Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới

Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, luận án phân tách hai yếu tố truyền thống và hiện đại được kết hợp sử dụng trong tiểu thuyết ở một phạm vi nhất định nào đó, qua đó khẳng định, các nhà tiểu thuyết đương đại đang nỗ lực cho những cách tân táo bạo về con người. Phần lớn tiểu thuyết của chúng ta đến nay vẫn đang cựa quậy trong cái khung thể loại truyền thống. Khá nhiều nhà văn trong tác phẩm của mình khi khám phá nội dung hiện thực, mục đích là để làm nổi bật tính cách số phận, các mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh. Vì thế các tác giả luôn thể hiện sự tâm huyết trong việc lựa chọn những thủ pháp nghệ thuật để khắc họa những nhân vật như con người vốn có, trong đó có chú trọng đến xây dựng tính cách thể hiện rõ nét ở ngoại hình, nội tâm cho đến hành động biểu hiện, qua đó phần nào bộc lộ được tư tưởng, quan điểm và cảm xúc của tác giả về cuộc sống và con người. Việc các nhà tiểu thuyết tiếp tục xây dựng nhân vật theo truyền thống ở một mức cao hơn đúng như ý kiến của Đặng Anh Đào đã nhận xét: “Ngay cả việc đặc biệt tăng cường một kỹ thuật nào đó rất cũ, rất truyền thống lại có thể gây một nghịch lý: nó có thể xem như một hiện tượng biến chất, đổi mới”. Xây dựng nhân vật theo lối ẩn danh, tiểu thuyết đi đến việc khai thác nhân vật theo một lối tư duy khác truyền thống. Nhân vật xuất hiện không còn mang tính điển hình của tính cách, một tâm lý vận hành logic mà đó là sự xuất hiện đột ngột, không dáng dấp, không tên gọi, không tâm lý. Tất cả tùy thuộc vào sự kiếm tìm, lý giải của người đọc trước một “đề án mở” về con người.

pdf26 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3886 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ch tân từ truyền thống Trong khá nhiều tác phẩm, yếu tố truyền thống và hiện đại luôn đan xen vào nhau khi hiện thực đời sống trong tiểu thuyết đã trở nên đa dạng với những hướng mới, phức tạp hơn. Những thể nghiệm nghệ thuật đó, là điều đáng trân trọng, ghi nhận sự chuyển mình đầy triển vọng của tiểu thuyết trong tương lai. Đồng thời việc “quay về với một số nét nào đó của cái cũ cũng được coi là… mới” khi những tiểu thuyết ấy đã và đang bằng cách viết nội dung thay cho kể, bộc lộ sự sáng tạo trong hình thức để chuyển tải mục đích tư tưởng tác phẩm theo một cách mới hơn. 3.1.1.1. Mô tả nhân vật qua phương diện bên ngoài Các tiểu thuyết mô tả nhân vật dạng này dưới nhiều hình thức: qua nhiều điểm nhìn của nhân vật (Mẫu thượng ngàn, Thời xa vắng, Gió từ thời khuất mặt), xây dựng “chân dung đối nghịch” giữa ngoại hình bên ngoài với phẩm chất, tính cách bên trong, qua đó xây dựng con người theo những “xung lực” vừa thuận chiều vừa nghịch chiều đầy bất ngờ của số phận (Đám cưới không có giấy giá thú, Những mảnh đời đen trắng, Hồ Quý Ly). Như vậy, các nhà văn xây dựng nhân vật (ngoại hình, tính cách, hành động) không còn dập khuôn theo truyền thống mà đã nâng con người nhân vật lên một mức cao. Không chỉ là làm nổi một tính cách tiêu biểu, nét đặc tả ngoại hình nhân vật, nhà văn còn tạo nên nét cá tính hóa, dị biệt hóa cho nhân vật trong một môi trường đã bị phá vỡ tính điển hình. Nhân vật không còn được xác định hoàn toàn bằng sự hiện diện lý lịch đầy đủ mà nó tồn tại bằng những hành vi, những ứng xử trước mọi hoàn cảnh, trong đó tác giả không cần giải thích vì không thể giải thích mà chỉ có thể quan sát. 3.1.1.2. Miêu tả trực tiếp tâm lý qua nội tâm Nhà văn đã đưa những xung đột nội tâm trải dài qua cả điểm nhìn bên ngoài lẫn bên trong, nhưng tính chất “toàn tri” không được hé lộ mà để tự nội tâm nhân vật bộc lộ ra ngoài. Nhờ việc làm này mà tiểu thuyết giai đoạn sau 1986 đã khác trước. Thay vì khi miêu tả tâm lý, nhà văn quan tâm đến kết quả của quá trình tâm lý, thì nay hính bản thân quá trình đó tự thể hiện không chỉ bằng lời kể có tính chất hướng ngoại, mà bằng xu hướng tự hướng nội, tự bộc lộ những nỗi niềm suy tư sâu kín, phơi bày tiến trình vận động tự thân của tư duy và những xúc cảm đa chiều của con người. Qua một số dẫn giải trên, chúng tôi đi đến nhận định: nhà văn sau 1986 đã đặt xung đột nội tâm nhân vật trên phương diện con người cá nhân - đời thường, do đó đặc điểm tâm lý mang tính cá nhân, cá biệt thuộc về nhu cầu bản thân bên trong của nó, quy chiếu vào những biến cố trong tâm hồn nhân vật để người đọc tìm thấy bóng dáng của hiện thực xã hội. Nhờ khai thác đắc địa khía cạnh này mà những tiểu thuyết như Sông Côn mùa lũ, Gia đình bé mọn, Tiểu thuyết đàn bà, Hồ Quý Ly, Mẫu thượng ngàn… đã tạo nên ấn tượng khó quên về hình tượng nhân vật. 3.1.2. Tiếp cận nhân vật với bút pháp hiện đại 3.1.2.1. Xây dựng nhân vật theo lối “ẩn danh” Đó là “những nhân vật không nổi lên bằng một nét hình dung diện mạo rõ rệt nào, một cá tính nào, một đường viền lịch sử nào”, nó chỉ được tái hiện qua những mẩu, những mảnh, có khi chỉ là những ý nghĩ. Trong tiểu thuyết Việt Nam hiện nay (Pari 11 tháng 8, T. mất tích, Chinatown, Đi tìm nhân vật) thật khó tìm thấy một nhân vật điển hình kiểu của chủ nghĩa hiện thực, thay vào đó là những nhân vật đủ mọi hạng người, nó đã và đang thải bỏ dần “tất cả những gì khiến nó nên người, để trở thành bóng ma vô danh mà người ta chỉ còn nghe được giọng nói”. 3.1.2.2. Xây dựng nhân vật qua những mảnh vụn tâm lý, ký ức rời rạc không liên kết Việc các nhà văn chọn lối tự sự chất liệu ký ức với sự xáo trộn chóng mặt các tình tiết trong mạch chuyện theo kiểu dòng ý thức đã khiến cho ký ức bị chia nhỏ thành những mảnh vụn của sự kiện và dẫn tới cảm giác tìm ra “con người ẩn náu” bên trong. Với sự đổi mới cách nhìn trong sáng tạo, quan niệm, nhà văn Việt Nam đã tìm ra một số thủ pháp mới dưới ảnh hưởng của văn học hiện đại thế giới để “biết đột phá hiện thực” (Ma Văn Kháng), trong đó họ dường như đã “trao ngòi bút cho nhân vật, để nhân vật tự viết lấy giọng điệu riêng của nó”, nhà văn để mặc cho nhân vật “phơi trần” cảm xúc, tâm trạng một cách tự nhiên, “xé toang” trật tự niên biểu. 3.1.2.3. Xây dựng nhân vật với phương thức huyền thoại hóa Tận dụng lợi thế của cái kỳ ảo dưới dạng giấc mơ, biến dạng, báo ứng, hiện hồn, không gian, thời gian huyền thoại, các nhà văn đã khám phá và phản ánh thế giới hiện thực đời sống đa dạng nhiều chiều của con người, đặc biệt ở chiều tâm linh con người, tất cả có tác động nghệ thuật rất lớn đến hiện thực tâm hồn con người với bao điều phức tạp, chồng chéo, đồng thời tạo nên một hiệu ứng tâm lý thẩm mỹ cho người đọc. Nói như Heinrich Boll, “một nền văn học thật sự dân chủ cần phải tạo ra những huyền thoại về con người, huyền thoại về đời thường của con người, cần phải tái tạo những yếu tố huyền thoại của đời thường nhân thế, cái thơ ca của đời thường nhân thế… phát hiện ra trong văn học cái huyền thoại nhân bản mới của con người”. 3.2. Ngôn ngữ nghệ thuật Để nhận diện một nhà văn có quan niệm như thế nào về đời sống và con người thông thường người ta tìm hiểu tiếng nói riêng của anh ta qua ngôn ngữ, thông qua các thành phần được biểu hiện trong một tác phẩm ở cả ngôn ngữ nhân vật (lời đối thoại, lời độc thoại) và ngôn ngữ trần thuật (lời kể, lời tả, lời bình luận). Khảo sát những thành phần này, chúng tôi rút ra một số đặc điểm nổi bật của ngôn ngữ tiểu thuyết Việt Nam đương đại như sau: 3.2.1. Ngôn ngữ có tính lịch sử cụ thể Đặc điểm này nổi bật nhất là ở tiểu thuyết lịch sử, tức tác phẩm lấy lịch sử làm đề tài, làm cảm hứng sáng tạo nghệ thuật, có nghĩa đòi hỏi hoàn cảnh, nhân vật gần như không có sự “sai trật” về thời gian sự kiện. Nhờ lớp ngôn ngữ xác nhận có tính lịch sử cụ thể, người đọc có thể khám phá được đời sống bên trong của mỗi thời đại cũng như hiểu được tâm hồn con người qua mỗi thời kỳ biến thiên của lịch sử xã hội. Mặt khác, nó cho thấy các nhà văn khi lựa chọn tiểu thuyết lịch sử, đã một phần nào đó thể hiện sự kết hợp giữa tư duy hiện đại và cổ điển trong việc chuyển tải ngôn từ. 3.2.2. Ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, dễ hiểu Một khi được xem là chất liệu, phương tiện biểu hiện mang tính đặc trưng của văn học thì ngôn ngữ tiểu thuyết vẫn được cho là ngôn ngữ gần gũi tới mức tối đa với đời sống. Vì vậy, đây là một đặc điểm cho ta thấy tính linh hoạt của ngôn ngữ trong văn học sau 1986. 3.2.3. Ngôn ngữ mang màu sắc dân gian Chưa bao giờ trong văn chương hiện đại mật độ xuất hiện kiểu lời ăn tiếng nói dân gian được đưa vào miệng nhân vật nhiều như trong tiểu thuyết giai đoạn này. Việc đưa vào tính chất suồng sã, bớt đi vẻ trang trọng, nghi thức, các nhà văn phần nào thể nghiệm được “những thành phần ngôn ngữ mới theo định hướng rút ngắn triệt để khoảng cách nghệ thuật vào dòng chảy xô bồ, ào ạt của đời sống” đã thực sự làm rung chuyển lối văn mực thước, đưa đẩy tạo nên “tư thế dân chủ bình đẳng giữa con người với con người”. 3.2.4. Ngôn ngữ có tính thế tục Một khi ý thức ngôn ngữ trở nên tự giác hơn, văn chương không nhất thiết phải đặt mình trong sự câu nệ, khách sáo, đó cũng là thời điểm đánh dấu cho sự phong phú của ngôn ngữ ở nhiều mặt du nhập vào khu vườn sáng tạo ngôn từ của các thể loại văn học. Tính chất trần tục, bụi bặm, thậm chí đôi khi thô tục được đẩy vào phát ngôn của nhân vật nhiều khi khiến người ta phải giật mình. Thứ “ngôn ngữ sinh hoạt thế sự” (Nguyễn Thị Bình) ùa vào trong lời ăn tiếng nói của tác phẩm tuy còn đôi chỗ gắng gượng, gò ép, dung tục trong tiểu thuyết của Ma Văn Kháng, Chu Lai, Nguyễn Bình Phương, Tạ Duy Anh… nhưng đã góp phần làm nên hiệu ứng nghệ thuật tích cực trong từng tác phẩm, bỏ xa lối văn đạo mạo, kín kẽ, chải chuốt bóng mượt “từ đầu đến chân” của văn học giai đoạn trước. Mặt khác nhà văn đã rút ngắn khoảng cách giữa tác giả - nhân vật - người đọc, đưa tác phẩm gần gũi và thật như cuộc sống vậy. 3.2.5. Ngôn ngữ chứa đựng tính đối thoại và tính “cá thể hoá” cao Đọc tiểu thuyết sau 1986, độc giả phần nào có hướng tiếp cận khác trước. Tính chất đối thoại theo kiểu lời thoại thuần tuý gần như mất dấu, thay vào đó là sự đối thoại nhiều tầng nghĩa nhưng diễn biến nằm ở bề sâu ngôn ngữ, tức là người kể chuyện hay nhân vật có thể diễn ra cuộc đối thoại nhưng chủ yếu việc đối thoại lại nằm ở sự nhìn nhận, chiêm nghiệm, mang tính triết luận tự nhận thức của nhân vật qua chiều nội tâm bên trong. Tiểu kết: Trên thực tế quan niệm nghệ thuật về con người chi phối đến sự thay đổi trong cấu trúc nghệ thuật của một tác phẩm. Tuy nhiên sự thay đổi tư duy nhận thức nghệ thuật về con người vẫn rõ hơn cả ở việc xây dựng thể hiện các hình tượng. Qua hai vấn đề chúng tôi bàn kỹ ở trên, chúng tôi tạm rút ra hai ý kiến sau: Thứ nhất, khi nhà văn quan niệm nhân vật như một ý thức, một tiếng nói, một chủ thể độc lập, anh ta đã không bắt nhân vật phải suy nghĩ giống mình mà để nhân vật hiện ra như chính nó, như đời sống với những mặt sáng và tối. Mỗi cá nhân con người đều mang trong mình một chân lý sống riêng. Vì vậy khi dựng nên bức chân dung sinh động cho nhân vật mục đích tối thượng của người sáng tác là để nhân vật tự nói về chính mình, mở ra chân trời về cảm quan số phận con người tùy thuộc vào từng người đọc. Thứ hai, khi tiểu thuyết có xu hướng cấu trúc “liên thể loại”, “đồng hóa mọi loại tác phẩm khác vào mình” (A. Malraux) dẫn đến hệ quả tất yếu, ngôn ngữ tiểu thuyết là sự kết hợp nhiều phong cách ngôn ngữ của các thể loại được du nhập vào trong nó. Về điểm này theo chúng tôi một mặt đánh dấu nét cá thể hóa khi xây dựng nhân vật, mặt khác định hình cho dấu ấn sáng tác của cá nhân nhà văn, qua đó cho thấy tính mở của ngôn ngữ đời sống hàng ngày của con người hiện đại. KẾT LUẬN Có không ít người đã hoài nghi về sự phát triển của tiểu thuyết trong tương lai. Tuy nhiên đời sống con người luôn biến đổi, ý niệm về con người ngày càng được nâng cao, ngày càng phức tạp tùy theo mức phức tạp hóa của sinh tồn con người. Hơn ai hết, con người luôn luôn đòi hỏi thế hệ của mình tìm cách giải thích các biến đổi ấy để chính họ được định hướng và thấu hiểu quy luật của cuộc sống. Lại Nguyên Ân đã nói, thời hiện tại chính là thời của văn xuôi, và theo chúng tôi, thời văn xuôi đó với đại diện tiêu biểu nhất lại thuộc về thể loại tiểu thuyết. Với dung lượng lớn, nó sẽ là thể tài đáp ứng yêu cầu nhận thức, phân tích con người và xã hội hiện thời. Văn hào Pháp Lui Aragon nhận định: đặc tính khác thường của tiểu thuyết là nó có năng lực “hư cấu ra những chuyện bịa” nhưng cái được bịa trong tiểu thuyết là cơ sở của sự thật trong đó nó đã “cố gắng đo con người bằng những thước đo nhân bản hơn, nó muốn hiểu con người trong những hoàn cảnh thay vì áp những hoàn cảnh cho con người”. Tiểu thuyết trong hành trình khám phá con người từ cao trào Đổi mới đã đi vào “những trăn trở, bức xúc về con người trong niềm khát khao tác động vào xã hội, thay đổi hoàn cảnh sống để có mặt bằng văn hóa cao hơn, điều kiện vật chất tốt hơn cho sự phát triển tính người lành mạnh” khiến cho mọi bình diện về con người đã được các nhà văn khai thác một cách có chiều sâu. Qua các vấn đề đã được triển khai ở trên, chúng tôi xin rút ra một số kết luận như sau: 1. Sự ra đời của chủ nghĩa cá nhân trong cao trào Đổi mới đã cho thấy sự phân hóa nhân cách mãnh liệt. Con người luôn hội tụ đầy đủ các cực sáng - tối của nhân cách cá nhân, mở ra một khả năng cảm nhận rộng lớn hơn khi chạm vào những ngóc ngách sâu kín nhất trong mỗi con người. Con người khi tự nghiệm ra mình không hoàn thiện, cũng đồng thời nhận ra những khoảng không hư ảo chứa đựng những điều mà mình không biết xung quanh cõi sống của mình. Có thể nói văn học thời kỳ Đổi mới đã thể hiện một nỗi lo âu về nhân tính không hoàn bị của con người, các nhà văn đang cố lý giải nhiều chiều kích về con người hướng đến vẫn là cái nhìn nhân bản trong cái nghĩa như L. Tolstoi đã từng nói: con người thường hoàn toàn không giống bản thân mình tuy vẫn cứ chỉ là chính mình. 2. Không nhằm mục đích thống kê và miêu tả thuần túy, chúng tôi cố gắng khám phá những cách tân riêng khi nhà văn quan niệm về con người theo những tiêu chí khu biệt nhất định. Việc dừng lại khai thác con người ở góc độ bản chất xã hội với: người lính, người trí thức, người nông dân, mục đích của chúng tôi là tìm ra những điểm khai thác mới của tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới khi tái hiện lại những con người bình thường của cuộc sống hôm nay. Sau những gì đã được viết trước 1975, chiến tranh - người lính vẫn là “một kho chất liệu không thể nào vơi cạn còn nằm sâu trong ký ức của con người” khiến tiểu thuyết sau 1986 chuyển vào quỹ đạo mới về cuộc sống và số phận con người, gắn với số phận dân tộc qua sự soi rọi vào nhiều góc khuất của đời sống những con người thuộc về phía chiến thắng. Người lính nếu sống với hồi ức chiến tranh sẽ là một chân dung đầy đặn và nhiều chiều cạnh của con người bị chấn thương vì bi kịch và bất hạnh; nếu hòa nhập với thời bình có khi họ phải chịu một số phận chia đôi: nửa cho ánh sáng, nửa cho bóng tối. Một là họ tiếp tục hòa nhập cuộc sống mới để giữ lấy nhân cách người lính, bằng cách sống xứng đáng với hào quang bi hùng một thời. Hai là họ sẽ bầm dập, tơi tả, xô đẩy, trôi dạt và sa đọa, biến chất lúc nào không hay. Mặc dù người trí thức trước 1945 đã được đặt ra trong một số sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng, Thạch Lam, Nam Cao... nhưng sau 1945 đề tài này dần bị thay thế bởi khối nhân vật trung tâm là công nông binh. Đến đầu những năm 80 - 90 người trí thức đã trở lại với một diện mạo và tầm vóc mới, được xem là nhân vật thể hiện được nhiều khả năng tự ý thức của văn học đồng thời bộc lộ “cái tôi” của nhà văn. Người trí thức giai đoạn này được xoáy sâu vào những bi kịch tinh thần trầm trọng và quy mô hơn cả Sống mòn của Nam Cao. Bên cạnh sự tha hóa tột độ chạy theo ham muốn của đời sống đồng tiền, dù có tài năng tri thức đi chăng nữa, họ cũng dễ bị mất phương hướng, ngả nghiêng theo thời thế, chưa kể phải đối mặt với những vụ lợi toan tính, ích kỷ của bản thân và ngoài xã hội khiến họ không còn là “con người vô trùng”. Như Ma Văn Kháng đã đề cập trong tiểu thuyết của mình, “chưa có thời buổi nào trí thức lưu manh hóa nhiều như thời nay”. Điều đó không chỉ tìm thấy ở những Đám cưới không có giấy giá thú, Mười lẻ một đêm, Tường thành... mà vẫn còn tiếp tục ráo riết các vấn đề liên quan đến trí thức trẻ ở Tìm trong nỗi nhớ của Lê Ngọc Mai, Hộ chiếu buồn của Thế Dũng... Trong sự phát triển mới của tiểu thuyết hiện nay, với đặc thù lao động trí óc, có trình độ văn hóa cao, nhạy cảm trước những biến đổi của thời cuộc, hình tượng văn học này thực sự có ưu thế trong xây dựng tiểu thuyết hướng nội. Trong khi đó, cuộc sống của người nông dân được phản ánh trong tiểu thuyết là cách cho chúng ta một hiểu biết mới về phẩm giá và sức sáng tạo của con người. Đó là những người nông dân sống và lệ thuộc vào những định kiến hẹp hòi cùng với đời sống tinh thần luôn tồn tại ý thức dòng họ đã khiến cho bao số phận phải tự gánh lấy cho mình nỗi bất hạnh, sự cam chịu... Không chỉ có vậy, những con người tưởng thuần phác ấy đang dần hèn đi, tầm thường đi, tha hóa đi vì cái lợi vật chất, sự ghen ghét, đố kị, khiến cho làng quê xưa vốn yên bình với lối sống giản dị, đùm bọc... nay trở nên phức tạp khó lường. 3. Ngoài ra đề tài còn khai thác con người ở góc độ loại hình với sự phát hiện con người dưới góc nhìn lịch sử văn hóa, con người “huyền thoại”, con người “dị biệt”. Qua đó, chúng tôi đi đến khẳng định tính đổi mới của tiểu thuyết, đồng thời cho thấy một sự thay đổi lớn lao, yêu cầu về một con người mới trong văn học đã hình thành, thể hiện những nỗ lực đáng trân trọng trong việc đi sâu khám phá đời sống vốn phức tạp của con người với một thái độ khách quan, trung thực, thẳng thắn và không kém phần tinh tế của các tiểu thuyết gia. Việc mở rộng con người lịch sử qua yếu tố lấy chân thực lịch sử kết hợp với hư cấu nghệ thuật giúp nhà văn có cơ hội “chất vấn” nhận thức về chân lý của lịch sử. Tư duy lịch sử của nhà văn được soi chiếu qua quan niệm nghệ thuật về con người, biến con người thành mục đích chuyển tải giá trị tư tưởng dưới “lớp bọc” của đường viền lịch sử nhằm nhận thức rõ hơn thời đại con người được đặt trong bối cảnh lịch sử. Mặt khác, việc lý giải con người lịch sử với tính chất hồi cố lịch sử thông qua lăng kính của ý thức các cá thể, nhà văn đã cắt nghĩa thêm một cách nhìn mới về con người khi phản ánh trung thực số phận của con người hiện tại. Trên thực tế, đời sống phức tạp của con người luôn là một chiều bí ẩn chúng ta không thể giải thích bằng đầu óc duy lý thông thường. Sự hiện hữu con người huyền thoại cũng dựa trên tiêu chí thực ảo đã được các nhà văn khai thác vào văn học. Việc nhà văn xây dựng con người huyền thoại theo chúng tôi đã làm thành hai mục đích phản ánh qua tiểu thuyết. Một là mở ra khả năng nhận thức những điều bí ẩn ở con người. Hai là cho thấy sự khao khát hòa nhập một cuộc sống bình dị. Đi sâu tìm hiểu tính chất dị biệt của con người trong tiểu thuyết thời kỳ Đổi mới, chúng tôi tập trung lý giải cách cắt nghĩa của nhà văn ở khía cạnh cuộc đời bất thường của những con người cả về mặt thể xác lẫn tinh thần. Qua đó cho thấy sự nỗ lực “lạ hóa” của các nhà văn khi xây dựng nhân vật để làm rõ cái nhìn mới về hiện thực đời sống trong thời kỳ hiện đại. Đồng thời bộc lộ rõ nét nhất tính chất “nhân đạo hóa” con người của văn học. 4. Trong nghệ thuật xây dựng nhân vật, luận án phân tách hai yếu tố truyền thống và hiện đại được kết hợp sử dụng trong tiểu thuyết ở một phạm vi nhất định nào đó, qua đó khẳng định, các nhà tiểu thuyết đương đại đang nỗ lực cho những cách tân táo bạo về con người. Phần lớn tiểu thuyết của chúng ta đến nay vẫn đang cựa quậy trong cái khung thể loại truyền thống. Khá nhiều nhà văn trong tác phẩm của mình khi khám phá nội dung hiện thực, mục đích là để làm nổi bật tính cách số phận, các mối quan hệ giữa con người với hoàn cảnh. Vì thế các tác giả luôn thể hiện sự tâm huyết trong việc lựa chọn những thủ pháp nghệ thuật để khắc họa những nhân vật như con người vốn có, trong đó có chú trọng đến xây dựng tính cách thể hiện rõ nét ở ngoại hình, nội tâm cho đến hành động biểu hiện, qua đó phần nào bộc lộ được tư tưởng, quan điểm và cảm xúc của tác giả về cuộc sống và con người. Việc các nhà tiểu thuyết tiếp tục xây dựng nhân vật theo truyền thống ở một mức cao hơn đúng như ý kiến của Đặng Anh Đào đã nhận xét: “Ngay cả việc đặc biệt tăng cường một kỹ thuật nào đó rất cũ, rất truyền thống lại có thể gây một nghịch lý: nó có thể xem như một hiện tượng biến chất, đổi mới”. Xây dựng nhân vật theo lối ẩn danh, tiểu thuyết đi đến việc khai thác nhân vật theo một lối tư duy khác truyền thống. Nhân vật xuất hiện không còn mang tính điển hình của tính cách, một tâm lý vận hành logic mà đó là sự xuất hiện đột ngột, không dáng dấp, không tên gọi, không tâm lý. Tất cả tùy thuộc vào sự kiếm tìm, lý giải của người đọc trước một “đề án mở” về con người. Khi con người xuất hiện không ở dạng quá trình đầu cuối, mà phi tính cách, phi tâm lý, phi logic, khó hiểu, nhà văn phải giải mã nhân vật theo nhiều cách khác nhau. Người đọc để hiểu cuộc đời nhân vật, chỉ có thể tiếp xúc qua những mảnh tâm trạng rời rạc theo kiểu “dòng ý thức” kết hợp bút pháp huyền thoại hóa, khám phá những ẩn ức trong cõi vô thức, tiềm thức của con người. Nhờ vào cách thể hiện này, tiểu thuyết đã và đang “xâm lấn” để lý giải tận cùng những xáo trộn bên trong đến khó ngờ của đời sống cá thể tâm hồn người. 5. Một thành công nữa của tiểu thuyết giai đoạn này khi đưa con người sát nhập hẳn với đời thường đã tạo nên những bước đi mới trên con đường đưa ngôn ngữ nghệ thuật mang hơi thở của đời sống đậm nét. Khi tiểu thuyết có xu hướng liên thể loại thì mọi ngôn ngữ có thể được nó tiếp nhận một cách hài hòa tạo điểm nhấn cho tác phẩm đồng thời định hình nên phong cách của người nghệ sĩ. Qua những sáng tác của Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, Nguyễn Văn Thọ… người đọc đã thấy được tính tự nhiên cởi mở của ngôn ngữ được đưa vào tác phẩm tạo nên tính đối thoại và tính dân chủ trong văn học hiện nay. Tiểu thuyết là một thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và còn chưa định hình (M. Bakhtin), vì vậy việc lý giải về con người của nhà văn vẫn đang tiếp tục chặng đường dài để khám phá chiều sâu bất tận của nó. Tư duy nghệ thuật về con người chính là tiền đề, là nhân tố quan trọng cho mọi nhà văn khi đi tìm cho mình những phát hiện, sáng tạo độc đáo cả về mặt nội dung và hình thức thể loại. Tiểu thuyết hiện nay đã và đang có những bước chuyển động mạnh mẽ ở nhiều phương diện. Vì vậy, qua đề tài này chúng tôi một lần nữa tái khẳng định hy vọng về một tiền đồ sáng sủa của tiểu thuyết Việt Nam trong tương lai gần, khi nối tiếp những nhà văn tiền bối là thế hệ những nhà văn trẻ giàu nhiệt huyết, dám thể nghiệm, tìm tòi, sáng tạo về thể loại, thể hiện cá tính văn chương trên cánh đồng chữ nghĩa đầy nhọc nhằn để đi tìm cách tiếp cận mới mẻ về cõi người và cõi đời của kiếp nhân sinh. References A. DANH MỤC TÁC PHẨM 1. Tạ Duy Anh (2004), Lão Khổ, Thiên thần sám hối, NXB Hội nhà văn. 2. Tạ Duy Anh (2008), Đi tìm nhân vật, NXB Tổng hợp Đồng Nai. 3. Đỗ Vĩnh Bảo (2009), Cõi tiền, NXB Văn học. 4. Mạc Can (2004), Tấm ván phóng dao, NXB Hội nhà văn. 5. Văn Chinh (2006), Góa chồng một thế kỷ, NXB Thanh Niên. 6. Nguyễn Đình Chính (2008), Đêm thánh nhân, NXB Văn học. 7. Châu Diên (2003), Người sông Mê, NXB Hội nhà văn. 8. Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ, NXB Văn học. 9. Lê Minh Hà (2005), Gió từ thời khuất mặt, NXB Hội nhà văn. 10. Võ Thị Xuân Hà (2004), Tường thành, NXB Hội nhà văn. 11. Nguyễn Việt Hà (2007), Cơ hội của Chúa, NXB Hội nhà văn. 12. Nguyễn Việt Hà (2005), Khải huyền muộn, NXB Hội nhà văn. 13. Võ Thị Hảo (2005), Giàn thiêu, NXB Phụ nữ. 14. Nguyễn Phan Hách (2003), Người đàn bà buồn, Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Hội nhà văn. 15. Trần Thu Hằng (2005), Đàn đáy, NXB Hội nhà văn. 16. Phạm Thị Hoài, Thiên sứ, trên 17. Tô Hoài (2006), Ba người khác, NXB Đà Nẵng. 18. Nguyễn Trí Huân (2003), Chim én bay, NXB Quân đội nhân dân. 19. Dương Hướng (2004), Bến không chồng, NXB Công an nhân dân. 20. Dương Thu Hương, Những thiên đường mù, trên 21. Nguyễn Khải (1989), Một cõi nhân gian bé tí, NXB Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 22. Nguyễn Khải (1999), Tuyển tập tiểu thuyết Tập 2, NXB Hội nhà văn. 23. Ma Văn Kháng (1999), Ngược dòng nước lũ, NXB Hội nhà văn. 24. Ma Văn Kháng (2002), Đám cưới không có giấy giá thú, NXB Văn học. 25. Nguyễn Xuân Khánh (2006), Mẫu thượng ngàn, NXB Phụ nữ. 26. Nguyễn Xuân Khánh (2007), Hồ Quý Ly, NXB Phụ nữ. 27. Lý Lan (2008), Tiểu thuyết đàn bà, NXB Văn nghệ. 28. Đoàn Lê (2004), Cuốn gia phả để lại, Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Hội nhà văn. 29. Chu Lai (1992), Ăn mày dĩ vãng, NXB Hội nhà văn. 30. Nguyễn Quang Lập (2004), Những mảnh đời đen trắng, Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Hội nhà văn. 31. Lê Lựu (2002), Thời xa vắng, NXB Hội nhà văn. 32. Bảo Ninh (1990), Nỗi buồn chiến tranh, NXB Hội nhà văn. 33. Dạ Ngân (2008), Gia đình bé mọn, NXB Phụ nữ. 34. Nguyễn Bình Phương (2004), Bả giời, NXB Quân đội nhân dân. 35. Nguyễn Bình Phương (2005), Thoạt kỳ thủy, NXB Văn học. 36. Nguyễn Bình Phương (2006), Người đi vắng, NXB Phụ nữ. 37. Nguyễn Bình Phương (2006), Ngồi, NXB Đà Nẵng. 38. Nguyễn Bắc Sơn (2006), Luật đời và cha con, NXB Văn học, Công ty sách Hà Nội. 39. Bùi Anh Tấn (2008), Một thế giới không có đàn bà, NXB Trẻ. 40. Hồ Anh Thái (2004), Cõi người rung chuông tận thế, NXB Đà Nẵng. 41. Hồ Anh Thái (2004), Trong sương hồng hiện ra, Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Hội nhà văn. 42. Hồ Anh Thái (2005), Người và xe chạy dưới ánh trăng, NXB Hội nhà văn. 43. Hồ Anh Thái (2005), Người đàn bà trên đảo, NXB Phụ nữ. 44. Hồ Anh Thái (2007), Mười lẻ một đêm, NXB Đà Nẵng. 45. Hồ Anh Thái (2007), Đức Phật, nàng Savitri và tôi, NXB Đà Nẵng. 46. Đào Thắng (2004), Dòng sông Mía, NXB Hội nhà văn. 47. Nguyễn Văn Thọ (2009), Quyên, NXB Hội nhà văn. 48. Thuận (2005), Pari 11 - 08, NXB Đà Nẵng. 49. Thuận, T. mất tích, trên 50. Thuận (2009), Chinatown, NXB Văn học. 51. Phạm Ngọc Tiến (2004), Tàn đen đốm đỏ, Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới, NXB Hội nhà văn. 52. Nguyễn Khắc Trường (2006), Mảnh đất lắm người nhiều ma, NXB Hội nhà văn. 53. Khôi Vũ (2004), Lời nguyền hai trăm năm, NXB Thanh niên. B. TÀI LIỆU NGHIÊN CỨU 1. TIẾNG VIỆT 54. Trần Thị An (2007), “Sức ám ảnh của tín ngưỡng dân gian trong tiểu thuyết Mẫu thượng ngàn”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (6), tr.27- 47. 55. Vũ Tuấn Anh (1995), “Đổi mới văn học vì sự phát triển”, Tạp chí Văn học (4), tr.14 -19. 56. Vũ Tuấn Anh (1996), “Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại” Tạp chí Văn học (9), tr.28 - 36. 57. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học nhận thức và thẩm định, NXB Khoa học xã hội. 58. Lê Tú Anh (2006), “Tự truyện và tiểu thuyết trong Gia đình bé mọn” Báo Văn nghệ (15), tr.7. 59. Nguyễn Thị Kiều Anh (2007), Một chặng đường lý luận về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam (chuyên luận), NXB Công an nhân dân. 60. Trần Hoài Anh, “Quan niệm về tiểu thuyết trong lý luận phê bình văn học đô thị miền Nam 1954 - 1975”, 61. Đào Tuấn Ảnh (bs) (2003), Văn học hậu hiện đại thế giới, NXB Hội nhà văn. 62. Lại Nguyên Ân, Trần Đình Sử (1983), “Văn xuôi nghiên cứu đời sống hôm nay”, Báo Văn nghệ (24), tr.2, 11. 63. Lại Nguyên Ân (1986), “Thử nhìn lại văn xuôi mười năm qua”, Tạp chí Văn học (1), tr.14 - 25. 64. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, NXB Thanh niên. 65. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 66. Lại Nguyên Ân, “Tiểu thuyết và lịch sử”, 67. Lại Nguyên Ân, “Về tiểu thuyết Ba người khác”, 68. Bakhtin. M (1998), Những vấn đề thi pháp Đôxtôiepxki, (Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân dịch), NXB Giáo dục. 69. Bakhtin. M (2003), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, (Phạm Vĩnh Cư dịch), NXB Hội nhà văn. 70. Ban chấp hành Hội nhà văn Việt nam (1990), “Giải thưởng Hội nhà văn hai năm 1988 - 1989”, Báo Văn nghệ (40), tr.3. 71. Barthes Roland (1997), Độ không của lối viết, (Nguyên Ngọc dịch), NXB Hội nhà văn. 72. Lê Huy Bắc (1996), “Đồng hiện trong văn xuôi”, Tạp chí Văn học (6), tr.45 - 50. 73. Lê Huy Bắc (2006), “Cái kỳ ảo và văn học huyền ảo”, Tạp chí Văn học (8), tr.33 - 44. 74. Lê Huy Bắc (2009), Chủ nghĩa hiện thực huyền ảo và G.G. Marquez, NXB Giáo dục. 75. Mai Huy Bích (1987), “Trở lại với tiểu thuyết Thời xa vắng: Hôn nhân, gia đình, xã hội qua một tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ (47) + (48), tr.7, 14. 76. Mai Huy Bích (1988), “Đề tài gia đình trong văn xuôi những năm gần đây”, Báo Văn nghệ (23), tr.3. 77. Ngô Vĩnh Bình (1990), “Đồng hiện - một thủ pháp nghệ thuật có hiệu quả trong tiểu thuyết Chim én bay”, Báo Văn nghệ (51), tr.6. 78. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam 1975 - 1995 những đổi mới cơ bản, NXB Giáo dục. 79. Nguyễn Thị Bình (2007), “Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975 - một cái nhìn khái quát”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (2), tr.49 - 54. 80. Nguyễn Thị Bình (2008), “Tư duy thơ trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (5), tr.41 - 49. 81. Lê Nguyên Cẩn (2006), “Thế giới kỳ ảo trong Mảnh đất lắm người nhiều ma từ điểm nhìn văn hóa”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr.24 - 32. 82. Nguyễn Dương Côn (2002), “Hình dung đề tài tiểu thuyết là gì?”, Tạp chí Sông Hương (4), tr.84 - 86. 83. Phạm Như Cương (cb) (1978), Về vấn đề xây dựng con người mới, NXB Khoa học xã hội. 84. Trần Cương (1995), “Nhìn lại văn xuôi viết về nông thôn trước thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Văn học (12), tr.37 - 41. 85. Trần Cương (1995), “Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 80”, Tạp chí Văn học (4), tr.34 - 36. 86. Nguyễn Minh Châu (1989), “Bên lề tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ (32), tr.2. 87. Anh Chi (2009), “Hiện tượng văn chương Hồ Anh Thái”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr.47 - 56. 88. Nguyễn Huệ Chi (1994), “Vài cảm nhận văn học Việt Nam hải ngoại”, Tạp chí Văn học (2), tr.7 - 12. 89. Văn Chinh (2008), “Cha, con và Dòng sông Mía”, Báo Văn nghệ (48), tr.8. 90. Nam Dao, Nguyễn Mộng Giác, “Thảo luận về tiểu thuyết lịch sử”, 91. Nguyễn Văn Dân (1997), “Dấu ấn phương Tây trong văn học Việt Nam hiện đại - vài nhận xét tổng quan” Tạp chí Văn học (2), tr.77 - 84. 92. Nguyễn Văn Dân (2000), “Văn học phi lý - một đóng góp đáng ghi nhận cho lịch sử văn học nhân loại”, Tạp chí Văn học (4), tr.67 - 76. 93. Nhân Dân (1983), “Văn nghệ là mặt trận, văn nghệ sĩ là chiến sĩ”, Báo Văn nghệ (23), tr.1. 94. Donhieporop. V (1961), Những mưu toan đổi mới trong nền tiểu thuyết hiện đại (Nhiều người dịch), NXB Văn học. 95. Dorothy Brewster & John Angus Burel (2003), Tiểu thuyết hiện đại, (Dương Thanh Bình dịch), NXB Lao động. 96. Đỗ Đức Dục (1990), “Văn học và chiến lược”, Tạp chí Văn học (6), tr.76 - 81. 97. Trương Đăng Dung (1994), “Tiểu thuyết lịch sử trong quan niệm mỹ học của G. Lucacs”, Tạp chí Văn học (5), tr.40 - 43. 98. Trần Ngọc Dung (2006), “Đời sống thể loại văn học sau 1975”, Tạp chí Văn học (2), tr.91 - 97. 99. Đinh Xuân Dũng (1990), “Đổi mới văn xuôi chiến tranh”, Báo Văn nghệ (51), tr.7. 100. Đinh Xuân Dũng (1995), “Văn học Việt Nam về chiến tranh - hai giai đoạn của sự phát triển”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (7), tr.91 - 95. 101. Đinh Trí Dũng (1996), “Sự thể hiện con người “tha hóa” trong các tiểu thuyết hiện thực của Vũ Trọng Phụng”, Tạp chí Văn học (5), tr.29 - 32. 102. Cao Việt Dũng (2007), “Từ chối làm ngôi sao băng”, Báo Văn nghệ (4), tr.10. 103. Nguyễn Đăng Duy (2001), Văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa thông tin. 104. Trần Thanh Đạm (1989), “Bàn thêm về vấn đề con người trong văn học”, Báo Văn nghệ (35), tr.2 - 3. 105. Đặng Anh Đào (1989), “Hoài niệm, mặc cảm và định kiến trong Những thiên đường mù”, Báo Văn nghệ (34), tr.7. 106. Đặng Anh Đào (1990), “Từ nguyên tắc đa âm tới một số hiện tượng văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học (6), tr.22 - 27. 107. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 108. Đặng Anh Đào (2006), “Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (8), tr.18 - 23. 109. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây - Tiếp nhận và giao thoa trong văn học, NXB Giáo dục. 110. Hữu Đạt, “Vài suy nghĩ về sự đổi mới của tiểu thuyết”, 111. Phan Cự Đệ (1984), “Mấy vấn đề của tiểu thuyết viết về đề tài chiến tranh cách mạng”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (9), tr.108 - 113. 112. Phan Cự Đệ (2000), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, NXB Giáo dục. 113. Phan Cự Đệ (2001), “Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (3), tr.99 - 107. 114. Trung Trung Đỉnh (2001), “Lạc rừng - Hồi ức tuổi trẻ của tôi”, Báo Văn nghệ (38), tr.3. 115. Phong Điệp (2008), “Tương lai tự truyện Việt Nam còn ở phía trước?”, Báo Văn nghệ (42) + (43), tr.34. 116. Nguyễn Đăng Điệp (2006), “Đi qua ranh giới để tồn tại”, Báo Văn nghệ (13), tr.6. 117. Phạm Văn Đồng (1994), Văn hóa và đổi mới, NXB Chính trị quốc gia. 118. Hà Minh Đức (cb) (1991), Mấy vấn đề lý luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới, NXB Sự thật. 119. Freud. S (2002), Nhập môn phân tâm học, (Nguyễn Xuân Hiến dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 120. Văn Giá, “Tấm ván phóng dao - sức sống của giá trị nhân văn cổ điển”, 121. Văn Giá, “Thử nhận diện loại tiểu thuyết ngắn ở Việt Nam những năm gần đây”, 122. Văn Giá (2006), “Sex với những xúc cảm thiêng liêng”, Tạp chí Sông Hương (11), tr.74 - 76. 123. Nguyễn Hương Giang (2001), “Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (4), tr.108 - 113. 124. Nguyễn Thị Hồng Giang, Vũ Lê Lan Hương, Võ Thị Thanh Hà (2007), Thế giới nghệ thuật Tạ Duy Anh, NXB Hội nhà văn. 125. Chu Giang Nguyễn Văn Lưu (1996), Luận chiến văn chương, NXB Văn học. 126. Grillet. A. R (1997), Vì một tiểu thuyết mới, (Lê Phong Tuyết dịch), NXB Hội nhà văn. 127. Nguyễn Hà, “Ngồi của Nguyễn Bình Phương”, 128. Nam Hà (1992), “Viết về đề tài chiến tranh”, Báo Văn nghệ (33), tr.2 129. Nguyễn Hà (2000), Cảm hứng bi kịch nhân văn trong tiểu thuyết Việt Nam nửa sau thập niên 80, Tạp chí Văn học (3), tr.51 - 58. 130. Hồ Thế Hà (2006), “Văn học Việt Nam về đề tài chiến tranh - những giá trị và sáng tạo chưa kết thúc”, Tạp chí Sông Hương (3), tr.53 - 61. 131. Trần Thanh Hà (2005), “Từ phân tâm học tìm hiểu tính hiện đại thể hiện qua tiểu thuyết Thân phận của tình yêu của Bảo Ninh”, Tạp chí Sông Hương (5), tr.81 - 85. 132. Trần Thanh Hà (2008), Học thuyết S. Freud và sự thể hiện của nó trong văn học Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 133. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, Xưởng in giao thông, H. 134. Phạm Minh Hạc (cb) (2001), Nghiên cứu con người: đối tượng và những hướng chủ yếu, NXB Khoa học xã hội. 135. Hoàng Ngọc Hiến, “Rộng hơn đề tài gia đình”, 136. Hoàng Ngọc Hiến (1989),”Cách kể trong tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ (33), tr.6. 137. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Những ngả đường vào văn học, NXB Giáo dục. 138. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội nhà văn. 139. Phạm Hoa (1989), “Chim én bay - Một cách nhìn về chiến tranh”, Báo Văn nghệ (37), tr.6. 140. Nguyễn Hòa (1987), “Suy tư từ một “thời xa vắng”, Báo Văn nghệ (49) + (50), tr.7. 141. Nguyễn Hòa (2006), “Lịch sử - văn hóa và “sex” trong văn chương”, Báo Văn nghệ (21), tr.15, 17. 142. Nguyễn Hòa (2006), “Lịch sử - văn hóa và “sex” trong văn chương”, Báo Văn nghệ (23), tr.8 - 9. 143. Nguyễn Chí Hoan (2006), “Luận về anh hùng, về chiến thắng và về đồng đội”, Báo Văn nghệ (17) + (18), tr.26. 144. Nguyễn Chí Hoan (2006), “Trông thấy con người”, Báo Văn nghệ (52), tr.9. 145. Nguyễn Chí Hoan (2007), “Cõi nhân gian như cổ tích”, Báo Văn nghệ (Số tết), tr.17. 146. Nguyễn Chí Hoan, “Truyện: không là truyện, nhân vật: không là nhân vật, ấy là truyện”, 147. Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học (2006), Bình luận văn học, NXB Văn hóa Sài Gòn. 148. Nguyễn Thị Huệ (1997), “Tiểu thuyết của Nguyễn Mạnh Tuấn trong bước chuyển mình của văn học đầu những năm 80”, Tạp chí Văn học (11), tr.70 - 76. 149. Nguyễn Thị Huệ (2000), Những dấu hiệu đổi mới trong văn xuôi Việt nam từ 1980 - 1986, Thư viện Quốc gia Hà Nội.. 150. Mai Hương (1999), Văn học - một cách nhìn, NXB Khoa học xã hội. 151. Mai Hương (tuyển chọn và biên soạn) (2001), Nguyễn Minh Châu tài năng và sáng tạo nghệ thuật, NXB Văn hóa thông tin. 152. Mai Hương (2006), “Đổi mới tư duy văn học và đóng góp của một số cây bút văn xuôi”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (11), tr.3 - 14. 153. Hoài Hương (2008), “Đề tài lịch sử không xưa”, Báo Văn nghệ trẻ (44), tr.3. 154. Đoàn Hương (2004), Văn luận (Văn học Việt Nam và tư tưởng văn hóa phương Đông), NXB Hội nhà văn. 155. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, (Vũ Hoàng Địch, Trần Ngọc Vương dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 156. Phùng Ngọc Kiếm (1998), Con người trong truyện ngắn Việt Nam 1945 - 1975 (Bộ phận văn học cách mạng), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 157. Kundera. M (1998), Nghệ thuật tiểu thuyết, (Nguyên Ngọc dịch), NXB Đà Nẵng. 158. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975 - 2000, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 159. Nguyễn Khải (1984), “Văn xuôi trước yêu cầu của cuộc sống”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (1), tr.99 - 105. 160. Nguyễn Xuân Khánh (2001), “Về nghệ thuật viết tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ (38), tr.3. 161. Nguyễn Xuân Khánh, “Đọc Ba người khác của bác Tô Hoài”, 162. Nguyễn Quốc Khánh (2005), “Thi pháp huyền thoại sự kiện và vấn đề”, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật (4), tr.140 - 142. 163. Ma Văn Kháng (1998), “Tiểu thuyết, nghệ thuật khám phá cuộc sống”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (11), tr.82 - 85. 164. Khoa Văn học và ngôn ngữ (2007), Huyền thoại và văn học, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 165. Khrapchenko. M. B (1984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, (Nguyễn Hải Hà, Lại Nguyên Ân, Duy Lập dịch), NXB Khoa học xã hội. 166. Khrapchenko. M. B (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, (Trần Đình Sử tuyển chọn và giới thiệu), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 167. Thụy Khuê, “Phạm Thị Hoài, Thiên sứ”, 168. Tương Lai (1983), “Phạm trù người của triết học Mác xít và nghiên cứu văn học”, Tạp chí Văn học (3), tr.9 - 14. 169. Thạch Lam (1962), Theo dòng, Nxb Đời nay, Sài Gòn. 170. Tôn Phương Lan (1994), “Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi được giải”, Tạp chí Văn học, (12), tr.14 - 16. 171. Tôn Phương Lan (2001), “Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Văn học, (9), tr.43 - 48. 172. Lã Duy Lan (2001), Văn xuôi viết về nông thôn tiến trình và đổi mới, NXB Khoa học xã hội. 173. Phong Lê (1983), “Văn học Việt Nam những năm 80”, Tạp chí Văn học (3), tr.66 - 72. 174. Phong Lê (1986), “Con người mới và nhân vật tích cực - mục tiêu theo đuổi và nhận diện của văn học chúng ta”, Tạp chí Văn học (1), tr.26 - 32. 175. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, NXB Hội nhà văn. 176. Phong Lê (2005), “Từ cuộc thi tiểu thuyết 2002 - 2004 của Hội nhà văn Việt Nam”, Báo Văn nghệ (38), tr.6 - 7. 177. Thủy Lê, “Với tôi, văn chương là những chuyến đi”, 178. Nguyễn Trường Lịch (1997), “Huyền thoại và sức sống của huyền thoại trong văn chương xưa và nay”, Tạp chí Văn học (5), tr.33 - 43. 179. Nguyễn Trường Lịch (2007), “Đổi mới tiểu thuyết trong bối cảnh giao lưu văn hóa”, Báo Văn nghệ (4), tr.8. 180. Nguyễn Văn Linh (1987), “Nói chuyện với văn nghệ sĩ”, Báo Văn nghệ (42), tr.3. 181. Tiểu Linh, “Ám ảnh trăng và máu trong Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, 182. Mai Quốc Liên (2003), “Tôi đã viết Sông Côn mùa lũ như thế nào”, Báo Văn nghệ (20), tr.7. 183. Nguyễn Văn Long (1991), “Bức tranh làng quê và những số phận”, Báo Văn nghệ (12), tr.3. 184. Nguyễn Văn Long (2003), Tiếp cận và đánh giá văn học Việt nam sau cách mạng tháng Tám, NXB Giáo dục. 185. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, NXB Giáo dục. 186. Lotman. Iu. M (2007), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, (Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Hội. 187. Phương Lựu (1996), “Tản mạn về văn nghệ với tính dục”, Tạp chí Văn học (3), tr.7 - 11. 188. Phương Lựu (2001), “Tìm hiểu trực giác và vô thức trong tư duy nghệ thuật”, Tạp chí Văn học (2), tr.17 - 23. 189. Phương Lựu, “Bước đầu tìm hiểu thi pháp hậu hiện đại”, 190. Nguyễn Đăng Mạnh (cb) (1995), Một thời đại mới trong văn học, NXB Văn học. 191. K.Marx và F.Engel (1987), Con người - Những ý kiến mới về một đề tài cũ, (An Mạnh Toàn dịch) Tập 2, NXB Sự thật. 192. Meletinsky. E. M (2004), Thi pháp của huyền thoại, (Trần Nho Thìn, Song Mộc dịch), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 193. Hoài Nam (2008), “Bàn về tiểu thuyết lịch sử”, Báo Văn nghệ (45), tr.22. 194. Hoài Nam, “Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam: truyện kể hay tiểu thuyết”, 195. Đỗ Hải Ninh, “Khuynh hướng tự truyện trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, 196. Đỗ Hải Ninh (2009), “Quan niệm về lịch sử trong tiểu thuyết của Nguyễn Xuân Khánh”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (2), tr.48 - 57. 197. Nhà xuất bản văn học (1998), 50 năm nhà xuất bản văn học, NXB Văn học. 198. Vương Trí Nhàn (1986), “Số phận của tiểu thuyết: Lý thuyết không xám, lý thuyết cũng xanh tươi”, Tạp chí Văn học (2), tr.119 - 123. 199. Vương Trí Nhàn (1987), “Một đóng góp vào việc nhận diện con người Việt Nam hôm nay”, Báo Văn nghệ (49) + (50), tr.7, 15. 200. Vương Trí Nhàn (2007), “Đề tài lịch sử cảm hứng sáng tạo”, Báo Văn nghệ (16), tr.10. 201. Phùng Quý Nhâm (2000), “Cái nhìn của nhân vật”, Tạp chí Văn học (10), tr.28 - 30. 202. Trần Thị Mai Nhân (2008), Những đổi mới trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 - 2000, Thư viện Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh. 203. Trần Thị Mai Nhi (1994), Văn học hiện đại - Văn học Việt Nam giao lưu - gặp gỡ, NXB Văn học. 204. Nhiều tác giả (tổng thuật và lược dịch) (1988), Một số vấn đề tiểu thuyết hiện đại, NXB Thông tin Khoa học xã hội. 205. Nhiều tác giả (1990), “Thảo luận về tiểu thuyết Đám cưới không có giấy giá thú”, Báo Văn nghệ (6), tr.2, 6 - 7. 206. Nhiều tác giả (1990), “Trao đổi về Lời nguyền hai trăm năm - tiểu thuyết của Khôi Vũ”, Báo Văn nghệ (29), tr.6. 207. Nhiều tác giả (1991), “Thảo luận về tiểu thuyết Mảnh đất lắm người nhiều ma”, Báo Văn nghệ (11), tr.6 - 7, 14. 208. Nhiều tác giả (1991), “Thảo luận về tiểu thuyết Thân phận tình yêu”, Báo Văn nghệ (37), tr.6 - 7, 14. 209. Nhiều tác giả (1992), “Trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai”, Báo Văn nghệ (29), tr.6. 210. Nhiều tác giả (1995), “Văn học Việt Nam sau 50 năm và trước 5 năm”, Tạp chí Văn học (4), tr.5 - 13. 211. Nhiều tác giả (1997), Văn học 1975 - 1985, tác phẩm và dư luận, NXB Hội nhà văn. 212. Nhiều tác giả (1999), 50 năm văn học Việt Nam sau cách mạng tháng Tám, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 213. Nhiều tác giả (2000), “Hội thảo về tiểu thuyết Hồ Quý Ly”, Báo Văn nghệ (41), tr.6 - 7. 214. Nhiều tác giả (2001), “Các nhà văn bàn về tiểu thuyết”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (2), tr.108 - 113. 215. Nhiều tác giả (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, NXB Giáo dục. 216. Nhiều tác giả (2002), Đổi mới tư duy tiểu thuyết, NXB Hội nhà văn, H. 217. Nhiều tác giả (2002), “Tọa đàm về tiểu thuyết Lạc rừng của Trung Trung Đỉnh”, Báo Văn nghệ (17) + (18), tr.16 - 17, 47. 218. Nhiều tác giả (2008), Lý luận văn học, NXB Giáo dục. 219. Nhiều tác giả (2006), Bình luận văn học, Hội nghiên cứu - giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh, NXB Văn hóa Sài Gòn. 220. Nhiều tác giả (2006), Những vấn đề mới trong nghiên cứu và giảng dạy văn học, Khoa Văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 221. Nhiều tác giả (2006), “Tọa đàm về tiểu thuyết Luật đời và cha con”, Báo Văn nghệ (17) + (18), tr.16 - 17, 47. 222. Tuyết Nga (2004), Phong cách văn xuôi Nguyễn Khải, NXB Hội nhà văn. 223. Nguyên Ngọc, “Văn xuôi Việt Nam hiện nay, logic quanh co của các thể loại, những vấn đề đang đặt ra và triển vọng”, 224. Phạm Xuân Nguyên (1991), “Phân tích tâm lý trong tiểu thuyết”, Tạp chí Văn học (2), tr.69 - 73. 225. Phạm Xuân Nguyên (sưu tầm và biên soạn) (2001), Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp, NXB Văn hóa thông tin. 226. Nguyễn Tri Nguyên (1995), “Huyền thoại cổ xưa mà mới mẻ”, Báo Văn nghệ (19), tr.3 227. Lã Nguyên (1999), “Khi nhà văn “đào bới bản thể ở chiều sâu tâm hồn”, Tạp chí Văn học (9), tr.63 - 72. 228. Mai Ngữ (1994), “Thử bàn về thế giới tâm linh”, Báo Văn nghệ (37), tr.14. 229. Mai Hải Oanh (2007), Những cách tân nghệ thuật trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 - 2006, Viện Văn học, H. 230. Thanh Phúc, “Tiểu thuyết đàn bà”, 231. Hồ Phương (1998), “Với tôi, khuynh hướng ngợi ca vẫn là chủ yếu”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (11), tr.85 - 87. 232. Hồ Phương (2001), “Có gì mới trong tiểu thuyết về đề tài chiến tranh hôm nay”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (4), tr.106 - 108. 233. Huỳnh Như Phương (1983), “Đứng trước biển”, Báo Văn nghệ (21), tr.3. 234. Huỳnh Như Phương (1988), “Cảm hứng phê phán trong văn chương hiện nay”, Báo Văn nghệ (24), tr.2 - 3. 235. Huỳnh Như Phương (1991), “Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ nền văn học”, Tạp chí Văn học (4), tr14 - 17. 236. Anh Quyên (2007), “Mất tích hay chạy trốn sự cô độc?”, Báo Văn nghệ (2), tr.12. 237. Trần Đình Sử (2000), Lý luận và phê bình văn học (những vấn đề và quan niệm hiện đại), NXB Giáo dục. 238. Trần Đình Sử (2001), “Mấy vấn đề trong quan niệm con người của văn học Việt Nam”, Tạp chí Văn học (8), tr.6 - 13. 239. Trần Đình Sử (cb) (2004), Tự sự học - Một số vấn đề lý luận và lịch sử Tập 1, NXB Đại học Sư phạm. 240. Trần Đình Sử (2005), Tuyển tập Trần Đình Sử Tập 2, NXB Giáo dục. 241. Todorov (2004), M. Bakhtin - nguyên lý đối thoại, (Đào Ngọc Chương dịch), NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. 242. Todorov (2008), Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, (Lê Hồng Sâm, Đặng Anh Đào dịch), NXB Đại học Sư phạm. 243. Todorov (2008), Thi pháp văn xuôi, (Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm dịch), NXB Đại học Sư phạm. 244. Nguyễn Chí Tình (1998), “Sự đổi mới về quan niệm nhân vật trong tiểu thuyết phương Tây hiện đại”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (11), tr.95 - 100. 245. Lê Thị Dục Tú (1997), Quan niệm về con người trong tiểu thuyết Tự lực văn đoàn, NXB Khoa học xã hội. 246. Nguyễn Văn Tùng (2005), “Milan Kundera và quan niệm về nghệ thuật tiểu thuyết”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (6), tr.99 - 110. 247. Hoàng Ngọc Tuấn, “Dục tính trong văn chương và vấn đề đạo đức”, 248. Hoàng Ngọc Tuấn, “Vấn đề cái mới trong tiểu thuyết thế kỷ XX”, 249. Lê Phong Tuyết (1995), Alain Robbe Grillet và sự đổi mới tiểu thuyết, NXB Khoa học xã hội. 250. Lê Phong Tuyết (2005), “Tiếp cận Genette qua một vài khái niệm trần thuật”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (5), tr.75 - 89. 251. Phùng Văn Tửu (2002), Tiểu thuyết Pháp hiện đại những tìm tòi đổi mới, NXB Khoa học xã hội. 252. Hoàng Minh Tường (2005), “Luật đời và cha con”, Báo Văn nghệ (49), tr.6. 253. Phạm Xuân Thạch, “Suy nghĩ từ những tiểu thuyết mang chủ đề lịch sử”, 254. Nguyễn Thị Minh Thái (2006), “Mười lẻ một đêm, cái nhìn hắt sáng từ phía sau”, Báo Văn nghệ (23), tr.6. 255. Vân Thanh (1986), “Một mảnh đời trong cuộc sống hôm nay qua Mùa lá rụng trong vườn”, Tạp chí Văn học (3), tr.159 - 162, 166. 256. Trần Khánh Thành (2004), “Những thông điệp từ lửa và nước”, Báo Văn nghệ (16), tr.6. 257. Bùi Việt Thắng (1991), “Văn xuôi gần đây và quan niệm con người”, Tạp chí Văn học (6), tr.17 - 20. 258. Bùi Việt Thắng (1991), “Ngọn nguồn những ràng buộc”, Báo Văn nghệ (12), tr.3, 7. 259. Bùi Việt Thắng (2000), Bàn về tiểu thuyết, NXB Văn hóa thông tin. 260. Bùi Việt Thắng (2006), Tiểu thuyết đương đại, NXB Quân đội nhân dân. 261. Phùng Gia Thế (2008), “Lý giải về sự khó đọc của tiểu thuyết hiện nay”, Báo Văn nghệ (48), tr.10. 262. Phùng Gia Thế, “Dấu ấn hậu hiện đại trong văn học Việt nam sau 1986”, 263. Đoàn Cầm Thi (2008), “Đọc Nguyễn Bình Phương”, Báo Văn nghệ, (48), tr.11. 264. Đoàn Cầm Thi, “Từ Thiếu nữ ngủ ngày, đọc Người đi vắng của Nguyễn Bình Phương, 265. Đoàn Cầm Thi, “Chiến tranh, tình yêu, tình dục trong văn học Việt Nam đương đại”, 266. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Giăng lưới bắt chim, NXB Hội nhà văn. 267. Xuân Thiều (1991), “Người và xe chạy dưới ánh trăng”, Báo Văn nghệ (4), tr.2. 268. Hữu Thỉnh (2005), “Cuộc tự vượt đáng trân trọng”, Báo Văn nghệ (37), tr.6, 14. 269. Nguyễn Huy Thông (2006), “Về cuốn tiểu thuyết Ngồi của Nguyễn Bình Phương”, Báo Văn nghệ (51), tr.9. 270. Lý Hoài Thu (2001), “Tiểu thuyết - tầm vóc hiện thực và số phận con người”, Tạp chí Văn nghệ quân đội (2), tr.105 - 108. 271. Bích Thu (1995), “Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống môtíp chủ đề”, Tạp chí Văn học (4), tr.24 - 28. 272. Bích Thu (2006), “Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới”, Tạp chí Nghiên cứu văn học (11), tr.15 - 28. 273. Đỗ Thị Minh Thúy (1989), “Từ Những thiên đường mù, nghĩ về sự phản ánh bi kịch xã hội”, Báo Văn nghệ (34), tr.6. 274. Đỗ Lai Thúy (bs) (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp (lý thuyết chủ nghĩa hình thức Nga), NXB Hội nhà văn. 275. Đỗ Lai Thúy (bs) (2002), Phân tâm học và văn hóa tâm linh, NXB Văn hóa thông tin. 276. Đỗ Lai Thúy (bs) (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa nghệ thuật. 277. Lộc Phương Thủy (cb) (2007), Lý luận - phê bình văn học thế giới thế kỷ XX Tập 2, NXB Giáo dục. 278. Khuất Quang Thụy (1989), “Sự thật về con người - một đòi hỏi khe khắt của nghệ thuật tiểu thuyết”, Báo Văn nghệ (32), tr.3. 279. Phan Trọng Thưởng (cb) (1999), Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học (1960 - 1999) Tập 3, NXB Thành phố Hồ Chí Minh. 280. Hoàng Trinh (1971), Phương Tây - văn học và con người, NXB Khoa học xã hội. 281. Hoàng Trinh (1992), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, NXB Khoa học xã hội. 282. Hồ Tôn Trinh (2003), Tác phẩm được giải thưởng Hồ Chí Minh, NXB Khoa học xã hội. 283. Hà Xuân Trường (1991), “Sự đổi mới thực sự trong văn học”, Báo Văn nghệ (49), tr.3. 284. Nguyễn Khoa Văn (1989), “Đọc tiểu thuyết Những mảnh đời đen trắng của Nguyễn Quang Lập”, Báo Văn nghệ (41), tr.6. 285. Verhaar John (1997), “Về chủ nghĩa hậu hiện đại” (Lộc Phương Thủy dịch), Tạp chí Văn học (5), tr.76 - 81. 286. Viculop. X (1987), “Yếu tố con người nó còn có những gì?”, (Bùi Hiển dịch), Báo Văn nghệ (13), tr.7. 287. Nguyễn Khắc Viện (1983), “Đứng trước biển”, Báo Văn nghệ (15), tr.3. 2. TIẾNG ANH 288. Anthony. J.Cascardi (1992), The subject of modernity, Cambridge University Press, 289. Dorothy. J.Hale (2006), The novel: an anthology of criticism and theory, 1990 - 2000, Wiley - Blackwell Press. 290. Lawrence Hogue. W (1996), Race, modernity, post modernity: a look at the history and the literatures of people of color since the 1960s, State University of New York Press, Albany, 291. Mark Currie (1998), Postmodern narrative theory, Mac Millan Press. 292. Michael McKeon (2000), Theory of the novel: a historical approach, John Hopkins University Press. 293. Steven Earnshaw (1996), The direction of literary theory, London. 294. Walker. R (1988), Language for literature, Collin Educational Press,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfcon_nguoi_trong_tieu_thuyet_vn_trong_thoi_ky_doi_moi_5882.pdf
Luận văn liên quan