên toàn bộ lãnh thổ Trung Quốc. Điều này có nghĩa là sao? Nghĩa là Chính phủ Trung quốc sẽ xem xét, vùng nào cần đầu tư mạnh thu hút nhiều vốn FDI để phát triển thì sẽ có rất nhiều chính sách ưu đãi về thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài, chẵng hạn như những vùng Tứ Xuyên và các tỉnh phía Tây Trung quốc, ngược lại họ sẽ thắt chặt quản lý ở những thành phố có sự đầu tư FDI ồ ạt, như ở Bắc Kinh, Thượng Hải…Như vậy, họ sẽ có thể vừa thu hút được FDI, mà vẫn có thể vừa điều tiết được nó và vẫn kiểm soát được tình hình “Chuyển giá” Thứ hai, ngoài việc sử dụng các phương pháp định giá chuyển giao để chống “Chuyển giá” người ta còn sử dụng đồng thời cả thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu…để hạn chế hoạt động chuyển giá của các MNC’s. Thứ ba, theo nghiên cứu mới nhất của KPMG cũng có đề cập rằng, thuận lợi trong công tác chống chuyển giá của Trung Quốc là việc được hỗ trợ các phần mềm, máy tính…để lưu trữ các dữ liệu phục vụ cho việc theo dõi, giám định, phát hiện các hành vi chuyển giá chẳng những của các MNC’s mà còn có cả các công ty nội địa. Thứ tư, Cơ quan thuế Trung quốc áp dụng phương pháp định giá chuyển giao là phương pháp chiết tách lợi nhuận, tính ra thu nhập thuần của doanh nghiệp nhằm phát hiện ra hiên tượng “chuyển giá”. Thứ năm, Trung Quốc thực hiện kiểm toán mang tính bắt buộc và thường xuyên, các đối tượng có khả năng vi phạm “Chuyển giá”. Do vậy, phần nào hạn chế được tình trạng chuyển giá tràn lan như những năm của thập kỉ trước. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA DOANH NGHIỆP FDI TẠI VIỆT NAM 2.1 Tình hình thu hút vốn đầu tư FDI tại Việt Nam 2.1.1 Giai đoạn 1998-2003 Giai đoạn từ năm 1988 đến năm 1996: Đây là giai đoạn đầu tiên thực hiện mở cửa thu hút, kêu gọi đầu tư. Năm 1988 cũng là năm đầu tiên thực hiện luật đầu tư nước ngoài, ngay năm 1988 chúng ta đã thu hút được 37 dự án đăng ký với số vốn là 371,8 triệu USD. Sau hai năm thì số dự án được cấp phép hoạt động đã lên tới 107 dự án với tổng số vốn là 839 triệu USD, tốc độ tăng thu hút vốn tăng cao và quy mô vốn trung bình đạt 8,42 triệu USD/dự án. Đồng thời trong gia đoạn (1991- 1995) luật đầu tư sửa đổi kịp thời (2 lần vào năm 1990 và1992) đã bổ sung và tăng cường chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài một cách hiệu quả. Trong giai đoạn này, chính phủ đồng thời quyết định thành lập một loạt các khu công nghiệp tại các địa phương cũng đã tạo ra được một lực hút mạnh đối với FDI. Kết quả đạt được là số dự án được cấp phép đã đạt 6,24 lần tổng vốn đăng ký và gấp 9,3 lần so với thời kỳ hai năm đầu 1988 và 1989. Đồng thời trong giai đoạn này thì tổng vốn FDI cũng đạt đỉnh điểm tại năm 1996 với con số là 8 497,3 triệu USD. Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2003: Tháng 7 năm 1997 xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực, các nước chịu tác động lớn nhất của cuộc khủng hoảng này là Thái Lan, Philippines, Indonesia và Malaysia… Nước ta lại nằm ngoài “tâm bão”, đây chính là thời cơ cho việc thu hút nguồn vốn quốc tế khi mà các nước trong khu vực phải đang đối đầu với cuộc khủng hoảng kinh tế. 2.1.2 Giai đoạn 2004-2010 Đây là giai đoạn phục hồi và tăng tốc một cách nhanh chóng của việc thu hút vốn FDI. Sau khi cơn bão tài chính qua đi, kinh tế của các nước Châu Á đã vực dậy và phát triển nhanh chóng. Nền kinh tế Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Việt Nam và Trung Quốc trở thành những quốc gia có sức hút mạnh đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài, và luôn nằm trong danh sách các quốc gia dẫn đầu thu hút FDI. Năm 2006, Luật Đầu Tư và Luật Doanh Nghiệp mới ra đời đánh dấu một bước ngoặc mới và một bước tiến quan trọng trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực luật pháp. Chính phủ đã phân cấp cho chính quyền tỉnh, thành phố việc thẩm định và cấp phép. Việc này đã tạo ra sự chủ động trong việc quản lý nguồn vốn FDI tại các địa phương và quan trọng hơn là tạo ra một cuộc thi đua giữa các địa phương thực hiện việc cải cách hành chính thông thoáng, tạo ra điều kiện tốt cho môi trường đầu tư. Từ đó tăng cường việc thu hút đầu tư và tạo cho các nhà đầu tư cảm thấy thuận tiện. Kết quả của việc cải cách hành chính của các địa phương cho ta kết quả hết sức khả quan là năm 2006 đạt mức thu hút vốn 10,2 tỷ USD vượt qua mức kỷ lục năm 1996. Theo công bố của Cục Đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch và Đầu tư, thu hút đầu tư trực tiếp của nước ngoài từ đầu năm đến 21/12/2010 đạt 18,6 tỷ USD, bằng 82,2% cùng kỳ năm 2009, bao gồm: Vốn đăng ký của 969 dự án được cấp phép mới đạt 17,2 tỷ USD (Giảm 16,1% về số dự án; tăng 2,5% về số vốn so với năm trước); vốn đăng ký bổ sung của 269 lượt dự án được cấp phép từ các năm trước với 1,4 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2010 ước tính đạt 11 tỷ USD, tăng 10% so với năm 2009, trong đó giá trị giải ngân của các nhà đầu tư nước ngoài đạt 8 tỷ USD. Top các ngành thu hút FDI lớn nhất năm 2010: Cơ cấu vốn đầu tư nước ngoài TPHCM năm 2010. (Nguồn: Cục thống kê TPHCM). 2.1.3 Năm 2011 Cục Đầu tư nước ngoài vừa công bố tình hình hút vốn đầu tư nước ngoài tháng 11 năm 2011 và 11 tháng đầu năm.12,7 tỷ USD là tổng số vốn đăng ký cấp mới và tăng thêm 11 tháng đầu năm 2011 (tính đến 20/11/2011).  Hồng Kông đứng đầu danh sách đối tác cấp vốn FDI cho Việt Nam. Tổng vốn FDI khu hành chính này “rót” vào Việt Nam 11 tháng đầu năm đạt hơn 3,09 tỷ USD, chiếm 24% tổng hút vốn. Nhật Bản, Singapore, Hàn Quốc là 3 quốc gia cấp vốn FDI cho Việt Nam đạt trên 1 tỷ USD trong 11 tháng. .          Tổng hợp cả số vốn đăng ký mới và tăng thêm, trong 11 tháng năm 2011, cả nước đã thu hút được gần 12,7 tỷ USD vốn FDI, bằng 84% so với cùng kỳ. So với chỉ tiêu thu hút 20 tỷ USD vốn đăng ký trong năm nay, kết quả như trên cho thấy thực tế thu hút FDI đã khó khăn hơn rất nhiều so với dự kiến. Nhưng điểm rất đáng chú ý là thu hút vốn FDI có sự dịch chuyển sang lĩnh vực chế biến, chế tạo, thay vì bất động sản như năm trước. 2.2 Hoạt động chuyển giá của các Doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. 2.2.1 Khái quát chung Hơn 20 năm mở cửa, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã có nhữngđóng góp đáng kể vào thành tích xuất khẩu, giải quyết việc làm cho người lao động và hiện đang trở thành đầu tàu tăng trưởng về giá trị sản xuất của ngành công nghiệp. Tuy nhiên, đóng góp của khu vực kinh tế này cho ngân sách quốc gia lại khác hẳn. Sản phẩm của khu vực FDI thường được chia làm ba loại: Thứ nhất là sản phẩm trung gian. Thứ hai là sản phẩm cuối cùng nhưng được tiêu thụ ở thị trường nướcngoài theo đơn đặt hàng của công ty mẹ. Thứ ba là các sản phẩm được tiêu thụ trong nước.Với loại sản phẩm thứ nhất, các doanh nghiệp FDI thực chất là một công xưởng vớinguyên vật liệu chính được nhập khẩu, toàn bộ giá trị của sản phẩm được xuất khẩu để đi qua các công đoạn tiếp theo, từ đó mới hình thành giá bán. Như vậy, về thực chất toàn bộ hoạt động của loại doanh nghiệp này hầu như không hạch toán lợi nhuận. Việt Nam không những không thu được đồng thuế giá trị gia tăng nào mà ngược lại các doanhnghiệp FDI được hoàn thuế; thuế thu nhập doanh nghiệp cũng coi như không có vì không lợi nhuận Với loại sản phẩm thứ hai, doanh nghiệp FDI tuy có chút lãi nhưng không đáng kể. Về hạch toán lợi nhuận phía Việt Nam không được phép biết hoặc tham gia gì vì vốn của chủ doanh nghiệp nước ngoài, như vậy việc xuất khẩu được bao nhiêu cũng không đóng góp giá trị gia tăng trong GDP. Với loại sản phẩm thứ ba, tuy được tiêu thụ trong nước, nhưng hầu hết các nguyên vật liệu chính đều được nhập khẩu từ bên ngoài. Chẳng hạn như bột ngọt gần như 100%nguyên vật liệu là nhập khẩu, da cứng chiếm 83%; giày thể thao là 76%; sứ vệ sinh 74%;sơn hóa học 68,3%; bột giặt 56%... Do quá trình hạch toán lợi nhuận khép kín của các doanh nghiệp FDI, nên dù là tiêu thụ trong nước cũng được xem thực chất là nhập khẩu. 2.2.2 Các quy định, quy chế liên quan đến kiểm soát chuyển giá Thông tư 60/1996/TT-BTC: Hướng dẫn, quy định về chế độ kế toán, kiểm toán, kê khai-nộp thuế đối với DN có vốn Đầu tư nước ngoài Thông tư 74/1997/TT-BTC : hướng dẫn về thuế đối với nhà đầu tư nước ngoài Thông tư 89/1999/TT-BTC: ngày 16/07/1999 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài. Thông tư 13/2001/TT-BTC: ngày 08/03/2001 về việc hướng dẫn thực hiện quy định về thuế đối với các hình thức đầu tư theo Luật đầu tư nước ngoài. Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp sửa đổi ngày 17/06/2003 có hiệu lực từ ngày 01/01/2004 tại Điều 11 Chương III quy định: “các cơ sở kinh doanh có trách nhiệm mua bán, trao đổi và hạch toán giá trị hàng hóa, dịch vụ theo giá thị trường” Ngày 22/4/2010, Bộ Tài chính ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC quy định việc xác định giá thị trường trong giao dịch liên kết, thay thế Thông tư 117/2005/TT-BTC (có hiệu lực từ 6/6/2010). Quy định mới chủ yếu phục vụ xác định nghĩa vụ thuế thu nhập doanh nghiệp. Thông tư này hướng dẫn nội dung cụ thể, như nguyên tắc giá thị trường; phương pháp xác định giá thị trường; phân tích, so sánh và các vấn đề liên quan việc xác định giá thị trường trong giao dịch liên kết... So với Thông tư 117/2005/TT-BTC, Thông tư 66/2010/TT-BTC có một số sửa đổi quan trọng về kỹ thuật theo hướng thắt chặt quy định. Các doanh nghiệp có giao dịch liên kết đều phải tuân thủ các nghĩa vụ sau: Trước hết, doanh nghiệp phải lập và lưu trữ hồ sơ xác định giá thị trường làm bằng chứng cho việc tuân thủ nguyên tắc giá thị trường. Hồ sơ phải tại thời điểm diễn ra giao dịch và được cập nhật trong suốt quá trình diễn ra giao dịch. Như vậy, doanh nghiệp có nghĩa vụ chủ động cung cấp bằng chứng chứng minh việc tuân thủ nguyên tắc giá thị trường trong các giao dịch của mình với bên liên kết. Theo quy định, cơ quan thuế có thể ấn định thuế thu nhập doanh nghiệp và áp dụng các chế tài phạt trong trường hợp doanh nghiệp không có hoặc không thể xuất trình bộ chứng từ trong khung thời gian quy định. Doanh nghiệp phải nộp tờ khai giao dịch liên kết và các phương pháp xác định giá thị trường hàng năm theo Mẫu số 01/GCN-01/QLT, cùng tờ khai quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp. Thông tư 66/2010/TT-BTC có đưa ra một số thay đổi trong biểu mẫu, yêu cầu phải kê khai các giao dịch liên kết của mình chi tiết theo bên liên kết, tiêu chí xác định quan hệ liên kết và phương pháp định giá giao dịch liên kết. 2.2.3 Thực trạng hoạt động chuyển giá tại các doanh nghiệp FDI Theo Tổng cục Thuế, trong năm 2011 tổng số 585 doanh nghiệp FDI bị thanh tra do nghi ngờ có dấu hiệu chuyển giá trong 9 tháng đầu năm 2011, có 494 doanh nghiệp thuộc diện bị xử lý với nhiều kiểu vi phạm. Sai phạm phổ biến nhất được phát giác là hạch toán chi phí trước nhưng chưa chi; trích lập dự phòng chưa đúng quy định; chi phí không có hóa đơn, chứng từ, vượt định mức; hạch toán chi phí không phục vụ sản xuất kinh doanh; chi phí tiền lương, khấu hao không đúng quy định của Bộ Tài chính; nhập nguyên liệu giá cao nhưng bán sản phẩm giá thấp... Từ đó, nhiều doanh nghiệp lỗ kéo dài, trong khi vẫn mở rộng sản xuất. Sau khi yêu cầu hạch toán lại, các doanh nghiệp này giảm lỗ 1.544 tỷ đồng, chiếm gần 54% tổng số giảm lỗ mà Tổng cục Thuế xác định được. Cùng đó, có 104 doanh nghiệp vi phạm hạch toán không đúng lãi vay làm số lỗ phát sinh thêm 258,8 tỷ đồng. Kế hoạch thanh tra 1.276 doanh nghiệp FDI trong năm 2011 xuất phát từ cơ sở phân tích thông tin, các doanh nghiệp này có số lỗ lớn, liên tục, lỗ âm vốn chủ sở hữu nhưng vẫn đầu tư mở rộng.Gần 90% doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thuộc diện thanh tra trong 9 tháng năm 2011 bị phát hiện có dấu hiệu sai phạm về hạch toán chi phí và chuyển giá. Hiện quy định trong nước còn thiếu cụ thể về việc xác định giá thị trường cho dịch vụ giữa các bên liên kết. Điều này đặt ra thách thức đối với các doanh nghiệp khi phải chứng minh tính hợp lý của các khoản phí phải trả cho dịch vụ cung cấp nội bộ hoặc các khoản hoàn trả phí dịch vụ cho hoạt động quản lý vùng. Thông lệ quốc tế cho thấy, việc có hồ sơ chứng minh lợi ích thu được, các hoạt động cung cấp dịch vụ thực tế được thực hiện, cùng với phương pháp tính phí là cơ sở hỗ trợ việc khấu trừ chi phí đối với các khoản phí dịch vụ trả cho bên liên kết khi tính thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc sử dụng tài sản vô hình và lợi nhuận kinh doanh còn chưa nhất quán. Doanh nghiệp nên chú ý việc lý giải mức lợi nhuận đạt được với chi phí trả cho bên liên kết, liên quan đến các khoản thanh toán chi phí như tiền bản quyền cho việc sử dụng bí quyết kỹ thuật hoặc nhãn hiệu. Ví dụ, trong giao dịch giữa các bên liên kết tại các nước đang phát triển, cơ quan thuế đặc biệt quan ngại việc doanh nghiệp thanh toán quá nhiều tiền phí bản quyền, nhãn hiệu, trong khi doanh nghiệp cũng chi trả nhiều cho marketing trong nước. Sự không nhất quán giữa chính sách xác định giá nội bộ đã được ghi chép trong hồ sơ với kết quả kinh doanh thực tế. Bên cạnh đó, là tình trạng chính sách định giá không được áp dụng đúng, mặc dù được ghi chép đầy đủ vào hồ sơ. Ví dụ, trường hợp giá chuyển nhượng không được xác định theo các chính sách định giá nội bộ hoặc doanh nghiệp không điều chỉnh để đạt được mức lợi nhuận đã được hoạch định theo chính sách từ trước đó. 2.2.4 Một số hình thức chuyển nhượng giá xảy ra ở Việt Nam : Chuyển nhượng tài sản hữu hình : thực tế việc xác định giá tài sản thuộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đã có một số sai sót. Theo các cuộc giám định chính thức được công bố rộng rãi, nhiều đối tác nước ngoài cố ý khai báo cao trị giá máy móc và thiết bị đóng góp vốn ban đầu vào liên doanh so với giá trị thực. Chuyển nhượng tài sản vô hình : thực tế việc xác định giá những tài sản vô hình là một vấn đề rất phức tạp, khó xác định vì hầu hết những tài sản này đều là những tài sản mang tính độc quyền của chủ sở hữu, cho nên việc xác định giá theo nguyên tắc thị trường rất khó áp dụng. Nói một cách khác, giá chuyển nhượng những tài sản vô hình về thực chất hầu như là phụ thuộc vào sự tính toán một cách chủ quan của công ty mẹ, bởi vì quy định của Việt Nam về vấn đề này còn nhiều hạn chế, dẫn đến việc cơ quan chức năng không thể kiểm soát hết được. Chuyển nhượng trong việc cung ứng dịch vụ : về mặt lý thuyết, việc cung cấp dịch vụ giữa các doanh nghiệp liên kết liên quan đến ba trường hợp : + Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài cung cấp dịch vụ cho các doanh nghiệp có liên kết ở mức độ thấp hơn giá thị trường hoặc miễn phí. + Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài phải trả phí cao hơn giá thị trường cho các dịch vụ được cung cấp bởi doanh nghiệp liên kết. + Một sự phân bổ bất hợp lý các khoản chi phí quản lý chung của công ty mẹ cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Chuyển nhượng đối với tài trợ các nghiệp vụ : khi một doanh nghiệp đầu tư nước ngoài vay vốn từ một bên liên kết (một công ty con khác hoặc công ty mẹ) và được tính một mức lãi suất cao hơn mức lãi suất bình thường của thị trường đối với một khoản nợ cùng loại. Chuyển nhượng đối với nguyên liệu nhập khẩu : các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài có thể định giá thấp các mặt hàng nhập khẩu trước năm 1996, khi mà các mức thuế nhập khẩu vẫn còn ở mức cao, nhưng có thể định giá cao các mặt hàng này sau đó khi mà các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài được hưởng các ưu đãi về thuế và các mức thuế suất này dần dần được giảm. Quy định về thuế và các giá phí theo hiệp định : theo quy định tại điều 9 của hiệp định tránh đánh thuế hai lần, khi các nghiệp vụ kinh tế xảy ra giữa hai xí nghiệp liên kết ký kết các hợp đồng mua, bán, trao đổi hàng hóa, cung cấp dịch vụ, chuyển giao công nghệ, hợp đồng tín dụng, thanh toán tiền lãi cổ phần, lãi từ tiền cho vay thực hiện trên cơ sở giá thị trường như áp dụng trong trường hợp các nghiệp vụ kinh tế giữa hai doanh nghiệp độc lập, cơ quan thuế của một nước sẽ có quyền tính toán và ấn định lại giá cả ghi trên các hợp đồng phù hợp với giá cả thực tế trên thị trường để xác định lợi tức chịu thuế của một doanh nghiệp tại nước ký kết đó. 2.2.5 Một số ví dụ điển hình 2.2.5.1 Chuyển giá thông qua việc mua bán nguyên vật liệu sản xuất, bán thành phẩm hay thành phẩm “Vừa rồi, chúng tôi phát hiện một DN FDI tại Lâm Đồng, làm xuất khẩu chè. Đây là một DN đến từ Đài Loan, cũng lỗ 9-10 năm nay, thậm chí, số lỗ gấp 2-3 lần vốn điều lệ. Thế nhưng thực tế thì DN này vẫn đầu tư, phát triển. Giá xuất khẩu chè của DN đó sang Đài Loan còn thấp hơn cả giá thành. Đó là điều rất vô lý. Nhưng khi kiểm tra sổ sách chứng từ của họ thì lại đầy đủ cả. Có thể, ở Bình Dương, Đồng Nai cũng có tình trạng này.” (Theo Phạm Duy Khương – Phó tổng cục trưởng tổng cục Thuế ) Theo báo cáo kết quả sản xuất kinh doanh của công ty Coca – cola tại VN năm 1998, xem xét tỷ trọng chi phí nguyên vật liệu chiếm trong tổng chi phí thì chi phí nguyên vật liệu chiếm tới 60,14% trong tổng chi phí. Khi so sánh với doanh thu thì chi phí nguyên vật liệu chiếm 66,82%. Nếu đem tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu so với doanh thu và chi phí tại công ty Coca Cola so sánh với các công ty trong cùng ngành sản xuất nước giải khát thì tỷ lệ này quá cao và không phù hợp với đặc điểm và tỷ suất lợi nhuận của ngành này. Trong đó, hơn 40% nguyên vật liệu là được nhập từ công ty mẹ ở nước ngoài. Liên tục từ năm 1996 – 1998, Coca Cola Việt Nam báo lỗ Vào thời điểm mà giá bán một két bia Foster’s được công ty bia Foster’s Việt Nam bán cho các đại lý là 240.000 đồng/két với thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt cho bia chai là 75% thì mỗi két bia phải đóng thuế tiêu thu đặc biệt là:102.857 VND. Chủ đầu tư Foster’s tại Việt Nam đã quyết định thành lập thêm một công ty TNHH Foster’s Việt Nam. Công ty này có nhiệm vụ chuyên thực hiện nhiệm vụ tiêu thụ sản phẩm do hai nhà máy bia Foster’s sản xuất ra. Giá bán một két bia Foster’s của hai nhà máy bia cho công ty TNHH Foster’s Việt Nam chỉ là 137.500 VND. Thuế TTĐB 58.929 VND, thuế GTGT là 11.429 VND.Như vậy tổng cộng số thuế tiêu thụ đặc biệt và thuế giá trị gia tăng mà chủ đầu tư phải nộp trong trường hợp chủ đầu tư thành lập thêm công ty TNHH Foster’s Việt Nam cho mỗi két bia là 58.929 VND + 11.429 VND = 70.358 VND. Nếu chúng ta đem so sánh tổng số tiền thuế phải nộp của chủ đầu tư trước và sau khi thành lập công ty TNHH Foster’s Việt Nam thì chúng ta có thể thấy là chủ đầu tư đã tiết kiệm được một khoản tiền thuế phải nộp là 32.499 VND (tương đương 31,60%). 2.2.5.2 Chuyển giá thông qua các TSCĐ hữu hình: Công ty Liên doanh gia cầm Việt Thái đi vào hoạt động với phần vốn góp của đối tác Thái Lan là dây chuyền giết mổ, giá trị thực tế của dây chuyền này được thẩm định chỉ có 400.000 USD. Nhưng khi tham gia góp vốn bên đối tác Thái Lan đã kê khai khống nâng giá trị vốn góp của dây chuyền này lên đến 600.000 USD. Giá trị vốn góp nâng lên chiếm đến 50% giá trị thật của dây chuyền giết mổ. Ngay khi góp vốn nếu máy móc này được mua từ công ty mẹ thì đối tác nước ngoài đã chuyển 200.000 USD này về cho công ty mẹ. Và nếu máy móc này được khấu hao theo đường thẳng trong 10 năm thì mỗi năm chi phí khấu hao tăng thêm do phần định giá nâng lên là 20.000 USD một năm. Thuế suất hiện nay là 25% thì Chính phủ Việt Nam mỗi năm mất thêm 5.000 USD tiền thuế TNDN. 2.2.5.3 Chuyển giá thông qua việc mua các TSCĐ vô hình: Ban đầu liên doanh Mecedes- Benz (Đức) trước khi đàm phán đòi chi phí bản quyền chuyển giao công nghệ là 42 triệu USD. Do có khấu hao tài sản vô hình nên nếu như hợp đồng này thành công, phía Đức sẽ chuyển giao được về nước một số tiền rất lớn. Tuy nhiên, sau khi phía Việt Nam đàm phán lại giảm xuống chỉ còn 9,6 triệu USD; giảm đi 77% so với chi phí ban đầu. Tức là giá trị của tài sản này bị đội lên rất nhiều. Vào năm 1987, Công ty IBM trình báo cáo tài chính hàng năm trước đại hội cô đông thì hãng này cho rằng 1/3 lợi nhuận kiếm được trong năm là từ hoạt động kinh doanh trên đất Mỹ. Tuy nhiên khi kê khai với cơ quan thuế thì IBM đã kê khai rất nhiều chi phí R&D liên quan đến thị trường Mỹ vì vậy mà phần lợi nhuận kiếm được trên thị trường Mỹ gần như bằng không và kết quả là IBM tránh được nghĩa vụ nộp thuế cho chính phủ Mỹ mặt dù doanh thu thuần của IBM vào năm 1987 là 25 tỷ USD. 2.2.54 .Các hình thức khác: Mới đây, trong đợt thanh tra những công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ trên địa bàn TP.HCM, cục Thuế thành phố còn lưu ý đến đại gia bất động sản Saigon Metropolitan (SM), liên doanh giữa công ty TNHH một thành viên xây dựng Bình Minh thuộc tổng công ty Xây dựng Sài Gòn và công ty Saigon Metropolitan Limited (SML) thuộc British Virgin Island của Anh. Báo cáo tài chính mới nhất của liên doanh này cho thấy, dù đã qua bốn lần tăng vốn từ 29 triệu USD lên 49,7 triệu USD nhưng ở thời điểm hiện tại, SM vẫn đang lỗ luỹ kế gần 20 triệu USD và nợ thuế hơn 7 tỉ đồng. Không khó để hình dung vì sao mới đây công ty xây dựng Bình Minh - trong hợp đồng mới ký kết lại - đã đồng ý chuyển nhượng 30% vốn thuộc sở hữu của mình cho Saigon Metropolitan Limited. Kịch bản tăng vốn lần thứ năm nhằm giải quyết khó khăn tài chính hẳn đã được đặt ra! Với ký kết này, Saigon Metropolitan Limited trở thành đối tác nắm 90% vốn trong liên doanh SM! Nguyên nhân gây lỗ là giá cho thuê văn phòng quá thấp, chi phí cho các chuyên gia làm việc quá cao. Dần dần đối tác nước ngoài trở thành chủ doanh nghiệp 2.2.6 Hệ quả của việc Chuyển giá trong đầu tư quốc tế: Ảnh hưởng tiêu cực Thông qua chuyển giá, các MNC kiểm soát các công ty con trên toàn thế giới. Các công ty con tuân thủ theo mục tiêu chiến lược toàn cầu của công ty mẹ và đảm bảo mức lợi nhuận tối đa. Tuy nhiên, khi các MNC lạm dụng chuyển giá để đạt được mục tiêu của họ, các hành động của họ cũng tạo ra các tác động bất lợi đến sự phát triển của các nước địa phương với các khía cạnh chính như sau: 2.2.6.1.1 Đối nghịch với sự công bằng thuế, nguy hại nghiêm trọng đến doanh thu thuế của nước địa phương Các MNC lạm dụng chuyển giá để đạt được các thu nhập bất hợp pháp trái với nguyên tắc công bằng thuế, làm phá vỡ sự công bằng và trật tự của nền kinh tế quốc tế, gây ra sự phát triển không bình thường của thương mại quốc tế vả đầu tư. Hơn nữa, các MNC sử dụng chuyển giá với “giá cao - giá thấp” để chuyển lợi nhuận của các công ty con ra ngoài nước địa phương, làm giảm rất lớn khoản thuế thu nhập phải nộp của các MNC tại các nước địa phương, gây thiệt hại nghiêm trọng về doanh thu thuế của các nước địa phương. 2.2.6.1.2 Sự sụt giảm thu nhập và các khoản thanh toán quốc tế tại các quốc gia địa phương Việc chuyển giá “giá cao - giá thấp” của các MNC làm giảm mạnh các khoản thu nhập và thanh toán quốc tế ở các nước địa phương. Một mặt, việc sử dụng chuyển giá có thể gia tăng lợi nhuận tổng thể của các MNC bằng cách nhập khẩu các hàng hóa có thể sản xuất nội địa, là nguyên nhân gia tăng hàng hóa nhập khẩu tại các nước địa phương. Mặt khác, khi các MNC mua cùng một số lượng các sản phẩm, dịch vụ, kỹ thuật trên hoặc bán cùng một số lượng các sản phẩm cho các công ty nước ngoài có liên quan, việc chuyển giá “giá cao - giá thấp” sẽ là nguyên nhân làm cho các nước địa phương gia tăng hàng hóa nhập khẩu và các chi phí vô hình đồng thời giảm hàng hóa xuất khẩu, từ đó làm giảm thu nhập và thanh toán quốc tế của các nước địa phương. Phá hoại môi trường cạnh tranh công bằng của thị trường Đôi khi để nắm bắt thị trường và ngăn chặn đối thủ cạnh tranh, các MNC xây dựng giá chuyển giao nội bộ thấp hơn, vì vậy các công ty con có thể bán các sản phẩm với một mức giá thấp hơn giá bình thường và thậm chí thấp hơn chi phí sản xuất tất nhiên là vẫn đảm bảo đầy đủ hồ sơ chứng từ hợp pháp. Bên cạnh đó, các công ty con có thể có một số lợi thế cạnh tranh không lành mạnh do mức thuế thực sự của các công ty con là thấp hơn mức thuế bình thường thông qua hoạt động chuyển giá. Điều này đã tạo ra một vị thế cạnh tranh không công bằng giữa các công ty con và các công ty tương tự tại thị trường các nước địa phương. Hành động này gây nguy hại cho thị trường cạnh tranh, cản trở sự tồn tại và phát triển bền vững của thị trường. 2.2.6.1.3 Làm hư hỏng hình ảnh của nước địa phương khi hấp thụ đầu tư nước ngoài Thông qua chiến lược chuyển giá “giá cao - giá thấp”, các MNC chuyển lợi nhuận từ các công ty con tại nước địa phương về, làm xuất hiện lợi nhuận thấp hoặc lỗ tại công ty con. Từ đó tạo nên một ấn tượng sai lầm rằng đầu tư vào nước địa phương là không hiệu quả. Sai lầm này có thể tác động đến dòng tiền đầu tư nư ớc ngoài vào nước địa phương. Điều này không chỉ làm tổn hại đến uy tín của môi trường đầu tư các nước địa phương trên toàn thế giới, mà nó còn tổn hại đến việc nhập khẩu các quỹ đầu tư nước ngoài và công nghệ tiên tiến để phát triển kinh tế tại địa phương đó. 2.2.6.1.4 Ảnh hưởng đến việc kiểm soát vĩ mô của nước địa phương Các chính sách tài chính là một công cụ quan trong của quốc gia trong việc kiểm soát nền kinh tế vĩ mô, trong đó hệ thống thuế là quan trọng nhất. Một mặt, Chính phủ có thể điều chỉnh sự phân phối tài nguyên giữa các ngành công nghiệp khác nhau thông qua hệ thống thuế và hướng các nguồn lực chảy vào các ngành công nghiệp mà quốc gia khuyến khích phát triển. Ví dụ, quốc gia khuyến khích sự phát triển của ngành công nghiệp công nghệ cao thì áp dụng một mức thuế suất thấp, không khuyến khích ngành sản xuất chất gây nghiện thì sẽ áp dụng một mức thuế suất cao. Mặt khác, thuế thu nhập là một nguồn quan trọng đối với doanh thu tài chính của một quốc gia và nó cũng có thể điều chỉnh quá trình phân bổ doanh thu. Các MNC sử dụng chiến lược chuyển giá để chuyển lợi nhuận, trốn thuế, với mức thuế suất thực tế thấp hơn mức thuế bình thường, hoặc thậm chí là bằng với mức thuế suất của các ngành được quốc gia khuyến khích. Các hành động trên làm giảm các nguồn lực chảy vào các ngành công nghiệp được quốc gia khuyến khích, từ đó làm cho việc điều chỉnh cơ cấu ngành công nghiệp không đạt được hiệu quả như mong đợi. Ảnh hưởng tích cực Tuy vậy, đối với một nước đang phát triển như Việt Nam, chúng ta đang cần rất nhiều vốn, công nghệ cao…thông qua dòng vốn FDI để phát triển đất nước. Trong khi đó, rất nhiều các quốc gia khác cũng có những đặc thù về nền kinh tế, chính trị như nước ta, ví dụ như: Trung Quốc, Lào…và tất nhiên các nước này cũng đang rất cần vốn để phát triền (về một số ngành hoặc một số vùng nào đó). Do đó, nếu như Việt Nam có các chính sách thông thoáng đối với việc chuyển giá hơn so với các quốc gia khác thì Việt Nam sẽ là điểm đến cho nhiều MNC, tất nhiên lúc này chúng ta phải đánh đổi việc mất một nguồn thu thuế với nhửng tác động tích cực từ nguồn vờn FDI như việc tạo ra công ăn việc làm, chuyển giao công nghệ….. Với góc độ này thì chuyển giá lại như là một yếu tố cạnh tranh có hiệu quả trong thu hút FDI. CHƯƠNG III: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG CHỐNG CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM Giải pháp ở hệ thống thuế Thuế là một nguồn thu chủ yếu của ngân sách và cũng là một nhân tố hết sức quan trọng tác động trực tiếp đến tình hình hoạt động kinh doanh của tất cả cả doanh nghiệp trong quốc gia đó. Chính phủ xây dựng chính sách thuế như thế nào cho phù hợp, đảm bảo nguồn thu đồng thời phải nuôi dưỡng các nguồn thu cho mục tiêu dài hạn. Đối với các doanh nghiệp thì chính sách thuế không những phải tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp mà còn phải tăng sức hấp dẫn về môi trường đầu tư kinh doanh và thu hút được các dòng vốn quốc tế. Nắm bắt được yêu cầu này, Chính phủ Việt Nam đã từng bước xây dựng các chính sách thuế ngày càng phù hợp hơn với tình hình kinh tế của Việt Nam và tình hình trong khu vực. Để tăng tính cạnh tranh trong việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời hạn chế các hoạt động chuyển giá của các MNC dựa vào chênh lệch thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) thì Chính phủ Việt Nam cũng từng bước tiến hành giảm thuế suất, mở rộng diện chịu thuế nhằm khuyến khích sản xuất, tăng cư ờng đầu tư phát triển và đồng thời bảo đảm nguồn thu. Trước khi luật thuế TNDN (sửa đổi) được Quốc hội thông qua thì cũng có nhiều ý kiến cho rằng nếu thuế TNDN giảm xuống 25% thì nguồn thu ngân sách của Nhà nước sẽ giảm đi khoảng 5.000 tỷ đến 7.000 tỷ đồng/năm. Nhưng thực tế đã chứng minh ngược lại, khi mức thuế TNDN điều chỉnh từ 32% xuống 28% năm 2003 thì nguồn thu ngân sách từ thuế TNDN không những không giảm đi mà còn tăng với tốc độ tăng bình quân là 17%/năm. Có thể thấy được tính hiệu quả của việc giảm thuế suất là vừa tăng nguồn thu vừa khuyến khích sản xuất đầu tư phát triển. Chính vì vậy, việc cải cách thuế TNDN là rất quan trọng vì nó là một nhân tố khá quan trọng giúp làm giảm trực tiếp hoạt động chuyển giá của các MNC. Ngoài thuế TNDN ra thì Chính phủ cũng cần quan tâm đến việc cải cách thuế xuất nhập khẩu sao cho phù hợp với tình hình thực tế. Đối với thuế xuất nhập khẩu thì thuế suất phải đảm bảo kích thích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu các mặt hàng không cần thiết đi kèm với việc xây dựng danh mục các mặt hàng nhập khẩu, tránh trường hợp nhập các máy móc, thiết bị và công nghệ lỗi thời với chi phí cao. Thông qua việc thiết lập danh mục nhập khẩu sẽ hạn chế được các doanh nghiệp FDI thực hiện việc chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ lỗi thời với giá cao. Danh mục giá cả hàng hóa xuất nhập khẩu cũng giúp cho cơ quan Hải quan chú ý đến các giao dịch với giá quá cao hay quá thấp so với bình thường để phát hiện ra hiện tượng chuyển giá xảy ra tại khâu xuất nhập khẩu hàng hóa. Tăng cường việc tham gia ký kết các hiệp định tránh đánh thuế hai lần giữa Việt Nam và các quốc gia khác nhằm tạo điều kiện cho việc phát triển thương mại với các quốc gia bạn và làm giảm gánh nặng về thuế cho các nhà đầu tư. Việc tránh đánh thuế hai lần sẽ góp phần làm giảm áp lực về thuế cho các nhà đầu tư, từ đó sẽ làm giảm động cơ thực hiện hành vi chuyển giá của các MNC. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần thường nhắm vào các loại thu nhập như cổ tức, tiền lãi vay, thu nhập tiền bản quyền hay lợi nhuận chuyển ra nước ngoài. Khi ký kết các hiệp định tránh đánh thuế thì cơ quan thuế của các quốc gia mới có thể cung cấp cho nhau các số liệu liên quan đến các vấn đề về thuế, doanh thu, chi phí, lợi nhuận, giá cả hàng hóa của các MNC có trụ sở tại các quốc gia khác nhau. Thông qua các hiệp định này thì các quốc gia sẽ tăng cường phối hợp với nhau trong công tác kiểm soát và chống chuyển giá. Tăng cường hiệu quả trong bộ phận quản lý và chính sách Xây dựng khung pháp lý hoàn chỉnh Từ khi mở của kinh tế kêu gọi đầu tư nư ớc ngoài đến nay thì kinh tế Việt Nam đã trải qua những giai đoạn thăng trầm khác nhau, có những thời điểm chúng ta thành công trong việc kêu gọi vốn đầu tư và cũng có những lúc lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam rất ít. Sau khi Quốc hội khóa III thông qua Luật Đầu tư đã tạo điều kiện cho việc thu hút vốn đầu tư và đạt đỉnh điểm vào năm 1996 là 8,497 tỷ USD, sau đó do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế Châu Á thì lượng vốn đầu tư vào nước ta đã suy giảm một cách đáng kể. Tuy nhiên, trong những năm gần đây thì Việt Nam đã chứng kiến sự gia tăng một cách nhanh chóng của dòng vốn FDI đổ vào với những con số kỷ lục liên tiếp bị phá vỡ như năm 2006 thu hút đư ợc 10,2 tỷ USD; năm 2007 là 20,3 t ỷ USD và năm 2008 tổng vốn FDI đăng ký đã tăng vọt lên con số 64 tỷ USD, lập một con số kỷ lục mới. Đây là năm mà Việt Nam thu hút mạnh mẽ nhất luồng vốn FDI từ trước đến nay. Các nguồn vốn nước ngoài, trong đó có FDI, đã và đang đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế khá cao và liên tục thông qua mở rộng quy mô đầu tư và chất lượng đầu tư. Luồng vốn này tạo điều kiện cho nền kinh tế tiếp xúc và sử dụng được các dòng vốn lớn và chất lượng. Đi đôi với việc thu hút các nguồn vốn nước ngoài thì việc quản lý và tạo ra một môi trường kinh tế công bằng và phát triển ổn định là điều kiện tiên quyết và sống còn. Đây cũng là thách thức lớn đặt ra đối với Chính phủ Việt Nam trong khi nền kinh tế chúng ta mới chuyển từ nền kinh tế bao cấp tập trung sang nền kinh tế thị trường. Từ khi mở cửa nền kinh tế năm 1987 thì Luật Đầu tư Nước ngoài là cơ sở pháp lý cho các hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp FDI tại Việt Nam. Mặc dù Luật Đầu tư Nước ngoài đã qua hai lần sửa đổi và bổ sung vào tháng 11 năm 1996 và tháng 6 năm 2000 nhưng trong nội dung của luật vẫn chưa đề cập một cách rõ ràng và cụ thể vấn đề chống chuyển giá. Vấn đề chống chuyển giá được nêu ra trong Thông tư số 74/TC/BTC ngày 20/10/1997 và sau đó được bổ sung và thay thế bằng Thông tư số 89/1999/TT-BTC ngày 16/07/1999. Về mặt nội dung thì cả hai thông tư này chưa có nội dung gì mới so với các văn bản trước đây mà chỉ là tổng hợp lại các biện pháp chống chuyển giá của các văn bản trước đây. Đến ngày 19/12/2005 thì Thông tư 117/2005/TT -BTC được ban hành. Thông tư này là cơ sở pháp lý hướng dẫn các biện pháp chống chuyển giá và là cơ sở hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong các giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết. Trong nội dung của thông tư có những hướng dẫn và định nghĩa rõ ràng dùng làm căn cứ cho việc xác định các hoạt động của doanh nghiệp FDI có mang yếu tố chuyển giá hay không. Ngày 22/4/2010 Bộ Tài Chính ban hành thông tư hướng dẫn thực hiện xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh giữa các bên có quan hệ liên kết (bãi bỏ thông tư 117/2005), trong đó nêu rõ các phương pháp và những ví dụ cụ thể, đây là một dấu mốc cho sự hoàn thiện dần về khung pháp lý hạn chế chuyển giá của các công ty con FDI tại Việt Nam hiên nay. Tuy nhiên, trong thực tế hiện nay vẫn còn tồn tại những bất cập về hệ thống văn bản pháp luật và thi hành các văn bản pháp luật mà Chính phủ cần có biện pháp giải quyết nhằm nâng cao tính hiệu quả của các văn bản luật: Khi ban hành một văn bản luật phải xuất phát từ nhu cầu thực tế của nền kinh tế, phải phù hợp với điều kiện thực tế trong từng thời kỳ và phù hợp với mục tiêu quản lý kinh tế của chính phủ. Các văn bản luật phải được ban hành kịp thời, đáp ứng nhu cầu thực tiễn và độ trễ không quá lớn so với thực tiễn. Các văn bản luật khi ban hành phải thống nhất, không chồng chéo lên nhau, văn bản luật này qui định trái ngược với văn bản luật kia làm cho các doanh nghiệp và người thực thi luật lúng túng trong việc áp dụng. Các văn bản hướng dẫn dưới luật phải được phổ biến nhanh chóng, tránh các trường hợp nghị định đã có nhưng thông tư hướng dẫn của bộ ngành chưa được ban hành triển khai. Vì như vậy làm cho việc hành xử của các doanh nghiệp lúng túng khi các vần đề phát sinh. Ngôn ngữ trình bày trong văn bản luật phải rõ ràng, không dùng những từ ngữ mập mờ gây dễ hiểu nhầm và các đối tượng xấu dựa vào đó để lách luật. Đồng thời ngôn ngữ rõ ràng sẽ giúp cho các cơ quan thi hành luật thực hiện nhất quán trong việc hành xử với doanh nghiệp. Tránh trường hợp mỗi cơ quan hiểu mỗi cách khác nhau, gây nhũng nhiễu cho các doanh nghiệp. Riêng đối với hoạt động định giá chuyển giao và chuyển giá đã được xây dựng thông tư nhưng cần phải có các văn bản luật khác hỗ trợ như Luật chống phá giá, Luật cạnh tranh, Luật chống độc quyền. Vì vậy các văn bản luật này cần được hoàn thiện và hướng dẫn rõ ràng để việc áp dụng hiệu quả. Gói giải pháp từ chính sách kinh tế và môi trường vĩ mô Việc ổn định nền kinh tế vĩ mô và đảm bảo giữ vững tốc độ phát triển kinh tế là điều hết sức quan trọng. Thông thường các nhà đầu tư chỉ muốn đầu tư vào một nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định, vì ở đó sẽ có nhiều cơ hội làm ăn và khả năng sinh lợi cao. Muốn làm đư ợc điều này thì Chính phủ cần xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế cụ thể dựa trên thực trạng của nền kinh tế, đưa ra những chiến lược phát triển kinh tế phù hợp dựa trên lợi thế so sánh của mình. Việt Nam có một lợi thế hơn so với các quốc gia khác là tình hình chính trị ổn định và đây có thể được xem là một lợi thế trong việc cạnh tranh thu hút đầu từ nước ngoài. Vấn đề về việc mất giá của đồng tiền Việt Nam so với các loại ngoại tệ khác là một trong những mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. Do việc mất giá của đồng tiền Việt Nam so với các loại ngoại tệ mạnh khác sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận cũng như việc bảo toàn vốn đầu tư của các nhà đầu tư, vì vậy sự mất giá của đồng tiền sẽ là động cơ thúc đẩy các nhà đầu tư nước ngoài thực hiện hành vi chuyển giá nhằm bảo tồn vốn đầu tư của họ. Về vấn đề ổn định đồng tiền thì thiết nghĩ Chính phủ cần phải phối hợp chặt chẽ với các Ngân Hàng Nhà Nước và Bộ Tài chính để đưa ra các biện pháp nhằm kiểm soát và ổn định đồng tiền. Chính phủ cần phải đảm bảo một lượng dự trữ ngoại hối để khi cần thiết có thể tham gia vào điều tiết thị trường nhằm tránh trường hợp tỷ giá biến động bất thường, gây ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất và xuất nhập khẩu hàng hóa. Áp dụng các biện pháp hành chính và chế tài Thực hiện cải cách hành chính trong khâu nhận thủ tục và cấp giấy phép đầu tư. Khi nhận các dự án đầu từ và cấp phép phải xem xét thật kỹ hiệu quả kinh tế mà dự án đó mang lại trong ngắn hạn và dài hạn. Chúng ta đang rất cần vốn đầu tư nước ngoài để phát triển kinh tế nhưng cũng phải lựa chọn công nghệ và dự án kèm theo tiêu chí môi trường và phát triển bền vững. Không nên lựa chọn các dự án tuy có mức đầu tư lớn nhưng lại là công nghệ cũ và tác hại đến môi trường, dự án phải hài hòa với mục tiêu quy hoạch phát triển của từng vùng và của cả nước. Thủ tục đăng ký kinh doanh và cấp phép sau khi đã được chấp thuận thì cần phải rút ngắn thời gian thực hiện để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư, tránh trường hợp chồng chéo thủ tục giữa các bên làm kéo dài thời gian đang ký và gây phiền hà tốn kém cho các nhà đầu tư. Hiện nay, Thông tư 66/2010 hướng dẫn việc xác định giá cho các giao dịch đã ra đời nhưng văn bản hướng dẫn cụ thể các mức phạt hay các hình thức xử phạt cụ thể vẫn chưa cụ thể rõ ràng. Thiết nghĩ, Chính phủ cần ban hành qui chế xử phạt cụ thể cho các trư ờng hợp phát hiện hành vi chuyển giá, phổ biến rộng rãi cho mọi thành phần kinh tế và nhà đầu tư đều biết và chấp hành. Việc cụ thể hóa hình thức phạt và mức phạt sẽ tạo nên sư công bằng và hiệu quả trong công tác kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm đồng thời giảm các tiêu cực có thể xảy ra trong công tác kiểm tra. Dựa vào kinh nghiệm của các quốc gia khác thì Việt Nam có thể xây dựng cho mình một tỷ lệ phạt cho các trường hợp thực hiện hành vi chuyển giá. Tương tự như mức phạt tại Mỹ thì Việt Nam có thể áp dụng như sau: Khi cơ quan thuế xem xét các nghiệp vụ chuyển giao tại MNC trên cơ sở áp dụng các phương pháp xác định giá thị trường theo hướng dẫn tại Thông tư 66/2010, nếu phát hiện có sai biệt giữa giá doanh nghiệp kê khai với giá thị trường, đồng thời doanh nghiệp không chứng minh được lý do hợp lý của sự sai biệt này thì cơ quan thuế có thể áp dụng mức phạt từ 25% đến 45% tùy theo mức độ sai lệch lớn hay nhỏ. Trường hợp cơ quan thuế xem xét sự khác biệt này dựa vào lợi nhuận sau khi áp dụng các phương pháp căn bản so sánh lợi nhuận của doanh nghiệp với lợi nhuận bình quân ngành thì có thể đưa ra một tỷ lệ phạt sao cho phù hợp, đồng thời phải đảm bảo tính răn đe cho các doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, trong những trường hợp đặc biệt, doanh nghiệp có đầy đủ chứng từ hợp pháp để chứng minh sự khác biệt về giá cả là hợp lý thì doanh nghiệp sẽ không bị xử lý phạt Thông qua các nguồn tài trợ Nâng cao tỉ lệ sở hữu nội địa ở các công ty con của MNCs Việt Nam: chúng ta cần tạo điều kiện rộng rãi cho các MNCs FDI Việt Nam thu hút vốn qua kênh thị trường chứng khoán, và dần dần tiến đến dạng MNCs Việt Nam hóa, khi đó công ty con hoạt động ở Việt Nam, chi có công nghệ và bản quyền là của công ty mẹ. Công ty mẹ sẽ hưởng tiền phí và phần cổ tức trên lượng cổ phần đóng góp. Như vậy thì vì quyền lợi của các cổ đông ở Việt Nam, các MNCs FDI Việt Nam sẽ hạn chế hiện tượng chuyển giá để tránh thuế. Tuy nhiên đây là m ột quá trình lâu dài và đòi hỏi nhiều chiến lược thích hợp. Xây dựng tỷ suất sinh lợi bình quân ngành Hiện nay khó khăn của các cơ quan quản lý thuế là chưa có dữ liệu về tỷ suất lợi nhuận bình quân của các ngành nghề nghề để áp dụng khi tiến hành kiểm tra hay thanh tra thuế. Đây chính là vấn đề khó khăn mà cơ quan thuế hay gặp khi xem xét tỷ suất sinh lợi tại một công ty vì không có một cơ sở pháp lý rõ ràng để làm căn cứ khi tiến hành thanh tra thuế. Trong thực tế có nhiều doanh nghiệp kinh doanh trong những ngành nghề có tỷ suất lợi nhuận rất cao nhưng doanh nghiệp này lại thường xuyên thua lỗ kéo dài hoặc tỷ suất sinh lợi rất thấp, thấp hơn cả lãi suất ngân hàng nhưng khi cơ quan thuế kiểm tra thì không có cơ sở pháp lý vững chắc là tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành để so sánh nên cơ quan thuế thường không dám mạnh dạn thực hiện các hướng dẫn của thông tư 117 mặc dù có dấu hiệu chuyển giá tại doanh nghiệp. Vì vậy, giải pháp cần thực hiện là xây dựng một bảng tổng hợp tỷ suất lợi nhuận bình quân cho từng ngành vào các năm khác nhau. Tổng Cục Thuế và Tổng Cục Thống Kê cần phải cùng nhau phối hợp xây dựng và công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin để cho các cơ quan quản lý thuế cơ sở và các doanh nghiệp thống nhất áp dụng. Bảng tỷ suất lợi nhuận bình quân ngành là cơ sỏ pháp lý giúp cho cơ quan thanh tra thuế thực hiện thanh tra khi thấy doanh nghiệp có những dấu hiệu bất thường về tỷ suất lợi nhuận như quá cao hay quá thấp so với tỷ lệ bình quân ngành. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. GS.TS. Võ Thanh Thu, TS. Ngô Thị Ngọc Huyền (2011), Kỹ thuật đầu tư trực tiếp nước ngoài, Nhà xuất bản tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh. 2. 2011 KPMG Review , Global Transfer Pricing Review 3. Thông tư 66/2010/TT-BTC quy định việc xác định giá thị trường trong giao dịch liên kết do Bộ Tài chính ban hành ngày 22/4/2010. 4. Từ các website: www.mof.gov.vn www.mpi.gov.vn www.hcmtax.gov.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuyen_gia_nhom_1_638.doc
Luận văn liên quan