Lý do chọn đề tài:
Ở nước ta tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, mỗi loại hình doanh nghiệp đều có một loại văn bản pháp luật điều chỉnh, tạo nên môi trường và địa vị pháp lí cho các doanh nghiệp khi tham gia vào nền kinh tế thị trường. Công ty TNHH do một cá nhân là một loại hình doanh nghiệp mới được ghi nhận trong Luật doanh nghiệp (2005) cần được quan tâm và khuyến khích phát triển. Sự mới mẻ này cũng là lí do tác giả chọn đề tài: “ Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ theo luật doanh nghiệp (2005)” làm khoá luận cho mình.
2. Phạm vi, mục đích nghiên cứu
Trong khuôn khổ khoá luận này tập trung nghiên cứu và làm rõ những vấn đề sau:
+ Khoá luận nghiên cứu khái quát lý luận về công ty nói chung và công ty TNHH nói riêng
+ Khoá luận nghiên cứu hệ thống pháp luật hiện hành về tổ chức và hoạt động của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ quy định trong luật doanh nghiệp (2005)
+ Khoá luận tìm hiểu qua về thực tế của loại hình công ty TNHH do một cá nhân làm chủ để đưa ra một số giải pháp thực thi luật doanh nghiệp (2005)
3. Phương pháp nghiên cứu khoá luận
Khoá luận được nghiên cứu trên nền tảng của phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac- LêNin. Ngoài ra còn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phân tích, so sánh, tổng hợp để nhằm nêu rõ các quy định của pháp luật về công ty TNHH do một cá nhân làm chủ ở Việt Nam.
56 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3041 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ theo luật doanh nghiệp (2005), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ty, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty hợp nhất và tiến hành đăng kí kinh doanh công ty hợp nhất theo quy định của Luật doanh nghiệp. Trong trường hợp này, hồ sơ đăng kí kinh doanh phải kèm theo hợp đồng hợp nhất. Hợp đồng hợp nhất phải được gửi đến các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông qua.
Sau khi đăng kí kinh doanh, các công ty bị hợp nhất chấm dứt tồn tại, công ty hợp nhất được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị hợp nhất.
Theo Luật doanh nghiệp (2005), việc hợp nhất chỉ áp dụng đối với các công ty cùng loại. Vậy công ty cùng loại trong trường hợp này được hiểu như thế nào, đây là vấn đề chưa có sự đồng nhất trong thực tiễn áp dụng. Chẳng hạn, chỉ có các công ty TNHH một thành viên tham gia hợp nhất, trong đó vừa có công ty do một cá nhân làm chủ, vừa có công ty do một tổ chức làm chủ sở hữu, hoặc chỉ có các công ty TNHH tham gia hợp nhất, trong đó có công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH hai thành viên trở lên có được coi là cùng loại để hợp nhất hay không? Chúng tôi cho rằng, nếu hiểu công ty cùng loại là công ty TNHH một thành viên đều do một cá nhân làm chủ là quá hạn hẹp. Hai công ty TNHH một thành viên muốn tham gia hợp nhất mà chỉ vì một công ty do một cá nhân làm chủ, còn công ty kia do một tổ chức làm chủ nên không thể hợp nhất được do không được coi “ công ty cùng loại” là điều bất hợp lý. Trong những trường hợp trên, cần được quan niệm đều là công ty cùng loại (công ty TNHH) để được tham gia hợp nhất. Về lý luận cũng như thực tiễn chẳng có khó khăn, vướng mắc gì cản trở quá trình hợp nhất của những công ty này. Vì vậy, khi công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ tham gia vào trình hợp nhất thì công ty sau hợp nhất có thể là công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ hoặc công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Thứ tư, sáp nhập công ty
Một hoặc một số công ty cùng loại ( sau đây gọi là công ty bị sáp nhập) có thể sáp nhập vào một công ty khác ( sau đây gọi là công ty nhận sáp nhập) bằng cách chuyển toàn bộ tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp sang công ty nhận sáp nhập, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của công ty bị sáp nhập Khoản 1 Điều 153 Luật doanh nghiệp (2005)
Các công ty có liên quan chuẩn bị hợp đồng sáp nhập và sự thảo điều lệ công ty nhận sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải có các nội dung chủ yếu sau: tên, trụ sở công ty bị sáp nhập, thủ tục và điều kiện sáp nhập, phương án sử dụng lao động, thủ tục, điều kiện và thời hạn chuyển đổi tài sản, chuyển đổi góp vốn, thời hạn thực hiện sáp nhập.
Thủ tục đăng kí kinh doanh công ty nhận sáp nhập phải tuân theo các quy định của luật doanh nghiệp. Hồ sơ đăng kí kinh doanh phải kèm theo hợp đồng sáp nhập. Hợp đồng sáp nhập phải đươc gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 này kể từ ngày được thông qua.
Sau khi đăng kí kinh doanh, công ty nhận sáp nhập được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp, chịu trách nhiệm về các khoản nợ chưa thanh toán, hợp đồng lao động và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty bị sáp nhập.
Tương tự như trường hợp hợp nhất, trường hợp sáp nhập mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan thì đại diện hợp pháp của công ty phải thông báo cho cơ quan quản lý cạnh tranh trước khi tiến hành sáp nhập, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
Cấm các trường hợp sáp nhập mà theo đó công ty nhận sáp nhập có thị phần trên 50% trên thị trường có liên quan, trừ trường hợp pháp luật về cạnh tranh có quy định khác.
Thứ năm, chuyển đổi công ty
Chuyển đổi doanh nghiệp là một trong những hình thức tổ chức lại doanh nghiệp theo quy định của luật doanh nghiệp. Sau quá trình chuyển đổi doanh nghiệp, công ty chuyển đổi mang một diện mạo, một sắc thái mới khác biệt so với loại hình tổ chức trước khi chuyển đổi.
Về phương diện lý luận, chuyển đổi công ty TNHH do một cá nhân làm chủ, có thể bao gồm:
* Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ chuyển đổi thành công ty trách nhiệm hai thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần và ngược lại.
* Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên do một tổ chức làm chủ và ngược lại;
* Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thành doanh nghiệp tư nhân và ngược lại.
Pháp luật Việt Nam hiện hành mới quy định các hình thức chuyển đổi sau Xem: Điều 155,Luật doanh nghiệp (2005); các điều 19, 20,21, 24 Nghị định số 139/2007/NĐ-CP ngày 05/9/2007 hướng dẫn Luật doanh nghiệp
:
- Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ chuyển đổi thành công ty trách nhiệm 2 thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần;
- Công ty TNHH một thành viên là tổ chức chuyển đổi thành công ty TNHH do một cá nhân làm chủ;
- Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên chuyển đổi thành công ty TNHH do một cá nhân làm chủ;
- Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty TNHH do một cá nhân làm chủ.
Như vậy, pháp luật hiện hành của Việt Nam còn khuyến khuyết khi chưa quy định các hình thức chuyển đổi từ công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thành công ty TNHH một thành viên do một tổ chức làm chủ hoặc chuyển đổi từ công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thành doanh nghiệp tư nhân.
Về thủ tục chuyển đổi, Điều 154 Luật doanh nghiệp (2005) quy định, chủ sở hữu công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thông qua quyết định chuyển đổi và Điều lệ công ty chuyển đổi. Quyết định chuyển đổi phải có các nội dung chủ yếu sau: Tên, trụ sở công ty chuyển đổi, tên, trụ sở công ty được chuyển đổi, thời hạn và điều kiện chuyển tài sản, phần vốn góp cuả công ty chuyển đổi, phương án sử dụng lao động, thời hạn thực hiện chuyển đổi.
Quyết định chuyển đổi phải được gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày thông qua quyết định.
Khi chuyển đổi, công ty được chuyển đổi phải tiến hành đăng kí kinh doanh theo quy định của Luật doanh nghiệp (2005). Trường hợp chủ sở hữu công ty chuyển một phần vốn điều lệ cho tổ chức, cá nhân khác thì trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày chuyển nhượng, chủ sở hữu công ty và người nhận chuyển nhượng phải đăng kí việc thay đổi số lượng thành viên với cơ quan đăng kí kinh doanh. Kể từ ngày đăng kí thay đổi theo quy định này, công ty được quản lí và hoạt động theo các quy định về công ty TNHH có hai thành viên trở lên.
Trường hợp chủ sở hữu chuyển toàn bộ vốn điều lệ cho một cá nhân thì trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hoàn thành thủ tục chuyển nhượng, người nhận chuyển nhượng phải đăng kí thay đổi chủ sở hữu công ty và tổ chức quản lí, hoạt động theo quy định về công ty TNHH một thành viên.
Như vậy, có thể nói các mô hình kinh doanh đa dạng theo Luật doanh nghiệp(2005) đã đáp ứng được các nhu cầu khác nhau tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện của từng người kinh doanh, góp phần khuyến khích công dân bỏ vốn nhàn rỗi và tài sản vào hoạt động kinh doanh sinh lời.
Việc quy định cho công ty TNHH do một cá nhân làm chủ được chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi công ty đã tạo cho công ty cơ hội và khả năng linh hoạt trong mở rộng quy mô, ngành, nghề kinh doanh cũng như linh hoạt chuyển đổi hình thức pháp lý để thích ứng với yêu cầu phát triển kinh doanh, mở ra cho công ty cơ hội phát triển hoạt động kinh doanh đa dạng, có hiệu quả. Đồng thời, Luật doanh nghiệp đã chú ý đến việc bảo vệ quyền lợi của chủ nợ và các bên có liên quan khác trong quá trình chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi công ty. Điều này thể hiện ở quy định quyết định tổ chức lại doanh nghiệp phải gửi đến tất cả các chủ nợ và thông báo cho người lao động biết trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông qua quyết định và cách thức xử lí các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán.
(iii). Giải thể công ty
Theo Điều 157 Luật doanh nghiệp (2005), công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ giải thể trong các trường hợp sau:
- Kết thúc thời hạn hoạt động ghi trong Điều lệ mà không có quyết gia hạn;
- Theo quyết định của chủ sở hữu công ty;
- Công ty bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Theo Điều 158, Luật doanh nghiệp (2005), trình tự giải thể bao gồm:
Thứ nhất, chủ sở hữu công ty thông qua quyết định giải thể công ty. Quyết định giải thể phải có các nội dung chủ yếu: Tên, địa chỉ trụ sở chính của công ty; lý do giải thể; thời hạn, thủ tục thanh lí hợp đồng và thanh toán các khoản nợ; thời hạn thanh toán nợ, thanh lí hợp đồng không được vượt quá sáu tháng, kể từ ngày thông qua quyết định giải thể; phương án xử lí các nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng lao động; họ tên và chữ kí của người đại diện theo pháp luật của công ty.
Chủ sở hữu công ty trực tiếp tổ chức thanh lý tài sản doanh nghiệp, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định thành lập tổ chức thanh ký riêng.
Thứ hai, trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thông qua, quyết định giải thể phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh, tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết công khai tại trụ sở chính và chi nhánh của doanh nghiệp.
Đối với trường hợp mà pháp luật yêu cầu phải đăng báo thì quyết định giải thể doanh nghiệp phải được đăng ít nhất trên một tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp.
Quyết định giải thể phải được gửi cho các chủ nợ kèm theo thông báo về phương án giải quyết nợ. Thông báo phải có tên, địa chỉ chủ nợ; số nợ, thời hạn, địa điểm và phương thức thanh toán số nợ đó; cách thức và thời hạn giải quyết khiếu nại của chủ nợ.
Thứ ba, thanh toán theo thứ tự sau đây:
- Các khoản nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật và các quyền lợi khác của người lao động theo thoả ước lao động tập thể và hợp đồng lao động đã ký kết;
- Nợ thuế và các nợ khác.
Sau khi thanh toán hết các khoản nợ và chi phái giải thể doanh nghiệp, phần còn lại thuộc về chủ sở hữu công ty.
Thứ tư, Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ của doanh nghiệp, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể doanh nghiệp đến cơ quan đăng ký kinh doanh. Trong thời hạn bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan đăng ký kinh doanh xoá tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh
Trường hợp công ty TNHH do một cá nhân làm chủ bị thu hồi giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh thì công ty phải giải thể trong vòng 6 tháng kể từ ngày bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh. Trình tự, thủ tục giải thể tiến hành như trên.
Quá 6 tháng mà cơ quan đăng kí kinh doanh không nhận được hồ sơ giải thể công ty thì công ty đó được coi như đã giải thể và cơ quan đăng kí kinh doanh xoá tên công ty trong sổ đăng kí kinh doanh. Chủ sở kữu công ty phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác chưa thanh toán hết.
Ngoài ra, Luật doanh nghiệp ( 2005) còn quy định thêm các hoạt động bị cấm kể từ khi công ty có quyết định giải thể. Chủ sở hữu công ty không được cất giấu, tẩu tán tài sản, từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ, chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của công ty, không được kí kết các loại hợp đồng mới trừ hợp đồng nhằm thực hiện giải thể, hay cầm cố, thế chấp, tặng, cho, cho thuê tài sản, huy động vốn dưới mọi hình thức, chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực.
2.2 Cơ cấu tổ chức, quản lí công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Cơ cấu tổ chức, quản lí công ty TNHH do một cá nhân làm chủ gồm có Chủ tịch công ty và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Chủ sở hữu công ty đồng thời là Chủ tịch công ty.
Theo Luật doanh nghiệp (2005), Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê người khác làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền và nghĩa vụ quy định tại Điều lệ công ty hoặc tại hợp đồng lao động mà Chủ tịch công ty kí với họ.
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền, như: tổ chức thực hiện quyết định của Chủ tịch công ty; quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động hằng ngày của công ty; tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh và phương án đầu tư của công ty; ban hành quy chế quản lí nội bộ; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức các chức danh quản lí trong công ty, trừ các chức danh thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty; kí kết các hợp đồng nhân danh công ty, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Chủ tịch công ty; kiến nghị phương án bố trí cơ cấu tổ chức công ty; trình báo cáo quyết toán tài chính hằng năm lên Chủ tịch công ty; kiến nghị phương án sử dụng lợi nhuận hoặc xử lí lỗ trong kinh doanh; tuyển dụng lao động. Ngoài ra, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có các quyền khác được quy định tại Điều lệ công ty, hợp đồng lao động mà Giám đốc hoặc Tổng giám đốc kí với Chủ tịch công ty.
Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đaị diện theo pháp luật của công ty do Điều lệ công ty quy định. Quy định này của Luật doanh nghiệp (2005) cần được bàn định thêm, nếu Giám đốc hoặc Tổng giám đốc được chủ sở hữu công ty thuê mà Điều lệ công ty lại quy định Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty sẽ tạo ra tình trạng “ngược dòng”.
2.3 Chế độ tài chính và vốn của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Vốn điều lệ của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ là số vốn do chủ sở hữu công ty góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi trong điều lệ công ty.
Vốn điều lệ của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ bao gồm vốn do chủ sở hữu đầu tư tại thời điểm thành lập công ty, vốn được bổ sung từ phần lợi nhuận sau thuế của công ty, vốn do chủ sở hữu công ty bổ sung trong quá trình hoạt động kinh doanh.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ không được phát hành cổ phiếu ra thị trường để công khai huy động vốn trong công chúng.
Chủ hữu công ty phải góp đầy đủ và đúng hạn như đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh, trường hợp không góp đủ số vốn đã cam kết thì phải chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ tài sản khác do không góp đủ và đúng hạn số vốn đã cam kết.
Chủ sở hữu công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp vào công ty mà chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Trường hợp chủ sở hữu công ty rút vốn đã góp ra khỏi công ty dưới hình thức khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm về các nghĩa vụ và tài sản khác của công ty.
Ngoài số vốn do chủ sở hữu đầu tư, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ được quyền huy động vốn của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật để phục vụ hoạt động kinh doanh. Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ hoàn trả số nợ cả vốn và lãi cho chủ nợ theo cam kết.
Theo Điều 76 luật doanh nghiệp (2005), công ty TNHH do 1 cá nhân làm chủ không được giảm vốn điều lệ. Công ty tăng vốn điều lệ bằng việc chủ sở hữu công ty đầu tư thêm hoặc huy động thêm vốn góp của người khác. Trường hợp tăng vốn điều lệ bằng cách huy động thêm vốn góp của người khác thì công ty phải chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên. Việc tăng vốn điều lệ và phương thức tăng như thế nào do chủ sở hữu công ty quyết định sao cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của công ty và tuân theo đúng quy định của pháp luật.
Trong quá trình hoạt động, công ty được quyền thay đổi cơ cấu tài sản cũng như các loại vốn phục vụ cho việc phát triển kinh doanh có hiệu quả cao. Đồng thời với việc sử dụng vốn và tài sản phát triển kinh doanh, công ty được quyền sử dụng vốn để đầu tư ra bên ngoài nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Hơn nữa, việc đầu tư vốn ra bên ngoài còn với mục đích phân tán, giảm bớt rủi ro trong kinh doanh. Một số hình thức đầu tư vốn ra bên ngoài, như: góp vốn liên doanh, nhận chuyển nhượng vốn đầu tư của các nhà đầu tư khác, góp vốn thành lập công ty TNHH, công ty cổ phần v.v..
Chủ sở hữu công ty TNHH do một cá nhân làm chủ phải xem xét, cân nhắc chiến lược kinh doanh để đảm bảo an toàn về vốn, đảm bảo các nguyên tắc về quản lí và sử dụng vốn. Chủ sở hữu không được rút lợi nhuận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả.
2.4 Quyền và nghĩa vụ của công ty, chủ sở hữu công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ với tư cách là một pháp nhân độc lập, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Công ty và chủ sở hữu công ty có các quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm độc lập với nhau. Bởi vậy, Luật doanh nghiệp (2005) đã quy định rất chặt chẽ quyền và nghĩa vụ của công ty và chủ sở hữu công ty.
* Quyền của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Công ty TNHH nói chung và công ty TNHH do một cá nhân làm chủ nói riêng đều có quyền tự chủ kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành,nghề, địa bàn, hình thức kinh doanh, đầu tư, chủ động mở rộng quy mô kinh và ngành nghề kinh doanh; được nhà nước khuyến khích, ưu đãi và tạo điều kiện thuận lợi tham gia sản xuất, cung ứng sản phẩm dịch vụ, công ích. Quyền này thể hiện ở chỗ, Nhà nước công nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài loại hình công ty TNHH do một cá nhân làm chủ, bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của công ty, thừa nhận tính sinh lợi hợp pháp của hoạt động kinh doanh.
Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ có quyền lựa chọn hình thức, phương thức huy động, phân bổ, và sử dụng vốn; chủ động tìm kiếm thị trường, khách hàng và kí kết hợp đồng. Việc pháp luật quy định quyền này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc phát triển hoạt động kinh doanh của công ty. Công ty có quyền sử dụng vốn của chính công ty để kinh doanh sinh lợi, Nhà nước không can thiệp hay bắt buộc công ty phải có một hình thức cố định cứng nhắc nào trong việc sử dụng vốn hay tham gia vào thị trường nào.
Sau khi công ty TNHH do một cá nhân làm chủ đăng kí thành lập, họ được phép tuyển dụng, thuê và sử dụng lao động phù hợp theo yêu cầu kinh doanh thực tế của mình. Tuy nhiên, những vấn đề về tuyển dụng và sử dụng lao động của doanh nghiệp phải tuân thủ những quy định của pháp luật về lao động.
Bên cạnh đó, Luật doanh nghiệp (2005) còn thừa nhận quyền xuất khẩu, nhập khẩu - quyền năng cơ bản của bất kỳ doanh nghiệp nào. Nếu trước đây, muốn tham gia hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá công ty phải đăng kí mã số xuất nhập khẩu thì bây giờ thủ tục đó đã được bãi bỏ, công ty chỉ cần đăng kí mã số thuế, khi có hoạt động xuất nhập khẩu thì mã số thuế đương nhiên được xem là mã số xuất, nhập khẩu. Việc quy định quyền kinh doanh này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn về mặt thủ tục hành chính cho doanh nghiệp, đồng thời thể hiện được xu hướng toàn cầu hoá trong thương mại.
Ngoài ra, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ còn có một số quyền được pháp luật thừa nhận như quyền khiếu nại, tố cáo; trực tiếp hoặc thông qua người đại diện theo uỷ quyền tham gia tố tụng và một số quyền khác theo quy định của pháp luật.
* Nghĩa vụ của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Bên cạnh các quyền cơ bản mà Luật doanh nghiệp (2005) đã quy định, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật, Đều lệ công ty, hoạt động kinh doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh; bảo đảm điều kiện kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành nghề có điều kiện. Đối vơi những ngành nghề đã đăng kí hoặc công bố chất lượng thì phải bảo đảm và chịu trách nhiệm về hàng hoá, dịch vụ đó.
Sau khi đã đăng kí kinh doanh và khắc dấu, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ phải tiến hành đăng kí mã số thuế, kê khai thuế, nộp thuế và thực hiện các nghĩa vụ tài chính khác đối với nhà nước.
Trong quá trình hoạt động, công ty có trách nhiệm tổ chức công tác kế toán, lập và nộp báo cáo tài chính trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật về kế toán. Đồng thời, doanh nghiệp phải thực hiện chế độ thống kê theo quy định của pháp luật về thống kê, định kì báo cáo đầy đủ thông tin về doanh nghiệp, tình hình tài chính của doanh nghiệp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo mẫu quy định, khi phát hiện hoặc có thông báo về các thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác thì doanh nghiệp phải kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp và chính xác.
Mặt khác, để bảo vệ người lao động, Luật doanh nghiệp (2005) còn quy định, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ phải bảo đảm quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật lao động, thực hiện chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm khác cho người lao động theo quy định vủa pháp luật về bảo hiểm.
Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ còn phải tuân thủ một số nghĩa vụ khác, như: không được phát hành cổ phần, không được giảm vốn điều lệ, trường hợp tăng vốn điều lệ bằng huy động thêm phần vốn góp của người khác thì công ty phải đăng kí chuyển đổi thành công ty TNHH hai thành viên trở lên.
Ngoài ra, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ còn phải tuân thủ quy định của pháp luật về quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường, bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh khác và thực hiện một số nghĩa vụ khác theo quy định của Luật doanh nghiệp (2005) và pháp luật có liên quan.
* Quyền của cá nhân chủ sở hữu công ty
Điều 64 Luật doanh nghiệp (2005) quy định các quyền cụ thể của chủ sở hữu công ty như sau:
Cá nhân chủ sở hữu công ty có quyền quyết định nội dung Điều lệ công ty, sửa đổi, bổ sung Điều lệ công ty, quyết định đầu tư kinh doanh và quản trị nội bộ doanh nghiệp, trừ trường hợp điều lệ công ty quy định khác.
Chủ sở hữu công ty có quyền chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ vốn điều lệ của công ty cho tổ chức, cá nhân khác; quyết định sử dụng lợi nhuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ thuế và các nghĩa vụ tài chính khác của công ty; một số quyền khác, như: quyết định tổ chức lại, giải thể công ty...
* Nghĩa vụ của cá nhân chủ sở hữu công ty
Nghĩa vụ của chủ sở hữu công ty được quy định khái quát tại điều 65 Luật doanh nghiệp (2005), theo đó chủ sở hữu có nghĩa vụ góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã đăng kí với cơ quan đăng kí kinh doanh, trường hợp không góp đủ số vốn đã cam kết thì chủ sở hữu công ty phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty; tuân thủ điều lệ công ty; phải xác định và tách biệt các chi tiêu cuả cá nhân và gia đình mình với chi tiêu trên cương vị là Chủ tịch và Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty; tuân thủ quy định của pháp luật về hợp đồng và pháp luật có liên quan trong việc mua, bán, vay, thuê, cho thuê và các giao dịch khác giữa công ty và chủ sở hữu công ty.
Ngoài ra, chủ sở hữu công ty còn phải thực hiện nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Nhìn chung, Luật doanh nghiệp (2005) đã có những quy định phù hợp để tạo điều kiện cho chủ sở hữu công ty tham gia vào nền kinh tế thị trường và ngày càng phát huy được thế mạnh của mình. Tuy nhiên, chủ sở hữu công ty cũng phải chịu những hạn chế nhất định đối với quyền của họ, đặc biệt là các quyền quản lí, sử dụng vốn điều lệ. Theo Luật doanh nghiệp (2005) chủ sở hữu công ty chỉ được rút vốn bằng cách chuyển nhượng một phần hoặc toàn bộ số vốn điều lệ cho tổ chức hoặc cá nhân khác. Trường hợp rút một phần hoặc toàn bộ số vốn đã góp dưới hình thức khác thì phải liên đới chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty.
Chủ sở hữu công ty không được rút lợi nhuận khi công ty không thanh toán đủ các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác đến hạn phải trả. Điều này xuất phát từ đặc thù của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ. Cá nhân chủ sở hữu công ty là thành viên duy nhất nên nguy cơ chuyển dịch tài sản của công ty thành tài sản của cá nhân là rất lớn. Trong khi đó, cá nhân chủ sở hữu công ty TNHH một thành viên chỉ phải chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Bởi vậy, pháp luật phải hạn chế quyền của chủ sở hữu công ty nhằm bảo vệ quyền lợi của các chủ thể liên quan khi tham gia các quan hệ pháp luật với công ty.
CHƯƠNG 3
THỰC TIỄN THI HÀNH VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM THỰC THI LUẬT DOANH NGHIỆP (2005) VỀ CÔNG TY TNHH DO MỘT
CÁ NHÂN LÀM CHỦ
3.1 Thực tiễn thi hành đối với công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Với sự ghi nhận chính thức loại hình công ty TNHH do một cá nhân làm chủ tại Luật doanh nghiệp (2005) đã góp phần đa dạng hoá loại hình doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư là cá nhân có thêm cơ hội lựa chọn loại hình kinh doanh thích hợp. Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ đã được các nhà chuyên môn đánh giá sẽ được ưa chuộng và xuất hiện ngày càng nhiều hơn do bản thân loại hình công ty này có những ưu điểm nổi trội so với một số loại hình doanh nghiệp khác.
Cá nhân chủ sở hữu công ty là Chủ tịch công ty. Chủ tịch công ty có thể kiêm nhiệm hoặc thuê Giám đốc hoặc Tổng giám đốc. Yếu tố cá nhân làm chủ quyết định đến vấn đề quản lí. Theo đó, chủ sở hữu công ty có quyền quản lí, quyết định điều hành hoạt động của công ty. Đây là một điểm lợi thế so với cơ cấu tổ chức phức tạp cuả công ty cổ phần.
Người ta sẽ đặc biệt chú trọng đến lợi thế đặc biệt của loại hình công ty này đó chính là chế độ chịu TNHH của cá nhân chủ sở hữu công ty. Chủ sở hữu công ty TNHH chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Điều này cũng đồng nghĩa với việc phải có sự công khai minh bạch giữa tài sản của công ty và tài sản của chủ sở hữu. Tức là phải có mô hình giám sát doanh nghiệp và xử lí nghiêm minh các vi phạm. Mô hình công ty TNHH do một cá nhân làm chủ có khả năng giúp các cá nhân lựa chọn hình thức kinh doanh thích hợp để hạn chế rủi ro. Khi không may mắn trong sự nghiệp kinh doanh, công ty bị phá sản thì chủ sở hữu công ty cũng chỉ mất phần tài sản mà chủ sở hữu đầu tư vào vốn điều lệ của công ty mà không dễ dàng khánh kiệt gia sản nếu đầu tư thành lập doanh nghiệp tư nhân. Điều này sẽ khuyến khích các nguồn vốn đầu tư vào những khu vực và lĩnh vực mà ở đó khả năng rủi ro cao, tạo sự phát triển cân bằng cho nền kinh tế đất nước.
Ngoài ra, công ty TNHH do một cá nhân làm chủ còn được công nhận là một pháp nhân nên trong những trường hợp nhất định công ty vẫn có lợi thế được pháp luật “ban tặng”. Cần phải nhận thức rằng, trong tư duy pháp lý hiện đại thì một tổ chức là pháp nhân hay không là pháp nhân không phải là vấn đề trọng yếu, vấn đề là tổ chức đó có được pháp luật thừa nhận là chủ thể pháp lý độc lập hay không. Tuy nhiên, trong tư duy lập pháp ở Việt Nam cũng như một số nước vẫn còn tư tưởng quan trọng hoá vấn đề pháp nhân, chỉ pháp nhân mới được hưởng một số quyền nhất định.
Sự ghi nhận công ty TNHH do một cá nhân làm chủ là hết sức đúng đắn và cần thiết. Tuy nhiên, khi soạn thảo Luật doanh nghiệp (1999) đã có những ý kiến khác nhau về vấn đề này nhưng nhìn chung có hai quan điểm:
Quan điểm thứ nhất, nếu cho phép thành lập công ty TNHH do một cá nhân làm chủ sẽ vô hiệu hoá quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân, vì cùng một cá nhân nếu thành lập công ty TNHH thì chủ sở hữu chỉ phải chịu trách nhiệm hữu hạn về tài sản trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty, nhưng nếu thành lập DNTN thì chủ sở hữu lại phải chịu trách nhiệm vô hạn về mọi khoản nợ của doanh nghiệp. Do vậy, sẽ không có cá nhân nào muốn tổ chức kinh doanh dưới hình thức doanh nghiệp tư nhân mà họ sẽ đầu tư thành lập công ty TNHH một thành viên do một cá nhân làm chủ.
Quan điểm thứ hai, tán thành việc cho phép một cá nhân thành lập công ty TNHH. Vì mỗi loại hình đều có những ưu điểm và hạn chế của nó, các nhà đầu tư tuỳ từng điều kiện mà lựa chọn phù hợp. Vì vậy, mà không có nghĩa rằng cho phép một cá nhân thành lập công ty là vô hiệu hoá các quy định của pháp luật về doanh nghiệp tư nhân.
Chúng tôi đồng tình với quan điểm thứ hai. Quốc hội cần phải làm chức năng như nhà “thiết kế thời trang”, đó là đa dạng hoá các hình thức đầu tư, cung cấp cho các nhà đầu tư các mô hình doanh nghiệp khác nhau để các nhà đầu tư có nhiều cơ hội lựa chọn loại hình doanh nghiệp thích ứng nhất với yêu cầu kinh doanh của họ. Bản thân doanh nghiệp tư nhân cũng có những lợi thế riêng của mình mà nhiều nhà đầu tư cũng dễ dàng nhận thấy. Chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN là một nhược điểm đối với nhà đầu tư khi đầu tư vào loại hình doanh nghiệp này, bởi chủ doanh nghiệp có thể khánh kiệt gia sản bất cứ lúc nào nếu không may DNTN bị phá sản. Tuy nhiên, chế độ chịu trách nhiệm vô hạn của chủ DNTN lại là một “bảo đảm” an toàn, tin tưởng cho các đối tác khi quan hệ với DNTN. Vì vậy, khả năng vay những khoản tín dụng lớn từ ngân hàng, khả năng khất nợ, hoãn nợ, khả năng tìm kiếm các đối tác của DNTN lại dễ dàng được chấp nhận. Hơn nữa, điều này còn giúp cho DNTN ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật như các loại hình doanh nghiệp khác. Những ưu thế đó lại rất phù hợp với một nền kinh tế đang phát triển, phù hợp với tâm lý kinh doanh của nhiều nhà kinh doanh tại Việt Nam. Do vậy, việc thừa nhận công ty TNHH do một cá nhân làm chủ chỉ làm tăng khả năng lựa chọn một mô hình kinh doanh phù hợp với nhà đầu tư khi họ tham gia vào thương trường, việc lựa chọn hình thức này hay hình thức khác là quyền của nhà đầu tư phù hợp với khả năng và nguyện vọng mỗi nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, sự ra đời của công ty TNHH do do cá nhân làm chủ đã đáp ứng được các yêu cầu sau:
Nhu cầu về vốn của nền kinh tế Việt Nam là rất lớn, việc ưu đãi chế độ trách nhiệm hữu hạn sẽ rất hấp dẫn đối với các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho họ mạnh dạn rót vốn vào những địa bàn, lĩnh vực hiện thiếu nguồn đầu tư trầm trọng. Trên cơ sở đó khuyến khích được nhiều người tham gia hoạt động kinh tế, huy động và sử dụng ích lợi nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân dân, không chỉ đem lại lợi ích cho nhà kinh doanh mà còn thúc đẩy sản xuất, phát triển nền kinh tế quốc dân.
Mô hình công ty TNHH do một cá nhân làm chủ đã được pháp luật nhiều nước trên thế giới thừa nhận và ở Việt Nam tiền lệ cho mô hình này cũng đã tồn tại.
Tuy rằng công ty TNHH một thành viên không là “công ty” theo cách hiểu truyền thống, song việc xác lập một loại hình doanh nghiệp mới có quy chế pháp lí như công ty trách nhiệm hữu hạn với một chủ sở hữu thì không thể gọi doanh nghiệp đó bằng một khái niệm nào khác hơn là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên.
Qua các nghiên cứu cho thấy việc thừa nhận chính thức về mặt pháp lí công ty TNHH do một cá nhân làm chủ là sự phúc đáp các yêu cầu cuả thực tiễn đời sống. Lịch sử phát triển pháp luật công ty của các nước trên thế giới đã biết đến công ty TNHH một thành viên vào những năm 60 và 70 của thế kỉ 20. Trong những năm đó, hầu hết các nhà nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều đứng trước hiện tượng pháp lí mới: khi thấy sự xuất hiện của những “hợp đồng giả cách” trong khi vốn của toàn bộ công ty về một người, hoặc trường hợp khác trong quá trình hoạt động vì nhiều nguyên nhân khác nhau đã làm công ty TNHH chỉ còn một người duy nhất nhưng hoạt động kinh doanh của công ty vẫn có hiệu quả. Việc pháp luật thừa nhận công ty TNHH do một cá nhân làm chủ không chỉ như một việc đã rồi, là biểu hiện sự bất lực của nhà nước trong việc kiểm soát thành lập công ty TNHH mà thực chất là một bước đột phá khi quy định về địa vị pháp lí của các chủ thể kinh doanh.
Trên thực tế, khi pháp luật không thừa nhận công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thì nhiều nhà đầu tư đã phải mượn danh người khác đứng tên cùng để thành lập công ty TNHH hai thành viên trở nên, nhưng thực chất toàn bộ vốn thuộc sở hữu của một cá nhân và cá nhân đó toàn quyền quản lý, điều hành.
Những việc làm đó đã phản ánh một nguyện vọng từ phía người kinh doanh là chỉ muốn chính mình là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp và doanh nghiệp đó hoạt động theo quy chế công ty TNHH. Đồng thời, cần có thêm một loại hình doanh nghiệp mà nhà đầu tư cảm thấy an toàn, phân tán được rủi ro chuyển dịch vốn, hợp vốn dễ dàng với các chủ thể kinh doanh khác mà không làm mất đi bản chất pháp lí của doanh nghiệp.
Hơn nữa trong nền kinh tế thị trường thì chính thị trường mới là nhân tố quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận các loại hình kinh doanh mà không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của nhà làm luật. Mô hình kinh doanh nào có lợi và phổ biến cần phải được thừa nhận chính thức bằng pháp luật, để giải phóng sức sản xuất, tiềm năng kinh tế tiềm ẩn từ các nhà kinh doanh.
Bên cạnh đó, việc ghi nhận loại hình công ty TNHH do một cá nhân làm chủ tạo ra điểm lợi đặc biệt về mặt thực tế và tâm lí. Người Việt Nam chưa có kinh nghiệm quản kí chung với nhiều người, trong khi đó vốn ít, thích kinh doanh một mình nhưng ngại chịu trách nhiệm vô hạn.
Và cuối cùng chính là điều kiện của Việt Nam hiện nay thực hiện kinh tế mở, buộc pháp luật về công ty phải có những bước tiến dần dần hoà nhập với xu hướng chung của pháp luật về công ty trên thế giới.
Trên đây là tất cả những lí do khẳng định cho sự ra đời của công ty TNHH một cá nhân làm chủ và sự hợp lí của việc ghi nhận sự tồn tại của loại hình doanh nghiệp này tại Luật doanh nghiệp (2005).
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hiện tại thì số lượng công ty TNHH do một cá nhân làm chủ mới xuất hiện với số lượng hạn chế mặc dù tình hình chung là số lượng doanh nghiệp trên địa bàn cả nước tăng rất lớn đặc biệt từ khi Luật doanh nghiệp (2005) có hiệu lực thi hành. Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh được cấp phép kinh doanh thực tế đang hoạt động trong cả nước năm 2005 là: tổng số doanh nghiệp: 113352; doanh nghiệp nhà nước: 4086; doanh nghiệp tập thể: 6335; DNTN: 35001; công ty hợp danh: 37; công ty TNHH: 52549; công ty cổ phần: 11647; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: 2852, doanh nghiệp liên doanh: 845[ 9,tr 27-28];[10,tr 37] và đến hết 2007, ước tính cả nước có hơn 300000 doanh nghiệp, trong đó có 290000 công ty cổ phần, công ty TNHH và DNTN. So sánh giữa con số 113352 doanh nghiệp và 300000 đủ để thấy số doanh nghiệp được tăng lên đáng kể, chúng ta đang trên đà đạt đến mục tiêu 500000 doanh nghiệp.
Để nhìn rõ hơn sự tăng trưởng về số lượng doanh nghiệp trong cả nước chúng ta sẽ xem xét: Tính từ năm 2000 đến hết 2006 cả nước đã có 207034 doanh nghiệp đăng kí kinh doanh thành lập mới với số vốn đăng kí đạt trên 466000 tỷ đồng. Với tốc độ này tính đến hết 2006 bình quân Việt Nam đạt tỉ lệ 1 doanh nghiệp trên 300 người dân. Tỷ lệ này còn quá thấp so với mục tiêu 1 doanh nghiệp trên 20 người dân mà các nền kinh tế APEC phấn đấu. Tuy nhiên, so với tỉ lệ 1 doanh nghiệp trên 964 người dân năm 2001 thì đây là một con số đáng khích lệ [ 12]. Trong năm 2007 cả nước có 58916 doanh nghiệp đăng kí thành lập với số vốn 494.000.[ 13]
Hoà chung với tốc độ tăng của số lượng doanh nghiệp trên cả nước loại hình công ty TNHH do một cá nhân làm chủ cũng được thành lập một số lượng tương đối nhưng chưa nhiều, điều này được lí giải bởi các nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đây là loại hình doanh nghiệp mới nên các nhà đầu tư chưa nhận thức hết ưu thế của nó, vì thế mà họ còn e dè trong việc lựa chọn hình thức doanh nghiệp này, họ ngại cả về thủ tục thành lập, độ an toàn trong quá trình kinh doanh.
Thứ hai, xuất phát từ tâm lí kinh doanh của người Việt Nam là luôn có niềm tin lớn, luôn tin rằng mình sẽ dành thắng lợi trong kinh doanh nên mặc dù DNTN là mô hình kinh doanh chứa những mạo hiểm họ vẫn lựa chọn để tận dụng ưu thế của yếu tố trách nhiệm “vô hạn” nhằm thu hút đối tác làm ăn. Thực tế thời gian qua đã chứng minh cho sự tồn tại và tăng lên của loại hình DNTN. Số lượng từng loại hình doanh nghiệp được đăng kí kinh doanh trong năm 2007 như sau: DNTN : 10013; Công ty TNHH một thành viên là : 8404; công ty TNHH 2 thành viên trở lên: 25756; công ty cổ phần: 14733[ 13] Nhìn vào con số 10013 DNTN được đăng kí thành lập ta thấy đây không phải là con số nhỏ, hơn nữa lại so nó với 8404 công ty TNHH một thành viên trong đó có cả do tổ chức và cá nhân làm chủ sở hữu thì lại càng chứng tỏ được vị trí của DNTN ở giai đoạn hiện nay khi mà công ty TNHH do một cá nhân làm chủ đã được ghi nhận chính thức trong luật. Ngoài ra, ta có thể nhìn nhận số liệu của một số tỉnh thành sau: Thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế lớn nhất của cả nước theo con số thống kê của sở kế hoạch đầu tư thành phố đầu năm 2008 thì số DNTN 12993; công ty cổ phần 6665, công ty TNHH :52768 trong đó 862 [14 ]. Tại Hà Nội từ năm 2000 đến tháng 06 năm 2007 có hơn 40000 DNTN đăng kí thành lập, đây cũng là một con số đáng kể. Thanh Hoá trong năm 2007 đã thành lập được 425 công ty TNHH, 205 công ty cổ phần, 150 DNTN, 8 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, 6 hợp tác xã. Con số 150 DNTN được thành lập trong năm 2007 vừa qua cũng cho thấy vị trí đứng DNTN trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá vẫn rất vững vàng. Cho đến 31/12/2007, số doanh nghiệp thực tế tồn tại trên địa bàn tỉnh Thanh Hoá là: tổng số doanh nghiệp: 4615 doanh nghiệp; trong đó công ty TNHH: 2141; công ty cổ phần: 680; doanh nghiệp tư nhân:721, doanh nghiệp nhà nước:17; doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:27, hợp tác xã:1029[ 11]
Từ những số liệu trên cả nước và của một số tỉnh một lần nữa khẳng định sự xuất hiện số lượng công ty TNHH do một cá nhân làm chủ chưa lớn, chưa có bước đột phá, và DNTN vẫn giữ nguyên vị trí đứng của nó. Tuy nhiên theo ý kiến chung đánh giá thì trong thời gian tới công ty TNHH do một cá nhân làm chủ sẽ xuất hiện với số lượng ngày một nhiều và ngày càng được ưa chuộng do những đặc điểm, ưu thế của nó như đã phân tích trong luận văn này.
3.2 Một số kiến nghị nhằm thực thi luật doanh nghiệp ( 2005) về công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Luật doanh nghiệp (2005) là cơ sở pháp lí quan trọng nhất cho việc thành lập, tổ chức quản lí và hoạt động của các loại hình doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH do một cá nhân làm chủ nói riêng. Luật doanh nghiệp (2005) đánh dấu một mốc quan trọng trong quá trình hoàn thiện pháp luật về địa vị pháp lí của công ty TNHH một thành viên ở Việt Nam. Đồng thời, việc khẳng định chủ thể có quyền thành lập công ty TNHH một thành viên là cả tổ chức và cá nhân phần nào đã phản ánh được nét đặc trưng của đời sống kinh tế- xã hội nước ta, đáp ứng nhu cầu thực tiễn hiện nay.
Luật doanh nghiệp (2005) ra đời góp phần sửa đổi, bổ sung những quy định còn thiếu, chưa hợp lí về công ty TNHH một thành viên trong Luật doanh nghiệp (1999), Luật doanh nghiệp nhà nước (2003) cũng như những bất cập trong luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (1996) và luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật đầu tư nước ngoài (2000)
Khi Luật doanh nghiệp (1999) ghi nhận loại hình công ty TNHH một thành viên tức là đã đưa ra được một giải pháp pháp lí đối với một vấn đề bức xúc trên thực tế: Có thừa nhận hay không loại hình công ty thuộc sở hữu của một chủ khi mà thực tế tồn tại rất nhiều công ty TNHH, trong đó có một số thành viên danh nghĩa còn thực chất chỉ có một thành viên? Việc ghi nhận này trực tiếp góp phần cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp, phát huy nội lực của bản thân doanh nghiệp khi bước vào thương trường, khơi thông thêm các nguồn lực mới phục vụ cho mặt trận kinh tế- mặt trận hàng đầu có ý nghĩa quyết định với sự phát triển của đất nước.
Vì vậy, người ta nhìn nhận Luật doanh nghiệp (2005) ra đời với những quy định mới về công ty TNHH trong cơ chế luật doanh nghiệp thống nhất đã tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này nói riêng và doanh nghiệp nói chung phát triển mở rộng, thu hút mạnh mẽ sự đầu tư của các nhà kinh doanh
Vấn đề đặt ra là chỉ mình luật không là chưa đủ mà cần phải có biện pháp để thực thi luật thì mới đạt được kết quả tốt. Say đây là một số ý kiến đóng góp về biện pháp thực thi Luật doanh nghiệp (2005) về công ty TNHH do một cá nhân làm chủ.
(i). Về người đại diện theo pháp luật của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ
Điều 74.1 Luật doanh nghiệp (2005) quy định “ công ty TNHH 1 thành viên là cá nhân có chủ tịch công ty, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Chủ sở hữu công ty đồng thời là chủ tịch công ty. Chủ tịch công ty hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật của công ty theo quy định tại điều lệ của công ty”
Nếu Điều lệ công ty quy định Chủ tịch công ty là người đại diên theo pháp luật thì trong mọi trường hợp quyền của người đại diện theo pháp luật như: tham gia kí kết hợp đồng, khởi kiện, quyết định các hoạt động của công ty... vẫn thuộc về Chủ tịch công ty hay nói cách khác quyền của chủ sở hữu công ty vẫn được đảm bảo.
Nếu Điều lệ công ty quy định Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người đại diện theo pháp luật thì chúng ta dễ nhận thấy điểm bất cập. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người được Chủ tịch công ty thuê, nhưng khi Điều lệ công ty trao cho họ quyền của người đại diện theo pháp luật của công ty thì đương nhiên ngoài điều hành hoạt động của công ty họ còn có những quyền khác, như: đại diện cho công ty giao kết, thực hiện hợp đồng; đại diện cho công ty để khởi kiện đối tác tại trọng tài hoặc toà án...Chủ sở hữu công ty muốn tham gia tranh tụng tại Tòa hay trọng tài phải được sự uỷ quyền của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc, điều này làm cho vai trò của chủ sở hữu công ty bị mờ nhạt. Vấn đề không chỉ dừng lại ở vai trò mờ nhạt mà quyền lợi của nhà đầu tư đã thật sự bị ảnh hưởng. Quy định tại Điều 74.1 Luật doanh nghiệp (2005) dễ tạo ra cơ chế “ngược dòng”. Vì vậy, chúng tôi cho rằng về mô hình tổ chức, quản lý của công ty TNHH do một cá làm chủ cần quy định ngay trong luật “Chủ tịch công ty là người đại diện theo pháp luật của công ty”, không nên dành cho Điều lệ công ty như hiện nay. Điều này sẽ khẳng định vị trí của chủ sở hữu cũng như đảm bảo quyền lợi một cách toàn diện cho chủ sở hữu giống như chủ DNTN là đại diện theo pháp luật của DNTN.
(ii). Cần bổ sung các hình thức chuyển đổi từ công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thành công ty TNHH một thành viên do một tổ chức làm chủ hoặc chuyển đổi từ công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thành doanh nghiệp tư nhân
Như đã phân tích ở chuơng 2 của Luận văn, pháp luật hiện hành mới chỉ quy định các hình thức chuyển đổi, như: Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ chuyển đổi thành công ty trách nhiệm 2 thành viên trở lên hoặc công ty cổ phần; Công ty TNHH một thành viên là tổ chức chuyển đổi thành công ty TNHH do một cá nhân làm chủ; Công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn 2 thành viên trở lên chuyển đổi thành công ty TNHH do một cá nhân làm chủ; Chuyển đổi doanh nghiệp tư nhân thành công ty TNHH do một cá nhân làm chủ.
Trong thực tiễn, có thể có các hình thức chuyển đổi khác, như: chuyển đổi từ công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thành công ty TNHH một thành viên do một tổ chức làm chủ hoặc chuyển đổi từ công ty TNHH do một cá nhân làm chủ thành doanh nghiệp tư nhân. Bởi vậy, pháp luật cần bổ sung các hình thức chuyển đổi này để phúc đáp được sự đòi hỏi của thực tiễn.
(i). Kiện toàn cơ quan đăng kí kinh doanh
Sự ra đời của Luật doanh nghiệp (2005) gắn liền với việc áp dụng phương thức quản lí mới đối với toàn bộ nền kinh tế cho phù hợp với tình hình xã hội, vì thế cần có sự thay đổi lớn trong hệ thống cơ quan thực thi Luật doanh nghiệp. Việc kiện toàn cơ quan đăng kí kinh doanh cần tập trung vào hai nội dung chính sau:
Thứ nhất, kiện toàn đội ngũ cán bộ trong các cơ quan liên quan đến việc thực thi Luật doanh nghiệp. Trên thực tế thì đội ngũ cán bộ làm công tác thực thi Luật doanh nghiệp còn nhiều bất cập về trình độ chuyên môn. Đã có hiện tượng xảy ra khi doanh nghiệp đăng kí kinh doanh, nhưng cán bộ phụ trách xử lí hồ sơ ở mỗi quận hướng dẫn, diễn đạt ngành nghề đó theo nhiều cách khác nhau, hay cùng một hồ sơ đăng kí thay đổi nội dung đăng kí kinh doanh nhưng họ lại yêu cầu doanh nghiệp chuẩn bị một số giấy tờ khác nhau khiến cho một số doanh nghiệp gặp không ít khó khăn, làm cho họ cảm thấy phức tạp. Thậm chí đã có trường hợp doanh nghiệp được cấp mã số đăng kí kinh doanh giống nhau, hoạt động nhiều năm liên tục mà không phát hiện gì đến khi doanh nghiệp có nhu cầu thay đổi đăng kí kinh doanh , doanh nghiệp đến nộp hồ sơ thì phòng đăng kí kinh doanh mới phát hiện ra doanh nghiệp này có mã số đăng kí trùng với doanh nghiệp khác và bắt buộc doanh nghiệp lại phải làm thủ tục thay đổi đăng kí kinh doanh...
Bởi vậy, cần phải có những khoá huấn luyện, đào tạo về Luật doanh nghiệp mới, phổ biến tinh thần của luật nói chung và luật doanh nghiệp nói riêng để đảm bảo cho đội ngũ cán bộ có sự nhất quán về chuyên môn cũng như phong cách làm việc.
Thứ hai, phải trang bị phương tiện hiện đại cho các cơ quan đăng kí kinh doanh. Điều này có thể ảnh hưởng lớn đến chất lượng làm việc. Ở nước ta đã cho phép đăng kí kinh doanh qua mạng thí điểm ở một số thành phố như Hồ Chí Minh, Hà Nội. Các tỉnh khác không thấy đề cập đến vấn đề này. Nguyên nhân của tình trạng này trước tiên, do đội ngũ cán bộ đăng kí kinh doanh chưa có thói quen làm việc qua mạng, nhận hồ sơ, xử lí hồ sơ và trả lời kết quả qua mạng. Sau đó là do trình độ dân trí còn hạn chế nên việc hoàn tất các thủ tục đăng kí kinh doanh qua internet là một vấn đề khó khăn. Do đó tất cả các khâu trong quá trình đăng kí kinh doanh đều phải giải quyết trực tiếp, dẫn đến hoạt động của các cơ quan này đang ở trong tình trạng quá tải. Đây chính là nguyên nhân khiến cho các doanh nghiệp phải chờ đợi hoặc tiêu cực sẽ xảy ra tại các cơ quan này.
Tất cả những hạn chế trên đều ảnh hưởng đến năng suất làm việc, chính người dân và các doanh nghiệp phải chịu thiệt thòi. Bởi thế, các cơ quan trung ương cần tổ chức các lớp tập huấn cho cán bộ ở từng địa phương, đặc biệt là tin học hoá quá trình giải quyết công việc của cơ quan, dạy cách quản lí hành chính nhà nước trong thời đại công nghệ thông tin
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu và phân tích về đề tài công ty TNHH do một cá nhân làm chủ nhận thấy đây là loại hình doanh nghiệp có những nét đặc thù so với các lọai hình doanh nghiệp khác, sự quan tâm và nhận thức của xã hội tới loại hình doanh nghiệp này còn chưa sâu sắc. Vì vậy việc nghiên cứu làm rõ và hoàn thiện các quy định của pháp luật về loại hình doanh nghiệp này là cần thiết nhằm tạo lập môi trường kinh doanh ổn định đặc biệt là môi trường pháp lý cho hoạt động của loại hình doanh nghiệp này có điều kiện phát huy hết những ưu thế của nó. Nền tảng pháp lý vững chắc sẽ là cơ sở cho hoạt động an toàn có hiệu quả cuả các loại hình doanh nghiệp nói chung và công ty TNHH do một cá nhân làm chủ nói riêng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, làm cho bức tranh kinh tế thị trường Việt Nam ngày càng trở nên nhiều màu sắc. Với tinh thần đóng góp một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện pháp luật, khoá luận đã nghiên cứu, phân tích những vấn đề pháp lí cơ bản của công ty TNHH do một cá nhân làm chủ, từ đó nêu lên những nét đặc thù của mô hình này so với các laọi hình doanh nghiệp khác đặc biệt nêu đặc thù của nó với DNTN đồng thời làm rõ bản chất pháp lý cuả loại hình doanh nghiệp này. Trên cơ sở xem xét thực tiễn hoạt động khoá luận chỉ ra những tồn tại bất cập trong các quy định của pháp luật hiện hành, từ đó nêu ra một số kiến nghị, giải pháp góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty TNHH do một cá nhân làm chủ.
Mặc dù đã cố gắng tham khảo nhiều tài liệu cũng như học hỏi kinh nghiệm của những người đi trước song do kinh nghiệm và kiến thức còn hạn chế nên không tránh khỏi thiếu sót. Mong thầy cô và các bạn đóng góp ý kiến.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam (1992) sửa đổi 2001
2. Luật công ty (1990)
3. Luật doanh nghiệp (1999)
4. Luật doanh gnhiệp (2005)
5. Giáo trình Luật thương mại, trường Đại học Luật Hà Nội
6. Luận văn thạc sỹ “ công ty TNHH 1 thành viên theo luật doanh nghiệp (2005)- những vấn đề lý luận và thực tiễn của tác giả Lê Thị Tú Hồng, năm bảo vệ: 2006
7. F.Kubler- Jsimon: mấy vấn đề pháp luật kinh tế Cộng Hoà Liên Bang Đức, nhà xuất bản pháp lý 1992
8. M.Cozian, A.viandier, Tổ chức công ty, Tập 1, Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ tư pháp, Hà Nội 1989
9. Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2003, 2004, 2005. Nhà xuất bản Thống Kê Hà Nội
10. Thực trạng doanh nghiệp qua kết quả điều tra năm 2004, 2005, 2006. Nhà xuất bản Thống Kê Hà Nội
11. Báo cáo đánh giá tình hình phát triển doanh nghiệp trên địa bàn và kết quả thực hiện chương trình hành động của uỷ ban nhân dân tỉnh Thanh Hoá về phát triển doanh nghiệp giai đoạn 2005- 2010
12. Tạp chí tài chính số 10/ 2007
13. bài viết số lượng doanh nghiệp đăng kí kinh doanh năm 2007, cập nhật 17/9/2007
14., tổng quan về tình hình doanh nghiệp 2008 phân theo ngành
LỜI CẢM ƠN
Sau thời gian tìm tòi, nghiên cứu, đến nay khoá luận đã hoàn thành. Trong suốt thời gian đó tôi đã nhận được sự giúp đỡ, động viên của rất nhiều người. Tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới trước tiên là thầy giáo, thạc sỹ Hoàng Minh Chiến, giảng viên khoa pháp luật kinh tế trường Đại học Luật Hà Nội, nguời đã trực tiếp hướng dẫn tôi làm khoá luận này, sau đó cho tôi được bày tỏ lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo dưới mái trường Đại học Luật thân yêu đã trực tiếp giảng dạy cung cấp cho tôi kiến thức trong suốt 4 năm qua.Và cuối cùng xin cảm ơn gia đình, tất cả bạn bè đã luôn ở bên, động viên, khuyến khích tôi.
BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT
TNHH: Trách nhiệm hữu hạn
DNTN: Doanh nghiệp tư nhân
CHXHCN: Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
Chương 1. Nhận thức chung về công ty và công ty trách nhiệm hữu hạn
do một cá nhân làm chủ 2
1.1. Quan niệm chung về công ty 2
1.2. Các loại hình công ty theo pháp luật Việt Nam hiện hành 6
1.3. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do một cá nhân
làm chủ 11
Chương 2. Quy định của luật doanh nghiệp (2005) về công ty trách
nhiệm hữu hạn do một cá nhân làm chủ 19
2.1. Quy chế thành lập và đăng ký kinh doanh, tổ chức lại, giải thể
công ty trách nhiệm hữu hạn do một cá nhân làm chủ 19
2.2. Cơ cấu tổ chức, quản lý công ty trách nhiệm hữu hạn do một cá
nhân làm chủ 33
2.3. Chế độ tài chính và vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn do một
cá nhân làm chủ 34
2.4. Quyền và nghĩa vụ của công ty, chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu
hạn do một cá nhân làm chủ 35
Chương 3. Thực tiễn thi hành và một số kiến nghị nhằm thực thi luật
doanh nghiệp (2005) về công ty trách nhiệm hữu hạn do một cá nhân làm chủ 40
3.1. Thực tiễn thi hành đối với công ty trách nhiệm hữu hạn do một
cá nhân làm chủ 40
3.2. Một số kiến nghị nhằm thực thi luật doanh nghiệp (2005) về công ty
trách nhiệm hữu hạn do một cá nhân làm chủ 46
KẾT LUẬN 51
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 52
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Công ty TNHH do một cá nhân làm chủ theo luật doanh nghiệp (2005).doc