I. Cơ sở lý luận:
1. Các khái niệm công cụ:
1.1 Trẻ em.
1.2 HIV/AIDS.
1.3 Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV
2. Mô tả nhóm đối tượng:
2.1 Đặc điểm sinh lý của trẻ bị nhiễm HIV/AIDS .
2.2 Đặc điểm tâm lý của trẻ bị nhiễm HIV/AIDS.
2.3 Nhu cầu của trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
3. Phản ứng của gia đình và xã hội|
3.1 Phản ứng tiêu cực.
3.2 Phản ứng tích cực.
4. Nguồn lực:
4.1 Nguồn lực khách quan.
4.2 Nguồn lực chủ quan.
5. Công tác xã hội và vai trò của nhân viên Công tác xã hội
với trẻ bị nhiễm HIV/AIDS:
5.1. Mục đích của công tác xã hội với trẻ bị HIV.
5.2 Mục đích đối với người trợ giúp – hoạt động của Công tác xã hội.
6. Hiện trạng.
7. Giải pháp Công tác xã hội.
1. Lý thuyết và kỹ năng áp dụng.
2. Tiến trình thực hiện.
II. Trường hợp cụ thể.
III. Kết luận.
23 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 9586 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công tác xã hội với trẻ bị ảnh hưởng bới HIV/AIDS, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến mua hàng bà ấy). Thực tế làm việc với các nhân viên xã hội trong các khoá tập huấn cho thấy: Các nhân viên xã hội thường có những đánh giá tích cực, thể hiện thái độ thiện chí với người nhiễm, hoặc thường nói đến những tình cảm cao đẹp mà xã hội cần đạt tới, như: "Cần phải thương yêu trẻ này", "Cần phải tôn trọng các cháu đó", "Cần phải coi trẻ này như con cái mình", "Không nên kỳ thị các em" .v.v…. và họ rất ít nói về những thái độ tiêu cực của bản thân, cộng đồng; những lo sợ bị lây nhiễm cũng như những định kiến của cộng đồng đối với trẻ bị HIV/AIDS. Tuy nhiên, các cuộc thảo luận nhóm đều cho thấy có sự khác nhau rất lớn giữa những mong muốn điều tốt lành cho trẻ HIV và thực tế biểu hiện những cảm xúc, hành vi âm tính của họ. Điều này thể hiện rất rõ khi những người nuôi trẻ, những người có trách nhiệm giám sát trẻ mô tả cảm xúc, suy nghĩ của mình đối với các cháu bị nhiễm HIV/AIDS, như: "Cảm thấy lo sợ bị lây", "Rùng mình”, “Hạn chế tiếp xúc", "Cảm thấy công việc vô vọng", "Quả báo của mình", "Mong cha mẹ nó rước về"... Đứng trước người bị nhiễm HIV/AIDS, nếu chúng ta cảm thấy sợ hãi, ghê tởm, lo lắng bị lây nhiễm, về vô thức chúng ta thường có hành động né tránh, phớt lờ và chỉ tiếp xúc khi cần thiết. Khi chúng ta cảm thấy bối rối trước người bị nhiễm, ta dễ có những thái độ biểu hiện cười, nói, hành vi không đúng với tâm trạng và hoàn cảnh, hoặc chúng ta sẽ lánh xa, rủa, hạn chế trò chuyện trực tiếp và hỏi chuyện của họ qua người khác. Trước người có HIV ta cảm thấy bất lực vì cho là không thể giúp đỡ được, ta sẽ làm căng thẳng vấn đề của họ, tỏ ra thương hại hoặc bực bội với họ một cách vô cớ. Khi chúng ta cho rằng người bị HIV/AIDS không có khả năng ứng phó, không sống tích cực, không chịu trách nhiệm với bản thân và xã hội, chúng ta dễ coi thường người nhiễm, tự quyết định việc của họ mà không hỏi ý kiến họ… Khi xem xét thái độ của cộng đồng về khả năng hoà nhập học tập của trẻ bị nhiễm với các trẻ em khác, một cô giáo cho biết: " Trẻ nhiễm HIV nên được học tập, vui chơi với các trẻ khác, nhưng tôi làm sao dám đảm bảo là sẽ không có gì nguy hiểm với các trẻ khác. Tôi thì không có gì phản đối, nhưng chẳng cha mẹ học sinh nào đồng ý cả. (Trích lời của một cô giáo nói về trường hợp giả định trong lớp học của cô có trẻ em nhiễm HIV). Tuy chưa có nhiều người thực lòng thương yêu thương và chăm sóc trẻ có HIV như con mình, nhưng chúng tôi cũng tìm được những người mẹ thứ 2 của trẻ – những người hàng ngày bồng bế, bón cơm, chăm sóc trẻ thay cho cha mẹ chúng. Như chị H. (Nhân viên chăm sóc các cháu bé bị HIV sơ sinh quận Gò Vấp, TP HCM) mộc mạc chia sẻ: " Nếu nhiều người trong xã hội đều không sợ hãi trẻ bị HIV thì cuộc sống của chúng chắc sẽ còn được kéo dài thêm. Trẻ nhiễm HIV dù không được cha mẹ, người lớn quan tâm nhiều như trẻ em trong các gia đình, nhưng chúng vẫn vô tư, hồn nhiên. Tôi thương chúng như con mình. Tôi muốn có thêm nhiều hiểu biết về tình cảm của các cháu này để biết cách chăm sóc các cháu." Hiện nay, thái độ của cộng đồng, của những người nuôi dưỡng các cháu bị nhiễm HIV/AIDS thể hiện ở những mức độ khác nhau và phát triển theo các giai đoạn khác nhau. Thường bắt từ sự định kiến, phủ nhận các cháu và căn bệnh, rồi chuyển dần đến giai đoạn chấp nhận sự hiện diện của các cháu với một thái độ dè dặt, sau đó là muốn thử giúp đỡ, chăm sóc các cháu. Kinh nghiệm tập huấn về Hỗ trợ tâm lý cho trẻ em bị nhiễm HIV/AIDS cho thấy: phần lớn những thái độ tiêu cực của cộng đồng đối với trẻ em bị nhiễm HIV/AID đều xuất phát từ sự hiểu biết không đầy đủ về HIV/AIDS, nguồn gốc phát sinh và quá trình tiến triển của căn bệnh này. Việc xác định được mức độ định kiến của cộng đồng và cung cấp thông tin chính xác về căn bệnh này sẽ làm giảm sự sợ hãi, xa lánh, khinh bỉ của cộng đồng với người bị ảnh hưởng.Qua việc tiếp xúc với các cháu bị nhiễm HIV/AIDS và các nhân viên trợ giúp các cháu tại các trung tâm bảo trợ xã hội, chúng tôi rút ra một điểm chung cần nhấn mạnh đối với cộng đồng là: Những người bị nhiễm HIV (trong đó có trẻ em bị nhiễm HIV), họ có thể tự đương đầu với bệnh tật một cách thích đáng. Nhưng họ khó có thể vượt qua được rào cản tâm lý xã hội để có được 1 cuộc sống bình thường như mọi người. Rào cản đó là sự khinh rẻ, kỳ thị, sự sợ hãi của nhiều người đối với người nhiễm. Vì vậy, ngăn ngừa thái độ tiêu cực và phân biệt ứng xử với người bị nhiễm HIV/AIDS phải được bắt đầu từ chính thái độ của các nhân viên xã hội, các bác sỹ, các nhà giáo dục, những người thân trong gia đình người bị nhiễm HIV/AIDS... và cả cộng đồng.Trẻ nhiễm HIV sẽ được chăm sóc ở đâu?Các thảo luận của chúng tôi về vấn đề này thường được bàn luận theo hai hướng. Cán bộ ở các Trung tâm nuôi dưỡng trẻ em khó khăn có xu hướng bảo vệ quan điểm cho rằng trẻ bị nhiễm cần được nuôi dưỡng trong các Trung tâm xã hội. Theo họ, ở đó có các y, bác sỹ họ chăm sóc sức khoẻ cho các cháu tốt hơn ở cộng đồng, rằng chế độ dinh dưỡng của các cháu cũng được lưu ý hơn, rằng các cháu sẽ có bạn – "Bạn giúp bạn" nên đỡ buồn tủi hơn. v.v… Trong khi đó, những gia đình nhận nuôi dạy các cháu bị nhiễm thì cho rằng các cháu cần được tái hoà nhập cộng đồng để không bị phân biệt đối xử, rằng các cháu cần có một mái ấm gia đình thực sự, cần tình yêu thương, đối xử thật sự như con cái trong nhà. Nhìn chung các nhân viên xã hội đều hiểu rằng việc đưa trẻ em bị nhiễm HIV về cộng đồng nhờ các gia đình chăm xóc là tốt nhất cho trẻ. Trong thực tế hiện nay của Việt nam, theo chúng tôi, tuỳ vào từng hoàn cảnh và điều kiện của các cơ sở mà chúng ta có những hình thức quản lý các cháu khác nhau. Cách nào cũng có mặt tích cực, cũng đáng trân trọng.Chúng tôi xin giới thiệu các hình thức chăm sóc trẻ bị nhiễm HIV/AIDS khác nhau trên thế giới [3]:· Trẻ sống với gia đình, họ hàng (giải pháp tốt nhất).· Trẻ sống trong nhà nuôi dưỡng có hệ thống giám sát để đảm bảo trẻ em được chăm sóc tốt.· Trẻ sống với cha mẹ nuôi để chăm sóc các em như là một nhóm gia đình trong cộng đồng.· Đứa trẻ lớn nhất quản lý gia đình và chăm sóc những đứa em bé hơn dưới sự hỗ trợ của cộng đồng.· Gửi trẻ đến trại mồ côi (giải pháp cuối cùng). Hỗ trợ các kỹ năng tâm lý xã hội cho cán bộ xã hội đang trực tiếp nuôi trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS có liên quan đến việc tuyên truyền, thuyết phục những người thân trong gia đình trẻ, cộng đồng, xã hội hiểu được bản chất của HIV, nhìn nhận HIV như là một căn bệnh hiểm nghèo như bao bệnh khác hơn là coi đó là tệ nạn xã hội hoặc là kết quả của tệ nạn xã hội. Chỉ có như vậy chúng ta mới có thái độ thiện chí và đối xử công bằng với những người bị ảnh hưởng, để không coi người bị ảnh hưởng là thù địch trong cộng đồng. Điều này liên quan trực tiếp đến thái độ tích cực của những người đang làm việc trong các hệ thống truyền thông đại chúng trong việc tuyền truyền nâng cao nhận thức xã hội về căn bệnh này. Cần tạo nên một dư luận đúng đắn trong cộng đồng về bệnh HIV/AIDS và người bị ảnh hưởng để giúp cộng đồng thay đổi định kiến và ứng xử với người bị HIV/AIDS. ĐIều này liên quan đến tuổi thọ của người bệnh, hạn chế sự đổ bệnh của họ và đặc biệt làm vơi đi nỗi đau đớn về thể xác và tình thần của người bị HIV. Tài liệu tham khảo 1. Grace Ndeezi, The international newsletter on HIV/AIDS prevention and care, AIDS action, Asia-Pacific EDITION, July-December 1999.2. AIDS và quyền trẻ em, bản tin AIDS Net, phần 1, số 1.3. Hội thảo về "Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và cộng đồng", hội nghị AIDS thế giới lần thứ 12 ở Gênva, Thuỵ sỹ – 1998 -Trích kết luận và khuyến nghị. PGS, TS. Trần Thị Minh Đức TS. Nguyễn Trà Vinh
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Số: 84/2009/QĐ-TTg
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
----- o0o -----
Hà Nội , Ngày 04 tháng 06 năm 2009
2 QUYẾT ĐỊNH
Phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Căn cứ Luật Tổ chức Chính phủ ngày 25 tháng 12 năm 2001;Căn cứ Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em ngày 15 tháng 6 năm 2004;Căn cứ Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS) ngày 29 tháng 6 năm 2006;Căn cứ Nghị định số 108/2007/NĐ-CP ngày 26 tháng 6 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người (HIV/AIDS);Xét đề nghị của Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội,
QUYẾT ĐỊNH:
Điều 1. Phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, với những nội dung chủ yếu sau đây:
1. Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, bao gồm:
a) Trẻ em nhiễm HIV.
b) Trẻ em có nguy cơ cao nhiễm HIV:
- Trẻ em mồ côi do bố và mẹ hoặc bố hoặc mẹ chết vì lý do liên quan đến HIV/AIDS;
- Trẻ em sống với bố, mẹ hoặc người nuôi dưỡng nhiễm HIV;
- Trẻ em sử dụng ma túy;
- Trẻ em bị xâm hại tình dục;
- Trẻ em là con của người mua dâm, bán dâm, sử dụng ma túy;
- Trẻ em là nạn nhân của tội mua bán người;
- Trẻ em lang thang;
- Trẻ em mồ côi do các nguyên nhân khác;
- Trẻ em sống trong các cơ sở bảo trợ xã hội; cơ sở giáo dục, trường giáo dưỡng.
2. Tầm nhìn đến năm 2020:
- Nâng cao nhận thức và hành động cho toàn xã hội về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Giai đoạn 2011 - 2020, Nhà nước tiếp tục chỉ đạo, đầu tư và đẩy mạnh phối hợp liên ngành trong công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Bảo đảm trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được chăm sóc, tư vấn thích hợp, tiếp cận với giáo dục hoặc được hỗ trợ học nghề, hưởng các chính sách xã hội theo quy định hiện hành, được sống an toàn cùng với bố, mẹ, anh, chị, em ruột hoặc người thân trực hệ hoặc được sống ở những cơ sở chăm sóc thay thế; trẻ em nhiễm HIV trong diện quản lý được chẩn đoán, điều trị các bệnh có liên quan đến HIV/AIDS.
3. Các mục tiêu cụ thể đến năm 2010:
a) Mục tiêu 1: tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, chính sách xã hội cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chỉ tiêu đến năm 2010: ít nhất 50% trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chính sách xã hội theo quy định hiện hành.
b) Mục tiêu 2: hình thành các dịch vụ cần thiết có chất lượng cao và thân thiện đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chỉ tiêu đến năm 2010:
- 100% trẻ em nhiễm HIV trong diện quản lý được chăm sóc, điều trị, tư vấn thích hợp;
- 100% phụ nữ nhiễm HIV trong thời kỳ mang thai, trẻ em dưới sáu tuổi nhiễm HIV được Nhà nước cấp miễn phí thuốc kháng HIV; 100% trẻ sơ sinh là con của bà mẹ nhiễm HIV được xét nghiệm phát hiện HIV ngay sau khi chào đời;
- 50% cơ sở chẩn đoán, chăm sóc, điều trị cho người lớn nhiễm HIV có lồng ghép các dịch vụ nhi khoa trong chẩn đoán, chăm sóc, điều trị cho trẻ em nhiễm HIV;
- Ít nhất 30% trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được cung cấp các dịch vụ chăm sóc tâm lý - xã hội; chăm sóc tại gia đình và cộng đồng; tư vấn và xét nghiệm HIV; hỗ trợ dinh dưỡng và phát triển thể chất; tiếp nhận và chăm sóc tại các cơ sở giáo dục mầm non công lập cho trẻ em lứa tuổi mầm non;
- 50% cơ sở giáo dục có bố trí nhân viên y tế có khả năng tư vấn cho trẻ em nhiễm HIV;
- Ít nhất 50% trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được chăm sóc thay thế dựa vào gia đình, cộng đồng;
- 50% cơ sở nuôi dưỡng trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được hỗ trợ để thực hiện các dịch vụ dự phòng lây nhiễm HIV, chăm sóc trẻ em nhiễm HIV.
c) Mục tiêu 3: cải thiện cơ chế cung cấp thông tin, giáo dục, chăm sóc, điều trị, tư vấn cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chỉ tiêu đến năm 2010:
- 50% cơ sở nuôi dưỡng trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, cơ sở chăm sóc và điều trị trẻ em nhiễm HIV được cung cấp kiến thức về phòng, chống HIV/AIDS cho trẻ em.
- 50% tổ chức xã hội hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được cung cấp kiến thức và hướng dẫn về bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS;
- 50% cán bộ quản lý trẻ em nhiễm HIV tại cộng đồng, nhóm tự lực, trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS từ đủ mười ba tuổi trở lên, người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, cơ sở dịch vụ xã hội và tổ chức xã hội được cung cấp thông tin về các dịch vụ chăm sóc, tư vấn, về chính sách xã hội hiện hành và các quy trình cung cấp dịch vụ cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
d) Mục tiêu 4: tạo môi trường xã hội thuận lợi cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chỉ tiêu đến năm 2010:
- Ít nhất 70% nhà quản lý làm việc với trẻ em trong lĩnh vực y tế, giáo dục và đào tạo, lao động - thương binh và xã hội, các nhà cung cấp dịch vụ cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS có kiến thức cơ bản về dự phòng lây nhiễm HIV, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người và các văn bản quy phạm pháp luật khác liên quan;
- Ít nhất 50% phụ huynh, học sinh, giáo viên của các cơ sở giáo dục được cung cấp thông tin về các biện pháp dự phòng lây nhiễm HIV, kiến thức cơ bản về quyền của trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS;
- Ít nhất 50% trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS không bị kỳ thị và phân biệt đối xử khi tiếp cận các dịch vụ y tế, giáo dục và các dịch vụ xã hội khác.
đ) Mục tiêu 5: cải thiện hệ thống theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Chỉ tiêu đến năm 2010: Hoàn thiện hệ thống theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
4. Các hoạt động chủ yếu:
a) Nghiên cứu, rà soát, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật và văn bản hướng dẫn về công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS:
- Rà soát để sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, ban hành mới các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS;
- Rà soát, xây dựng và ban hành văn bản hướng dẫn về cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục, trợ cấp xã hội cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; về sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước và các tổ chức xã hội trong việc cung cấp dịch vụ xã hội cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; về chống kỳ thị và phân biệt đối xử trong hệ thống y tế, giáo dục và phúc lợi xã hội đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; về hoạt động của các nhóm tự lực những người nhiễm HIV.
- Xây dựng và ban hành văn bản về cơ chế chuyển tuyến giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập trong chẩn đoán, điều trị trẻ em nhiễm HIV; hướng dẫn lồng ghép trong chẩn đoán, chăm sóc, điều trị cho trẻ em nhiễm HIV với người lớn nhiễm HIV tại các cấp; quy trình chăm sóc liên tục đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
b) Thiết lập các dịch vụ bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS:
- Tăng cường thực hiện các dịch vụ hiện có về phòng, chống lây nhiễm HIV từ mẹ sang con, phát hiện sớm, chăm sóc, điều trị, tư vấn về HIV/AIDS cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Cung cấp, hỗ trợ và nhân rộng các dịch vụ cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS về chăm sóc tâm lý - xã hội; về chăm sóc tại gia đình, cộng đồng; về tư vấn và xét nghiệm HIV; về hỗ trợ dinh dưỡng và phát triển thể chất; về nhận và chăm sóc tại các cơ sở giáo dục mầm non công lập cho trẻ em lứa tuổi mầm non.
- Cung cấp, hỗ trợ, kiểm tra việc thực hiện các quy trình chuyển tuyến giữa các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh công lập trong chẩn đoán, điều trị trẻ em nhiễm HIV, quy trình chăm sóc liên tục đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Cung cấp và kiểm tra việc thực hiện các dịch vụ dự phòng, chẩn đoán, chăm sóc, điều trị trẻ em nhiễm HIV ở các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em.
- Cung cấp kiến thức về chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cho gia đình, cộng đồng và cán bộ y tế ở các trường học, trung tâm dạy nghề, cơ sở bảo trợ xã hội.
c) Cung cấp thông tin, kiến thức về bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS:
- Cung cấp thông tin, kiến thức cho người làm công tác quản lý trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, ưu tiên người làm việc trực tiếp với trẻ em nhiễm HIV và trẻ em có nguy cơ cao nhiễm HIV.
- Xây dựng cơ chế tăng cường phổ biến thông tin về các dịch vụ, chính sách xã hội có liên quan đến trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
d) Xây dựng môi trường xã hội thuận lợi để trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS được tiếp cận với các dịch vụ xã hội và được tham gia các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS:
- Xây dựng tài liệu nâng cao kiến thức cho đối tượng có liên quan về sự lây truyền HIV, các biện pháp dự phòng, chống kỳ thị và phân biệt đối xử, quyền trẻ em và trách nhiệm xã hội đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Nội dung tập huấn của các nhà cung cấp dịch vụ có liên quan phải được lồng ghép các nội dung về chống kỳ thị và phân biệt đối xử, quyền trẻ em và trách nhiệm xã hội đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Xây dựng tài liệu giáo dục ngoại khóa về phòng, chống HIV/AIDS, sức khỏe sinh sản, tiến tới hoàn thiện để lồng ghép vào chương trình giảng dạy của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Tạo điều kiện cho người bị nhiễm HIV tham gia một số hoạt động về phòng, chống HIV/AIDS cho trẻ em do ngành Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội tổ chức.
đ) Hoàn thiện hệ thống thông tin, kiểm tra, đánh giá tình hình trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS:
- Hoàn thiện các chỉ số theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Tổ chức tập huấn cho công chức, viên chức làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS của ngành Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội trong việc sử dụng các công cụ theo dõi, kiểm tra, đánh giá tình hình trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
5. Các giải pháp thực hiện:
a) Giải pháp về xã hội:
- Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng, sự chỉ đạo của các cấp chính quyền đối với công tác dự phòng, chăm sóc, tư vấn cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Các ngành Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội và các ngành liên quan có trách nhiệm tổ chức và phát triển các dịch vụ xã hội cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Khuyến khích các tổ chức, cá nhân, người nhiễm HIV và gia đình của người nhiễm HIV tham gia hoạt động dự phòng, chăm sóc, tư vấn cho trẻ em có nguy cơ cao nhiễm HIV; hoạt động dự phòng, chăm sóc, điều trị, tư vấn cho trẻ em nhiễm HIV.
- Tăng cường và hỗ trợ các hoạt động chống kỳ thị, phân biệt đối xử đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS theo Luật Phòng, chống nhiễm vi rút gây ra hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người.
- Nâng cao kiến thức về pháp luật, chính sách, thông tin về dịch vụ cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, các tổ chức xã hội và cá nhân đang hoạt động trong lĩnh vực bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
b) Giải pháp về kỹ thuật:
- Nghiên cứu, xây dựng và ban hành các quy trình kỹ thuật, hướng dẫn các tiêu chuẩn dịch vụ thiết yếu, bổ sung các dịch vụ chưa có và dịch vụ chất lượng cao về phòng ngừa, chăm sóc, điều trị cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Xây dựng, hướng dẫn và nâng cao năng lực của các nhà cung cấp dịch vụ, các tổ chức xã hội về nhận biết và đánh giá nhu cầu của trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Cung cấp trang thiết bị thiết yếu cho các ngành Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Lao động - Thương binh và Xã hội để thực hiện những dịch vụ hỗ trợ tư vấn, truyền thông, dự phòng, chăm sóc, điều trị cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và cho người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
c) Giải pháp nâng cao năng lực quản lý:
- Nâng cao năng lực chuyên môn của những người cung cấp dịch vụ xã hội trong việc dự phòng, chăm sóc, điều trị, tư vấn cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Kiểm tra và đánh giá chất lượng các dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị, tư vấn cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
- Cải thiện hệ thống thu thập dữ liệu về dịch vụ dự phòng, chăm sóc, điều trị, tư vấn cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS và người chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
d) Giải pháp về huy động nguồn lực:
Kinh phí thực hiện Kế hoạch hành động đến năm 2010: được huy động từ các nguồn vốn (ngân sách trung ương, ngân sách địa phương, vốn viện trợ quốc tế, vốn huy động cộng đồng và các nguồn vốn hợp pháp khác); được lồng ghép trong Dự án phòng, chống HIV/AIDS thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010; được bố trí trong dự toán chi ngân sách hàng năm của các Bộ, cơ quan Trung ương có liên quan và các địa phương theo quy định hiện hành.
Điều 2. Tổ chức thực hiện
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Y tế, các Bộ, ngành có liên quan và Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch hành động; điều phối, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra tình hình thực hiện Kế hoạch hành động; bảo đảm các dịch vụ về phúc lợi xã hội cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; tổ chức đánh giá tình hình thực hiện Kế hoạch hành động, báo cáo Thủ tướng Chính phủ trong quý III năm 2010; xây dựng Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS giai đoạn 2011 - 2020, trình Thủ tướng Chính phủ trong quý IV năm 2010.
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội lồng ghép các hoạt động của Kế hoạch hành động với các hoạt động của các chương trình hợp tác quốc tế liên quan đến phòng, chống HIV/AIDS.
3. Bộ Tài chính chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn và kiểm tra các Bộ, ngành có liên quan và các địa phương sử dụng các nguồn kinh phí để thực hiện Kế hoạch hành động.
4. Bộ Y tế chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai các nội dung về chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS; lồng ghép việc thực hiện các nội dung có liên quan đến chăm sóc sức khoẻ cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS của Kế hoạch hành động đến năm 2010 với việc thực hiện Dự án phòng, chống HIV/AIDS thuộc Chương trình mục tiêu quốc gia phòng, chống một số bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS giai đoạn 2006 - 2010.
5. Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội triển khai các nội dung về giáo dục có liên quan đến trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS của Kế hoạch hành động.
6. Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương tổ chức triển khai thực hiện Kế hoạch hành động tại địa phương; tổng hợp tình hình thực hiện Kế hoạch hành động gửi Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội để báo cáo Thủ tướng Chính phủ.
Điều 3. Hiệu lực và trách nhiệm thi hành
1. Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25 tháng 7 năm 2009.
2. Các Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm thi hành Quyết định này./.
KT. THỦ TƯỚNG
PHÓ THỦ TƯỚNG
(Đã ký)
Trương Vĩnh Trọng
3 Đại dịch HIV/AIDS đã tác động và đe doạ đến mọi mặt trong đời sống kinh tế - xã hội và đang từng bước lan ra các nhóm dân cư trong cộng đồng, trong đó trẻ em là đối tượng chịu hậu quả nặng nề nhất, bị cướp đi những quyền mà lẽ ra các em phải được hưởng, các em không có điều kiện học tập, vui chơi giải trí và tham gia các hoạt động xã hội, hoạt động tập thể với các bạn bè cùng lứa tuổi; bị mất đi cơ hội được tham gia bàn bạc, tiếp thu và quyết định các vấn đề liên quan đến cuộc sống, nâng cao sự hiểu biết hoặc đề xuất những mong muốn và những vấn đề liên quan đến tương lai của chính mình.
Thực trạng trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS ở Việt Nam Hàng năm, nước ta có khoảng 2 triệu phụ nữ mang thai. Theo thống kê, tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm phụ nữ mang thai là 0,39% - 0,42%. Như vậy, ước tính mỗi năm có hàng ngàn phụ nữ mang thai nhiễm HIV. Theo các kết quả nghiên cứu, tỷ lệ lây nhiễm từ mẹ sang con tại Việt Nam vào khoảng 30% - 40% (nếu người mẹ đã nhiễm HIV không được điều trị ARV), như vậy ước tính số lượng trẻ sơ sinh bị nhiễm HIV hàng năm có khoảng 400 - 600 em. Dự báo đến năm 2010, nước ta có khoảng 350.970 người nhiễm HIV, trung bình mỗi năm có thêm khoảng từ 20.000 đến 30.000 trường hợp nhiễm mới(05). Như vậy, tình hình trẻ nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS, đặc biệt là tỷ lệ trẻ nhiễm HIV bị bỏ rơi, bị mồ côi sẽ vẫn tiếp tục tăng trong những năm tới. Bảng dưới đây thể hiện các thông số về số trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV (nguồn dữ liệu cập nhật đến tháng 12/2007). Nhóm dễ bị tổn thương Số lượng Nguồn Số ước tính trẻ em nhiễm HIV 3.818 (từ 2.536– 6.110) UNAIDS (12/2007) Số ước tính TE bị ảnh hưởng (không gồm trẻ có nguy cơ cao nhiễm HIV) 283.667 Bộ LĐTBXH, 2003 Trẻ mồ côi - Cả hai cha mẹ - Mồ côi mẹ - Mồ côi cha 143.000 25% 43% 34% Bộ LĐTBXH, 2007 1.276.000 Tổng cục thống kê, 2007 Trẻ mồ côi do HIV 68.874(từ 36.695 -138.570) UNAIDS (12/2007) Trẻ đường phố 16.000 Bộ LĐTBXH, 2007 Trẻ sử dụng ma túy 4.640-12.200 Bộ LĐTBXH, Báo cáo Bảo trợ xã hội thường niên, 2004 Trẻ tham gia vào hoạt động mua bán dâm 15.000-20.000 WCO, 2006 Trẻ sống trong các trung tâm bảo trợ 14,575 Bộ LĐTBXH, 2007 Trẻ bị buôn bán 7.000 Bộ LĐTBXH/Hunter, 2003 Trẻ nhập cư hoặc di cư tự do (tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội) 300.140 Tổng cục thống kê, 2004 Các thách thức và khuyến nghị Một là, cần nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ sẵn có Luật pháp Việt Nam cung cấp một cơ sở vững chắc cho việc bảo vệ và hỗ trợ trẻ em dễ bị tổn thương, kể cả những trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, rất nhiều trẻ trong số này và những người chăm sóc không được hưởng lợi từ những điều khoản đó và gặp khó khăn trong việc tiếp cận với giáo dục và dạy nghề, chăm sóc y tế, chăm sóc và điều trị HIV miễn phí và các khoản trợ cấp xã hội. Việc thiếu tính bảo mật và sự sợ hãi vì bị kỳ thị và phân biệt đối xử đã cản trở nhiều đối tượng hưởng lợi giấu không thông báo về bệnh trạng HIV của mình, trong khi đây lại chính là cơ sở để họ có thể tiếp cận với các dịch vụ. Kế hoạch tổng thể về sức khoẻ sinh sản vị thành niên đã đưa ra những cách tiếp cận mới về dịch vụ sức khoẻ sinh sản thân thiện với các em trên phạm vi rộng, tuy nhiên hạn chế về nguồn lực làm cản trở nỗ lực này. Các dịch vụ xét nghiệm và tư vấn HIV thân thiện với trẻ vị thành niên lưu động đang được thí điểm tại một số tỉnh, thành phố, nếu mô hình này thành công thì cần được áp dụng trên quy mô rộng hơn trên toàn quốc. Điều cần phải chú ý là đảm bảo tính bảo mật của kết quả xét nghiệm và đây cũng chính là rào cản chính trong việc thúc đẩy trẻ vị thành niên và thanh niên đi xét nghiệm HIV. Hai là, tạo ra các dịch vụ xã hội hiện chưa sẵn có Nếu các rào cản tiếp cận dịch vụ được giải quyết thì Việt Nam có khả năng cung cấp nhiều dịch vụ xã hội cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV và những người chăm sóc. Tuy nhiên, có một số ít các dịch vụ thiết yếu đối với sức khoẻ của trẻ thì hoặc là chưa có hoặc cần phải được xem xét lại và áp dụng trên diện rộng. Các hỗ trợ tâm lý chuyên sâu cho trẻ em và trẻ vị thành niên chỉ mới được thực hiện trên quy mô rất nhỏ. Các can thiệp cần có thêm sự chỉ đạo, các tiêu chí tối thiểu và áp dụng trên quy mô rộng. Ba là, giảm sự kỳ thị và phân biệt đối xử là một yếu tố chính dẫn đến thành công Trên thế giới, sự kỳ thị và phân biệt đối xử là rào cản lớn nhất đối với nỗ lực phòng chống và giảm thiểu ảnh hưởng của HIV/AIDS trong xã hội. Sự kỳ thị và phân biệt đối xử đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV ở Việt Nam phổ biến ở cả cộng đồng và từ những người cung cấp dịch vụ.
Kết nối để chat trên blog hoặc bất kỳ trang web cá nhân nào! Yahoo! cho phép bạn có thể chat ngay với Pingbox. Thử xem!
thuchanhCTXHvoitreem.doc128K
Nhu cầu xã hội: được hòa nhập cùng xã hội
Khẳng định mình mìnhbản thân
Hình 1 Theo thang nhu cầu của Maslov
Nhu cầu chính của trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS rất đa dạng như tiếp cận đầy đủ các dịch vụ y tế, giáo dục, hướng dẫn về chăm sóc dinh dưỡng cho trẻ sống với HIV/AIDS, xóa bỏ hoàn toàn kỳ thị và phân biệt đối xử. Trong báo cáo nghiên cứu đánh giá về tình hình trẻ em mồ côi và dễ bị tổn thương do HIV/AIDS tại Việt Nam (Uỷ ban DS-GĐ-TE (cũ) phối hợp với Tổ chức Save the children UK thực hiện tháng 12/2005):Trong số trẻ em gặp khó khăn, 50% trẻ nhắc đến sự thiếu thốn về kinh tế, 25% lo lắng thiếu thốn tình cảm; gần 10% các em cho biết vấn đề chính của các em là thường xuyên đau ốm.
Nhu cầu vật chất: là nhu cầu trước tiên của bất cứ đứa trẻ nào.Trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng như những trẻ khác đều muốn được đảm bảo các nhu cầu chính đáng của bản thân về thức ăn, nước uống, đặc biệt là nơi ở. Đây cũng là những nhu cầu hết sức thiết thực và ảnh hưởng trực tiếp đến sự sống còn của các em, và cũng là quyền đầu tiên trong số những quyền các em đáng được hưởng ( theo công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em). Chỉ khi đáp ứng được đầy đủ nhu cầu này thì trẻ mới có thể tạo điều kiện cho trẻ phát triển bình thường mà trước hết là về mặt thể chất.
Hiện nay những trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS phần lớn đều sống trong tình trạng thiếu thốn, khó khăn về kinh tế. Đa số các em sống trong cảnh nghèo và rất nghèo (75%),rất cần có sự quan tâm, đáp ứng kịp thời nhu cầu vật chất.
Nhu cầu an toàn xã hội: Được đảm bảo vấn đề sức khỏe, tiếp cận các dịch vụ khám chữa bệnh thông thường cũng như đặc biệt là nhu cầu quan trọng cần được đáp ứng đối với tất cả mọi người, dù là trẻ em hay người lớn. Đối với những trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nhu cầu này là rất cần thiết được đáp ứng. Bởi các em hoặc đã mang bệnh, khả năng miễn dịch không thể bằng những trẻ bình thường, hoặc thường xuyên sống gần với bệnh tật, vì thế các em cần được kiểm tra sức khỏe một cách đầy đủ và thường xuyên.
Bên cạnh việc được đảm bảo về sức khỏe thì các em cũng cần được yêu thương, chăm sóc đặc biệt là từ những người thân trong gia đình. Hầu hết trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đều nói các em cần có người thân thiết để chia sẻ hoặc hỗ trợ tâm lí khi cần thiết: gần gũi nhất là mẹ, tiếp đến là ông bà, và cha.Với những trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS thì gia đình được coi là nơi an toàn nhất và là chỗ dựa tinh thần quan trọng nhất của các em. Nếu không được che trở, bao bọc bởi gia đình và những người thân, trẻ dễ rơi vào tâm trạng lo sợ, tự ti và khép mình. Gia đình chính là môi trường tốt nhất cho sự phát triển của các em.
( Nguồn:
Nhu cầu được coi trọng: trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS thường lo sợ, tự ti trước thái độ kỳ thị, xa lánh của những người xung quanh. Các em luôn mong muốn được mọi người tôn trọng, thay đổi sự kỳ thị, không phân biệt đối xử, không phán xét đến bệnh tình của các em.
Những người bị nhiễm HIV (trong đó có trẻ em bị nhiễm HIV), họ có thể tự đương đầu với bệnh tật một cách thích đáng. Nhưng họ khó có thể vượt qua được rào cản tâm lý xã hội để có được 1 cuộc sống bình thường như mọi người. Rào cản đó là sự khinh rẻ, kỳ thị, sự sợ hãi của nhiều người đối với người nhiễm. Nhu cầu này của các em là hết sức cần thiết và cũng là điều mà các nhà hoạt động trong lĩnh vực xã hội, bảo vệ trẻ em dang mong muốn đạt được.
Nhu cầu xã hội: cùng với mong muốn được coi trọng, trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng rất muốn được hòa nhập vào cộng đồng và muốn được tới trường học tập, vui chơi cùng bạn bè như những đứa trẻ bình thường khác.
Mỗi giai đoạn của cuộc đời trẻ đều có những hoạt động chủ đạo có tính chất quyết định trực tiếp đến việc hình thành tâm lý. Vui chơi, học tập và giao lưu bạn bè đều là những hoạt động chủ đạo của trẻ, do đó nếu những nhu cầu xã hội được đáp ứng thì các em sẽ có điều kiện phát triển bình thường về trí não cũng như tâm lý. Nhưng hiện nay nhu cầu này của trẻ vẫn chưa được đáp ứng bởi rất nhiều những định kiến tiêu cực trong xã hội và để các em có thể đến trường, có thể hòa nhập vào cuộc sống như những đứa trẻ khác là một việc cần nhiều thời gian mới có thể đạt được.
Nhu cầu được khẳng định mình: trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng có mong muốn có được một vị trí trong xã hội, được thực hiện những vai trò với tư cách là thành viên của xã hội. Các em không chỉ khao khát đến trường để học chữ, vui chơi cùng bạn bè, mà còn muốn qua học hành để khẳng định bản thân mình, để được người khác tin tưởng cũng như những đứa trẻ bình thường khác.
Đánh giá nhu cầu chung:
Hình 2. Thực trạng, nhu cầu của trẻ bị HIV/AIDS và phương án giải quyết
Như vậy, có thể thấy rằng nhu cầu của trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS về cơ bản cũng giống như nhu cầu của những đứa trẻ bình thường khác. Trẻ cũng cần được đáp ứng đầy đủ các nhu cầu được chăm sóc và bảo vệ để có thể phát triển bình thường về cả thể chất, trí tuệ cũng như tâm lý. Xem xét trên khía cạnh tâm sinh lý thì trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS lẽ ra là những trẻ cần được quan tâm đến việc đáp ứng nhu cầu hơn những trẻ bình thường, nhưng trên thực tế thì việc đáp ứng nhu cầu cho trẻ bị ảnh hưởng HIV/AIDS còn gặp phải rất nhiều khó khăn và thách thức, cũng như cần nhiều thời gian mới có thể đạt được.
2. Phản ứng của gia đình và xã hội:
Phản ứng của gia đình và xã hội có trẻ bị nhiễm HIV có thể được chia thành 2 loại: Phản ứng tiêu cực và phản ứng tích cực.
3.1 Phản ứng tiêu cực:
* Về phía cộng đồng:
Với trẻ có HIV/AIDS thái độ của cộng đồng vẫn còn nhiều tiêu cực. Điều đó thể hiện qua ngôn từ, lời nói mang tính giễu cợt, nguyền rủa, thể hiện ở sự phân biệt ứng xử. Thái độ tiêu cực với người bị ảnh hưởng còn thể hiện trong sự hiểu biết không đúng về HIV/AIDS. Đặc biệt thái độ này được quan sát rõ trong ứng xử kỳ thị, trong hành vi xua đuổi trẻ. Ví dụ như ở một số Trung tâm bảo trợ hoặc ở cộng đồng, trẻ có HIV không được đến nhà trẻ, trường học để cùng vui chơi, học tập với trẻ khác. Điều này làm hạn chế các em tham gia vào đời sống xã hội, ngay cả khi các em còn khoẻ mạnh.
* Về phía gia đình: Cha mẹ, người thân của trẻ thường cách ly trẻ với bên ngoài do sợ trẻ bị trêu trọc, bị tổn thương.
3.1 Phản ứng tích cực:
* Về phía xã hội:
Các tổ chức quốc gia, các Bộ, ngành như Bộ Giáo dục bộ y tế, Bộ Lao động thương binh và xã hội…, các tổ chức Quốc tế về phòng chống HIV/AIDS, các tổ chức Liên hợp quốc như Unicef…và các cá nhân như những nhân viên xã hội cũng luôn phối hợp để đề ra những chương trình hành động để bảo vệ, thực hiện những quyền con người mà trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đáng được hưởng thay vì bị chối bỏ, đó là các quyền “tự do không bị phân biệt đối xử”, “được sống, tồn tại và phát triển”, “quyền có được tiêu chuẩn cao nhất về chăm sóc y tế và sức khoẻ”, “quyền được học hành và tiếp cận thông tin”...
Có những tổ chức, những trung tâm xã hội, những cá nhân có thái độ tích cực đối với trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Tại các trung tâm các em được chăm sóc, được tiếp cận với các điều kiện y tế cần thiết,được tạo những điều kiện cần thiết để được phát triển như những đứa trẻ bình thường;
Hoạt động tuyên truyền thay đổi nhận thức của cộng đồng được tăng cường ( tại khu dân cư, trường học, trên phương tiên truyền thông đại chúng ).
* Về phía gia đình:
Các thành viên trong gia đình quan tâm đến tâm, sinh lý của trẻ. Cha mẹ trẻ phát hiện và khuyến khích trẻ thể hiện khả năng. Tạo chỗ dựa tinh thần, tránh thái độ mặc cảm của trẻ.
2. Nguồn lực:
Đối với trẻ bị nhiễm HIV, cần tận dụng triệt để các nguồn lực để trợ giúp trẻ. Có 2 loại nguồn lực mà ta có thể khai thác là : nguồn lực khách ( Nhà nước, chính quyền địa phương, gia đình, các tổ chức cá nhân hảo tâm, các trung tâm cho trẻ HIV, phương tiện truyền thông đại chúng...), và nguồn lực chủ quan ( nguồn lực của chính thân chủ ).
4.1 Nguồn lực chủ quan:
* Về phía Nhà nước : Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bảo đảm quyền lợi cho trẻ em, nhất là đối tượng trẻ em bị thiệt thòi ( trong đó có trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV ).
Theo điều 53, chương IV, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em, Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam : “Trẻ em nhiễm HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử; được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để chữa bệnh, nuôi dưỡng tại gia đình hoặc tại cơ sở trợ giúp trẻ em.
Ngày 4/6/2009 Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định số 84/2009/QĐ-TTg về “Kế hoạch hành động quốc gia vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020”. Theo đó, có 5 mục tiêu cụ thể vì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cần đạt được đến năm 2010. Một là, tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, giáo dục, chính sách xã hội cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Hai là, hình thành các dịch vụ cần thiết có chất lượng cao và thân thiện đối với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Ba là, cải thiện cơ chế cung cấp thông tin, giáo dục, chăm sóc, điều trị, tư vấn cho trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Bốn là, tạo môi trường xã hội thuận lợi cho công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS. Năm là, cải thiện hệ thống theo dõi, kiểm tra,đánh giá tình hình trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Hình 1.1. Các tổ chức phòng chống HIV/AIDS thế giới.
Tuy nhiên hiện nay sự quan tâm đến trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS còn nhiều thiếu hụt, những nhu cầu của trẻ chưa được đáp ứng một cách đầy đủ, HIVAIDS thường được nhìn nhận là vấn đề của người lớn, vậy vì trẻ em và các nhu cầu của trẻ thường bị bỏ qua. Hiện nay mới chỉ có một bộ phận nhỏ các em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS là được chăm sóc, quản lý, ví dụ như TPHCM hiện có 60.000 trẻ nhiễm và ảnh hưởng HIV/AIDS (trẻ OVC) nhưng chỉ có 7% được quản lý, chăm sóc.
5. Công tác xã hội và vai trò của nhân viên Công tác xã hội đối với trẻ bị nhiễm HIV/AIDS.
Công tác xã hội (CTXH) vừa là một ngành khoa học vừa là một nghề chuyên môn với những hoạt động xã hội đặc thù nhằm hướng tới các cá nhân, nhóm hoặc cộng đồng xã hội cần được giúp đỡ để khôi phục, ngăn chặn các chức năng bị suy thoái, hướng tới việc tự giải quyết các vấn đề của bản thân, sống hòa nhập với cộng đồng (theo tài liệu Nhập môn Công tác xã hội – Lê Văn Phú).
Theo đó thì trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nói chung và trẻ bị nhiễm HIV/AIDS nói riêng chính là một trong số những đối tượng mà Công tác xã hội cần quan tâm.
2.1 Mục đích của công tác xã hội với trẻ bị HIV:
* Mục đích căn bản – mức độ 1: Giúp trẻ bị nhiễm HIV/AIDS.
+ Giúp trẻ có H thích ứng với những vấn đề xúc cảm đau đớn.
+ Giúp trẻ có H đạt tới mức độ thích hợp nào đó về tình cảm và hành vi.
+ Giúp trẻ có H có cảm nghĩ tích cực, tốt về bản thân – yêu cuộc sống.
+ Giúp trẻ chấp nhận các giới hạn và sức mạnh của mình và cảm thấy yên tâm về những điều đó
+ Giúp trẻ thay đổi những hành vi có tác động tiêu cực
+ Giúp trẻ hoạt động thoải mái và thích ứng với ngoại cảnh
+ Tạo cơ hội tối đa cho trẻ theo đuổi và thực hiện các mong ước.
* Mục đích 2: Thỏa mãn nhu cầu của trẻ:
+ Xuất phát từ nhu cầu trẻ.
* Mục đích 3: Mục đích đối với cộng đồng:
+ Thay đổi tích cực nhận thức, thái độ và hành vi đối với trẻ, gia đình trẻ : xây dựng cộng đồng an toàn, trách nhiệm và thân thiện
+ Tác động xây dựng chính sách và cơ chế phù hợp đảm bảo các điều kiện cần thiết trẻ : chính sách hỗ trợ, thực thi luật nghiêm túc (chẳng hạn: xử lý những trường hợp kỳ thị người có H trẻ)…
2.2. Mục đích đối với người trợ giúp – hoạt động của Công tác xã hội:
+ Khẳng định vai trò, ý nghĩa – giá trị của khoa học và nghề chuyên môn Công tác xã hội tác nghiệp trợ giúp với đối tượng đặc biệt: trẻ và gia đình, người liên quan đến trẻ.
+ Góp phần hạn chế sự lây lan của đại dịch HIV và những ảnh hưởng tiêu cực gây ra bởi những thất bại hay hạn chế của những phương pháp, hoạt động giải quyết vấn đề khác
+ Góp phần hạn chế sự lây lan của đại dịch HIV và những ảnh hưởng tiêu cực gây ra bởi những thất bại hay hạn chế của những phương pháp, hoạt động giải quyết vấn đề khác.
2.3 Vai trò của nhân viên Công tác xã hội.
Công tác xã hội với người có HIV/AIDS nói chung, với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nói riêng là một trong những hoạt động thiết thực và đặc biệt quan trọng. Hoạt động này không chỉ trợ giúp cho các em vươn lên đấu tranh với bệnh tật, phòng tránh mà còn kết nối các nguồn lực trợ giúp cho các em. Huy động sự tham gia của người dân vào công tác phòng, chống HIV. Giúp cho mọi người nhận thức sâu sắc hơn về HIV, người có HIV, công tác phòng tránh HIV và cách chăm sóc cho trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Trong Công tác xã hội với trẻ bị nhiễm HIV/AIDS, nhân viên Công tác xã hội đóng vai trò là người trợ giúp các em về mặt tâm lý, tư vấn giúp các em vượt qua những trở ngại tâm lý như sự kỳ thị, xa lánh của những người xung quanh. Cung cấp cho trẻ những thông tin cần thiết về căn bệnh HIV/AIDS mà trẻ đang mắc phải, cũng như những quyền mà trẻ được hưởng để trẻ có thể ý thức đầy đủ về bản thân và cách giữ an toàn cho bản thân cũng như cho những người xung quanh. Có thể nói, trong hoạt động trợ giúp này người nhân viên Công tác xã hội như một cây cầu hướng tới việc đưa các em xích lại gần hơn với cộng đồng và hòa nhập vào cộng đồng.
Bên cạnh việc trợ giúp trực tiếp thông qua các kỹ năng tham vấn, tư vấn về tâm lý, về bệnh lý, người nhân viên Công tác xã hội còn trợ giúp trẻ nhiễm HIV/AIDS thông qua việc tìm kiếm, giúp đỡ trẻ tiếp cận với những nguồn lực về kinh tế, những dịch vụ y tế cần thiết… vì mục đích đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của trẻ nhiễm HIV/AIDS và giúp các em được hưởng các quyền lợi chính đáng của mình nhằm hướng các em đến sự phát triển đúng với tiềm năng của bản thân.
Khi làm việc ở các trung tâm nuôi dạy trẻ bị bệnh nhân viên Công tác xã hội có thể là người hỗ trợ các kỹ năng tâm lý xã hội cho cán bộ xã hội đang trực tiếp nuôi trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS.
Khi tiếp xúc, trợ giúp trẻ nhiễm HIV/AIDS tại địa phương, cán bộ Công tác xã hội đóng vai trò là người tuyên truyền, thuyết phục những người thân trong gia đình trẻ, cộng đồng, xã hội hiểu được bản chất của HIV, nhìn nhận HIV như là một căn bệnh hiểm nghèo như bao bệnh khác hơn là coi đó là tệ nạn xã hội hoặc là kết quả của tệ nạn xã hội. Thông qua đó để làm giảm đi thái độ kỳ thị của mọi người với những người bị nhiễm HIV/AIDS đặc biệt là trẻ em.
6. Tình hình thực tiễn:
* Trên thế giới:
HIV/AIDS hiện nay đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng của toàn nhân loại. Nó được xem là “căn bệnh thế kỷ”, là mối đe dọa cho con người bởi khả năng gây tử vong cao, sự lây lan nhanh chóng, và hiện nay vẫn chưa có loại thuốc đặc trị nào có thể chữa được bệnh này cũng như chưa có vắc xin phòng bệnh.
Ở Việt Nam, HIV/AIDS cũng là vấn đề đòi hỏi rất nhiều sự quan tâm của xã hội. Từ ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện năm 1990, đến nay số trường hợp nhiễm HIV/AIDS hiện đang còn sống được báo cáo trên toàn quốc là 135.171 người. (Nguồn:
HIV/AIDS hiện nay đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng của toàn nhân loại. Nó được xem là “căn bệnh thế kỷ”, là mối đe dọa cho con người bởi khả năng gây tử vong cao, sự lây lan nhanh chóng, và hiện nay vẫn chưa có loại thuốc đặc trị nào có thể chữa được bệnh này cũng như chưa có vắc xin phòng bệnh.
* Ở Việt Nam:
HIV/AIDS cũng là vấn đề đòi hỏi rất nhiều sự quan tâm của xã hội. Từ ca nhiễm HIV đầu tiên được phát hiện năm 1990, đến nay số trường hợp nhiễm HIV/AIDS hiện đang còn sống được báo cáo trên toàn quốc là 135.171 người. (Nguồn:
Một trong những đối tượng bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS chính là trẻ em. Theo thống kê của tổ chức phòng chống AIDS liên hợp quốc thì tổng số ca nhiễm HIV mới trong năm 2007 là 2,5 triệu người, trong đó người lớn là 2,1 triệu và trẻ em là 420.000 trẻ. Tổng số ca tử vong do AIDS là 2,1 triệu, trong đó người lớn là 1,7 triệu và trẻ em là 330.000 (Nguồn: Ở Việt Nam, Con số trẻ em bị nhiễm và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cũng đang ngày càng gia tăng. Dự kiến, số trẻ này sẽ tiếp tục tăng vì hằng năm vẫn có 600 phụ nữ nhiễm HIV sinh con. Đại đa số những trẻ em mới bị nhiễm là do lây từ người mẹ tại thời điểm trước hoặc ngay sau khi sinh. 1/2 trong số này sẽ tử vong trong vòng 2 năm đầu tiên của cuộc đời nếu không được chăm sóc y tế đúng cách.
Trẻ em bị nhiễm HIV/ AIDS được sống trong các Trung tâm bảo trợ xã hội thường do các bệnh viện hoặc các gia đình không có khả năng chăm sóc các em gửi đến (không ngoại trừ trường hợp các em bị bỏ rơi được gom về). Nhiều em không biết nguồn gốc gia đình mình. Các em dễ bị mất gia đình, mất lai lịch và sự thừa kế.
Như vậy, có thể thấy ảnh hưởng HIV/AIDS đến trẻ em là rất lớn, dù trẻ không mang trong mình căn bệnh, không sống trong một gia đình có bố mẹ là bệnh nhân HIV/AIDS thì căn bệnh thế kỷ vẫn có thể ảnh hưởng, đôi khi có tính chất quyết định đối với cuộc sống của các em.
7. Giải pháp Công tác xã hội.
1. Lý thuyết và kỹ năng áp dụng:
Từ những nhận định về thể trạng, tâm lý, nhu cầu của trẻ bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nói chung và trẻ bị nhiễm HIV/AIDS nói riêng, cũng như qua việc xem xét thái độ, phản ứng của xã hội với nhứng trẻ này, với vai trò là nhân viên CTXH ta có thể áp dụng Lý thuyết hệ thống, phương pháp Công tác xã hội với cá nhân. Trong quá trình áp dụng, có thể kết hợp sử dụng các kỹ năng: Tham vấn, kỹ năng đặt câu hỏi, kỹ năng thấu cảm...
2. Tiến trình thực hiện :
- Tiếp cận đối tượng: Tiếp cận trẻ nhiễm HIV tại địa phương, tại các trung tâm nuôi dạy trẻ có HIV.
- Nhận diện vấn đề: Xác định giai đoạn mắc bệnh của trẻ: đã chuyển sang giai đoạn AIDS hay chưa, tình trạng sức khỏe hiện tại của trẻ ra sao, điều kiện sống hiện tại của trẻ đã đáp ứng được những nhu cầu cơ bản của trẻ về vật chất, an toàn… đến mức độ nào.
- Thu thập dữ liệu: Bằng kĩ năng tham vấn, kĩ năng giao tiếp nhân viên Công tác xã hội có thể thu thập nguồn tin từ người thân, người có quan hệ với đối trẻ để hiểu về những đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Vận dụng lý thuyết hệ thống để thấy được mức độ ảnh hưởng cũng như những điểm thiếu sót trong môi trường trẻ đang sinh sống ( như xem xét xem trẻ có được đến trường hay không, có được sống trong gia đình không, có được quan tâm chăm sóc, được khám chữa bệnh thường kỳ ở các cơ sở y tế hay không…) Đồng thời qua kĩ năng giao tiếp tạo sự đồng cảm, tạo niềm tin trong quá trình tương tác giữa chủ thể và đối tượng.
- Chẩn đoán: Đánh giá đúng tình hình của trẻ, các tiềm năng, những mối quan hệ xã hội (gia đình, trung tâm…) của các trẻ, xác định khó khăn trở ngại, từ đó đề ra mục tiêu giải quyết.
- Kế hoạch trị liệu: Tạo điều kiên cho trẻ áp dụng các dịch vụ chăm sóc( tư vấn, giúp trẻ hòa nhập cộng đồng, thay đổi môi trường…). Vận động trẻ tự ý thức quan hệ xã hội và thích nghi xã hội, đồng thời giúp trẻ có nhận thức đúng về căn bệnh của mình, cách bảo vệ an toàn cho bản thân cũng như cho những người xung quanh.
- Lượng giá: Quá trình trợ giúp trẻ nhiễm HIV/AIDS cần một thời gian dài, vận dụng, đánh giá và điều chỉnh các biện pháp, quan hệ xã hội phù hợp. Xem xét mức độ tiến triển của trẻ để có thể sửa đổi bổ xung các biện pháp mới và xem đã nên dừng lại hay tiếp tục, hay sử dụng biện pháp trợ giúp thay thế.
II. Áp dụng vào một trường hợp cụ thể
Em A 7 tuổi bị nhiễm HIV từ mẹ truyền sang từ khi mới ra đời. Cả cha và mẹ em đều đã qua đời vì AIDS. Em sống với bác ruột. Nhưng bác trai thường xuyên vắng nhà do làm ăn xa ( mỗi tháng về nhà 2 ngày ); bác gái và 2 em con bác kỳ thị, không yêu thương chăm sóc. A không được đến trường học như những em nhỏ khác, không được đưa đến khám chữa ở bệnh viện hay các cơ sở y tế. A không có bạn, không người chia sẻ. A không hiểu gì về căn bệnh đang mang trong mình.
Đây là một ca công tác xã hội cá nhân cụ thể, do vậy tiến trình giúp đỡ A cũng tuân theo trình tự gồm 7 bước cơ bản. Nhưng ở đây, nhóm chỉ đi vào phân tích những nét chính, cơ bản trong tiến trình can thiệp giúp đỡ A chứ không đề cập lại tất cả các bước của tiến trình.
4.1 Phân tích trường hợp
A đang mang trong mình căn bệnh HIV – căn bệnh nguy hiểm, những người trong gia đình cũng kì thị và không quan tâm chăm sóc A.
A thiếu hụt các hệ thống cơ bản như: bạn bè, trường học, bệnh viện, các tổ chức xã hội trợ giúp... Em lại gặp phải khó khăn trong mối quan hệ với hệ thống phi chính thức quan trọng là gia đình
Bố mẹ A qua đời nên A phải tự thích nghi với một cuộc sống mới không có sự chăm sóc của bố mẹ, sự xa lánh của mọi người, em chỉ cô đơn thui thủi có một mình. Đó là những áp lực từ môi trường tác động lên em.
4.2 Giải quyết vấn đề:
a) Thu thập những thông tin liên quan đến em từ các nguồn tin có thể: họ hàng, làng xóm… để phân tích cụ thể và chính xác hơn trường hợp của A.
b) Thiết lập các hệ thống trợ giúp mà em còn thiếu hụt:
- Cải thiện tốt hơn mối quan hệ của A với hệ thống gia đình (những người họ hàng) và những người lân cận quanh em (hàng xóm, bạn bè…). =>Nhân viên xã hội cần áp dụng mô hình trị liệu nhân thức hành vi để thay đổi suy nghĩ, định kiến của mọi người đối với A.
c) Hướng dẫn A cách tự chăm sóc mình.
Người nhân viên CTXH cần hướng dẫn cho em những kiến thức cơ bản nhất về HIV một cách dễ hiểu để em có thể hiểu được và biết cách tự chăm sóc mình.
d) Khám phá và phát huy những khả năng mà A có:
Nhân viên XH sử dụng các kĩ năng trong quá trình giúp đỡ A: Thấu cảm, tham vấn, khuyến khích… nhằm tìm hiểu và giúp A nhận ra tiềm năng, tự tin phát huy khả năng của mình.
III. Kết luận.
Trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS là một bộ phận cần rất nhiều sự quan tâm của xã hội, các nhu cầu của các em chưa được đáp ứng một cách đầy đủ. Cuộc sống của các em cũng gặp rất nhiều những khó khăn bởi không chỉ bản thân căn bệnh các em mang trong cơ thể hay môi trường bệnh các em sống mà những khó khăn còn đến từ phía những cộng đồng nơi các em sinh sống, chính thái độ kỳ thị, xa lánh và coi thường của những người xung quanh đã tạo nên rào cản tâm lý ngăn cản trẻ được hòa nhập với cộng đồng và vì thế cũng đồng thời tước đi của các em những quyền cơ bản mà các em đáng được hưởng.
Công tác xã hội với trẻ em bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS nói chung và trẻ bị nhiễm HIV/AIDS nói riêng là một việc hết sức quan trọng và ý nghĩa. Vai trò chính của những người nhân viên Công tác xã hội với trẻ bị nhiễm HIV/AIDS là trợ giúp các em trong việc hòa nhập cộng đồng và việc được đáp ứng những nhu cầu cơ bản nhằm hướng các em đến một cuộc sống gần với những trẻ bình thường nhất.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công tác xã hội với trẻ bị ảnh hưởng bới HIV-AIDS.doc