- 87,8% trẻ khỏi, 3,1% trẻ phải thay máu và (9,2%) trẻ tử vong hoặc xin về vì 
bệnh nặng. 
- Tỷ lệ điều trị khỏi ở trẻ đẻ đủ tháng (95,2%) cao hơn trẻ đẻ non tháng 
(84,3%), ở trẻ có cân nặng ≥ 2500gram (94,7%) cao hơn trẻ có cân nặng < 2500 
gram (84,9%) và trẻ không bất đồng nhóm máu mẹ con (89,7%) cao hơn trẻ có 
bất đồng nhóm máu (71,4%). 
- Thời gian phát hiện vàng da càng sớm kết quả điều trị khỏi càng cao (< 24 
giờ khỏi là 100% với ≥ 49 giờ khỏi là 81,1%)
- 9,2% trẻ tử vong hoặc quá nặng xin về đều ở nhóm trẻ đẻ non tháng hoặc 
có cân nặng thấp (< 2500gram).
- Sau 24 - 48 giờ chiếu đèn nồng độ bilirubin máu nhanh chóng (đèn 
LED giảm bilirubin máu nhanh hơn đèn huỳnh quang). Sau 48 giờ trở đi tốc 
độ giảm bilirubin ở 2 loại đèn chậm lại và tương đương nhau. 
- Tác dụng phụ của chiếu đèn thường gặp là mẩn đỏ da (5,2%), mất nước 
(5,2%), sốt, tiêu chảy ít.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 79 trang
79 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 6090 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đánh giá kết quả điều trị vàng da tăng Bilirubin tự do ở trẻ sơ sinh bằng liệu pháp ánh sáng tại khoa nhi bệnh viện đa khoa Trung Ương Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
57,71 mol/l), đèn huỳnh quang giảm (32,3 mol/l). 
- Từ sau 48 giờ trở đi nồng độ bilirubin máu giảm chậm lại và giảm 
tương đương nhau ở cả 2 loại đèn. 
Bảng 3.11. Diễn biến nồng độ bilirubin máu theo TGCĐ và bất đồng 
nhóm máu ABO 
 Nguyên nhân 
TGCĐ 
Bất đồng (n = 10) Không bất đồng (n = 105) 
Bilirubin TB 
(mol/l) 
Mức 
chênh 
Bilirubin TB 
(mol/l) 
Mức 
chênh 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
47 
Bắt đầu CĐ 303,91 ± 49,66 - 262,79 ± 52,62 - 
Sau 24 giờ 271,44 ± 60.05 32,47 236,98 ± 59,42 25,81 
Sau 48 giờ 242,63 ± 51.19 28,81 204,56 ± 51,48 32,42 
Sau 72 giờ 199,56 ± 55,67 43,07 175,90 ± 45,47 28,66 
Nhận xét: 
- Nồng độ bilirubin máu trung bình ở trẻ có bất đồng nhóm máu ABO 
khi bắt đầu điều trị là 303,91 ± 49,66 mol/l, cao hơn so với nhóm không bất 
đồng nhóm máu (262,79 ± 52,62 mol/l). 
- Sau chiếu đèn 24 - 48 giờ nồng độ bilirubin ở cả 2 nhóm giảm nhanh 
tương tương nhau. Sau 72 giờ nhóm trẻ có bất đồng nhóm máu có mức giảm 
blirubin máu nhanh hơn. 
Bảng 3.12. Thời gian chiếu đèn trung bình theo vùng (mức độ) vàng da 
Vùng 
vàng da n 
Tỷ lệ 
(%) 
Thời gian chiếu đèn trung 
bình (ngày) P 
2 8 7,0 3,3 ± 1,7 
 > 0,05 3 38 33,0 3,6 ± 1,1 
4 37 32,2 3,8 ± 1,2 
5 32 27,8 3,3 ± 1,1 
Tổng 115 100 3,5 ± 1,2 
Nhận xét: 
Ngày chiếu đèn trung bình ở mức độ vàng da vùng 3 và vùng 4 dài hơn 
các vùng khác. Sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). 
Bảng 3.13. Thời gian chiếu đèn trung bình theo tuổi xuất hiện vàng da 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
48 
Tuổi xuất hiện 
vàng da (giờ) n Tỷ lệ (%) 
Thời gian chiếu đèn 
trung bình (ngày) p 
< 24 9 7,8 3,2 ± 0,7 
> 0,05 
24 - 48 61 53,0 3,6 ± 1,2 
49 - 72 36 31,3 3,6 ± 1,2 
> 73 9 7,8 3,3 ± 1,2 
Tổng 115 100 3,5 ± 1,2 
Nhận xét: 
Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về số ngày chiếu đèn trung 
bình giữa các trẻ có tuổi xuất hiện vàng da khác nhau (p > 0,05). 
Bảng 3.14. Tác dụng phụ của chiếu đèn điều trị vàng da tăng bilirubin 
tự do 
Tác dụng phụ n Tỷ lệ (%) 
Da mẩn đỏ 6 5,2 
Sốt 2 1,7 
Mất nước 6 5,2 
Tiêu chảy 2 1,7 
Hội chứng da đồng 0 0 
Tổng số 16 13,6 
Nhận xét: 
Tần suất xuất hiện tác dụng phụ ở trẻ trong khi chiếu đèn là 16 lần, 
chiếm tỷ lệ là 13,6%. Trong đó mẩn đỏ da và mất nước là tương đương 
(5,2%). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
49 
3.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến kết quả điều trị vàng da tăng bilirubin 
tự do bằng liệu pháp ánh sáng. 
Bảng 3.15. Liên quan giữa vàng da tăng bilirubin có nhiễm khuẩn kèm 
theo với thời gian chiếu đèn trung bình. 
Nhiễm khuẩn n 
Thời gian chiếu đèn 
trung bình (ngày) 
p 
Viêm phổi 
(n = 115) 
Có 27 4,0 ± 1,4 
< 0,05 
Không 88 3,4 ± 1,0 
Viêm rốn 
(n = 115) 
Có 13 3,2 ± 1,0 
> 0,05 
Không 102 3,6 ± 1,2 
Viêm da 
(n = 115) 
Có 6 3,3 ± 1,0 
> 0,05 
Không 109 3,6 ± 1,2 
Tiêu chảy 
(n = 115) 
Có 4 3,0 ± 0,8 
> 0,05 
Không 111 3,6 ± 1,2 
Nhận xét: 
- TGCĐTB ở trẻ vàng da có viêm phổi kèm theo là 4,0 ± 1,4 ngày, dài 
hơn những trẻ không bị viêm phổi (3,4 ± 1,0). Sự khác biệt là có ý nghĩa 
thống kê (p < 0,05). 
- Trẻ vàng da bị viêm rốn, viêm da, tiêu chảy kèm theo có TGCĐTB 
không khác biệt so với những trẻ không bị các bệnh trên (p > 0,05). 
Bảng 3.16. Liên quan giữa nồng độ bilirubin tự do máu với thời gian 
chiếu đèn trung bình. 
Mức độ bilirubin máu n Thời gian chiếu đèn p 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
50 
(mol/l) trung bình (ngày) 
< 340 106 3,5 ± 1,1 
 < 0,05 ≥ 340 9 4,2 ±1,6 
Nhận xét: 
Những trẻ có nồng độ bilirubin tự do máu ≥ 340 mol/l có TGCĐTB là 4,2 ± 
1,6 ngày, dài hơn những trẻ có nồng độ bilirubin máu < 340mol/l (3,5 ± 1,1 ngày). 
Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Bảng 3.17. Liên quan giữa tuổi thai với thời gian chiếu đèn trung bình. 
Tuổi thai n 
Thời gian chiếu đèn 
trung bình (ngày) 
P 
< 37 tuần 75 3,7±1,2 < 0,05 
≥ 37 tuần 40 3,2 ±1,1 
Nhận xét: 
Trẻ đẻ thiếu tháng (< 37 tuần) có TGCĐTB là 3,7 ± 1,2 ngày, dài hơn trẻ 
đẻ đủ tháng (3,2 ± 1,1 ngày). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Bảng 3.18. Liên quan giữa bất đồng nhóm máu ABO mẹ - con với thời 
gian chiếu đèn trung bình. 
Bất đồng 
nhóm máu ABO 
n Thời gian chiếu đèn trung bình (ngày) p 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
51 
Không 105 3,5 ± 1,1 
> 0,05 
Có 10 3,5 ± 1,4 
Nhận xét: 
Không có sự khác biệt về TGCĐTB giữa nhóm trẻ có bất đồng và không 
bất đồng nhóm máu ABO mẹ - con (p > 0,05). 
Bảng 3.19. Liên quan giữa cân nặng lúc vào viện với thời gian chiếu đèn 
trung bình. 
Cân nặng lúc vào viện 
(gram) 
n Thời gian chiếu đèn trung bình (ngày) p 
< 2500 79 3,7 ± 1,1 
< 0,05 
≥ 2500 36 3,2 ± 1,3 
Nhận xét: 
Trẻ có cân nặng khi vào viện < 2500 gram có TGCĐTB là 3,7 ± 1,1 
ngày, dài hơn những trẻ có cân nặng lúc vào ≥ 2500 gram(3,2 ± 1,3 ngày). 
Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Bảng 3.20. Liên quan giữa loại đèn chiếu và thời gian chiếu đèn trung bình. 
Loại đèn n Thời gian chiếu đèn trung bình (ngày) p 
LED 63 3,3 ± 0,9 
< 0,05 
Huỳnh quang 52 3,9 ± 1,3 
Nhận xét: 
Thời gian chiếu đèn trung bình ở loại đèn huỳnh quang là 3,9 ± 1,3 ngày, dài 
hơn so với đèn LED (3,3 ± 0,9 ngày). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
Chƣơng 4 
BÀN LUẬN 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
52 
4.1. Đặc điểm chung của đối tƣợng nghiên cứu 
 - Tiến hành nghiên cứu từ ngày 01/01/ 2009 đến ngày 30/6/ 2009 tại 
khoa Nhi Bệnh viện ĐKTƯTN với tổng số 363 bệnh nhi sơ sinh nhập viện, 
chúng tôi thấy tỷ lệ vàng da tăng bilirubin tự do bệnh lý ở trẻ sơ sinh chiếm 
(38,8%) tổng số trẻ sơ sinh vào viện điều trị. Đây là một tỷ lệ rất cao và đáng 
báo động trong khu vực. Kết quả của chúng tôi cũng tương đương với 
nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai và Cs về mô hình bệnh tật trẻ em vào 
điều trị tại khoa Nhi bệnh viện ĐKTƯTN trong 5 năm (2001 - 2005) đã cho 
thấy có (34,5%) trẻ sơ sinh vàng da tăng bilirubin tự do vào viện điều trị 
bằng liệu pháp ánh sáng [21]. So với kết quả nghiên cứu của Khu Thị 
Khánh Dung tại Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2005 (21,26%) thì tỷ lệ 
vàng da tăng bilirubin tự do của chúng tôi có cao hơn [5] và cao hơn nhiều 
so với kết quả nghiên cứu của Phạm Đỗ Ngọc Diệp tại Bệnh viện Saint - 
Paul năm 2003 (15,11%) [4]. Tỷ lệ vàng da tăng bilirubin tự do trong nghiên 
cứu của chúng tôi cao như vậy có lẽ một phần do các Bệnh viện trong khu 
vực Thái Nguyên, nhất là tuyến huyện chưa triển khai thường xuyên việc 
điều trị chiếu đèn cho trẻ sơ sinh vàng da, đặc biệt là các huyện miền núi. 
Hơn nữa, Bệnh viện chúng tôi đã triển khai được kỹ thuật thay máu cho trẻ 
sơ sinh bị vàng da khi có chỉ định, nên hầu hết các trẻ bệnh được phát hiện 
vàng da nặng tại các cơ sở y tế tuyến dưới đều chuyển đến khoa chúng tôi 
điều trị, vì vậy đã làm tăng tỷ lệ trẻ sơ sinh vàng da tăng bilirubin tự do tại 
khoa. Nhiều tác giả nghiên cứu ở các nước phát triển cho thấy vàng da tăng 
bilirubin tự do ở trẻ sơ sinh thường chỉ chiếm (6 - 10%) tổng số trẻ sơ sinh 
nhập viện [41], [43], [53]. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so với kết quả của chúng 
tôi, có lẽ do các nước này đã sử dụng rộng rãi các biện pháp điều trị sớm 
bằng chiếu đèn kết hợp điều trị dự phòng bằng thuốc, đồng thời làm tốt công 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
53 
tác tiên lượng ở những trẻ có nguy cơ vàng da bệnh lý, xét nghiệm máu 
cuống rốn nếu bilirubin tăng trên 6mg/dl thì điều trị sớm trong vòng 36 giờ 
[68]. Mặt khác, có nhiều loại đèn (đèn túi, đèn chăn) được bán rộng rãi trên 
thị trường nên việc điều trị bằng ánh sáng tại nhà ở các nước trên là khá phổ 
biến, gia đình có thể tự đo và theo dõi nồng độ bilirubin qua da, hơn nữa do 
sự phát triển rộng rãi của hệ thống bác sỹ gia đình nên tỷ lệ trẻ vàng da tăng 
bilirubin tự do phải nhập viện đã giảm đáng kể [66], [71]. 
- Tỷ lệ vàng da theo giới tính: Trong kết quả của chúng tôi, tỷ lệ vàng da 
ở trẻ nam có cao hơn (57,3%) so với trẻ nữ (42,7%), tuy nhiên sự khác biệt về 
tỷ lệ mắc giữa trẻ nam và nữ là chưa có ý nghĩa thống kê. Nghiên cứu của 
nhiều tác giả khác cũng cho kết quả tương tự. Theo Bùi Thị Thuỳ Dương tỷ lệ 
vàng da ở trẻ nam (60%) và nữ là 40% [6], Đỗ Phạm Ngọc Diệp tỷ lệ vàng da 
ở trẻ nam (61,8%) [4], Khu Thị Khánh Dung tỷ lệ trẻ nam là 57,4% [5], tuy 
nhiên cho đến nay chưa có giải thích rõ ràng về nguyên nhân của sự khác biệt 
nhất định về vàng da tăng bilirubin theo giới tính. Phải chăng thực trạng hiện 
nay sự chênh lệnh về giới tính sau sinh đã khá rõ rệt ở nhiều nước, nhất là khi 
các kỹ thuật xác định giới tính sớm được phổ biến, pháp lệnh sinh đẻ kế 
hoạch thắt chặt hơn mà tập quán sinh con trai vẫn luôn tồn tại trong cộng 
đồng nên càng làm mất cân bằng giới, tỷ lệ trẻ nam nhiều hơn. 
- Trong nghiên cứu chúng tôi cũng quan tâm đến tỷ lệ vàng da theo dân 
tộc. Mặc dù chưa thống kê được chính xác tỷ lệ vàng da tăng bilirubin sơ sinh 
thực sự ở mỗi nhóm dân tộc là bao nhiêu. Nhưng kết quả của chúng tôi cũng 
cho thấy tần suất gặp vàng da tăng bilirubin tự do bệnh lý ở trẻ em dân tộc 
Kinh là 66,4%, cao hơn các dân tộc thiểu số khác (33,6%). Điều này có lẽ vì 
Bệnh viện ĐKTƯTN nằm ngay trung tâm thành phố Thái Nguyên hoặc ngay 
cả các trung tâm Y tế huyện cũng nằm ở trung tâm huyện, nơi chủ yếu đồng 
bào Kinh sinh sống, nên trẻ sơ sinh vàng da ở dân tộc Kinh nhiều hơn cũng có 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
54 
thể chấp nhận được. Hơn nữa hầu hết dân tộc ít người sống ở vùng sâu vùng 
xa, nhận thức hạn chế, điều kiện khó khăn, khi phát hiện vàng da thì đã quá 
muộn nên không thể đưa trẻ đến bệnh viện. Vấn đề tỷ lệ vàng da bệnh lý thực 
sự theo nhóm dân tộc cũng cần được nghiên cứu rõ hơn vì có thể liên quan 
đến một số bệnh tan máu mang tính di truyền, dân tộc như các bệnh 
Thalasemia chẳng hạn. Cho đến nay ít có tác giả trong nước nghiên cứu vàng 
da với yếu tố dân tộc. Một số ít nghiên cứu cho thấy vàng da liên quan đến tan 
máu và bệnh huyết sắc tố ở dân tộc ít người [19], một số tác giả nước ngoài 
quan tâm đến yếu tố vùng miền nhiều hơn như tỷ lệ vàng da gặp nhiều hơn ở 
Châu Á và các nước đang phát triển [36], [40], [45], [56]. 
- Đánh giá về phân bố vàng da theo tuổi thai: Kết quả của chúng tôi cho 
thấy có (67,9%) trẻ đẻ non tháng vàng da bệnh lý cao hơn trẻ đủ tháng vàng 
da là 32,1%. Trẻ sơ sinh thiếu tháng trong tổng số trẻ bị vàng da bệnh lý ở 
nghiên cứu này của chúng tôi rất cao, chiếm đến 2/3. Kết quả này cũng phù 
hợp với nghiên cứu của Khổng Thị Ngọc Mai và Cs, tỷ lệ vàng da sơ sinh ở 
trẻ đủ tháng tại khoa Nhi Bệnh viện ĐKTƯTN từ 2001đến 2005 là 30% [21] 
và Khu Thị Khánh Dung nghiên cứu ở viện Nhi Trung ương (2005), trẻ đẻ 
non chiếm (63,57%) tổng số sơ sinh vàng da [5], Nguyễn Thị Quỳnh Nga trẻ 
đẻ non chiếm 67,8%[18]. Nghiên cứu của một số tác giả khác như Phạm Đỗ 
Ngọc Diệp, Bùi Thị Thuỳ Dương, Lê Diễm Hương cũng cho kết quả tương tự 
[4], [6], [8]. Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài cũng cho thấy vàng da 
tăng bilirubin tự do ở trẻ đẻ non cao hơn trẻ đẻ đủ tháng [38], [64], [67]. Tỷ lệ 
vàng da tăng bilirubin tự do bệnh lý ở trẻ sơ sinh non tháng cao hơn có thể do 
chức năng của các cơ quan chưa hoàn thiện, nên quá trình chuyển hóa 
bilirubin kém hơn, mặt khác trẻ đẻ non thường dễ mắc các bệnh khác kèm 
theo đặc biệt là suy hô hấp, hơn nữa, đối tượng trẻ này có nhiều nguy cơ nên 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
55 
thường được quan tâm theo dõi và điều trị tại bệnh viện trong những ngày đầu 
sau đẻ vì vậy vàng da dễ được phát hiện. 
- Về tuổi trung bình xuất hiện vàng da theo tuổi thai: Kết quả của chúng 
tôi cho thấy vàng da sau sinh ở 2 nhóm trẻ đẻ non và trẻ đẻ đủ tháng là tương 
đương, tuổi trung bình của cả hai nhóm là 2,4 ± 0,8 ngày. Khu Thị Khánh 
Dung cho thấy tuổi trung bình xuất hiện vàng da chung ở trẻ đẻ non và trẻ đủ 
tháng là 2,36 ± 0,7 ngày [5], Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên 
cứu của một số tác giả khác, tuổi trung bình xuất hiện vàng da tăng bilirubin 
tự do ở cả 2 nhóm trẻ đẻ non và đủ tháng chủ yếu vào ngày thứ 2 đến ngày 
thứ 3 sau sinh. Qui luật này có ý nghĩa lớn để tư vấn cho các bà mẹ và gia 
đình, các cán bộ y tế trong việc theo dõi trẻ phát hiện sớm vàng da để điều trị 
kịp thời tránh bỏ sót dẫn đến hậu quả đáng tiếc ảnh hưởng đến tương lai của 
trẻ [1], [48], [57], [62]. 
4.2. Kết quả điều trị vàng da tăng bilirubin tự do ở trẻ sơ sinh bằng liệu 
pháp ánh sáng tại khoa Nhi bệnh viện ĐKTƢTN 
- Trong nhóm nghiên cứu có 131 bệnh nhân vàng da tăng bilirubin tự do 
bệnh lý ở trẻ sơ sinh đã được điều trị bằng chiếu đèn có 115 trường hợp đạt 
kết quả tốt (khỏi bệnh ra viện) chiếm (87,8%), chỉ có 4 trường hợp phải thay 
máu chiếm tỷ lệ (3,1%) còn 9,2% trường hợp tử vong hoặc diễn biến nặng 
xin về do các nguyên nhân khác. Theo Khu Thị Khánh Dung nghiên cứu tại 
Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2005, tỷ lệ khỏi do chiếu đèn là 79%, thay 
máu là 21% [5], Phạm Đỗ Ngọc Diệp tỷ lệ khỏi là 88,8%, thay máu (11,2%) 
[4], như vậy kết quả thay máu của chúng tôi có thấp hơn. Tuy nhiên tỷ lệ tử 
vong hoặc xin về khá cao, có lẽ do tỷ lệ trẻ vàng da trên trẻ đẻ non, thấp cân 
nhiều hơn (chiếm gần 2/3 số trẻ), hơn nữa nhiều trẻ sơ sinh vào viện vì một 
bệnh nặng khác rồi phát hiện vàng da mới điều trị chiếu đèn nhưng không có 
kết quả. Như vậy điều trị bằng chiếu đèn đối với vàng da tăng bilirubin tự do 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
56 
ở trẻ sơ sinh có hiệu quả cao, đây là một phương pháp điều trị chính, dễ thực 
hiện và ít tốn kém. Nếu tất cả trẻ sơ sinh sau đẻ đều được theo dõi và phát 
hiện sớm để điều trị bằng chiếu đèn, đồng thời các cơ sở y tế đều được trang 
bị đầy đủ đèn chiếu thì có thể giải quyết một cách hiệu quả vàng da tăng 
bilirubin tự do ở trẻ sơ sinh, giảm được tối đa các trường hợp thay máu đồng 
thời khống chế được di chứng nặng nề của vàng nhân não sơ sinh [32], [41], 
[55]. 
- Kết quả điều trị theo tuổi thai: Có (95,2%) trẻ đủ tháng điều trị khỏi, 2 
trường hợp phải thay máu, không có trường hợp nào nặng xin về hoặc tử 
vong. Nhóm trẻ non tháng tỷ lệ khỏi là 84,3%, 2 trường hợp thay máu, đặc 
biệt có 12 trường hợp nặng tử vong hoặc xin về do các nguyên nhân khác, 
chiếm (9,2%). Sự khác biệt về tỷ lệ khỏi giữa 2 nhóm có ý nghĩa thống kê (p 
< 0,05). Trẻ đẻ non tháng, cân nặng thấp ngoài việc làm giảm bilirubin máu 
khó khăn bệnh nhi còn có thể có những rối loạn do bệnh lý khác kèm theo 
như suy hô hấp, viêm phổi... nên tỷ lệ tử vong hoặc bệnh nặng xin về sẽ cao 
hơn những trẻ có tuổi thai lớn hơn. Việc điều trị vàng da tăng bilirubin tự do ở 
trẻ đẻ non không chỉ đơn thuần là chiếu đèn, mà phải phối hợp nhiều biện 
pháp điều trị khác và đòi hỏi chăm sóc, hồi sức cấp cứu đặc biệt. Nghiên cứu 
của Khu Thị Khánh Dung tại Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy có (67%) 
trẻ đẻ non có nồng độ albumin trong huyết thanh thấp và liên quan đến kết 
quả điều trị vàng da [5]. Một số nghiên cứu khác cho rằng tỷ lệ thay máu ở trẻ 
đẻ non cao hơn so với trẻ đủ tháng [46], [51], [61]. 
- Kết quả điều trị theo tuổi xuất hiện vàng da: 100% trẻ xuất hiện vàng 
da < 24 giờ được chiếu đèn sớm đã khỏi. Tuổi xuất hiện vàng da sau 49 giờ 
khỏi là 81,1% và (18,2%) tử vong hoặc xin về. Nghiên cứu của nhiều tác giả 
cho thấy tỷ lệ bệnh nhân được chiếu đèn sớm thì tỷ lệ khỏi cao, thời gian phát 
hiện vàng da sớm thường được theo dõi, điều trị ngay khi nồng độ bilirubin 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
57 
còn thấp [5], việc can thiệp chiếu đèn sớm sẽ giảm được nguy cơ thay máu 
[30], [41], [66]. Có thể thời gian nghiên cứu của chúng tôi còn ngắn, số lượng 
bệnh nhân chưa nhiều, nên chưa thấy có sự khác biệt rõ rệt. 
- Kết quả điều trị theo mức độ vùng vàng da: 91,4% trẻ vàng da ở vùng 
5 khỏi tỷ lệ thay máu là 8,6%. Trẻ tử vong hoặc xin về chủ yếu vàng da vùng 
3 (15,6%). Sự khác biệt là không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Về lâm sàng 
thường vùng vàng da càng cao thì mức độ tăng bilirubin càng nhiều, nghĩa là 
bệnh càng nặng. Nhưng thực chất vùng vàng da ở vùng 4 - 5 thì thường bệnh 
nhân lại vào viện muộn và đa số lại là trẻ đủ tháng, nên sau điều trị tích cực 
thì tỷ lệ khỏi lại nhiều hơn. Còn các trường hợp vàng da trước chiếu đèn ở 
vùng 3, 4 thường ở trẻ đẻ non, được phát hiện và điều trị sớm hơn, những dễ 
tử vong vì bệnh lý khác ở trẻ đẻ non tháng nên tỷ lệ tử vong hoặc xin về sẽ 
cao hơn. Nhiều nghiên cứu cũng cho thấy việc chiếu đèn sớm sẽ giảm được 
ngày điều trị, giảm được nguy cơ vàng nhân não [5], [26], [48]. 
- Kết quả điều trị theo cân nặng: Có 84,9% trẻ có cân nặng < 2500g điều 
trị khỏi thấp hơn trẻ có cân nặng ≥ 2500 gam điều trị khỏi là 94,7%. Tất cả số 
trẻ tử vong hoặc xin về đều ở nhóm trẻ có cân nặng < 2500 gram và chiếm 
(12,9%) trong số trẻ nhóm này. Trẻ cân nặng thấp thực chất chủ yếu là trẻ đẻ 
non tháng hoặc một số ít do suy dinh dưỡng bào thai. Vì vậy, trẻ có cân nặng 
thấp là một yếu tố nguy cơ gây tử vong do sức đề kháng cơ thể kém hoặc do 
rối loạn chức năng các cơ quan vì chưa phát triển hoàn chỉnh (như suy hô hấp, 
nhiễm khuẩn sơ sinh…). Trẻ đẻ non, đẻ nhẹ cân đã được Maisel MJ năm 
1994 xếp vào bảng phân loại yếu tố gây vàng da dựa trên các nguyên nhân 
tăng tạo bilirubin máu và nguyên nhân gây giảm khả năng đào thải bilirubin 
ra khỏi cơ thể [58]. 
- Kết quả điều trị theo bất đồng nhóm máu ABO giữa mẹ và con: Trong 
nghiên cứu của chúng tôi có (89,7%) trẻ không có bất đồng nhóm máu ABO 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
58 
giữa mẹ và con được điều trị khỏi, nhiều hơn trẻ có bất đồng nhóm máu trên 
(71,4%). Tỷ lệ trẻ tử vong hoặc xin về ở nhóm trẻ có bất đồng nhóm máu 
ABO là 14,3% cao hơn nhóm trẻ không bất đồng nhóm máu (8,5%). Sự khác 
biệt về các tỷ lệ điều trị khỏi, thay máu hoặc chết, xin về giữa 2 nhóm trẻ có 
và không có bất đồng nhóm máu ABO giữa mẹ và con là có ý nghĩa thống kê 
(p < 0,05). Bất đồng nhóm máu là một trong những nguyên nhân tan máu gây 
vàng da tăng bilirubin tự do tăng nhanh và dễ có nguy cơ diễn biến nặng, tử 
vong. 
- Diễn biến nồng độ bilirubin tự do theo thời gian chiếu đèn và loại đèn: 
Chúng tôi thấy nồng độ trung bình bilirubin máu trước khi chiếu đèn không 
khác biệt giữa 2 loại đèn. Sau 24 giờ điều trị nồng độ bilirubin máu thay đổi 
nhanh ở cả 2 loại đèn, trong đó đèn LED tốc độ giảm (57,71mol/l) nhanh 
hơn so với đèn huỳnh quang (32,3mol/l), tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý 
nghĩa thống kê. Từ thời điểm sau 48 giờ trở đi thì sự giảm nồng độ bilirubin 
chậm lại và tương đương nhau giữa 2 loại đèn. Như vậy, việc điều trị chiếu 
đèn sớm làm giảm nhanh nồng độ bilirubin tự do ngay sau thời điểm 24 giờ là 
điều rất tốt vì tránh được nguy cơ vàng nhân não. Sau 72 giờ hầu hết nồng độ 
bilirubin máu đã giảm đến mức an toàn hơn. Kết quả của chúng tôi cũng hoàn 
toàn phù hợp với nhận xét của Khu Thị Khánh Dung và cộng sự [5] về điều 
trị vàng da tăng bilirubin tự do bằng chiếu đèn huỳnh quang ánh sáng xanh 
của hãng Rạng đông tại khoa sơ sinh Bệnh viên Nhi Trung ương của tác giả 
Bùi Thị Thuỳ Dương cũng cho hiệu quả cao [6], tác giả Ngô Minh Xuân cũng 
đã nghiên cứu chiếu đèn 2 mặt Compact cho hiệu quả cao [32]. Trong điều 
kiện hiện nay vẫn còn có nhiều sơ sở y tế tuyến huyện, tuyến tỉnh, còn thiếu 
thốn trang thiết bị, nhất là đèn LED, nên việc sử dụng đèn huỳnh quang để 
điều trị vàng da tăng bilirubin tự do là phù hợp, rẻ tiền và cũng hiệu quả để đề 
phòng nguy cơ biến chứng vàng nhân não cho trẻ. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
59 
- Diễn biến nồng độ bilirubin máu theo thời gian chiếu đèn và bất đồng 
nhóm máu ABO: Nồng độ bilirubin trung bình nhóm bất đồng khi bắt đầu điều 
trị là 303,91 ± 49,66 mol/l cao hơn so với nhóm không bất đồng (262,79 ± 
52,62 mol/l). Sau chiếu đèn 24 - 48 giờ nồng độ bilirubin giảm nhanh và mức 
giảm 2 nhóm tương đương nhau. Sau 72 giờ thì nhóm trẻ có bất đồng nhóm máu 
ABO giảm nhanh hơn nhóm không bất đồng nhóm máu. Theo một số tác giả, 
hiệu quả thay đổi nồng độ bilirubin trung bình sau khi điều trị chiếu đèn trên trẻ 
vàng da tăng bilirubin tự do có bất đồng nhóm máu ABO giữa mẹ và con với 
nhóm trẻ không có bất đồng nhóm máu là tương đương nhau. Tuy nhiên thời 
gian điều trị ở nhóm có bất đồng thường kéo dài hơn vì nồng độ bilirubin trước 
chiếu đèn cao hơn nhóm trẻ không có bất đồng nhóm máu [23], [27], [45]. 
- Thời gian chiếu đèn trung bình ở các mức độ vùng vàng da, ở bảng 
3.12 cho thấy, thời gian chiếu đèn trung bình tính theo ngày với trẻ có vàng da 
trước chiếu đèn ở vùng 3 và 4 có dài hơn so với các vùng khác. Tuy nhiên sự 
khác biệt này là không có ý nghĩa thống kê. Có lẽ do số trẻ bị vàng da ở mức 
vùng 3, 4 là nhiều nhất. Ở nhóm trẻ vàng da ở vùng 2 thường nhẹ hơn hoặc 
phát hiện sớm nên khống chế được nồng độ bilirubin kịp thời. 
 - Thời gian chiếu đèn trung bình theo tuổi xuất hiện vàng da: Trong kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi không thấy có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê 
về thời gian điều trị chiếu đèn trung bình ở các ngày tuổi được phát hiện vàng 
da. Nhận xét của Khu Thị Khánh Dung và một số tác giả khác cho rằng ngày 
phát hiện vàng da (tuổi vàng da) tính từ khi đẻ đến lúc gia đình hoặc thầy 
thuốc phát hiện vàng da có ảnh hưởng đến thời gian chiếu đèn [5], [30], [41], 
[56]. Nhìn chung các tác giả đều cho rằng việc chiếu đèn sớm sẽ khống chế 
được sự gia tăng nhanh của nồng độ bilirubin máu và sẽ giảm được tỷ lệ thay 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
60 
máu sơ sinh. Vì vậy, hiện nay nhiều tác giả đã quan tâm hơn đến việc quản lý, 
cách tiếp cận và ngăn ngừa sớm vàng da ở trẻ sơ sinh [5], [58], [59]. 
- Tác dụng phụ của chiếu đèn vàng da sơ sinh: Chúng tôi thấy tần suất 
xuất hiện tác dụng phụ ở trẻ trong khi chiếu đèn là 16 lần, chiếm tỷ lệ là 13,6%. 
Tần suất xuất hiện tác dụng phụ trong khi chiếu đèn trong nghiên cứu của chúng 
tôi tương đương với nghiên cứu của Bùi Thị Thuỳ Dương (15%) [6]. Trong đó 
mẩn đỏ da và có dấu hiệu mất nước trên lâm sàng là tương đương nhau (5,2%), 
trẻ tiêu chảy và sốt thấp bằng nhau (1,7%), một số trường hợp sốt nhẹ hoặc vừa. 
Như vậy, có lẽ tác dụng phụ mất nước là do trẻ chăm sóc trong lồng ấp chưa 
đảm bảo độ ẩm hoặc lượng bù dịch chưa đủ đáp ứng với sự đào thải, bay hơi 
nước trong khi chiếu đèn. Mẩn đỏ da là dấu hiệu nhẹ và thường khỏi khi được 
chăm sóc da và sau ngừng chiếu đèn, nhưng đó cũng là vấn đề cần được quan 
tâm khi chiếu đèn. Một số tác giả cũng cho thấy tác dụng phụ của chiếu đèn 
thường thấp và thoáng qua [4], [6], [30], Clarence W, Gowen Jr và một số tác 
giả nước ngoài cho thấy da màu đồng là tác dụng phụ hay gặp trong chiếu đèn 
ở trẻ non tháng, vàng da nặng kéo dài [41], [58], [60], [70], tuy nhiên trong 
nghiên cứu của chúng tôi không gặp trường hợp nào. Hiện nay, để khắc phục 
và hạn chế được nhiều tác dụng phụ của nhiều loại đèn bởi mất nước, mất 
nhiệt qua da người ta đã cải tiến và áp dụng các loại đèn tiên tiến và rất hiệu 
quả như đèn LED [5], [7], [53], [55]. 
4.3. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến kết quả điều trị vàng da bằng liệu pháp 
ánh sáng 
- Liên quan giữa vàng da tăng bilirubin tự do có nhiễm khuẩn kèm theo 
với thời gian chiếu đèn trung bình: Kết quả của chúng tôi cho thấy, TGCĐTB 
ở trẻ vàng da có viêm phổi kèm theo là 4,0 ± 1,4 ngày, dài hơn những trẻ 
không bị viêm phổi (3,4 ± 1,0). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
61 
Ngoài ra trẻ vàng da có nhiễm khuẩn khác kèm theo như: Viêm rốn, viêm da, 
tiêu chảy thì TGCĐTB không khác biệt so với những trẻ không bị bệnh. 
Nhiễm khuẩn kèm theo ở đây chúng tôi đánh giá các nhiễm khuẩn xảy ra 
trước khi tiến hành điều trị chiếu đèn, trong đó viêm phổi sơ sinh là nhiều 
nhất (27/115 trẻ). Nghiên cứu của một số tác giả như Khu Thị Khánh Dung, 
Trần Liên Anh cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn khá cao và có sự liên quan rõ rệt 
giữa nhiễm khuẩn sơ sinh với vàng da tăng bilirubin tự do và kéo dài tăng 
thời gian điều trị [3], [5]. Có lẽ tình trạng nhiễm khuẩn toàn thân (viêm phổi, 
nhiễm trùng máu...) làm tăng quá trình giáng hóa hồng cầu giải phóng 
bilirubin tự do và làm chậm quá trình chuyển hóa bilirubin nên thời gian điều 
trị kéo dài hơn. Theo tác giả S. De Smet và cộng sự (2009) nghiên cứu sử 
dụng liều cao immunoglobulin ở trẻ sơ sinh vàng da nhiễm khuẩn cho thấy 
nhiễm khuẩn là một yếu tố gây vàng da kéo dài [70], [71]. 
 - Liên quan giữa nồng độ bilirubin máu trước khi điều trị với thời gian 
chiếu đèn trung bình: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy thời gian 
điều trị chiếu đèn trung bình của nhóm trẻ có nồng độ bilirubin máu ≥ 340 
μmol dài hơn nhóm có nồng độ bilirubin máu < 340 μmol. Sự khác biệt là có 
ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với nhận 
xét của Khu Thị Khánh Dung (2005) [5], thời gian điều trị chiếu đèn ở nhóm 
có nồng độ bilirubin máu cao thì dài hơn nhóm có nồng độ bilirubin máu 
thấp. Nghiên cứu của một số số tác giả khác cũng cho kết quả tương tự [18], 
[41], [66]. Việc phát hiện sớm vàng da tăng bilirubin tự do trẻ sơ sinh khi 
nồng độ bilirubin máu còn ở mức thấp hơn thì kết quả điều trị chiếu đèn càng 
hiệu quả hơn [5], [6, [66]. 
- Liên quan giữa tuổi thai với thời gian chiếu đèn trung bình: Trẻ đẻ thiếu 
tháng (< 37 tuần) có TGCĐTB (3,7 ± 1,2 ngày), dài hơn trẻ đẻ đủ tháng (3,2 ± 
1,1 ngày). Trẻ càng đẻ non tháng càng có nhiều nguy cơ nói chung. Một số tác 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
62 
giả nghiên cứu cho thấy tuổi thai có liên quan rõ rệt đến tỷ lệ mắc vàng da tăng 
bilirubin tự do và mức độ vàng da [5], [57]. Thời gian chiếu đèn trung bình ở trẻ 
đẻ non thường kéo dài hơn trẻ đẻ đủ tháng có thể do trẻ đẻ non được phát hiện 
vàng da cũng như điều trị chiếu đèn sớm hơn, nhiều khi chiếu đèn mang tính dự 
phòng, hơn nữa diễn biến giảm nồng độ bilirubin máu của trẻ đẻ non thường 
chậm hơn trẻ đẻ đủ tháng, mặt khác ở trẻ đẻ non lại luôn có nhiều nguy cơ dẫn 
đến việc gia tăng nồng độ bilirubin máu như tình trạng suy hô hấp, toan máu, 
nhiễm khuẩn,...nên thời gian chiếu đèn thường được kéo dài hơn [57], [58], [59]. 
Nhiều nghiên cứu cho thấy nồng độ protid máu thấp có liên quan với tỷ lệ mắc 
vàng da, mức độ vàng da và thời gian điều trị thường kéo dài hơn. Những trẻ đẻ 
non tháng thường có nồng độ protid máu thấp hơn trẻ đẻ đủ tháng [33], [42]. 
Khu Thị Khánh Dung nghiên cứu định lượng Albumin máu cho thấy tỷ lệ mắc 
vàng da cao hơn ở nhóm trẻ có nồng độ albumin < 30g/l [5], Vũ Thị Xuyên cho 
rằng tỷ lệ truyền plasma tươi trong điều trị chiếu đèn vàng da sơ sinh chủ yếu ở 
trẻ đẻ non [33]. Một số tác giả cho rằng thời gian chiếu đèn vàng da tăng 
bilirubin tự do ở trẻ sơ sinh non tháng thường kéo dài hơn so với trẻ đủ tháng, 
bởi lẽ chức năng chuyển hoá bilirubin tại gan kém hơn trẻ đủ tháng, khả năng 
đào thải phân xu chậm hơn, hấp thu sữa và chức năng tiêu hoá kém hơn do đó 
quá trình tái hấp thụ bilirubin tại ruột tăng hơn so với trẻ đủ tháng [2], [50], [54]. 
- Về sự bất đồng nhóm máu ABO giữa mẹ và con với thời gian điều trị 
chiếu đèn trung bình: Kết quả ở bảng 3.18 cho thấy không có sự khác biệt về 
thời gian chiếu đèn trung bình giữa 2 nhóm trẻ có bất đồng và không bất đồng 
nhóm máu mẹ - con. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với nghiên cứu của 
một số tác giả cho rằng ở nhóm bất đồng nhóm máu có nồng độ bilirubin tăng 
cao, nguy cơ thay máu cao, nhưng thời gian chiếu đèn kéo dài hơn không rõ rệt. 
Những trẻ có bất đồng nhóm máu mà có nồng độ bilirubin cao dưới ngưỡng 
truyền máu, thường được quan tâm điều trị rất tích cực để phòng ngừa biến 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
63 
chứng nặng, nên ngoài việc chiếu đèn còn áp dụng nhiều biện pháp can thiệp 
khác như truyền đạm, dịch... nên nồng độ bilirubin cũng giảm nhanh chóng do 
đó thời gian chiếu đèn kéo dài hơn là không rõ rệt [23], [45], [52], [63]. 
- Cân nặng lúc vào viện của trẻ có ảnh hưởng tới thời gian chiếu đèn 
trung bình. Trẻ có cân nặng vào viện < 2500 gram có thời gian chiếu đèn 
trung bình là 3,7 ± 1,1 ngày dài hơn trẻ có cân nặng ≥ 2500gr (3,2 ± 1,3 
ngày). Sự khác biệt là có ý nghĩa thống kê. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi 
cũng tương tự như công bố của một số tác giả, với trẻ cân nặng < 2500g, đẻ 
non thì thời gian chiếu đèn kéo dài hơn. Trẻ đẻ non, cân nặng thấp không chỉ 
điều trị vàng da kéo dài hơn mà điều trị các bệnh kèm theo cũng khó khăn 
hơn [20], [42], [48]. Trẻ đẻ nhẹ cân, đẻ non đã được Maisel MJ năm (1994) 
xếp vào bảng phân loại yếu tố gây vàng da dựa trên các nguyên nhân tăng tạo 
bilirubin máu và giảm khả năng đào thải bilirubin ra khỏi cơ thể [58]. 
- Liên quan giữa sử dụng đèn LED và đèn huỳnh quang với thời gian 
chiếu đèn trung bình: kết quả của chúng tôi cho thấy ngày chiếu đèn trung 
bình ở nhóm trẻ sử dụng đèn LED (3,3 ± 0,9 ngày) thấp hơn ngày điều trị 
trung bình của nhóm trẻ dùng đèn huỳnh quang là 3,9 ± 1,3 ngày. Sự khác 
biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Một số tác giả đã nghiên cứu và so sánh 
hiệu quả của việc sử dụng một số loại đèn khác như đèn, đèn Halogen của tác 
giả Phạm Đỗ Ngọc Diệp [4], đèn Compact của Ngô Minh Xuân [32], đèn bức 
xạ trắng giá thấp của C.Djiokomuljiato và cộng sự [43], chiếu đèn 2 mặt bức 
xạ cao của Jun H. Kang (2005) [53],.. cho thấy các loại đèn đều cho kết quả 
tốt. Tuy nhiên trong quá trình sử dụng đèn chiếu luôn phải kiểm tra năng 
lượng của nguồn ánh sáng, chất lượng bóng, dàn đèn. Điều trị vàng da tăng 
bilirubin tự do trẻ sơ sinh bằng phương pháp ánh sáng luôn phải được cải tiến, 
từ những loại đèn đơn giản tự tạo bằng cách lắp nhiều đèn huỳnh quang ánh 
sáng trắng đến những loại đèn chiếu vàng da hiện đại, hiệu quả và an toàn hơn 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
64 
[29], [43], [53]. Ở những cơ sở y tế còn gặp nhiều khó khăn chưa có điều kiện 
trang bị các loại đèn hiện đại để điều trị vàng da tăng bilirubin tự do ở trẻ sơ 
sinh thì việc lắp ráp, sử dụng đèn huỳnh quang tự chế với ánh sáng trắng cũng 
đã có hiệu quả làm giảm bilirubin máu, giảm nguy cơ thay máu và biến chứng 
vàng nhân não nguy hiểm cho trẻ. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
65 
KẾT LUẬN 
1. Kết quả điều trị vàng da tăng bilirubin tự do ở trẻ sơ sinh bằng liệu 
pháp ánh sáng tại khoa Nhi bệnh viện ĐKTƢTN 
- 87,8% trẻ khỏi, 3,1% trẻ phải thay máu và (9,2%) trẻ tử vong hoặc xin về vì 
bệnh nặng. 
- Tỷ lệ điều trị khỏi ở trẻ đẻ đủ tháng (95,2%) cao hơn trẻ đẻ non tháng 
(84,3%), ở trẻ có cân nặng ≥ 2500gram (94,7%) cao hơn trẻ có cân nặng < 2500 
gram (84,9%) và trẻ không bất đồng nhóm máu mẹ con (89,7%) cao hơn trẻ có 
bất đồng nhóm máu (71,4%). 
- Thời gian phát hiện vàng da càng sớm kết quả điều trị khỏi càng cao (< 24 
giờ khỏi là 100% với ≥ 49 giờ khỏi là 81,1%) 
- 9,2% trẻ tử vong hoặc quá nặng xin về đều ở nhóm trẻ đẻ non tháng hoặc 
có cân nặng thấp (< 2500gram). 
- Sau 24 - 48 giờ chiếu đèn nồng độ bilirubin máu nhanh chóng (đèn 
LED giảm bilirubin máu nhanh hơn đèn huỳnh quang). Sau 48 giờ trở đi tốc 
độ giảm bilirubin ở 2 loại đèn chậm lại và tương đương nhau. 
- Tác dụng phụ của chiếu đèn thường gặp là mẩn đỏ da (5,2%), mất nước 
(5,2%), sốt, tiêu chảy ít. 
2. Một số yếu tố ảnh hƣởng đến kết quả điều trị vàng da tăng bilirubin tự 
do ở trẻ sơ sinh bằng liệu pháp ánh sáng 
- Thời gian chiếu đèn trung bình ở trẻ vàng da có viêm phổi kèm theo dài 
hơn những trẻ không bị viêm phổi. 
- Trẻ có nồng độ bilirubin máu ≥ 340 mol/l có thời gian chiếu đèn trung 
bình dài hơn trẻ có nồng độ bilirubin máu < 340mol/l. 
- Trẻ đẻ thiếu tháng có thời gian chiếu đèn trung bình dài hơn trẻ đẻ đủ tháng. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
66 
- Trẻ có cân nặng khi vào viện < 2500gram có thời gian chiếu đèn trung 
bình dài hơn những trẻ có cân nặng ≥ 2500 gram. 
- Sử dụng đèn LED có thời gian chiếu đèn trung bình ngắn hơn đèn 
huỳnh quang. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
67 
KHUYẾN NGHỊ 
1. Tổ chức hướng dẫn cho cán bộ y tế tại khoa sản, các nhà hộ sinh, trạm 
y tế và các gia đình về cách theo dõi, phát hiện sớm và đánh giá mức độ vàng 
da sơ sinh ngay trong tuần đầu sau đẻ để có thái độ xử trí đúng. 
2. Cần triển khai rộng rãi cách áp dụng điều trị vàng da tăng bilirubin tự 
do bằng liệu pháp ánh sáng ngay tại tuyến y tế huyện. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
68 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
I. TIẾNG VIỆT 
1. Nguyễn Quang Anh (2006), “Hội chứng vàng da trẻ sơ sinh”, Bài giảng 
nhi khoa, tập 1, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 145 - 55. 
2. Trần Liên Anh (2002), Nghiên cứu một số đặc điểm lâm sàng và bước đầu 
đánh giá kết quả thay máu cho trẻ sơ sinh vàng da tăng bilirubin gián 
tiếp trong máu, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ chuyên khoa II, Hà Nội. 
3. Trần Liên Anh (2004), “Vàng da tăng bilirubin gián tiếp”, Hướng dẫn chẩn 
đoán điều trị bệnh trẻ em, Nxb Y học, Hà Nội, Tr. 12 - 17. 
4. Phạm Đỗ Ngọc Diệp (2003), Đánh giá hiệu quả điều trị vàng da tăng bilirubin 
gián tiếp ở trẻ sơ sinh bằng chiếu đèn halogen tại khoa sơ sinh Bệnh viện 
Saint - Paul, Luận văn tốt nghiệp Bác sỹ chuyên khoa II, Hà Nội. 
5. Khu Thị Khánh Dung, Nguyễn Kim Nga, Trần Liên Anh, Lê tố Như 
(2007), "Vàng da tăng bilirubin gián tiếp ở trẻ sơ sinh, đặc điểm lâm 
sàng, xét nghiệm, một số yếu tố liên quan và kết quả can thiệp", Tạp chí 
Nhi khoa Việt Nam, tập 15(số 1), Bộ Y tế, tr. 32 - 40 
6. Bùi Thị Thuỳ Dương (2008), Nghiên cứu hiệu quả điều trị vàng da tăng 
bilirubin gián tiếp bằng đèn Rạng đông ánh sáng xanh ở trẻ sơ sinh đủ 
tháng tại khoa Sơ sinh Bệnh viện Nhi Trung ương, Luận văn tốt nghiệp 
Bác sĩ chuyên khoa cấp II, Đại học Y Hà Nội. 
7. Huỳnh Thế Hoàng (2003), Thiết bị đèn chiếu công nghệ LED điều trị bệnh 
vàng da dành cho trẻ sơ sinh, Đề tài khoa học ứng dụng Đại học Bách 
khoa Thành phố Hồ Chí Minh, tr. 12 - 20. 
8. Lê Diễm Hương (1976), “Bệnh vàng da tăng Bilirubin gián tiếp ở trẻ sơ 
sinh non tháng”, Kỷ yếu công trình nghiên cứu khoa học 1975 - 1980, 
Viện Bảo vệ Bà mẹ trẻ Sơ sinh, Hà Nội, tr. 60. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
69 
9. Tô Thanh Hương (1979), "Tình hình bệnh tật sơ sinh trong 10 năm 1969 -
1978", tạp chí Y học thực hành, tập 25 (số 6), tháng 11- 12, Bộ Y tế, tr. 5 - 10 
10. Huỳnh Thị Duy Hương (1996), “Vàng da do tăng Bilirubin gián tiếp ở trẻ 
sơ sinh”, Bài giảng Nhi khoa, tập 2, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 166 - 210. 
11. Tạ Thị Ánh Hoa (1976), “Điều trị triệu chứng vàng da do tăng bilirubin tự 
do ở trẻ sơ sinh”, Tạp chí Y học thực hành, năm thứ 22(số 204), Hà Nội, 
Tr. 102 - 118. 
12. Tạ Thị Ánh Hoa (1979), “Vàng da tăng bilirubin tự do trẻ sơ sinh”, Tạp 
chí Y học thực hành, năm thứ 25(số 4) tháng 7 - 8, Hà Nội, tr. 21 - 27. 
13. Nguyễn Công Khanh (1999), “Điều trị vàng da” Cấp cứu nhi khoa, Nxb 
Y học, Hà Nội, tr. 313. 
14. Nguyễn Công Khanh (2005), “Vàng da sơ sinh”, Tiếp cận chẩn đoán nhi 
khoa, Nxb Y học, Hà Nội, tr. 18 - 22. 
15. Nguyễn Công Khanh, Nguyễn Thanh Liêm (2006) “Hướng dẫn chẩn 
đoán và điều trị bệnh trẻ em”, Nxb y học, Hà Nội, tr. 12 - 19. 
16. Nguyễn Thị Kiểm (1989), Tình hình vàng da tăng bilirubin huyết ở trẻ 
mới đẻ tại khoa Sơ Sinh từ 1988 - 1989, Hội nghị tổng kết nghiên cứu 
khoa học, điều trị năm 1989. Viện BVBMTSS Hà Nội, tr. 66 - 71. 
17. Vương Thuý Lan (1995), Đo bilirubin toàn phần trẻ sơ sinh bằng phương 
pháp đo qua da, Công trình nghiên cứu khoa học, Viện BVBMTSS Hà 
Nội, tr. 97 - 101. 
18. Nguyễn Thị Quỳnh Nga (2005), Nghiên cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm 
sàng theo căn nguyên gây vàng da tăng bilirubin gián tiếp trẻ sơ sinh, 
Luận văn tốt nghiệp bác sỹ nội trú ĐHY Hà Nội. 
19. Phạm Thanh Mai, Hoàng Thị Thành (1984), Một vài nhận xét về hội chứng 
vàng da tăng bilirubin huyết ở trẻ sơ sinh năm 1984 tại khoa sơ sinh, Công 
trình nghiên cứu khoa học, Viện BVBMTSS Hà Nội, tr. 116 - 121. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
70 
20. Khổng Thị Ngọc Mai, Nguyễn Thanh Vân, Lê Thị Nga (1999), "Nhận xét 
lâm sàng và kết quả điều trị vàng da tăng bilirubin ở trẻ sơ sinh điều trị 
tại khoa nhi Bệnh viện đa khoa Trung ương Thái Nguyên", Công trình 
nghiên cứu khoa học, Tạp chí Y học thực hành, tháng 2, tr. 133 - 134. 
21. Khổng Ngọc Mai và cộng sự (2006), “Tình hình bệnh tật và tử vong sơ 
sinh 5 năm (2001 - 2005) tại khoa Nhi Bệnh viện Đa khoa Trung ương 
Thái Nguyên”, Tạp chí Y học thực hành chuyên đề sơ sinh, tr.40 - 46. 
22. Võ Đức Minh (2008), Vàng da sơ sinh, Thư viện khoa học VLOS 
Medline. 
23. Nguyễn Tuyết San (1980), Sơ bộ nhận định về vàng da do bất đồng nhóm 
máu mẹ và con hệ ABO, công trình nghiên cứu khoa học 1976 - 1980. 
Viện BVBMTSS Hà Nội, tr. 67 - 68. 
24. Nguyễn Ngọc Siêm, Lâm Thị Mỹ (2005), "Giá trị của phương pháp đo 
bilirubin qua da ở trẻ sơ sinh vàng da tăng bilirubin gián tiếp", Tạp chí 
nghiên cứu khoa học, tập 38(số 5), Bộ y tế - Đại học y Hà Nội, tr. 24 - 27. 
25. Hoàng Văn Sơn (1972), " Định lượng Bililubin huyết thanh khi không có điện”, 
tạp chí Y học thực hành , năm thứ 18 (số 180), tháng 11 - 12, tr. 32 - 33 
26. Trương Thị Sương (2004), “ Khảo sát nghiên cứu và tiến triển lâm sàng 
vàng da tăng bilirubin tự do trẻ sơ sinh,” Tạp chí Y học thực hành, Bộ y 
tế (số 495), tr. 304 - 310. 
27. Hà Công Thanh, Từ Sỹ Khương (1989), “ Một số nhận xét bước đầu qua 
12 trường hợp vàng da tăng bilirrubin gián tiếp được điều trị bằng thay 
máu”. Tạp chí Y học thực hành (số 6), tháng 11 - 12, tr. 32 - 33. 
 28. Lê Nam Trà, Nguyễn Thanh Liêm (2005), Báo cáo kết quả nghiên cứu 
lựa chọn kỹ thuật thích hợp xây dựng các quy trình cấp cứu nhi khoa chủ 
yếu, Bộ khoa học công nghệ - Bộ y tế, tr. 207 - 212. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
71 
29. Đặng Thị Hải Vân và cộng sự (2003), “ Nhận xét tình hình vàng da tăng 
bilirubin gián tiếp tại khoa sơ sinh bệnh viện Saint - Paul”, Tạp chí 
nghiên cứu y học, tập 35(số 2), Tr. 140 - 145. 
30. Ngô Minh Xuân (1999), " Vàng da nặng do tăng bilirubin gián tiếp",Tạp 
chí Y học thực hành, Thành phố Hồ Chí Minh, tập 1(số 3), tr. 140 - 145. 
31. Ngô Minh Xuân (2001), Phân cấp chẩn đoán và điều trị vàng da sơ sinh do 
tăng bililubin gián tiếp, Luận án tiến sĩ y học, Thành phố Hồ Chí Minh. 
32. Ngô Minh Xuân (2007), “ So sánh hiệu quả 2 phương pháp chiếu đèn 2 
mặt trong điều trị vàng da sơ sinh nặng do tăng bilirubin gián tiếp”, Tạp 
chí Nhi khoa, tập 15(số 1) tr. 42 - 46. 
33. Vũ Thị Xuyên (2000), Kết hợp truyền Plasma tươi và chiếu đèn trong 
điều trị vàng da sơ sinh tăng bilirrubin máu, Công trình nghiên cứu khoa 
học Viện Nhi Trung ương, Nxb Y học, Hà nội, tr. 79 - 82. 
II. TIẾNG ANH 
34. A. D. Chowdhury, D. B. Shortland, M. Hussey (2008), "Understanding 
neonatal jaundice: UK practice and international profile". J R Soc Promot 
Health. 128(4), p. 202 - 6. 
35. A. D. Chowdhury, M. H. Hussey, D. B. Shortland (2007),"Critical overview 
of the management of neonatal jaundice in the UK". Public Health. 121(2), 
p. 137 - 43. 
 36. A. Amirshaghaghi, K. Ghabili, M. M. Shoja, H. Kooshavar (2008), "Neonatal 
jaundice: knowledge and practice of Iranian mothers with icteric newborns". 
Pak J Biol Sci. 11(6), p. 942 - 5. 
37. A. Cakmak, M. Calik, A. Atas, I. Hirfanoglu, O. Erel (2008), "Can haptoglobin 
be an indicator for the early diagnosis of neonatal jaundice?" J Clin Lab Anal. 
22(6), p. 409 - 414. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
72 
38. A. E. Burgos, S. K. Schmitt, D. K. Stevenson, C. S. Phibbs (2008), "Readmission 
for neonatal jaundice in California, 1991 - 2000", trends and implications. 
Pediatrics. 121(4), p. 864 - 869. 
39. A. Hobbs. L. Burke, J. M. Robbins, T. M. Bird, C, C. Nesmith, J. M. Tilford 
(2009), "Trends in hospitalizations for neonatal jaundice and kernicterus in 
the United States, 1988 - 2005", Pediatrics. 123(2), p. 524 - 32. 
40. B. Gupta. Agarwal, V. Singh, S. P. Goel (2007), "Maternal and neonatal 
factors affecting physiological jaundice in western U.P". Indian J Physiol 
Pharmacol. 51(2), p. 203 - 6 
41. B. Csoma, L. Kemeny, J. Olah (2008), "Phototherapy for neonatal jaundice". N 
Engl J Med. 358(23), p. 2523 - 4, author reply 2524 - 5. 
42. C. E. Ahlfors, R. P. Wennberg, J. D. Ostrow, C. Tiribelli, (2009), "Unbound 
(free) bilirubin: improving the paradigm for evaluating neonatal jaundice". Clin 
Chem. 55(7), p. 1288 - 99. 
43. C. Djokomuljanto, B. S. Quah, Y. Surini, R. Noraida, N. Z. Ismail, T. W. 
Hansen, H. Van Rostenberghe (2006), "Efficacy of phototherapy for 
neonatal jaundice is increased by the use of low-cost white reflecting 
curtains". Arch Dis Child Fetal Neonatal Ed. 91(6), p. F439 - 42. 
44. Clarence W, Gowen Jr (2006),“Anemia and Hyperbilirubinemia”, Essentials 
of Pediatrics fifth edition, p. 313 - 9. 
45. Chen j, Ling U (1994), “Prediction of the development of neonatal 
hyperbilirubinemia in ABO incompatibility”, Chung Hua I Hua Tsa 
Chih, Taipei, 1994 Jan, 53(1), p. 13 - 18. 
46. Dikshit SK,Gupta PK (1989),“Exchange transfusion in neonatal 
hyperbilirubinemia ”, Indian Pediatr 26(11), p. 1139 - 45. 
47. Ebbesen F (2001), “Recurrence kernicterusin term and near-term infants 
in Demark”, Acta Pediatr, 90(9). p. 1080. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
73 
48. F. P. Facchini, M. A. Mezzacappa, I. R. Rosa, F. Mezzacappa Filho, A. 
Aranha-Netto, S. T. Marba (2007), "Follow-up of neonatal jaundice in 
term and late premature newborns". J Pediatr (Rio J). 83(4), p. 313 - 22. 
49. Gabilan JC (1998), “Pharmacologic treatment of nenatal jaundice. A new 
approach”, Arch Pediatr, 1998 Nov, 5(11), p.1274 - 8. 
50. H. D. Buiter, S. S. Dijkstra, R. F. Oude Elferink, P. Bijster, H. A. Woltil, 
H. J. Verkade (2008), "Neonatal jaundice and stool production in breast- 
or formula-fed term infants". Eur J Pediatr. 167(5), p. 501 - 7. 
51. Hinkes Michael T (1998), “Neonatal Hyperbilirubinemia”, Manual of 
neonatal care, p. 1975 - 2009. 
52. Hsiao-Bai Yang (1999), The clinical application of Coombs test and 
elution test in the ABO - Incompatibiliti relate hemolytic disease of 
newborn, 10 th Regional Congress of the international Society of Blood 
Transfution Western Pacific Region, p. 321. 
53. Jun H. Kang (2005), “ Double phototherapy with high irradiance compared 
with single phototherapy in neonates with hyperbilirubinemia, American 
journal of perinatology”. Vol. 12 number 3 may 1995, p. 178 - 80. 
54. J. M. Kirk (2008), "Neonatal jaundice: a critical review of the role and 
practice of bilirubin analysis". Ann Clin Biochem. 45(5), p. 452 - 62. 
55. Klaus Jahrig, Peter Mersel (1993),“Phototherapy treatment neonatal 
jaundice with visible light”, Qusintessens Verlag-GmbH. Munchen, p. 115. 
56. K. Bhutani, M. J. Maisels, A. R. Stark, G. Buonocore (2008), "Management of 
jaundice and prevention of severe neonatal hyperbilirubinemia in infants >or = 
35 weeks gestation". Neonatology. 94 (1), p. 63 - 7. 
 57. Martin M. Avroy A. Fanaroff, Richard J (2006), “Diseases of the Fetus 
and Infant”.7th Edition Neonatal Perinatal Medicine, Mosby 2002. p 
1309 - 1346 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
74 
58. Maisel M.J (1994), "Jaundice, neonatology pathophysiology and management 
of the newborn”. Fourth edition. Edited by Gordon B. Avery, Mary Ann 
Fletcher, and Mhairi G. Mac Donal J.B. Lipincott company Philadelphia, p. 
630 - 711. 
59. M. J. Maisels (2006), "Neonatal jaundice". Pediatr Rev. 27(12), p. 443 - 54. 
60. M. J. Maisels,A. F. McDonagh, (2008), "Phototherapy for neonatal jaundice". N 
Engl J Med. 358(9), p. 920 - 8. 
61. M.B O. Olusanya (2006), "Letter to the Editors: the burden of neonatal jaundice 
and sepsis in developing countries". Trop Med Int Health. 11(3), p. 381. 
62. McGraw-Hill (2004), “Neonatology: Management, Procedurs, On - Call 
Problems, Diseases, and Drugs”. Fifth Edition. A LANGE clinical manual. 
Lange Medical Books, p 175 - 179, p 247 - 250, p 381 - 388. 
63. Makay, N. Duman, E. Ozer, A. Kumral, D. Yesilirmak, H. Ozkan (2007), 
"Randomized, controlled trial of early intravenous nutrition for 
prevention of neonatal jaundice in term and near-term neonates", 
JPediatr Gastroenterol Nutr. 44(3), p. 354 - 358. 
64. N. R. Kaini, D. Chaudhary, V. Adhikary, S. Bhattacharya, M. Lamsal 
(2006), "Overview of cases and prevalence of jaundice in neonatal 
intensive care unit". Nepal Med Coll J. 8(2), p. 133 - 135. 
65. N. Khalesi,F. Rakhshani (2008), "Knowledge, attitude and behaviour of 
mothers on neonatal jaundice". J Pak Med Assoc, 58(12), p. 671- 4. 
66. R. Kapoor (2008), "Phototherapy for neonatal jaundice". N Engl J Med. 
358 (23), p. 2522 - 3, author reply. 2524 - 5. 
67. Richard E, Kilegman (2000), “Jaundice and hyperbilirubinemia in 
newborn”, Nelson text book pediatrics. 16 th edition. W.B Saunder 
company 2000, p. 513 - 7. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
75 
68. Sarici SU, Yurdakok M (2002), “An early (sixth hour) serum bilirubinemia 
surement is useful in predicting the development of signficant hyperbilirubinemia 
and servers ABO” pediatr 109 (4), p. 53. 
69. S. K. Moerschel, L. B. Cianciaruso, L. R. Tracy (2008), "A practical 
approach to neonatal jaundice". Am Fam Physician. 77(9), p. 1255 - 62. 
70. S. De Smet, F. Monpoux, C. Dageville, A. M. Maillotte, F.Casagrande, P. 
Boutte (2009), "High - dose intravenous immunoglobulin therapy and 
neonatal jaundice due to red blood cell alloimmunization.". Arch Pediatr. 
71. V. D. Ostrow, R. P. Wennberg, C. Tiribelli (2008), "Phototherapy for neonatal 
jaundice". N Engl J Med. 358(23), p. 2524, author reply 2524 - 5. 
72. William J Cashore (1990), “The Nerotoxicity of Bilirubin”, Clinics in 
Perinatology. 71(2) p. 437 - 44. 
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
76 
¬ 
BỆNH VIỆN ĐA KHOA 
TRUNG ƢƠNG THÁI 
NGUYÊN 
BỘ MÔN NHI 
Số bệnh án: ................ 
Phiếu số .................... 
PHIẾU NGHIÊN CỨU BỆNH NHÂN VÀNG DA SƠ SINH 
TẠI KHOA NHI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TRUNG ƢƠNG 
THÁI NGUYÊN 
1. Hành chính 
- Họ và tên trẻ:. .......................................... Nam  Nữ  Dân tộc: ............... 
- Ngày, tháng, năm sinh .............................. Tuổi vào viện ............................... 
- Con thứ  Tuổi thai: .......... tuần, ngày đầu kỳ kinh cuối cùng ...................... 
- Họ và tên mẹ: ...................................... . Tuổi ....... .Nghề nghiệp .................... 
- Địa chỉ ........................................................................................................... 
- Ngày vào viện: ............................................................................................... 
2. Quá trình bệnh lý 
- Lý do vào viện. .............................................................................................. 
- Chẩn đoán ...................................................................................................... 
- Cách đẻ: Đẻ thường  Đẻ chỉ huy  Mổ lấy thai  Đẻ khác  
- Thời gian chuyển dạ:....................giờ.......................phút 
- Ngạt thai: Có  Không  
- Mẹ bị sản giật: Có  Không  
- Mẹ bị sốt: Có  Không  
- Mẹ có bệnh trong thời kỳ mang thai. .............................................................. 
- Cân nặng sơ sinh..............................gam, cân nặng vào 
viện.............................gam 
- Tuổi xuất hiện vàng da 
 72 giờ  
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
77 
- Tuổi bắt đầu chiếu đèn điều trị vàng da tăng Bilirubil tự do 
 72 giờ  
- Triệu chứng lâm sàng 
Triệu chứng lâm sàng B.Đ. đ.trị sau 24 h sau 48 h sau 72h 
Màu sắc da (vùng vàng da) 
Tinh thần 
Phản xạ bú 
Trương lực cơ 
- Bệnh kèm theo 
+ Viêm phổi Có  Không  
+ Viêm rốn Có  Không  
+ Viêm da Có  Không  
+ Tiêu chảy Có  Không  
+ Bướu huyết thanh Có  Không  
+ Bệnh khác Có  Không  
- Xét nghiệm 
+ Bạch cầu: ..................................  109/l 
+ Hồng cầu: ...................................  1012/l 
+ Hb: ............................................. g/l 
+ Hct: ............................................ % 
+ Prôtein TP .................................. g/l 
+ Albumin: .................................... g/l 
- Nhóm máu: Mẹ: ABO:........Rh  Con: ABO:....... Rh  
 Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên  
78 
- Test coombs: Dương tính  Âm tính  
- Định lượng nồng độ bilirubin máu (µmol) 
Bilirubin BĐ đ.trị sau 24 h sau 48 h sau 72 h 
Toàn phần 
Trực tiếp 
Gián tiếp (tự do) 
3. Điều trị 
- Loại đèn chiếu:...............................Từ ngày............................đến 
ngày....................... 
- Chế độ ăn: Sữa mẹ  Sữa bột  Hỗn hợp  
- Truyền dịch Có  Không  
- Truyền Albumin Có  Không  
- Truyền máu Có  Không  
- Điều trị khác: 
 .......................................................................................................................... 
 .......................................................................................................................... 
 .......................................................................................................................... 
 .......................................................................................................................... 
4. Tác dụng phụ 
 Mẩn đỏ  Sốt  Mất nước  Tiêu chảy  Khác  
5. Kết quả điều trị 
 Khỏi  Thay máu  Chuyển tuyến  Tử vong, xin về  
 Ngày.............tháng..........năm 2009 
 Ngƣời điều tra 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 _sinh_bang_lieu_phap_anh_sang_tai_khoa_nhi_benh_vien_da_khoa_trung_uo_.pdf _sinh_bang_lieu_phap_anh_sang_tai_khoa_nhi_benh_vien_da_khoa_trung_uo_.pdf