ĐỀ TÀI:
Corporate Entrepreneurship Contingencies And Organizational Wealth Creation
Khoa Kinh tế, Đại học Ljuiblijana, Ljubljana, Slovenia và Robert D.Hisrich. Trường quản lý Weatherhead, thuộc đại học phía tây Case , Cleverland, Bang Ohio, Mỹ
Yêu cầu của giảng viên:
1. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài.
2. Mô hình lý thuyết & mô hình cụ thể của đề tài.
3. Hãy chỉ ra phương pháp nghiên cứu mà tác giả đó đã sử dụng.
4. Chỉ ra rằng việc tóm lược lý thuyết có liên quan, có thích ứng, có ủng hộ cho mô hình nghiên cứu đó hay không?
5. Cách đặt các câu hỏi & giả thuyết nghiên cứu có chặt chẽ hay không?
6. Dựa trên kết quả xử lý thống kê hãy giải thích kết quả xử lý thống kê.
CÂU 1: MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài này là nghiên cứu sự liên hệ giữa doanh nghiệp tiên phong khai phá và việc tạo ra tài sản, lợi nhuận, tăng trưởng bằng cách phát triển và thử nghiệm các mô hình, từ đó làm rõ bản chất ảnh hưởng của Corporate Entrepreneurship, môi trường kinh doanh và công tác tổ chức lên tổ chức thực hiện.
Nhận dạng vấn đề cần nghiên cứu:
Tinh thần hợp tác kinh doanh. (corporate entrepreneurship/ Interactions)
Môi trường kinh doanh. (environmental conditions)
Công tác tổ chức. (organizational characteristics)
MỤC LỤC
CÂU 1: MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI 1
CÂU 2: MÔ HÌNH LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH CỤ THỂ CỦA ĐỀ TÀI 2
CÂU 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÁC GIẢ ĐÃ SỬ DỤNG 5
CÂU 4: HÃY CHỈ RA RẰNG VIỆC TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN, CÓ THÍCH ỨNG, CÓ ỦNG HỘ CHO MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ĐÓ HAY KHÔNG ? 10
CÂU 5: CÁCH ĐẶT CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU CÓ CHẶT CHẼ HAY KHÔNG? 18
CÂU 6: DỰA TRÊN KẾT QUẢ XỬ LÝ THỐNG KÊ HÃY GIẢI THÍCH KẾT QUẢ XỬ LÝ THỐNG KÊ 22
36 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2669 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Corporate Entrepreneurship Contingencies And Organizational Wealth Creation, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uận, và tạo ra của cải mới) sẽ bị ảnh hưởng gián tiếp tích cực (với sự điều phối của việc hợp tác trong doanh nghiệp) bởi: (a) mức độ năng động của môi trường; (b) ngành công nghiệp tăng trưởng; (c) các cơ hội công nghệ, và (d) nhu cầu mới sản phẩm.
H4: Hiệu quả về mặt tổ chức (tăng trưởng, lợi nhuận, và tạo ra của cải mới) sẽ chịu ảnh hưởng một cách tích cực bởi mức độ tương tác giữa các doanh nghiệp và điều kiện môi trường, chẳng hạn như: (a) mức độ môi trường năng động, (b) sự tăng trưởng công nghiệp; (c) công nghệ và nhu cầu (d) cho các sản phẩm mới.
H5a: Mức độ hỗ trợ tổ chức có quan hệ trực tiếp tích cực đến mức độ Corporate Entrepreneurship của công ty.
H5b: Mức độ của sự kiểm soát chính thức trong nội bộ công ty có liên quan trực tiếp tích cực đến sự hợp tác trong doanh nghiệp, nhưng sẽ tồn tại theo hình U-hình đảo ngược.
H5c: Các liên kết trực tiếp giữa số lượng của công ty của liên minh và mức độ của hợp tác trong doanh nghiệp là tích cực, nhưng có hình thức của một U-hình đảo ngược.
H6: Hiệu quả (tăng trưởng, lợi nhuận, và tạo ra của cải mới) chịu ảnh hưởng một cách gián tiếp và tích cực (với sự điều phối của sự hợp tác trong doanh nghiệp) bởi: (a) mức độ hỗ trợ tổ chức; (b) kiểm soát chính thức; và (c) liên minh chiến lược của một tổ chức.
H7: Hiệu quả (tăng trưởng, lợi nhuận và tạo ra của cải mới) chịu ảnh hưởng tích cực bởi mức độ tác động qua lại giữa hợp tác trong doanh nghiệp và các yếu tố về tổ chức, thể hiện qua : (a) Sự hỗ trợ của tổ chức; (b) Kiểm soát chính thức; và (c) sự liên kết các chiến lược.
Dựa vào những giả thuyết trên, tác giả đã đưa ra thang đo lường (Predictor) thông qua các 3 biến ( sự tăng trưởng, lợi nhuận và tạo ra của cải mới).
Các yếu tố thể hiện mối quan hệ này là:
Điều kiện môi trường: ( Environmental Conditions):
Công nghệ ( Technological Opportunities).
Sự tăng trưởng công nghiệp ( Industry Growth).
Nhu cầu cho sản phẩm mới (Demand for new Products).
Động lực (Dynamism).
Đặc tính về mặt tổ chức: (Organizational Factors):
Sự hỗ trợ trong tổ chức (O. Support).
Kiểm soát chính thức (Formal Controls).
Kiểm soát chính thức (Dạng bậc 2).
Khối liên minh ( Number of alliances).
Khối liên minh (Dạng bậc 2).
Sự hợp tác trong doanh nghiệp (CE).
Sự tác động qua lại (Interacion).
Các yếu tố trong điều kiện môi trường và tổ chức có tác động trực tiếp và tích cực đến CE .Tác động này thể hiện rõ qua các giả thuyết H2c, H2b, H5a, H5b, H5c. Sự tác động tích cực này thể hiện qua 3 biến. Các yếu tố này kết hợp với CE, tác động nội bộ gián tiếp thông qua các chỉ số được đo lường (3 biến). Chính CE cũng tự tác động lẫn nhau ( tác động nội bộ ). Kết quả này phần định lượng sẽ thể hiện rõ CE tự tác động như thế nào thông qua ba biến trên.
Toàn bộ quá trình định tính được thể hiện rõ thông qua bảng trên. Và vấn đề định lượng để kiểm định lại mối quan hệ này đã được tác giả đo lường (Measuring Instrument)và nêu ra số liệu cụ thể trong bảng II ( Table II)
3.2) Nghiên cứu định lượng
Dữ liệu được thu nhập bằng thư khảo sát. Bảng câu hỏi điều tra được gửi tới ủy viên quản trị cao nhất của những công ty được chọn và những phản ứng khuyết danh được đảm bảo.
Những công ty được chọn từ cơ sở dữ liệu của bộ thương mại Slovenia. Bao gồm tất cả ngành nghề kinh doanh ở Slovenia, từ sự đa dạng của công nghiệp trừ tổ chức chăm sóc sức khỏe, thể chế tài chính, thể chế giáo dục. Sự đa dạng của công nghiệp bao gồm : sản xuất hàng tiêu dùng và công nghiệp hàng hóa, xây dựng, bán lẻ và bán sỉ, công việc của kỹ sư, nghiên cứu và phát triển, hàng tiêu dùng và kinh doanh dịch vụ, vận chuyển và ngành dịch vụ công cộng. Từ đó tập trung nghiên cứu ngành kinh doanh hiện tại trong công ty.
Chỉ những công ty có từ 30 nhân viên hoặc hơn mới được chọn. Trong cơ sở dữ liệu có 2086 công ty dáp ứng được yêu cầu đề ra, mỗi công ty sẽ nhận được một bảng câu hỏi điều tra.
Bảng câu hỏi được thiết kế bằng tiếng Anh, sau đó được dịch sang tiếng Slovenia. Sau khi dịch, bảng câu hỏi đã được thử nghiệm trên 1 nhóm 5 nhà quản lý người Slovenia từ khu vực Koper. Kết quả thử nghiệm đề xuất 1 số thay đổi nhỏ trong từ ngữ của bảng câu hỏi chính xác sau cùng.
Số lượng phản hồi là 502, chiếm 24,1% , 8 bảng câu hỏi để trống được trả lại cho những công ty đã miễn cưỡng tham gia nghiên cứu này. 494 bảng câu hỏi còn lại được kiểm tra dữ liệu thiếu, còn lại 477 có thể sử dụng được để phân tích.
Trung bình những công ty trong mẫu khảo sát có từ 100 đến 249 nhân viên (làm việc toàn thời gian), doanh số bán hàng từ 5 đến 10 triệu USD, độ tuổi từ 21 đến 50, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất, và tọa lạc tại các khu vực địa lý trung tâm (thủ đô Ljubljana của Slovenia và những vùng lân cận). Mẫu khảo sát này có thể so sánh được với cơ sở dữ liệu tổng thể về mặt quy mô doanh nghiệp, công nghiệp và vị trí địa lý. Tuy nhiên, sự phân bố của mẫu nghiên cứu hơi khác so với tổng thể; mẫu này có phần thiên về khảo sát những công ty lớn và ngành công nghiệp sản xuất. Các câu trả lời cho chủ doanh nghiệp (biến phụ thuộc trung gian) và những thành quả (biến phụ thuộc cuối cùng) đều được phân bổ trong phạm vi trả lời.
CÂU 4: HÃY CHỈ RA RẰNG VIỆC TÓM LƯỢC LÝ THUYẾT CÓ LIÊN QUAN CÓ THÍCH ỨNG, CÓ ỦNG HỘ CHO MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU ĐÓ HAY KHÔNG ?
Ta có thể thấy rõ sự ủng hộ cho mô hình nghiên cứu thông qua việc tóm lược các lý thuyết nghiên cứu trước đây để phân tích 7 giả thuyết sau :
Cải thiện kết quả của tổ chức, là những thuật ngữ luôn luôn chỉ sự tăng trưởng và lợi nhuận. Được cho là kết quả của việc hợp tác trong các tổ chức được thành lập (Covin và Slevin, 1991). Corporate Entrepreneurship là một phần của tổ chức thành công (Petersand Waterman, 1982; Kanter. 1984; Pinchot, 1985) và được phát hiện là có liên quan đến sự tăng trưởng và lợi nhuận (Covinand Slevin,1986; Zahra, 1991, 1993a; Zahra và Covin, 1995) của các công ty lớn. Nó được cho là một yếu tố dự báo tốt sự tăng trưởng của các doanh nghiệp nhỏ (Covin, 1991), việc thực hiện trong môi trường cạnh tranh của các công ty nhỏ (Covin và Slevin, 1989), và tăng trưởng của các công ty y tế Hoa Kỳ (Stetzetal, 1998).
Corporate Entrepreneurship được cho là có liên quan đến sự tăng trưởng của các công ty được thành lập từ các công ty có kích thước khác nhau và từ các ngành công nghiệp khác nhau của Slovenia và Mỹ, và lợi nhuận là của các công ty Slovenia chứ không phải công ty Mỹ (Antonic và Hisrich, 2001). Morris và Sexton (1996) đã phát hiện mối quan hệ thực sự giữa mở rộng doanh nghiệp và tăng trưởng nhưng không phải tăng lợi nhuận của công ty Mỹ. Các nghiên cứu khác (Zahrand và Covin, 1995; Wiklund, 1999) phát hiện ra rằng định hướng kinh doanh của các công ty nhỏ có sự bền vững lâu dài lên sự tăng trưởng và hiệu quả tài chính, thêm nữa là những tác dụng ngắn hạn.
Doanh nghiệp thường tạo ra những giá trị mới (Hisrich và Peter, 1998). Trong khi đó mức lợi nhuận có thể được xem xét như sự cần thiết quan trọng. Điều kiện để hình thành tài sản của tổ chức mới (được định nghĩa trong nghiên cứu này như quỹ tài chính sẵn có), thường là không đủ. Lợi nhuận có thể có liên quan đến nhưng nó không giống như của cải mới. Của cải mới này cũng là một chức năng của sự tăng trưởng tổ chức, kể từ khi các công ty có lợi nhuận với mức tăng trưởng cao hơn, ceterisparibus, sẽ hình thành lượng cổ phiếu của các quỹ mới lớn hơn so với các công ty nhỏ với mức tăng trưởng thấp. Tạo ra của cải có tổ chức được coi là một hệ quả quan trọng, nhưng vẫn tiềm ẩn như là kết quả của Corporate Entrepreneurship của công ty nói chung (Kanter, 1984; Peter và Waterman, 1982; Pinchot, 1985) cũng như sát nhập doanh nghiệp được tạo ra để đo lường việc thực hiện (Naman và Slevin,1993).
Tổ chức với thái độ quản lý doanh nghiệp hàng đầu tham gia vào các hoạt động kinh doanh dự kiến sẽ đạt được cấp độ cao hơn của sự tăng trưởng, lợi nhuận, và tạo ra sự giàu có mới hơn so với tổ chức thấp hơn trong việc Corporate Entrepreneurship. Nghiên cứu này hình thành giả thuyết sau:
H1. Mức độ Corporate Entrepreneurship của công ty sẽ liên quan đến việc thực hiện tổ chức trong thuật ngữ:
Tăng trưởng
Lợi nhuận
Tạo ra của cải mới
Môi trường bên ngoài được xem như là một yếu tố quyết định của hoạt động chủ thể ở cả hai lĩnh vực cá nhân và tổ chức (Covin và Slevin,1991). Các nhà nghiên cứu xây dựng mô hình dự phòng (Zahra,1991; Russell,1992; Naman và Slevin,1993; Zahra và Colin,1995; Antoncic và Hisrich,2001) hoặc sử dụng sườn (Badguerahanitan và Abetti,1995) để giải thích và dự đoán hợp tác doanh nghiệp và xu thế thu nhập của nó để hợp tác; thêm nữa là sự đa dạng của môi trường bên trong, môi trường bên ngoài. Trong thuật ngữ ảnh hưởng Corporate Entrepreneurship, môi trường bên ngoài là điều kiện quan trọng quyết định đặc tính môi trường chắc chắn như sự năng động, cơ hội công nghệ, tăng trưởng công nghiệp, và đòi hỏi sản phẩm mới có thế tạo ra hành vi doanh nghiệp (Covin và Slevin, 1991; Zahra,1993a; Zahra và Covin ,1995; Dess etal,1997).
Sự năng động đề cập đến bất ổn và thay đổi liên tục trong thị trường công ty. Tăng sự năng động có thể hỗ trợ theo đuổi Corporate Entrepreneurship vì nó có xu hướng tạo ra các cơ hội trong thị trường công ty (Zahra.1991). Tổ chức thường phản ứng với những điều kiện thử thách được tìm thấy trong sự năng động hoặc môi trường công nghệ cao bằng thái độ hợp tác. Thay đổi môi trường trong cấu trúc cạnh tranh công nghiệp và công nghệ được cho là ảnh hưởng Corporate Entrepreneurship của công ty (GuthandGinsberg,1990; Zahra ,1993a) và cho rằng sự suy giảm nhận thức của một ngành công nghiệp sẽ đẩy các công ty tăng các hoạt động cải tiến. Tăng thị trường, mặt khác, cung cấp các cơ hội dẫn đến tăng trưởng hoạt động thương mại. Việc phát triển thị trường đã cho thấy có liên quan đến sản phẩm mới trong đổi mới công ty sản xuất và được đề xuất có liên quan đến hoạt động doanh nghiệp thành công (Hobson và Morrison,1983). Nhu cầu về sản phẩm mới cũng đại diện nhu cầu đẩy quan trọng (Zahra, 1993a) – điều mà khuyến khích việc Corporate Entrepreneurship. Do đó, nó được cho là rất năng động, cơ hội công nghệ, tăng trưởng công nghệ. Và các nhu cầu về sản phẩm mới sẽ có tác động tích cực đến Corporate Entrepreneurship.
H2. Corporate Entrepreneurship sẽ ảnh hưởng trực tiếp tích cực bởi:
Tác động bên ngoài của sự năng động
Ngành công nghiệp tăng trưởng
Cơ hội công nghệ
Nhu cầu sản phẩm mới
Vì Corporate Entrepreneurship của công ty được dự đoán sẽ tạo ra hiệu suất tổ chức về mặt tăng trưởng, lợi nhuận, và tạo ra của cải mới (xem H1), các điều kiện môi trường cũng ảnh hưởng quan trọng gián tiếp vào hoạt động của tổ chức. Một nghiên cứu gần đây (Anoncic và Hisrich,2001) đã chứng minh rằng môi trường có xu hướng tác động gián tiếp mạnh mẽ, đó là trung gian bởi Corporate Entrepreneurship của công ty, về hiệu suất công ty, nghiên cứu này tạo cơ sở cho các giả thuyết sau đây:
H3. Thực hiện tổ chức (tăng trưởng, lợi nhuận, tạo ra của cải mới) ảnh hưởng tích cực bởi:
Tác động bên ngoài của sự năng động môi trường
Tăng trưởng ở công nghiệp
Cơ hội công nghệ
Đòi hỏi sản phẩm mới
Đặc điểm môi trường cũng có thể tương tác với quy mô Corporate Entrepreneurship của công ty trong tác động thực hiện. Một số nghiên cứu (Miller và Friesen,1983); Covin và Slevin,1989; Dessetal,1997) đã đề xuất rằng mối quan hệ giữa Corporate Entrepreneurship và thực hiện nó trong bối cảnh chiến lược và tác động môi trường. Các nghiên cứu của họ về các công ty sản xuất nhỏ mà hợp tác tạo nên sự giàu có của tổ chức. Công ty nhỏ thực hiện thụ động hơn khi họ phải đối mặt trong môi trường cạnh tranh gay gắt.
Tương tự các phát hiện được báo cáo bởi Covin và Slevin(1989). Một nghiên cứu của Becherer và Maurer (1997) không cho thấy bằng chứng về ảnh hưởng của các đặc tính quản lí môi trường. Các định hướng kinh doanh trong mối quan hệ lợi nhuận. Nghiên cứu về tác động của Corporate Entrepreneurship, tương tác môi trường của công ty thực hiện đã cho kết quả khá hỗn hợp về sự tồn tại của mối quan hệ như vậy, dẫn đến giả thuyết sau đây:
H4. Tổ chức thực hiện (tăng trưởng, lợi nhuận, tạo ra của cải mới sẽ ảnh hưởng bởi mở rộng tương tác giữa Corporate Entrepreneurship và điều kiện môi trường, chẳng hạn như:
Mở rộng môi trường năng động
Tăng trưởng ngành công nghiệp
Các cơ hội công nghệ
Nhu cầu cho các sản phẩm mới
Các yếu tố tổ chức và Corporate Entrepreneurship của công ty. Sự tồn tại tổ chức đưa ra cơ hội cho doanh nghiệp (Burgelman,1983). Nghiên cứu tập trung vào loại trở ngại trong nội bổ tổ chức môi trường cũng như là lợi nhuận tăng Corporate Entrepreneurship (Souder,1981); Schollhammer,1982; Kanter,1984; Pinchot,1985; Luchsinger và Bagby,1987). Hỗ trợ tổ chức và kiểm soát thông thường là hai nhân tố của tổ chức có thể dẫn mạnh mẽ Corporate Entrepreneurship thuận lợi cho doanh nghiệp (Antocic và Hisrich,2001).
Hỗ trợ tổ chức và quản lý có thể có lợi cho Corporate Entrepreneurship. Tầm quan trọng liên quan đến sự quản lý (Merrifield,1993) cũng như khuyến cáo quản lý hàng đầu khác (Hisrich và Peter,1984) và phần thưởng của hoạt động đầu tư (Mac Millan,1986) là cảm thấy quan trọng cho doanh nghiệp kinh doanh. Tổ chức hỗ trợ về đào tạo và cá nhân tin tưởng trong công ty để phát hiện các cơ hội (Stevenson và Jarillo,1990) đề xuất tích cực ảnh hưởng đến hoạt động thiết lập doanh nghiệp. Các hỗ trợ tổ chức về nguồn tài nguyên sẵn có đã được xác định là một động lực quan trọng của hoạt động thành lập công ty. Starr và Millan (1990) đề xuất kỹ thuật xã hội – điều mà giúp doanh nghiệp trong nguồn lực của Bộ tài chính. Thêm vào đó môi trường được hỗ trợ tổ chức bên trong có sẵn nguồn lực tài chính cho Corporate Entrepreneurship đã được đặc biệt chú ý.
Tầm quan trọng của hỗ trợ tổ chức cho Corporate Entrepreneurship của công ty được nhìn thấy trong một nghiên cứu của Zahra (1993a), trong đó bao gồm các hoạt động hỗ trợ tổ chức (chẳng hạn như đào tạo và khen thưởng nhân viên, và thủ tục thành lập để đối phó với doanh nghiệp kinh doanh)
Đặc tính hỗ trợ tổ chức như quản lý hỗ trợ, theo quyết định công việc, khen thưởng, thời gian sẵn có, nới lỏng nội quy công ty (Hornsbyetal,1990,1993) rất quan trọng. Nhân tố tổ chức tác động lên Corporate Entrepreneurship (Antoncic và JMD 23.6526 Hisrich,2001). Dựa trên nghiên cứu này, dự kiến hỗ trợ tổ chức sẽ tích cực liên quan đến Corporate Entrepreneurship của công ty.
=>> H5a : Quy mô của sự hỗ trợ tổ chức sẽ liên quan trực tiếp tới quy mô của doanh nghiệp
Chính thức điều khiển cũng có thể có lợi cho Corporate Entrepreneurship của công ty. Chính thức điều khiển đề cập đến việc sử dụng các quy tắc hệ thống hoá, mục tiêu, thủ tục, và quy định cụ thể mong muốn các mô hình của hành vi (Das và Teng, 1998). Kuratko et al. (1993) nhấn mạnh tầm quan trọng của kiểm soát và đánh giá cho Corporate Entrepreneurship của công ty. Kanter (1989) cũng được coi là kiểm soát chính thức là yếu tố cần thiết cho doanh nghiệp lựa chọn dự án kinh doanh. Trong khi hai nghiên cứu chỉ ra một mối quan hệ tích cực, MacMillan et al. (1984) và Zahra (1991) nhấn mạnh tác dụng ức chế của việc sử dụng quá nhiều các điều khiển chính thức về Corporate Entrepreneurship của công ty. Những phát hiện này gợi ý tại một mối quan hệ không tuyến tính giữa kiểm soát chính thức và Corporate Entrepreneurship. Vì thế nhận ra rằng kiểm soát chính thức về việc giám sát hoạt động kinh doanh của doang nghiệp tạo sự liên kết tuyệt đối đối với các doanh nghiệp, nhưng cũng có thể khi ở mức quá cao sẽ gây ức chế cho doanh nghiệp
=>> H5b : Mức độ của việc sử dụng kiểm soát chính thức trong nội bộ doanh nghiệp sẽ có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng sẽ có một dạng đảo ngược hình U.
Một yếu tố khác mà mở rộng ranh giới tổ chức, nhưng có thể dẫn đến doanh nghiệp kinh doanh là liên minh chiến lược của tổ chức.
Các nhà nghiên cứu đã tập trung vào các mạng lưới đổi mới nhấn mạnh tầm quan trọng của cả bên trong và bên ngoài công ty mạng lưới thông tin và cộng tác cho đổi mới thành công (Freeman, 1991), cũng như các công ty và tương tác của nó với các công ty trong môi trường của nó (DeBresson và Amesse, 1991). Do đó, phổ biến trong nội bộ công ty tập trung nghiên cứu Corporate Entrepreneurship của công ty cần phải được mở rộng bao gồm của công ty, đặc điểm liên quan đến mối quan hệ của nó với các công ty khác trong mạng của nó và chiến lược liên minh.
Các liên minh chiến lược có xu hướng được một hình thức thu hẹp các mối quan hệ mạng lưới.
Liên minh cơ bản có tính năng chia sẻ các liên tục lẫn nhau phụ thuộc lẫn nhau, tình trạng mà trong đó một bên là dễ bị tổn thương khác có hành vi không thuộc thẩm quyền của người đầu tiên "(Parkhe, 1993, trang 796). Liên minh và mạng lưới có thể được xem như là tiến hóa, các cơ chế hợp tác nhiều mặt (Osborn và Hagedoorn, 1997).
Sự hợp tác bên trong công ty cho sự đổi mới là một chiến lược phổ biến được nuôi dưỡng trong công ty đặc biệt là cho phát triển sản phẩm mới và các quá trình sản xuất (Smith và cộng sự, 1991.). Liên minh của một tổ chức với các công ty khác là quan trọng đối với tổ chức doanh nghiệp. Trong ngành công nghiệp công nghệ cao như công nghệ sinh học, sáng chế có thể là chủ yếu phụ thuộc vào tổ chức học tập thông qua các tổ chức liên hợp tác (Powell và cộng sự, 1996).
Deeds và Hill (1996) đã tìm thấy một mối quan hệ tích cực giữa việc sử dụng các liên minh và phát triển sản phẩm mới, mối quan hệ tuyệt đối giữa số lượng của các liên minh và tỷ lệ phát triển sản phẩm mới có xu hướng phi tuyến tính (dạng hình chữ U ngược). Trong khi các nhà nghiên cứu tìm ra rằng ở những cấp độ thấp thì mối quan hệ đó thường chắc chắn, ở mức độ cao thì giá của việc thêm một liên minh có nhiều ảnh hưởng hơn lợi ích đó là nguyên nhân của việc giảm tỷ lệ phát triển sản phẩm mới. Thêm vào đó số lượng sự liên kết của công ty với các công ty khác, một số đặc điểm của mạng lưới khác có thể liên quan tới nội bộ của doanh nghiệp kinh doanh. Thuộc tính của những mạng lưới đó có thể trở thành yếu tố cần thiết cho mạng lưới cấu trúc như mạng tập trung( Powell et al., 1996; Tsai và Ghoshal, 1998) và mạng tỷ trọng (Abrahamson và Rosenkopt,1997). Kể từ đó nghiên cứu này trở thành đặc điểm của tổ chức, ở mỗi khía cạnh sự liên hệ (nội bộ mối liên hệ của một cơ quan). Như số lượng liên minh của tổ chức với những công ty khác, được xem xét, đây là nền tảng để phát triển giả thiết sau:
=>> H5c : Sự liên kết trực tiếp giữa số lượng liên minh của các công ty và quy mô của doanh nghiệp đoàn thể được chắc chắn, nhưng có dạng của hình chữ U ngược.
Khi doanh nghiệp được thiết kế như một tiền đề trực tiếp cho đặc tính của tổ chức trong kỳ tăng trưởng, lợi nhuận và sự phong phú sáng tạo mới, những nhân tố tổ chức trước đã thảo luận có thể có một ảnh hưởng gián tiếp trong đặc tính tổ chức. Như một nghiên cứu (Antoncic và Hisrich, 2001) chứng minh rằng, sự hỗ trợ tổ chức và kiểm soát chính thức co khuynh hướng ảnh hưởng gián tiếp mạnh mẽ, cái mà được hòa hợp bởi doanh nghiệp trong đặc tính của công ty. Dạng nghiên cứu này là nền tảng cho giả thiết sau:
H6 : Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ gián tiếp (voi sự hòa hợp của đoàn thể doanh nghiệp) ảnh hưởng rất lớn qua:
Quy mô sự hỗ trợ của tổ chức
Kiểm sóat chính thức
Số lượng các liên minh chiến lược của tổ chức
Sự tương tác giữa các nhân tố trong tổ chức và doanh nghiệp kinh doanh có thể ảnh tới đặc tính của tổ chức. Theo như Peters và Waterman (1982) đề xuất, những công ty phát triển môi trường tiềm năng tổ chức có ích cho doanh nghiệp kinh doanh và thực tế sự định hướng và họat động đó có thể có cấp độ cao hơn về tăng trưởng, lợi nhuận và sự phong phú sáng tạo mới. Hai khái niệm nghiên cứu trong doanh nghiệp kinh doanh ( Covin và Slevin, 1991; Lumpkin và Dess, 1996) giả sử rằng đặc tính của doanh nghiệp kinh doanh có thể bị tác động một cách vừa phải bởi các nhân tố tổ chức. Naman và Slevin (1993) đã chứng minh rằng sự vừa khớp giữa nhân tố tổ chức và doanh nghiệp kinh doanh có thể là yếu tố quan trọng cho việc nâng cao đặc tính của công ty. Dạng nghiên cứu trên là nền tảng cho giả thiết cuối cùng.
H7: Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ bị ảnh hưởng nhiều qua quy mô của sự tương tác giữa doanh nghiệp kinh doanh va nhân tố tổ chức, điển hình là:
Quy mô sự hỗ trợ của tổ chức
Kiểm sóat chính thức
Số lượng các liên minh chiến lược của tổ chức
.
CÂU 5: CÁCH ĐẶT CÂU HỎI NGHIÊN CỨU VÀ GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU CÓ CHẶT CHẼ HAY KHÔNG?
Từ việc phân tích đề tài ta thấy được cách đặt câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết nghiên cứu chưa có đươc sự chặt chẽ, vẫn còn có sự thiếu sót trong những lập luận cũng như chưa chính xác, cụ thể như sau:
5.1) Corporate Entrepreneurship
Câu hỏi nghiên cứu 1: Mức độ Corporate Entrepreneurship của công ty sẽ liên quan tích cực đến sự hoạt động của tổ chức trong những khía cạnh nào?
Giả thiết 1: Mức độ Corporate Entrepreneurship của công ty sẽ liên quan đến việc thực hiện tổ chức trong thuật ngữ:
Tăng trưởng
Lợi nhuận
Tạo ra của cải mới
Nhận xét :
Corporate Entrepreneurship mạnh mẽ, tích cực và đáng kể liên quan tới tăng trưởng, lợi nhuận, và sự giàu có mới, chỉ ra rằng Corporate Entrepreneurship của công ty có xu hướng được một dự báo trực tiếp tốt sức sáng tạo của tổ chức, cũng như lợi nhuận và tăng trưởng.
5.2) Môi trường kinh doanh
Câu hỏi nghiên cứu 2: Corporate Entrepreneurship sẽ bị ảnh hưởng tích cực trực tiếp bởi các yếu tố nào?
Giả thiết 2: Corporate Entrepreneurship sẽ ảnh hưởng trực tiếp tích cực bởi:
Tác động bên ngoài của sự năng động
Ngành công nghiệp tăng trưởng
Cơ hội công nghệ
Nhu cầu sản phẩm mới
Câu hỏi nghiên cứu 3: Hoạt động của tổ chức ảnh hưởng trực tiếp tích cực bởi các thành phần nào?
Giả thiết 3: Thực hiện tổ chức (tăng trưởng, lợi nhuận, tạo ra của cải mới) ảnh hưởng tích cực bởi:
Tác động bên ngoài của sự năng động môi trường
Tăng trưởng ở công nghiệp
Cơ hội công nghệ
Đòi hỏi sản phẩm mới
Câu hỏi nghiên cứu 4: Hoạt động của tổ chức ảnh hưởng tích cực bởi sự mở rộng tương tác giữa các Corporate entrepreneurship và điều kiện môi trường thông qua các kênh nghiên cứu nào?
Giả thiết 4 : Tổ chức thực hiện (tăng trưởng, lợi nhuận, tạo ra của cải mới sẽ ảnh hưởng bởi mở rộng tương tác giữa Corporate Entrepreneurship và điều kiện môi trường, chẳng hạn như:
Mở rộng môi trường năng động
Tăng trưởng ngành công nghiệp
Các cơ hội công nghệ
Nhu cầu cho các sản phẩm mới
Nhận xét :
Ảnh hưởng của tăng trưởng công nghiệp trên hiệu suất hoạt động của doanh nghiệp không được tác động bởi Corporate Entrepreneurship của doanh nghiệp. Điều này mâu thuẫn mạnh với với một kết quả ngiên cứu (Zahra,1993a), trong đó trình bày bằng chứng cho mối quan hệ giữa năng động, phát triển môi trường và Corporate Entrepreneurship của doanh nghiệp trong việc tạo ra việc kinh doanh mới và đổi mới trong kiểu mẫu của các công ty sản xuất Mỹ.
Sự tăng tưởng tổ chức và sự tạo ra của cải vật chất cho công ty, nhưng không phải tạo ra lợi nhuận có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự tăng trưởng công nghiệp và sự phù hợp giữa đặc tính ngành công nghiệp này với đặc tính cùa doanh nghiệp kinh doanh.
Cơ hội công nghệ có thể là yếu tố quan trọng tác động đến doanh nghiệp kinh doanh, nhưng mức độ phù hợp Corporate Entrepreneurship của công ty cho cấp những điều kiện này có thể không được thuận lợi hoặc là để tăng trưởng tổ chức, lợi nhuận, hoặc tạo ra của cải mới.
Nhu cầu về sản phẩm mới có thể là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp doanh nghiệp kinh doanh. Nó cũng có thể có một số ảnh hưởng gián tiếp thông qua hiệu quả Corporate Entrepreneurship. Quan trọng hơn, sự giàu có tổ chức mới tạo sự tăng trưởng và lợi nhuận, nhưng không, có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nhu cầu sản phẩm mới, cũng như phù hợp với những từ này đặc trưng công nghiệp và doanh nghiệp kinh doanh.
5.3 ) Công tác tổ chức
Câu hỏi nghiên cứu 5a: Quy mô của sự hỗ trợ tổ chức sẽ liên quan trực tiếp tới quy mô của doanh nghiệp hay không?
Giả thiết 5a : Quy mô của sự hỗ trợ tổ chức sẽ liên quan trực tiếp tới quy mô của doanh nghiệp
Câu hỏi nghiên cứu 5b: Mức độ của việc sử dụng kiểm soát chính thức trong nội bộ doanh nghiệp có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không và ở dạng nào
Giả thiết 5b: Mức độ của việc sử dụng kiểm soát chính thức trong nội bộ doanh nghiệp sẽ có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng sẽ có một dạng đảo ngược hình U
Câu hỏi nghiên cứu 5c: Sự liên kết trực tiếp giữa số lượng liên minh của các công ty va quy mô của doanh nghiệp đoàn thể chắc chắn không và có hình dạng thế nào ?
Giả thiết 5c : Sự liên kết trực tiếp giữa số lượng liên minh của các công ty va quy mô của doanh nghiệp đoàn thể được chắc chắn, nhưng có dạng của hình chữ U ngược
Câu hỏi nghiên cứu 6: Đặc tính của tổ chức sẽ gián tiếp (với sự hòa hợp của đoàn thể doanh nghiệp) bị ảnh hưởng rất lớn qua các cơ sở nào?
Giả thiết 6: Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ gián tiếp (với sự hòa hợp của đoàn thể doanh nghiệp) ảnh hưởng rất lớn qua:
Quy mô sự hỗ trợ của tổ chức
Kiểm sóat chính thức
Số lượng các liên minh chiến lược của tổ chức
Câu hỏi nghiên cứu 7: Hoạt động của tổ chức sẽ bị ảnh hưởng tích cực bởi mức độ tương tác giữa các Corporate entreprenership và các yếu tổ chức như thế nào?
Giả thiết 7: Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ bị ảnh hưởng nhiều qua quy mô của sự tương tác giữa doanh nghiệp kinh doanh và nhân tố tổ chức, điển hình là:
Quy mô sự hỗ trợ của tổ chức
Kiểm sóat chính thức
Số lượng các liên minh chiến lược của tổ chức
Nhận xét :
Các phát hiện cho thấy có hỗ trợ tổ chức có thể là một quan trọng trực tiếp kinh doanh dự đoán của công ty, cũng như có ảnh hưởng gián tiếp về hiệu suất.
Tổ chức tăng trưởng, nhưng không phải là mới tạo ra của cải và lợi nhuận, có thể bị ảnh hưởng bởi phù hợp mức hỗ trợ tổ chức đến cấp độ của Corporate Entrepreneurship của công ty.
Kiểm soát chính thức có thể được quan trọng trong việc bồi dưỡng Corporate Entrepreneurship của công ty, nhưng ảnh hưởng của mình trên hiệu suất là yếu. Trong khi mức độ sử dụng chính thức điều khiển đã được tìm thấy sẽ được tích cực tuyến tính liên quan đến Corporate Entrepreneurship của công ty.
Không có bằng chứng của giảm dự kiến trong kinh doanh của công ty tại Kiểm soát mức độ cao (ngược U-hình dạng).
Phát hiện này khác với quan điểm về ức chế tác dụng của việc sử dụng quá nhiều các điều khiển chính thức về Corporate Entrepreneurship của công ty (MacMillan và cộng sự, 1984;. Zahra, 1991).
Số lượng các liên minh chiến lược có thể được tích cực liên quan đến doanh nghiệp doanh nhân, tuy nhiên, tại một số cao hơn của quan hệ, mối quan hệ này có thể trở thành tiêu cực.
CÂU 6: DỰA TRÊN KẾT QUẢ XỬ LÝ THỐNG KÊ HÃY GIẢI THÍCH KẾT QUẢ XỬ LÝ THỐNG KÊ
6.1) Giải thích kết quả xử lý thống kê
Sau khi nghiên cứu hoàn tất và xử lý những bản câu hỏi nhận được từ 477 đơn vị, việc phân tích và giải thích kết quả được thực hiện bằng việc thử nghiệm các giả thuyết đặt ra ban đầu của đề tài, cụ thể như sau (Bảng II: Kết cấu tổng phương trình với các hiệu ứng chính (trực tiếp và gián tiếp) và các hiệu ứng tương tác (tiêu chuẩn hóa hệ số) sẽ là cơ sở để phân tích):
Bảng II: Kết cấu tổng phương trình với các hiệu ứng chính (trực tiếp và gián tiếp) và các hiệu ứng tương tác (tiêu chuẩn hóa hệ số)
Các biến số giả định
Phụ thuộc
CE
Phát triển
Lợi nhuận
Giàu có
Điều kiện môi trường
Cơ hội công nghệ
0.17*
0.06*
0.05*
0.09*
Phát triển công nghiệp
0.01
0.00a
0
0.00b
Nhu cầu sản phẩm mới
0.19*
0.06*
0.05*c
0.04*d
Đặc điểm của tổ chức
Hỗ trợ tổ chức
0.41*
0.13*
0.11*
0.09*
Kiểm soát chính thức
0.16*
0.05*
0.04*
0.04*
Kiểm soát chính thức “hiệu chỉnh”
0.10*
0.03*
0.03*
0.02*
Số lượng các liên minh
0.23*
0.07*
0.06*
0.05*
Số lượng các liên minh “hiệu chỉnh”
-0.10*
-0.03*
-0.03*
-0.02*
Corporate Entrepreneurship (CE)
0.32*
0.27*
0.22*
Các tương tác
Cơ hội công nghệ với CE
0.04
0.03
0.07
Tăng trưởng công nghiệp với CE
0.12*
0.06
0.14*
Nhu cầu sản phẩm mởi với CE
0.05
0.12*
0.11*
Hỗ trợ tổ chức với CE
0.12*
0.03
0.01
Kiểm soát chính thức với CE
-0.05
-0.07
-0.04
Số lượng các liên minh với CE
-0.01
0.01
0.05
Sai lệch (trực tiếp)
0.66
0.88
0.92
0.87
R2 (trực tiếp)
0.56
0.23
0.16
0.24
Chú ý: ảnh hưởng gián tiếp với chữ in nghiêng, p 1.64), a Ảnh hưởng trực tiếp = 0.18*, b ảnh hưởng trực tiếp = 0.11*, c ảnh hưởng trực tiếp = 0.18*, d ảnh hưởng trực tiếp = 0.15*
Giả thiết thứ nhất: Corporate Entrepreneurship (CE) và hiệu suất (tăng trưởng, lợi nhuận, sức mạnh mới): Như đã nêu trong Bảng II, vấn đề Corporate Entrepreneurship (CE) tác động trực tiếp đến tăng trưởng (tiêu chuẩn hóa hệ số 0.32), lợi nhuận (hệ số 0.27), và sự giàu có mới (hệ số 0.22). Những kết quả này hỗ trợ cho nhận định ban đầu từ giả thuyết H1a-c (Mức độ Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty liên quan đến việc tổ chức thực hiện trong thuật ngữ: tăng trưởng – lợi nhuận và tạo ra của cải), điều này chỉ ra rằng chỉ ra rằng Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty có xu hướng được một dự báo có tác động trực tiếp đến sức sáng tạo của tổ chức, cũng như lợi nhuận và tăng trưởng.
Giả thiết thứ hai: Tác động của điều kiện môi trường trong mô hình tổ chức: Các hệ số thay đổi tương quan nêu tại giả thuyết H2a _H3a_H4a (Tác động bên ngoài của sự năng động, Tác động bên ngoài của sự năng động môi trường và mở rộng môi trường năng động) đã không được thử nghiệm bởi vì sự dao động đã không xuất hiện như là một kích thước tập hợp phân tích trong các nhân tố. Theo như Bảng II nêu trên, không có bằng chứng cho các mối quan hệ đã được tìm thấy (hệ số không đáng kể). Quá trình nghiên cứu đã được tìm thấy những nhân tố mạnh mẽ và quan trọng trực tiếp với tốc độ tăng trưởng tổ chức (hệ số 0.18) và và sức mạnh sáng tạo của nó (hệ số 0.11). Hệ số cũng đáng kể cho các mối quan hệ tương tác giữa giữa sự phát triển của Corporate Entrepreneurship (CE) và tăng trưởng bền vững (hệ số 0.12) và sự sáng tạo của nó (hệ số 0.14), nhưng không đáng kể đối với các tác động của dạng liên tác động này đối với lợi nhuận (hệ số 0.06).
Những cơ hội của kỹ thuật công nghệ được mặc nhiên công nhận là một phần quan trọng trực tiếp tác động của Corporate Entrepreneurship (CE) (giả thuyết H2c: Corporate Entrepreneurship (CE) sẽ ảnh hưởng trực tiếp tích cực bởi cơ hội công nghệ) và một cách gián tiếp tác động đến hiệu quả kinh doanh (H3c: Thực hiện tổ chức ảnh hưởng tích cực bởi cơ hội công nghệ). Những phát hiện này sẽ hỗ trợ cho giả thuyết hình thành tại H2c (hệ số 0.17 nêu tại Bảng II) và hỗ trợ phần nào một cách yếu hơn cho H3c, do hệ số thấp hơn (hệ số 0.06, 0.05, 0.09 cho mối quan hệ với tăng trưởng, lợi nhuận, và sức mạnh sáng tạo mới tương ứng, tất cả các yếu tố quan trọng). Giả thuyết tại H4c (tác động của sự tương tác giữa các cơ hội công nghệ và Corporate Entrepreneurship về hiệu suất), mặt khác, đã không được hỗ trợ (hệ số thấp và không đáng kể). Các cơ hội kỹ thuật công nghệ có thể là một yếu tố quan trọng trong việc tác động đến Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty. Trong khi những điều kiện môi trường có một số tác động gián tiếp (thông qua Corporate Entrepreneurship (CE)) về việc thực hiện tổ chức, mức độ phù hợp của Corporate Entrepreneurship của công ty đến cấp độ của những điều kiện này có thể không được thuận lợi không để tăng trưởng và lợi nhuận của tổ chức, cũng không phải để tạo ra của cải mới.
Nhu cầu về các sản phẩm mới được lý thuyết hóa thông qua hệ số trực tiếp (giả thuyết tại H3d: Tổ chức thực hiện ảnh hưởng tích cực bởi đòi hỏi sản phẩm mới) và gián tiếp (giả thuyết H2d: Corporate Entrepreneurship (CE) sẽ ảnh hưởng trực tiếp tích cực bởi nhu cầu sản phẩm mới) mà nó tác động lên tăng trưởng, lợi nhuận, và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng chứng cho các mối quan hệ đã được tìm thấy và tương tác mạnh mẽ hơn cho H2d (hệ số 0.19, có ý nghĩa.) so với H3d (hệ số thấp hơn: 0.06, 0.05, 0.04 cho sự tăng trưởng, lợi nhuận và và kết quả kinh doanh tương ứng, nhưng tất cả đều có ý nghĩa). Ngoài ra, một nhóm có tác động mạnh mẽ và quan trọng trực tiếp đã được tìm thấy giữa các nhu cầu về sản phẩm mới và lợi nhuận (hệ số 0.18) và tạo ra kết quả kinh doanh (hệ số 0.15). Những hệ số cũng đáng kể cho các mối quan hệ giữa các nhu cầu tương tác mới sản phẩm-công ty kinh doanh và lợi nhuận (hệ số 0.12) và tạo ra của cải mới (hệ số 0.11), nhưng không đáng kể đối với các tác động của thuật ngữ này tương tác về tăng trưởng (hệ số 0.05). Điều này là hỗ trợ một phần của H4d. Những phát hiện này cho thấy nhu cầu về sản phẩm mới có thể là một yếu tố quan trọng trong việc trực tiếp tác động đến Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty. Nó cũng có thể có một số ảnh hưởng gián tiếp (thông qua Corporate Entrepreneurship (CE)) về việc thực hiện.
Giả thuyết thứ 3 nghiên cứu tác động đặc trưng của tổ chức trong mô hình
H5a : Quy mô của sự hỗ trợ tổ chức sẽ liên quan trực tiếp tới quy mô của doanh nghiệp. H6a : Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự tạo ra của cải mới) sẽ gián tiếp ảnh hưởng rất lớn qua quy mô sự hỗ trợ của tổ chức. H7a: Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ bị ảnh hưởng nhiều qua quy mô của sự tương tác giữa doanh nghiệp kinh doanh và sự hỗ trợ của tổ chức
H5a chỉ ra mối quan hệ tích cực giữa các mức độ tổ chức nội bộ và hợp tác bên ngoài. Ảnh hưởng của mối liên hệ này rất rộng, tích cực và đáng kể (hệ số 0.41) hỗ trợ mạnh mẽ cho giả thuyết này. Ảnh hưởng gián tiếp của hỗ trợ tổ chức trong đặc tính tổ chức H6a kém mạnh hơn, nhưng vẫn có ý nghĩa (hệ số 0.13, 0.11, 0.09 cho sự tăng trưởng, lợi nhuận, và tạo ra của cải mới tương ứng). H7a nhận được hỗ trợ một phần, kể từ khi mối quan hệ giả thuyết giữa hỗ trợ tổ chức-sự hợp tác doanh nghiệp và kết quả đã được tìm thấy đáng kể và có ý nghĩa chỉ cho sự tăng trưởng (hệ số 0.12), nhưng không đáng kể và ý nghĩa lợi nhuận và sự tạo ra của cải mới (hệ số gần bằng không). Những phát hiện này cho rằng sự hỗ trợ tổ chức có thể là một yếu tố dự báo quan trọng trực tiếp kinh doanh của công ty, cũng như ảnh hưởng gián tiếp trên kết quả. Ngoài ra, phát triển tổ chức, nhưng không phải là sự tạo ra của cải mới và lợi nhuận, có thể bị ảnh hưởng bởi phù hợp mức hỗ trợ tổ chức đến cấp độ của Corporate Entrepreneurship của công ty.
H5b : Mức độ của việc sử dụng kiểm soát chính thức trong nội bộ doanh nghiệp sẽ có tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng sẽ có một dạng đảo ngược hình U. H6b : Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ gián tiếp ảnh hưởng rất lớn qua kiểm sóat chính thức. H7b: Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ bị ảnh hưởng nhiều qua quy mô của sự tương tác giữa doanh nghiệp kinh doanh và kiểm sóat chính thức.
H5b khảo sát tác động của kiểm soát chính thức tổ chức về dự đoán tích cực Corporate Entrepreneurship (CE), nhưng ở dạng đảo ngược chữ U. Phần tuyến tính của các mối quan hệ này được hỗ trợ ( hệ số 0.16, ý nghĩa ở 0.05). Mặt khác, kiểm soát chính thức hiệu chỉnh có ý nghĩa nhưng trong hướng không mong đợi hỗ trợ cho H5b (tích cực nhưng không có quan hệ hình U ngược). H6b - ảnh hưởng gián tiếp của hỗ trợ tổ chức trong đặc tính yếu hơn, mặc dù cũng có nghĩa ( hệ số 0.05, 0.04, 0.04 cho tăng trưởng, lợi nhuận và tạo ra của cải mới). H7b (kết hợp giữa kiểm soát chính thức tương tác Corporate Entrepreneurship (CE) và đặc tính) đã không được hỗ trợ (hệ số tiêu cực và không đáng kể). Những phát hiện này cho thấy rằng kiểm soát chính thức có thể quan trọng trong thúc đẩy Corporate Entrepreneurship (CE) nhưng ảnh hưởng của chúng trên đặc tính thì yếu.
H5c : Sự liên kết trực tiếp giữa số lượng liên minh của các công ty va quy mô của doanh nghiệp đoàn thể được chắc chắn, nhưng có dạng của hình chữ U ngược. H6c : Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ gián tiếp ảnh hưởng rất lớn qua số lượng các liên minh chiến lược của tổ chức. H7c: Đặc tính của tổ chức (sự tăng trưởng, lợi nhuận, sự phong phú sáng tạo mới) sẽ bị ảnh hưởng nhiều qua quy mô của sự tương tác giữa doanh nghiệp kinh doanh và số lượng các liên minh chiến lược của tổ chức.
H5c khảo sát ảnh hưởng của các liên minh công ty về Corporate Entrepreneurship của công ty dự đoán một hình dạng đảo ngược-U. Phần tuyến tính của các mối quan hệ này đã được hỗ trợ (hệ số 0.23, Đáng kể). Số lượng các liên minh hiệu chỉnh cũng được tìm thấy ý nghĩa và theo hướng dự kiến - tiêu cực (- 0.10). Vì vậy, những phát hiện này hỗ trợ đầy đủ H5c. Một số hỗ trợ yếu hơn cho các hiệu ứng gián tiếp vào đặc tính (H6c) cũng được tìm thấy (hệ số thấp hơn: 0.07, 0.06, 0.05 cho sự tăng trưởng, lợi nhuận, và sự giàu có mới tương ứng, nhưng đáng kể). H7c (kết hợp giữa các tương tác liên minh-Corporate Entrepreneurship và đặc tính) không được hỗ trợ (hệ số thấp và không đáng kể). Những phát hiện này cho thấy rằng số lượng các liên minh chiến lược có thể liên quan một cách tích cực đến Corporate Entrepreneurship của công ty; với một số lượng lớn các mối quan hệ, mối quan hệ này có thể trở nên tiêu cực. Tác động của số liên minh về hiệu suất, tuy nhiên, là khá yếu.
Hệ số R2
Các yếu tố về môi trường và tổ chức giải thích 56% sự thay đổi trong Corporate Entrepreneurship . Mỗi yếu tố trong môi trường và tổ chức đều ảnh hưởng tới CE trừ phát triển công nghiệp. Hỗ trợ tổ chức ảnh hưởng mạnh mẽ nhất.
Ảnh hưởng trực tiếp của tiên đoán hiệu quả trong mô hình giải thích 24% thay đổi trong việc ra của cải mới có tổ chức, 23% trong phát triển và 16% trong lợi nhuận. Tạo ra của cải mới có thể bị ảnh hưởng bởi sự tăng trưởng công nghiệp cho tất cả các công ty và nhu cầu sản phẩm mới các công ty nhỏ chỉ có thông qua sự tương tác của hai yếu tố môi trường (phát triển công nghiệp cho các công ty nhỏ; nhu cầu về sản phẩm mới cho công ty phát triển có định hướng) với Corporate Entrepreneurship và gián tiếp thông qua hỗ trợ tổ chức và các cơ hội công nghệ. Phát triển tổ chức có thể bị ảnh hưởng bởi phát triển công nghiệp, sự tương tác của sự phát triển công nghiệp và hỗ trợ tổ chức với Corporate Entrepreneurship, và gián tiếp bởi hỗ trợ tổ chức. Lợi nhuận có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nhu cầu về sản phẩm mới cũng như gián tiếp của hỗ trợ tổ chức.
Chia đôi để xác nhận và kiểm soát
Những phát hiện ở trên được chứng minh khi mẫu được chia ngẫu nhiên thành 2 nửa ( nhóm 1 n = 238 công ty, nhóm 2 n= 237 công ty). Không có mối liên hệ nào trong mô hình được tìm kiếm để phân biệt giữa 2 nhóm ngẫu nhiên trong điều kiện không có sự khác biệt cấu trúc giữa 2 nhóm.
Các ảnh hưởng của các biến kiểm soát đã được kiểm tra bằng cách so sánh hệ số giả thuyết cơ bản giữa các mẫu thu được bằng cách chia tách các mẫu chung dọc theo mỗi biến điều khiển. Tác động của tuổi công ty được đánh giá bằng cách so sánh các doanh nghiệp trẻ (20 tuổi hoặc ít hơn, n =155) với các công ty lớn hơn (21 hoặc nhiều tuổi hơn, n = 321). Hai khác biệt đáng kể và đáng kể trong hệ số giữa hai độ tuổi đã được tìm thấy.
Trước tiên, các mối quan hệ giữa nhu cầu môi trường đối với sản phẩm mới và sự giàu có mới đã được tìm thấy mạnh mẽ và đáng kể cho các doanh nghiệp trẻ (hệ số 0.31), trong khi hệ số cho các công ty lớn tuổi hơn là gần bằng không.
Thứ hai, các con đường từ sự tương tác giữa ngành công nghiệp môi trường kinh doanh tăng trưởng của công ty để tạo ra sự giàu có mới đã được tìm thấy đáng kể và quan trọng cho các doanh nghiệp trẻ (hệ số 0.16), nhưng không cho các công ty cũ (hệ số gần bằng không). Ngoài ra, cấu trúc có nghĩa là phân tích chỉ ra sự khác biệt đáng kể về mức độ hiệu suất (chặn) giữa hai nhóm tuổi. Các doanh nghiệp trẻ đã được tìm thấy cao hơn trong việc tạo ra của cải mới (chắn 0.42), tăng trưởng (chắn 0.46), và lợi nhuận (chắn 0.27) so với các công ty lớn tuổi nhưng hai nhóm không khác nhau về mức độ Corporate Entrepreneurship của công ty. Quy mô công ty đã được điều chỉnh bằng cách so sánh các công ty nhỏ hơn (99 hoặc ít hơn nhân viên - tương đương với toàn thời gian, n = 206) với các công ty lớn hơn (100 nhân viên, n = 270). Không có sự khác biệt đáng kể trong hệ số cấu trúc, tiềm lực giữa hai nhóm. Sự ảnh hưởng của ngành công nghiệp đã được kiểm tra bằng cách so sánh và các công ty sản xuất xây dựng (n = 286) với các công ty dịch vụ và thương mại (n = 108). Cũng không có sự khác biệt đáng kể trong hệ số cấu trúc, tiềm lực giữa hai nhóm này. Cuối cùng, tác động của định hướng chiến lược tổng thể được đánh giá bằng cách tương phản của nhóm ổn định (n =274) từ nhóm phát triển (n = 193).
Một khác biệt đáng kể trong hệ số đã được tìm thấy giữa hai nhóm chiến lược. Con đường từ nhu cầu tương tác mới kinh doanh sản phẩm-công ty để tạo ra sự của cải mới đã được tìm thấy đáng kể và quan trọng cho các công ty phát triển theo định hướng (hệ số 0.28), nhưng không cho các công ty với một chiến lược ổn định hoặc thôi việc (hệ số 0.06, không đáng kể). Ngoài ra, hai sự khác biệt đáng kể trong tiềm ngầm lực xuất hiện. Các hãng có một chiến lược ổn định hoặc cắt giảm có mức thấp hơn đáng kể Corporate Entrepreneurship của công ty (chắn -0.12) và tăng trưởng (chắn -0.11) so với các công ty với định hướng tăng trưởng. Nó có thể kết luận rằng các biến kiểm soát cho thấy tác động nhỏ về các mối quan hệ giả thuyết trong mô hình. Các phát hiện cho thấy mức độ Corporate Entrepreneurship của công ty và các yếu tố hoạt động có thể khác đôi chút theo độ tuổi công ty và chiến lược tổng thể.
6.2) Đánh giá kết quả xử lý thống kê
Thứ nhất, ảnh hưởng của sự phát triển ngành công nghiệp về hiệu suất có thể không phải tức thời bởi việc Corporate Entrepreneurship (CE). Sự phát triển của tổ chức và sức mạnh sáng tạo mới của nó, nhưng không phải lợi nhuận, có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự tăng trưởng qui mô ngành công nghiệp, cũng như sự phù hợp giữa đặc điểm này ngành công nghiệp và Corporate Entrepreneurship (CE) của doanh nghiệp.
Thứ hai, cơ hội công nghệ có thể là yếu tố quan trọng tác động đến việc Corporate Entrepreneurship (CE). Những điều kiện môi trường có thể có một số tác động gián tiếp tổ chức thực hiện, nhưng mức độ phù hợp Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty cho cấp những điều kiện này có thể không được thuận lợi hoặc là để tăng trưởng tổ chức,lợi nhuận, hoặc tạo ra của cải mới.
Thứ ba, nhu cầu về sản phẩm mới có thể là một yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến Corporate Entrepreneurship (CE). Nó cũng có thể có một số ảnh hưởng gián tiếp thông qua hiệu suất Corporate Entrepreneurship (CE). Quan trọng hơn, sự giàu có tổ chức mới tạo sự tăng trưởng và lợi nhuận, nhưng không, có thể bị ảnh hưởng trực tiếp bởi nhu cầu sản phẩm mới, cũng như phù hợp với những từ này đặc trưng công nghiệp và doanh nghiệp kinh doanh.
Thứ tư, các phát hiện cho thấy có hỗ trợ tổ chức có thể là một quan trọng trực tiếp kinh doanh dự đoán của công ty, cũng như có ảnh hưởng gián tiếp (thông qua Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty) về hiệu suất. Ngoài ra, tổ chức tăng trưởng, nhưng không phải là mới tạo ra của cải và lợi nhuận, có thể bị ảnh hưởng bởi phù hợp mức hỗ trợ tổ chức đến cấp độ của Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty.
Thứ năm, kiểm soát chính thức có thể được quan trọng trong việc hỗ trợ Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty, nhưng ảnh hưởng của mình trên hiệu suất là yếu. Trong khi mức độ sử dụng chính thức điều khiển đã được tìm thấy sẽ được tích cực tuyến tính liên quan đến Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty, không có bằng chứng của giảm dự kiến trong kinh doanh của công ty tại rất Kiểm soát mức độ cao (ngược U-hình dạng).
Thứ sáu, số lượng các liên minh chiến lược có thể được tích cực liên quan đến Corporate Entrepreneurship (CE), tuy nhiên, tại một số cao hơn của quan hệ, mối quan hệ này có thể trở thành tiêu cực.Tác động của số liên minh về hiệu suất khá yếu. Tất cả những yếu tố môi trường và các tổ chức dường như có một quan trọng ảnh hưởng đến Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty với các trường hợp ngoại lệ tăng trưởng công nghiệp. Điều quan trọng nhất trong số các trình điều khiển của Corporate Entrepreneurship (CE) của công ty có vẻ được tổ chức hỗ trợ, mà là đến một mức độ lớn dưới ảnh hưởng của quản lý.
6.3) Đóng góp và ý nghĩa
Đóng góp về cả mặt lý thuyết và phương pháp luận
Nghiên cứu khẳng định kỳ vọng rằng Corporate Entrepreneurship có xu hướng tạo ra của cải mới cho tổ chức. Kết quả của nghiên cứu cho thấy rằng hỗ trợ của tổ chức có thể là dự báo quan trọng nhất của Corporate Entrepreneurship. Phát hiện thực nghiệm này khẳng định niềm tin các nhà nghiên cứu chiến lược và kinh doanh là quản lý và hỗ trợ tổ chức phải là một mối quan tâm chính trong việc tăng mức độ Corporate Entrepreneurship.
Nghiên cứu này đã khẳng định kết quả nghiên cứu trước đó (Deeds và Hill, 1996) về mối quan hệ giữa liên minh và phát triển sản phẩm mới ngành công nghiệp công nghệ sinh học Mỹ, và mở rộng nó vào Corporate Entrepreneurship dựng trong nhiều ngành công nghiệp. Những phát hiện dựa trên mô hình của Corporate Entrepreneurship đóng góp vào lý thuyết quy chuẩn của Corporate Entrepreneurship bằng cách cho biết tầm quan trọng tương đối của bất ngờ Corporate Entrepreneurship trong việc dự đoán tạo ra của cải mới, cũng như lợi nhuận và tăng trưởng.
Đóng góp về mặt phương pháp phân tích
Thứ nhất là sự lựa chọn mẫu. Trái ngược với nghiên cứu khảo sát Corporate Entrepreneurship đã chủ yếu sử dụng mẫu ngẫu nhiên hoặc ngẫu nhiên có mục đích, trong nghiên cứu này mẫu khá lớn (477 công ty) đã được sử dụng không dựa vào việc lấy mẫu ngẫu nhiên, mà lấy mẫu tổng hợp của các công ty Slovenia có 30 nhân viên hoặc nhiều hơn.
Thứ hai là đóng góp sự chặt chẽ của dữ liệu phân tích. Dữ liệu phân tích thường không được quan sát trong nghiên cứu Corporate Entrepreneurship, khi mô hình được kiểm tra thực nghiệm. Trong nghiên cứu này, thay vì phân tích hồi quy nhiều, một phương pháp phân tích thích hợp cho tính toán các mối quan hệ đồng thời được sử dụng - xây dựng mô hình tuyến tính với phương trình cấu trúc. Ngoài ra, thuật ngữ bậc hai và tương tác cũng được tính đến trong các mô hình để đồng thời xem xét các mối quan hệ tuyến tính và bậc hai và các kết hợp tuyến tính và tương tác.
Sự đóng góp thứ ba là trong các phép đo số lượng liên minh ràng buộc của công ty trung tâm. Số lượng các liên minh chiến lược đã được định nghĩa bởi đưa vào sự xem xét đến số lượng tổng thể của mối quan hệ, cũng như số lượng các mối quan hệ qua các loại liên minh khác nhau.
Ý nghĩa
Nghiên cứu này có ý nghĩa cho việc nghiên cứu, lý thuyết và thực hành.
Những lợi ích của việc sử dụng cách tiếp cận tích hợp: Nghiên cứu này đã chứng minh cách tiếp cận tích hợp có thể làm sáng tỏ tương đối tầm quan trọng của tiền lệ Corporate Entrepreneurship cũng như những đóng góp tương đối của Corporate Entrepreneurship độc lập kết hợp với điều kiện môi trường và các yếu tố tổ chức. Ngược lại tiếp cận một phần chỉ kiểm tra một vài biến, cách tiếp cận tích hợp sẽ đưa vào xem xét một số lượng lớn của các biến có liên quan. Trong mô hình tích hợp này có thể có lỗi kỹ thuật thấp hơn nhiều, và đưa ra một tiềm năng để kiểm tra mối quan hệ trong cả hai điều kiện tương đối và tương tác, trong khi nền tảng các mô hình một phần thì không thể.
Mô hình được phát triển trong nghiên cứu này nhấn mạnh sự cần thiết phải kiểm tra mối quan hệ giữa các liên tổ chức bên cạnh những tiền lệ Corporate Entrepreneurship khác, bao gồm các điều khoản bậc hai và tương tác thêm vào các hình thức tuyến tính và tác động. Đặc điểm liên tổ chức dựa trên có thể biểu trưng cho con đường hướng tới phát triển Corporate Entrepreneurship của công ty.
Bằng cách làm nghiên cứu này bên ngoài Bắc Mỹ, nghiên cứu đã chứng minh rằng cơ chế Corporate Entrepreneurship phát triển ở Bắc Mỹ có thể được áp dụng trong một quốc gia khác như Slovenia. Có được những hiểu biết về mô hình Corporate Entrepreneurship trong nền kinh tế chuyển đổi của Trung và Đông Âu có thể có giá trị để mở rộng lý thuyết Corporate Entrepreneurship và cải thiện Corporate Entrepreneurship liên quan thực hành ở các nước này.
Một loạt các tác động quản lý cũng có thể được rút ra từ nghiên cứu này. Trên tất cả, học viên cần phải nhận thức rằng Corporate Entrepreneurship có thể là một yếu tố quan trọng trong việc tạo ra sự giàu có tổ chức, cũng như lợi nhuận và tăng trưởng. Hầu hết các công ty kinh doanh phô bày một mức độ lớn hơn so với hoạt động kinh doanh và định hướng các tổ chức như theo đuổi các doanh nghiệp mới, tạo mới đơn vị, doanh nghiệp, sáng chế về sản phẩm, dịch vụ và quy trình, chiến lược tự đổi mới, nhận rủi ro, và chủ động. Do đó, các công ty có mức độ Corporate Entrepreneurship cao có nhiều khả năng để đạt được kết quả kinh doanh tốt hơn hơn so với các công ty có mức độ Corporate Entrepreneurship thấp hơn. Như đã tìm thấy trong nghiên cứu này, Corporate Entrepreneurship có xu hướng tác động ba yếu tố hiệu suất quan trọng:
Tạo ra của cải.
Tăng trưởng (tuyệt đối - tăng trưởng doanh số bán hàng và số lượng nhân viên và tương đối - tăng trưởng thị phần).
Lợi nhuận (tuyệt đối - doanh thu, lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu, và lợi nhuận trên tài sản và tương đối - khi so sánh với đối thủ cạnh tranh).
Corporate Entrepreneurship có thể được khuyến khích phạm vi lớn và bị ảnh hưởng bởi quản lý và các thành viên của tổ chức. Để tác động Corporate Entrepreneurship, sự tăng cường các yếu tố nội và liên tổ chức (hỗ trợ nội bộ tổ chức,kiểm soát chính thức và liên minh chiến lược) nên được ưu tiên. Điều quan trọng nhất trong số tất cả kiểm tra các yếu tố tổ chức là quản lý và hỗ trợ tổ chức vì nó có xu hướng ảnh hưởng mạnh nhất đến Corporate Entrepreneurship của công ty, và một ảnh hưởng gián tiếp đáng kể đối với tạo ra của cải tổ chức, tăng trưởng và lợi nhuận.
Để tạo ra nhiều của cải hơn, các công ty trẻ nên xem xét việc thích hợp hóa khả năng Corporate Entrepreneurship với mức độ tăng trưởng của nền công nghiệp, còn các công ty có định hướng phát triển thì nên thích hợp hóa Corporate Entrepreneurship với nhu cầu sản phẩm mới trong những thị trường tương ứng.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tieu luan mon PPNCKH _Nhom 11 (Corporate Entrepreneurship Contingencies And Wealth Creation).doc
- Tieu luan mon PPNCKH _Nhom 11 _Corporate Entrepreneurship Contingencies And Wealth Creation_.pdf