LỜI MỞ ĐẦU
“Hiền tài là nguyên khí của quốc gia” chính vì vậy mà đầu tư phát triển giáo dục luôn được ưu tiên phát triển hàng đầu trong chính sách đầu tư phát triển của mỗi quốc gia, dù là nước phát triển hay đang phát triển. Tầm quan trọng của việc đầu tư phát triển giáo dục được thể hiện rất rõ ở những nước đang phát triển như Việt Nam . Đầu tư phát triển giáo dục luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân. Bởi đất nước muốn vươn lên sánh vai với các cường quốc năm châu thì trước hết phải có những con người có tri thức, có hiểu biết và nắm bắt được khoa học công nghệ, đặc biệt là trong điều kiện đất nước hội nhập toàn cầu như hiện nay.
Nhận thức được tầm quan trọng của sự nghiệp giáo dục và đào tạo nên Tỉnh uỷ Phú Thọ, các cấp lãnh đạo tỉnh Phú Thọ và toàn thể nhân dân tỉnh Phú Thọ đã thực hiện nhiều chủ chương, nghị quyết để đầu tư phát triển giáo dục như: chương trình kiên cố hoá trường lớp học và nhà công vụ cho giáo viên, chương trình phổ cập các bậc học: mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông ,nghị quyết 33/2002/NQ-HĐND-KXV về tăng cường cơ sở vật chất trường học Dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình của các cấp lãnh đạo tỉnh nên các chủ chương, nghị quyết đưa ra đều được thực hiện nghiêm túc và đem lại hiệu quả cao, góp phần thúc đẩy sự nghiệp giáo dục hoá của tỉnh Phú Thọ nói riêng và toàn xã hội nói chung.
Bản thân em cũng nhận thức được vai trò to lớn của đầu tư phát triển giáo dục nên với nhiệm vụ của một sinh viên Kinh tế đầu tư và một người con của quê hương đất tổ Phú Thọ, em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài chuyên đề thực tập của mình là: “Đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ”.
Chuyên đề thực tập của em tuy đã hoàn thành nhưng có thể chưa hoàn thiện và còn nhiều sai xót vì vậy em rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của cô giáo hướng dẫn, các thầy – cô trong khoa và các bạn sinh viên để chuyên đề thực tập của em được hoàn thiện hơn, hiệu quả hơn và đem lại những kiến thức thực tế, hữu ích về chủ chương, kế hoạch và quá trình triển khai thực hiện đầu tư cho các bạn sinh viênCHƯƠNG I
THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TỈNH PHÚ THỌ
CHƯƠNG II
ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TỈNH PHÚ THỌ
64 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2760 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để thực hiện các mục tiêu chiến lược trong quy hoạch và các mục tiêu cụ thể của kế ho7.4 Đảm bảo sự điều hành thống nhất, hiệu quả vai trò quản lý của các cấp chính quyền, nhất là chính quyền cấp xã trong tổ chức thực hiện quy hoạch và kế hoạch.
Về sử dụng thiết kế mẫu: Sử dụng theo đúng tiêu chuẩn, quy phạm xây dựng trên cơ sở các mẫu thiết kế do Bộ xây dựng ban hành; đủ các loại phòng học theo danh mục cần phải đầu tư; sử dụng các loại vật tư, vật liệu (đủ tiêu chuẩn) sẵn có tại địa bàn; mức vốn đầu tư tiết kiệm, phù hợp với suất đầu tư đã được quy định. Quy định tất cả các công trình được đầu tư phải sử dụng thiết kế mẫu. Đối với các trường, do điều kiện khách quan không sủ dụng được thiết kế mẫu thì phương án thiết kế phải đảm bảo đủ tiêu chuẩn về kích thước, quy phạm xây dựng, tiết kiệm. Kiểm tra, rà soát điều chỉnh và ban hành các mẫu thiết kế nhà lớp học, nhà công vụ giáo viên, nhà điều hành, nhà học bộ môn để áp dụng phù hợp với các ngành học, cấp học và các vùng miền trên địa bàn tỉnh, đặc biệt đối với các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
2.2.3. Đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền và nâng cao chất lượng môi trường đầu tư nói chung – môi trường đầu tư vào ngành giáo dục nói riêng.
Công tác thông tin, giáo dục, tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên ngành giáo dục và đào tạo, các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân nhằm tạo sự đồng thuận, tích cực tham gia các hoạt động xã hội hoá giáo dục. Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế càng cần phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến thế giới. Mở rộng hợp tác đào tạo đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước. Quán triệt và nâng cao nhận thức trong các cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể và toàn dân về vị trí, vai trò và định hướng phát triển giáo dục trong sự nghiệp CNH, HĐH.
Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng để không ngừng tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, chính sách, định hướng về phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo của địa phương, nhằm tranh thủ sự ủng hộ và đầu tư của toàn xã hội, các tổ chức trong và ngoài nước cho giáo dục.
Công khai hoá quy hoạch, kế hoạch, các hoạt động giáo dục theo chủ trương của các tổ chức Đảng, Chính quyền các cấp, phối hợp với tổ chức đoàn thể nhằm phát huy vai trò xã hội hoá giáo dục: Gắn việc thực hiện quy hoạch phát triển giáo dục, thực hiện mục tiêu phổ cập với các cuộc vận động ''Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", phong trào ''Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại", phong trào khuyến học, khuyến tài. Đồng thời thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục bằng việc: Quy hoạch hợp lý mạng lưới trường lớp ở các vùng có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, trong đó tăng các điểm trường về tận thôn, bản một sách hợp lý nhằm rút ngắn khoảng cách đến trường của trẻ. Ở những địa bàn khó khăn, mật độ dân cư thưa thớt Nhà nước hỗ trợ ngân sách xây dựng trường, lớp bán trú dân nuôi, xây dựng trường dân tộc nội trú, mở các lớp nhô trung học cơ sở và trung học phổ thông nhằm nâng cao tỷ lệ huy động trẻ trong độ tuổi được đến trường. Thành lập các trường trung cấp chuyên nghiệp tư thục ở địa bàn có nhu cầu để đào nghề tại chỗ cho người lao động, thực hiện phổ cập giáo dục trung học và mục tiêu phân luồng học sinh THCS và THPT (tuyển đầu vào gồm học sinh tốt nghiệp THCS). Đầu tư cơ sở vật chất -kỹ thuật trường học cho các đơn vị giáo dục vùng khó khăn, đảm bảo đủ phòng học, phòng chức năng, phòng bộ môn, sân chơi bãi tập nhà ở giáo viên và các thiết bị dạy học, thiết bị sinh hoạt văn hoá, văn nghệ, thể dục thể thao nhằm nâng cao đời sống tinh thần cho đội ngũ cán bộ giáo viên, đồng thời tạo điều kiện để trường trở thành trung tâm văn hoá ở thôn, bản, khu dân cư và nơi hấp dẫn thu hút trẻ đến trường. Có chính sách đãi ngộ xứng đáng nhằm thu hút cán bộ giáo viên các địa phương khác tình nguyện đến công tác vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (như phụ cấp thu hút, cấp đất làm nhà, cấp phương tiện đi lại, được học tập, bồi dưỡng, được nghỉ ngơi, chữa bệnh...). Thực hiện phương châm Nhà nước hỗ trợ một phần, cha mẹ học sinh, chính quyền địa phương có trách nhiệm đóng góp thêm kinh phí, nhằm góp phần huy động học sinh vùng dân tộc thiểu số, vùng khó khăn đến học các lớp bán trú dân nuôi. Tăng chỉ tiêu tuyển sinh vào các trường dân tộc nội trú. Có kế hoạch lâu dài, cụ thể về việc đào tạo học sinh các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn ở các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học trong tỉnh và trên toàn quốc theo hình thức cử tuyển nhằm tạo nguồn nhân lực tại chỗ cho các địa phương; tăng tỷ lệ học sinh bán trú dân nuôi ở các vùng dân tộc, vùng khó khăn và có chính sách hỗ trợ đào tạo. Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Ðặc biệt chú ý đến con thương binh, liệt sĩ, gia đình có công với nước, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và học sinh khuyết tật thông qua phát triển các loại quỹ khuyến học, khuyến tài trong các tổ chức xã hội, trong các cộng đồng dân cư.
Tổ chức giáo dục truyền thông cho cha mẹ học sinh và cộng đồng về hệ thống luật pháp nói chung và Luật Giáo dục, Luật Chăm sóc và bảo vệ trẻ em, Công ước quốc tế về quyền trẻ em... nói riêng.
Từ việc đẩy mạnh công tác thông tin, giáo dục , tuyên truyền cho người dân mà tạo ra được hiệu ứng tích cực cho việc cải thiện môi trường đầu tư cho giáo dục vì mọi người dân và các tổ chức đoàn thể nhận thấy được tầm quan trọng của giáo dục-đào tạo.
Môi trường đầu tư tốt là điều kiện cần thiết để nâng cao hiệu quả đầu tư và thu hút vốn đầu tư. Môi trường đầu tư bao gồm:cơ sở hạ tầng và hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách vĩ mô. Phú Thọ là tỉnh miền núi, kinh tế còn nhiều khó khăn vì vậy mà việc nâng cao cơ sở hạ tầng là vấn đề đặc biệt quan trọng khi cải thiện môi trường đầu tư. Bên cạnh đó phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống Luật pháp, tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động đầu tư vừa chặt chẽ nhưng lại không kém phần thông thoáng, lành mạnh để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài tỉnh cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Tỉnh phải triển khai và thực hiện đúng các chủ chương , chính sách và hệ thống pháp luật của Đảng và Nhà nước, nhất là luật Đầu Tư và Luật Giáo dục mới được ban hành năm 2005. Trong những năm gần đây với lợi thế là quê hương đất tổ tỉnh Phú Thọ đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước vì thế mà việc cải thiện môi trường đầu tư để thu hút các nhà đầu tư vào tỉnh cần được chú trọng hơn nữa.
Để thu hút vốn đầu tư phát triển sự nghiệp giáo dục, các cơ sở giáo dục cần xây dựng kế hoạch phát triển đơn vị thông qua các đề án khả thi, nhằm định hướng một cách rõ ràng mục tiêu phấn đấu của đơn vị trong từng giai đoạn. Xúc tiến, tìm nguồn vốn đầu tư cho giáo dục thông qua công tác tuyên truyền, kêu gọi,tiếp xúc với các doanh nghiệp, các tổ chức trong và ngoài nước.
Huy động các nguồn vốn thông qua tổ chức mua trái phiếu, công trái, xây dựng các loại quỹ tín dụng, quỹ phát triển dành riêng cho giáo dục nhằm thu hút các nguồn vốn tiềm tàng trong nhân dân; có cơ chế, chính sách vay vốn với lãi suất ưu đãi nhằm khuyến khích, động viên nhà trường, nhà đầu tư, các doanh nghiệp trong đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học.
Phát triển mạng lưới ngân hàng và hệ thống tài chính; nghiên cứu xây dựng thị trường chứng khoán theo các nguyên tắc hiện đại, nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, tài chính và có điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài. Tăng đầu tư ngân sách Nhà nước cho giáo dục.
Cần phân cấp nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật trường học. Các trường, cơ sở giáo dục vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc, vùng miền núi sẽ được Nhà nước hỗ trợ ngân sách xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học (thông qua các dự án, chương trình mục tiêu quốc gia...). Các trường, cơ sở giáo dục vùng thuận lợi, thị trấn, thị xã, thành phố sẽ huy động các nguồn lực địa phương, sự đóng góp của phụ huynh học sinh, các nhà đầu tư và của xã hội theo tinh thần xã hội hoá giáo dục để xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật trường học. Thực hiện có hiệu quả Chương trình KCH trường học, lớp; lồng ghép với các chương trình khác để xoá phòng học tạm, xây dựng các phòng học theo hướng kiên cố hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá.
2.2.4.Vận động các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, tổ chức chính trị-xã hội và các tầng lớp nhân dân ủng hộ, giúp đỡ vật tư, tiền vốn đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị trường học.
Trong thời kỳ mở cửa hội nhập như hiện nay thì tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo lại càng được khẳng định. Đối với các doanh nghiệp thì vấn đề nhân lực, đặc biệt là đội ngũ lao động có trình độ tay nghề và chuyên môn nghiệp vụ cao luôn được quan tâm. Vì vậy mà việc vận động các tổ chức kinh tế, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị xã hội tham gia ủng hộ, đóng góp cho giáo dục không phải là vấn đề khó khăn đối với công tác này. Trong 5 năm trở lại đây sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp đã góp phần tác động tích cực đến sự phát triển giáo dục của tỉnh, nhất là việc đóng góp vốn để đầu tư xây dựng trường, lớp học và mua sắm trang thiết bị giảng dạy cho đội ngũ giáo viên.
Công tác huy động vốn từ các tổ chức này được thực hiện dưới các hình thức khác nhau như: vận động mua trái phiếu giáo dục, tham gia các quỹ khuyến học của tỉnh, địa phương,…tổ chức tốt công tác thông tin, tuyên truyền, vận động để mọi người, mọi tầng lớp nhân dân hiểu đúng về xã hội hóa giáo dục, thấy được vai trò, tầm quan trọng và tính cấp thiết của công tác này. Tăng cường khai thác và phát huy sức mạnh của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc tuyên truyền sâu rộng các chủ trương, chính sách, các nghị quyết, văn bản của Đảng, Chính phủ, các bộ, ngành và chính quyền các cấp có liên quan đến xã hội hóa giáo dục. Biến nhận thức của người dân thành hành động tích cực trong công tác công tác xã hội hóa giáo dục. Tăng cường trao đổi thông tin và giao lưu, học hỏi kinh nghiệm các địa phương có nhiều thành công trong việc tổ chức công tác xã hội hóa giáo dục để vận dụng vào thực tiễn của Phú Thọ. Với việc Việt Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, ngành giáo dục, đào tạo cả nước nói chung và ở Phú Thọ nói riêng, cần xây dựng cho mình một lộ trình, với những cơ chế thích hợp để xã hội hóa giáo dục một cách phù hợp trong cơ chế thị trường, như một số nước phát triển trong Tổ chức
Thương mại thế giới đang áp dụng. Điều này sẽ đẩy nhanh tiến độ xã hội hóa giáo dục. Mở rộng các hình thức xã hội hóa giáo dục để mọi người dân có thể đóng góp sức người, sức của, sức sáng tạo, vốn là điểm mạnh của người dân Phú Thọ trên mọi miền đất nước, nhưng phải có chính sách miễn giảm và ưu tiên nhiều hơn nữa đối với các đối tượng chính sách, người có công với cách mạng, người nghèo và các khu vực kinh tế chậm phát triển. Đổi mới cơ chế phân cấp, quản lý và sử dụng ngân sách dành cho giáo dục. Tăng cường phân cấp quản lý, đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện xã hội hóa giáo dục ở các địa phương và các cơ sở giáo dục.
2.2.5. Thực hiện phổ cập các bậc học trong toàn tỉnh.
Các cấp lãnh đạo tỉnh Phú Thọ đã đề ra nhiều biện pháp hiệu quả để đạt mục tiêu phổ cập các bậc học vì vậy mà năm 2003 tỉnh đã phổ cập được bậc tiểu học và năm 2005 phổ cập bậc trung học cơ sở. Mục tiêu để phổ cập bậc trung học phổ thông của tỉnh là đến năm 2010. Do đó các giải pháp đưa ra chỉ tập trung để đạt được mục tiêu phổ cập bậc trung học phổ thông, bao gồm các giải pháp sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền; sự phối hợp của các ngành, đoàn thể trong việc thực hiện phổ cập bậc trung học; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức cuả toàn xã hội về phổ cập bậc trung học. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức cuả toàn xã hội để thực hiện nghị quyết số 08-NQ/TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; Nghị quyết số 90/2006/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về phổ cập bậc trung học tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015; tuyên truyền sâu rộng tới các tầng lớp nhân dân về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng, mục tiêu, nhiệm vụ công tác phổ cập bậc trung học nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội ở các địa phương và thực sự mang lại lợi ích cho mỗi gia đình và toàn xã hội. Các cấp uỷ Đảng, chính quyền tập trung quán triệt; xây dựng chương trình,kế hoạch hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ-TU của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh; Nghị quyết số 90/2006/NQ-HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh, xác định rõ mục tiêu, giải pháp thực hiện trên địa bàn; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và coi nhiệm vụ phổ cập bậc trung học là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong chương trình phát triển kinh tế-xã hội của địa phương.
Kiện toàn Ban chỉ đạo công tác phổ cập bậc trung học của tỉnh và Ban chỉ đạo công tác phổ cập bậc trung học cấp huyện, cấp xã; phân công nhiệm vụ các thành viên; xây dựng kế hoạch phổ cập bậc trung học cuả từng địa phương để thực hiện Đề án phổ cập bậc trung học tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2008-2010 và định hướng đến năm 2015.
Kiện toàn tổ chức đội ngũ làm công tác phổ cập bậc trung học. Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Lao động-thương binh và xã hội: thành lập Ban điều hành công tác phổ cập bậc trung học để triển khai thực hiện các nhiệm vụ phổ cập bậc trung học theo yêu cầu của Ban chỉ đạo công tác phổ cập bậc trung học của tỉnh. Đối với các cơ sở giáo dục, dạy nghề: các trường trung học cơ sở, trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp- hướng nghiệp, cơ sở dạy nghề bố trí cán bộ theo dõi, thực hiện nhiệm vụ phổ cập bậc trung học của đơn vị. Tuyển dụng giáo viên cho các cơ sở giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ công tác phổ cập bậc trung học như sau:
+ Năm học 2008-2009: tuyển dụng 270 cán bộ, công chức, viên chức (trong đó có 219 giáo viên dạy văn hoá cho các trường trung học phổ thông, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp-hướng nghiệp).
+ Năm học 2009-2010: tuyển dụng bổ sung 178 giáo viên.
+ Năm học 2010-2011: tuyển bổ sung 160 giáo viên.
Nâng cao chất lượng giáo dục ở các cấp học: Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh tiểu học, trung học cơ sở theo yêu cầu chương trình giáo dục phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đầu vào cấp trung học phổ thông và đạt chuẩn khi học ở trung học phổ thông, góp phần nâng cao chất lượng các kì thi tốt nghiệp trung học phổ thông hàng năm của tỉnh đạt từ 85% trở lên để thực hiện tiêu chuẩn phổ cập. Phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của giáo viên trong đổi mới phương pháp giảng dạy để nâng cao chất lượng giáo dục. Bồi dưỡng, giáo dục thái độ tích cực, tinh thần chủ động, sáng tạo, phấn đấu có kết quả cao trong học tập của học sinh theo yêu cầu: dạy thật, học thật, đấnh giá thật và chất lượng thật.
Xây dựng chính sách đào tạo nghề, phân luồng học sinh sau tốt nghiệp trung học cơ sở để thực hiện mục tiêu phổ cập bậc trung học phổ thông. Phát triển mạng lưới trường, lớp và tổ chức mạng lưới phổ cập để thực hiện mục tiêu 80% trở lên số học sinh tốt nghiệp trụng học cơ sở và trung học phổ thông, bổ túc trung học phổ thông; từ 10 đến 15% số học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở vào học trung cấp chuyên nghiệp và học nghề. Tiếp tục củng cố, mở rộng mạng lưới, quy mô trường lớp; tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, trang bị cho các trường, cơ sở dạy nghề, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm kỹ thuật tổng hợp- hướng nghiệp bảo đảm đủ điều kiện để tổ chức dạy nghề.
Củng cố, duy trì và từng bước nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở: Tiếp tục duy trì, củng cố những kết quả phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi đã đạt được, hàng năm tiếp tục duy trì huy động 100% số trẻ em 6 tuổi ra lớp 1; duy trì 100% số xã phường, thị trấn; 100% số huyện, thị thành đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học đúng độ tuổi. Phấn đấu nâng cao tỷ lệ huy động vào lớp 6, nâng cao tỷ lệ thanh thiếu niên trong độ tuổi từ 15 đến 18 tốt nghiệp trung học cơ sở; duy trì 1005 xã, phường thị trấn, 100% số huyện, thành thị đạt chuẩn giáo dục trung học sơ sở để tạo điều kiện cho công tác phổ cập bậc trung học đạt kết quả cao.
Xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia: Để thực hiện mục tiêu tỉnh Phú Thọ đạt chuẩn phổ cập bậc trung học vào năm 2015, phải đồng thời thực hiện mục tiêu huy động các đối tượng phổ cập tham gia các loại hình học tập và phải đẩy mạnh công tác xây dựng; các trường hcọ đạt chuẩn quốc gia để sau năm 2010 phấn đấu có các huyện, thị thành đạt chuẩn quốc gia về phổ cập bậc trung học.
Đầu tư nguồn lực triển khai thực hiện công tác phổ cập bậc trung học giai đoạn 2008-2010, tổng dự toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ phổ cập bậc trung học giai đoạn 2008-2010 là 451 tỷ đồng.
Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục: Tăng cường công tác xã hội hoá giáo dục, thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các hoạt động xã hội hoá công tác phổ cập bậc trung học; tập trung huy động sức mạnh tổng hợp của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế và các lực lượng xã hội phối hợp với ngành giáo dục tham gia đóng góp sức người, sức của cho nhiệm vụ phổ cập bậc trung học và tích cực xây dựng xã hội học tập trên địa bàn tỉnh.
Tổ chức kiểm tra đánh giá thực hiện công tác phổ cập và triển khai thực hiện phổ cập bậc trung học. Tăng cường công tác hướng dẫn nghiệp vụ công tác phổ cập; thường xuyên kiểm tra, đôn đốc các cấp, các ngành thực hiện Đề án phổ cập bậc trung học tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015 và đánh giá kết quả thực hiện hàng năm.
2.2.6. Đẩy mạnh công tác xã hội hoá giáo dục.
Xã hội hóa giáo dục (XHHGD) là quá trình nâng cao vai trò định hướng, chỉ đạo, quản lý và đầu tư ngày càng tăng của Nhà nước cho quá trình phát triển sự nghiệp giáo dục. Nhà nước và nhân dân cùng làm giáo dục, nhưng trong đó Nhà nước giữ vai trò chủ đạo để huy động sự đóng góp về trí lực, nhân lực, vật lực, tài lực của xã hội phát triển sự nghiệp giáo dục.
XHHGD đã góp phần tạo ra được phong trào học tập tương đối sâu rộng trong nhân dân bước đầu hình thành xã hội hóa học tập; tăng cường trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, doanh nghiệp đối với sự nghiệp giáo dục; nâng cao ý thức trách nhiệm và sự tham gia của toàn dân đối với giáo dục nhằm phục vụ tốt hơn việc học tập của nhân dân.
XHHGD là vấn đề có nội dung lớn, phức tạp và nhạy cảm, chưa được chú ý nghiên cứu một cách đầy đủ, thỏa đáng. Các cơ sở giáo dục và đào tạo của nước ta nói chung và của tỉnh Phú Thọ nói riêng được hình thành khác nhau, điều kiện mỗi địa phương khác nhau, cho nên khó có mô hình chung cho các loại hình nhà trường ở mọi địa phương. Nhiều vấn đề liên quan đội ngũ nhà giáo, liên quan tài sản nhà trường là những vấn đề nhạy cảm cần có thời gian và cơ sở thực tiễn mới giải quyết được.
Tuyên truyền sâu rộng chủ trương, chính sách xã hội hoá giáo dục để các cấp Chính quyền, nhân dân nhận thức đúng, đầy đủ; thực hiện có hiệu quả chủ trương xã hội hoá giáo dục theo Nghị quyết số 05/2005/NQ-CP của Chính phủ, Để án số 38/ĐA-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh và Nghị quyết số 52/2006/NQ- HĐND của Hội đồng nhân dân tỉnh về xã hội hóa giáo dục; xây dựng mạng lưới thu thập, trang webs xã hội hoá giáo dục... để cung cấp thông tin về giáo dục - đào tạo cho mọi tổ chức và cá nhân quan tâm.
Đơn giản các thủ tục hành chính trong việc thành lập các cơ sở ngoài công lập trên cơ sở quy định chặt chẽ, hướng dẫn chi tiết điều kiện thành lập, điều kiện hành nghề và chế độ hậu kiểm.
Có chính sách ưu đãi, cơ chế phù hợp trong việc dành quỹ đất, cơ sở vật chất; ưu tiên khuyến khích tư nhân, các tổ chức tập thể, đơn vị đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục ngoài công lập; đảm bảo đủ diện tích cho trường theo đúng quy định số 682/BXD-CSXD ngày 04/12/1996 của Bộ trưởng Bộ xây dựng. Thực hiện việc miễn tiền sử dụng đất, thuê đất đối với các cơ sở giáo dục ngoài công lập hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận; công khai, đơn giản hoá các thủ tục giao đất, cho thuê đất (theo Nghị định số 51/1999/NĐ-CP ngày 08 tháng7 năm 1999 của Chính phủ và Quyết định số 44/2004/QĐ-UB ngày 30 tháng 8 năm 2004 của UBND tỉnh về việc Quy định khuyến khích và ưu đãi đầu tư áp dụng trong nước và tại tỉnh).
Thực hiện chính sách bình đẳng giữa khu vực công lập và ngoài công lập về thi đua khen thưởng, về công nhận các danh hiệu nhà nước, về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tiếp nhận, thuyên chuyển cán bộ viên chức từ khu vực công lập sang ngoài công lập và ngược lại. Từng bước xoá bỏ khái niệm ''biên chế' trong các cơ sở công lập, chuyển dần sang chế độ ''hợp đồng'' lao động. Đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các phương thức học tập và chương trình, nhằm tạo thuận lợi cho mọi cá nhân tiếp nhận giáo dục - đào tạo ở mọi địa điểm và thời gian thích hợp.
Có chính sách ưu đãi về thuế và chính sách hỗ trợ về vay vốn với lãi suất ưu đãi để khuyến khích các tổ chức tập thể, cá nhân đầu tư mở trường ngoài công lập; các cơ sở công lập hợp tác, liên kết với địa phương, doanh nghiệp, cá nhân trong việc xây dựng cơ sở vật chất; các cơ sở ngoài công lập huy động vốn để đầu tư phát triển cơ sở vật chất và hoàn trả theo thoả thuận.
Khuyến khích các trường trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng và đại học liên kết đào tạo với các cơ sở đào tạo có chất lượng trong nước và thế giới
Những năm tới, để góp phần đẩy mạnh XHHGD có hiệu quả, trước hết, cần đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền trong toàn xã hội về chủ trương, nội dung XHHGD của Ðảng và Nhà nước. Công tác này cần làm thường xuyên, sinh động, đa dạng và có hiệu quả trên các phương tiện thông tin đại chúng, trong các buổi sinh hoạt chi bộ, cơ quan, xí nghiệp, sinh hoạt đoàn thể, thôn xóm và tổ dân phố, v.v. từ đó tạo nên sự đồng thuận sâu sắc và ý thức trách nhiệm của mỗi người dân và cộng đồng xã hội trong việc chăm lo phát triển sự nghiệp giáo dục. Trong đó, cần chú ý đúng mức công tác vận động và tuyên truyền ở các doanh nghiệp và nhà hảo tâm. Triển khai công tác xã hội hóa giáo dục thông qua việc chuyển đổi một số cơ sở giáo dục từ trong công lập ra ngoài công lập phải gắn với việc tạo điều kiện để các cơ sở giáo dục ngoài công lập tạo thương hiệu cho riêng mình. Trong quá trình chuyển đổi phải chú ý đến vấn đề giải quyết quyền lợi chính đáng của các cán bộ, giáo viên thuộc diện công chức trước đây và quyền lợi của các em học sinh ở các cơ sở giáo dục này.
Thứ hai, đẩy mạnh công tác giáo dục hướng nghiệp trong học sinh trung học và trong xã hội. Nắm vững học lực, nguyện vọng, sở trường và hoàn cảnh của mỗi học sinh, cũng như nhu cầu lao động của xã hội, mà giáo dục hướng nghiệp.
Cần tiếp tục mở rộng mô hình trường dạy nghề trong doanh nghiệp hoặc gắn với doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề gắn với các khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng kinh tế động lực. Ðây là mô hình dạy nghề thiết thực cho việc cung cấp nhân lực theo yêu cầu của doanh nghiệp, đồng thời rất có tác dụng hướng nghiệp và phân luồng học sinh sau THCS và sau THPT.
Thứ ba, tiếp tục đổi mới công tác quản lý, giao quyền và trách nhiệm cho các nhà trường trong việc tự chủ tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự và hoạt động giáo dục - đào tạo. Thực tiễn cho thấy, nhiều trường học được giao quyền tự chủ về tài chính, tổ chức bộ máy, nhân sự và các hoạt động của mình đều phát huy được sự năng động, sáng tạo trong quản lý, điều hành, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, uy tín và thương hiệu của nhà trường được khẳng định trong xã hội. Nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng giáo dục các cấp để giúp cho các cấp ủy, chính quyền về quy hoạch, kế hoạch mở rộng và phát triển xã hội hóa giáo dục. Phát huy vai trò và hiệu quả hoạt động của một số tổ chức xã hội, nhất là Hội khuyến học, Ban đại diện cha mẹ học sinh...
Thứ tư, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công tác XHHGD. Trên nền tảng phát triển kinh tế, tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống nhằm làm rõ đặc điểm và nội hàm XHHGD trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chú trọng nghiên cứu và phổ biến kinh nghiệm hay của những nước có nền giáo dục phát triển và tương đồng với hoàn cảnh của nước ta, đồng thời thường xuyên tiến hành tổng kết thực tế những địa phương, đơn vị và nhà trường làm tốt công tác này. Ngành giáo dục cần có ban chỉ đạo và bộ phận thường trực chuyên trách nghiên cứu, khảo sát, tổng kết thực tiễn và tham mưu công tác XHHGD.
Thứ năm, tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, quản lý của Nhà nước đối với công tác XHHGD. Nền giáo dục nước ta là nền giáo dục XHCN, nền giáo dục của dân, do dân và vì dân. Các chủ trương, chính sách XHHGD liên quan trực tiếp và gián tiếp quyền và lợi ích của gần một triệu nhà giáo và hàng chục triệu học sinh, sinh viên - con em các tầng lớp nhân dân. Do đó, trong quá trình thực hiện XHHGD vừa cần tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, vừa bảo đảm sự quản lý thống nhất của chính quyền Nhà nước, giữ vững mục tiêu giáo dục và đào tạo. Tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, sự chỉ đạo, điều hành đồng bộ, quyết liệt của chính quyền và sự giám sát của Hội đồng nhân dân các cấp. Nâng cao vai trò chủ đạo, nòng cốt của ngành giáo dục và đào tạo Phú Thọ trong quá trình xã hội hóa giáo dục. Các cấp ủy, chính quyền, các ban ngành, đoàn thể, các tổ chức chính trị, xã hội phải coi việc đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Trên cơ sở vận dụng Luật Giáo dục, địa phương phải xây dựng kế hoạch, chương trình công tác xã hội hóa giáo dục ở ngành mình, cấp mình, địa phương mình. Phân định trách nhiệm của các ngành, các cấp trong việc đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục một cách rõ ràng và gắn với trách nhiệm của cá nhân người lãnh đạo.
2.2.7. Nhóm giải phápTăng cường đầu tư cho các vùng miền khó khăn.
Để đầu tư cho giáo dục phổ thông vùng dân tộc, miền núi như tỉnh Phú Thọ đạt hiệu quả và sớm đưa giáo dục của tỉnh hoà nhập vào giáo dục cả nước thì chúng ta cần tiến hành đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:
1. Cần dành thêm ngân sách cho các trường tiểu học và trung học, đặc biệt là các vùng và địa phương khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc, cần xây dựng công thức phân bổ ngân sách có tính chuyên biệt cho các vùng khó khăn này. Vì số học sinh trong một lớp ít song vẫn phải duy trì một đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất phục vụ dạy học như các trường có đông học sinh khác.
2. Có chính sách đầu tư (các địa phương chủ động) cụ thể xây dựng thêm các trường để đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục THCS, tăng số lượng học sinh phổ thông và hoạt động cả ngày tại trường, bước đầu tăng tỷ lệ các trường được xây dựng theo chuẩn quốc gia. Đặc biệt ở các vùng khó khăn cần quan tâm xây dựng trường kiên cố, bán kiên cố và thực hiện chính sách ưu đãi về đầu tư xây dựng các cơ sở giáo dục. Đẩy nhanh tốc độ chương trình kiên cố hoá trường học để trong thời gian ngắn những vùng khó khăn có đủ các điều kiện trường ra trường, lớp ra lớp.
3. Do đội ngũ giáo viên ở các vùng này yếu và thiếu về số lượng (có 12% trong số 362.627 giáo viên tiểu học trong cả nước là người dân tộc thiểu số), lại phải đảm đương một chương trình giáo dục phổ thông mới theo Nghị quyết 40 và 41 của Quốc hội nên có nhiều bất cập. Do đó phải có sự đầu tư đặc biệt, đó là dùng một khoản ngân sách lớn để bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ này theo kiểu cuốn chiếu và riêng biệt để sau một thời gian ngắn đảm đương chương trình mới nâng cao chất lượng giáo dục ở vùng dân tộc.
4. Muốn cho chất lượng học sinh được nâng cao, sớm tiến kịp vùng thuận lợi thì song song với việc đào tạo bồi dưỡng giáo viên chúng ta phải đầu tư nguồn tài chính để tăng cường và hiện đại hoá trang thiết bị phục vụ đổi mới chương trình, phương pháp giáo dục. Đầu tư một lần để xây dựng các thư viện và phòng thí nghiệm đồng bộ bởi những vùng này điều kiện tiếp cận, cập nhật thông tin phục vụ dạy học còn nhiều khó khăn.
5. Đầu tư cơ sở vật chất, đội ngũ, trang thiết bị, đổi mới chương trình của các trường cao đẳng sư phạm, trung học sư phạm ở các tỉnh miền núi để làm tốt nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng giáo viên địa phương theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá.
Tóm lại: Để đầu tư cho giáo dục hiệu quả cần triển khai đồng bộ nhiều hệ thống giải pháp. Trên đây chúng tôi chỉ nêu một số giải pháp cơ bản xem như là các “điểm nhấn” cho điều kiện thực tế hiện nay của giáo dục phổ thông vùng khó khăn, vùng dân tộc.
Trong điều kiện kinh tế của tỉnh còn khó khăn để đầu tư cho giáo dục có hiệu quả, Chính phủ cần có một lộ trình cụ thể việc chi phí cho từng ngành học, cấp học và cho từng vùng. Song trước mắt đối với các cấp học phổ thông có tính phổ cập và cải cách ở những huyện miền núi khó khăn, Chính phủ cần tập trung kinh phí đối với chương trình phổ cập, THPT và củng cố kết quả phổ cập giáo dục THCS, thực hiện kế hoạch quốc gia về giáo dục cho mọi người cũng như quản lý chặt chẽ các nguồn kinh phí đầu tư ở khu vực này, đồng thời cần xây dựng và khuyến khích sự tham gia của cơ sở và nhân dân, thể hiện sự lựa chọn của nhân dân qua sự phân bổ ngân sách cho giáo dục phản ánh đúng nguyện vọng của họ. Bên cạnh đó để cơ chế hoạt động có hiệu quả cần nghiên cứu xây dựng hệ thống thông tin quản lý tài chính giáo dục hữu hiệu.
2.2.8. Nhóm giải pháp để phát triển giáo dục tỉnh Phú Thọ trong 5 năm tiếp theo
Một là, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của nhân dân, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, xây dựng xã hội học tập.
Hai là, nâng cao rõ rệt chất lượng và hiệu quả giáo dục. Trong đó, phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ khu vực và thế giới (chuẩn kiến thức, kỹ năng, các yêu cầu về đạo đức; trường sở, SGK và giáo trình....). Xây dựng danh mục các ngành nghề và chương trình phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Đổi mới chương trình giáo dục phổ thông. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Thực hiện chương trình kiên cố hóa trường học, lớp học. Từ 2005 triển khai hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục và công bố định kỳ kết quả kiểm định. Đổi mới mạnh mẽ phương pháp và nội dung đào tạo của các trường và khoa sư phạm; đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục ở tất cả các cấp học, bậc học đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ.Tăng đầu tư nhà nước cho giáo dục và đào tạo; ưu tiên các chương trình mục tiêu quốc gia, khắc phục tình trạng bình quân, dàn trải; đẩy mạnh việc thực hiện xã hội hóa giáo dục; đổi mới cơ chế tài chính trong giáo dục và đào tạo nhằm góp phần quan trọng nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô và bảo đảm công bằng trong giáo dục. Giáo dục trong thời kỳ hội nhập quốc tế càng cần phải bảo đảm phát triển bền vững, không ngừng nâng cao chất lượng, phát huy tối đa nội lực, giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước tiếp cận nền giáo dục tiên tiến thế giới. Mở rộng hợp tác đào tạo đa phương gắn với việc tăng cường công tác quản lý nhà nước.
Ba là, thực hiện tốt hơn công bằng xã hội, ưu tiên phát triển giáo dục vùng đồng bào dân tộc, vùng khó khăn và giáo dục cho trẻ em bị thiệt thòi. Nhà nước tập trung đầu tư cho các vùng khó khăn, vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số, từng bước giảm sự chênh lệch về phát triển giáo dục giữa các vùng, miền. Đặc biệt chú ý đến con thương binh, liệt sỹ, gia đình có công với nước, học sinh có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn và học sinh khuyết tật thông qua phát triển các loại quỹ khuyến học, khuyến tài trong các tổ chức xã hội, trong các cộng đồng dân cư.
Năm là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục. Phân cấp mạnh trong giáo dục. Cải tiến công tác quản lý, điều hành, lấy quản lý chất lượng làm nhiệm vụ trọng tâm. Rà soát, sửa đổi các quy định về đầu tư, quản lý... Đổi mới, tăng cường công tác thanh tra giáo dục, tập trung thanh tra chuyên môn, khắc phục những thiếu sót, sơ hở và bệnh thành tích trong khâu đánh giá, thi cử. Rà soát, bố trí, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục. Rà soát lại toàn bộ chương trình và sách giáo khoa phổ thông. Sớm khắc phục tình trạng quá tải, nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa khuyến khích đúng mức tính sáng tạo của người học; chuẩn bị kỹ việc xây dựng và triển khai thực hiện bộ chương trình giáo dục phổ thông mới theo hướng hiện đại, phù hợp và có hiệu quả. Đổi mới, hiện đại hóa chương trình giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp; tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học, khắc phục cơ bản lối truyền thụ một chiều. Phát triển quy mô hợp lý cả giáo dục đại trà và mũi nhọn, xây dựng xã hội học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho mọi người có thể học tập suốt đời; rà soát và bổ sung cơ chế, chính sách, tổ chức phát hiện, bồi dưỡng nhân tài ngay từ bậc học phổ thông. Tăng nhanh quy mô đào tạo công nhân và cán bộ kỹ thuật lành nghề ở lĩnh vực công nghệ cao, tiếp cận trình độ tiên tiến thế giới.
Sáu là, tăng cường nề nếp, kỷ cương và khắc phục những biểu hiện tiêu cực trong giáo dục, gồm: những tiêu cực trong dạy thêm học thêm; tiêu cực trong việc cấp phát, sử dụng văn bằng, chứng chỉ và đánh giá kết quả học tập không đúng thực chất.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỀ RA
1. Đề nghị Trung ương tăng cường hơn nữa đầu tư cho việc phát triển GD-ĐT các tỉnh miền núi, đặc biệt là đầu tư xây dựng cơ sở vật chất (CSVC) trường lớp, tạo điều kiện nhanh chóng tăng cường CSVC, các thiết bị dạy học. Có cơ chế, chính sách phù hợp, tạo điều kiện cho ngành GD-ĐT tiếp tục phát triển theo hướng chủ động, nhất là trong quản lý kinh phí, nhân sự.
Đổi mới chế độ chính sách đối với GD-ĐT, đặc biệt là các vùng còn khó khăn; đồng thời nên mở ra hướng chủ động cho địa phương trong việc giải quyết những chế độ, chính sách theo nhu cầu cần thiết ở từng nơi.
2. Đề nghị Bộ giáo dục đào tạo, Bộ kế hoạch và Đầu tư, Bộ tài chính xem xét, trình thủ tướng chính phủ ưu tiên tăng mức vốn bố trí cho các chương trình mục tiêu quốc gia giáo dục và đào tạo, chương trình kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ giáo viên giai đoạn tiếp theo cho các tỉnh nghèo, khó khăn như Phú Thọ trong kế hoạch hàng năm.
Cần có sự chỉ đạo thống nhất về mô hình tổ chức bộ máy các sở, các phòng giáo dục và định biên đội ngũ cán bộ, chuyên viên cho phù hợp để có đủ sức quản lý, chỉ đạo.
Cần đề xuất với Chính phủ có chế độ phụ cấp (hoặc trợ cấp) đối với ngành, tạo điều kiện thu hút giáo viên đến các vùng sâu, vùng xa; chế độ đối với giáo viên được cử đi học nâng cao (hiện nay, mỗi tỉnh có một chế độ riêng khác nhau); có chế độ phụ cấp cho cán bộ quản lý cấp sở, phòng (như phụ cấp ưu đãi đối với giáo viên).
Tăng cường hỗ trợ kinh phí cho thành phố trong việc đầu tư xây dựng cơ sở vật chất nhằm có điều kiện thực hiện được các mục tiêu và định hướng của ngành trong thời gian tới (thông qua các chương trình mục tiêu và các dự án), đặc biệt là xây dựng các trường trung học(THCS, THPT).
3. Đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh: Do khả năng huy động các nguồn lực đầu tư của tỉnh khó khăn, đề nghị Hội đồng nhân dân tỉnh xem xét cho phép điều chỉnh một số mục tiêu, chỉ tiêu đến năm 2010 như mục tiêu đã đề ra của tỉnh.
Cho phép kéo dài thời gian thực hiện một số mục tiêu đến sau năm 2010, bao gồm : nhà điều hành, phòng học bộ môn, phòng tin học , phòng học âm nhạc
Đề nghị cho điều chỉnh tỷ lệ huy động nguồn lực, cụ thể như sau:
+ Vốn hỗ trợ từ nhân sách Trung ương ( qua Bộ GD-ĐT ) 55-57%
+ Vốn chương trình mục tiêu, đầu tư tập trung, lồng ghép các chương trình, dự án 25-26%.
+ Tiết kiệm chi sự nghiệp giáo dục hàng năm ( từ ngân sách tỉnh ) 5%.
+ Vốn tài trợ, viện trợ…. từ 3-3,5%.
+ Vốn ngân sách huyện, xã và huy động khác 10-11%.
4. Đối với Ban chỉ đạo, Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh và Chính Phủ.
Đề nghị Chính Phủ cho phép bổ sung các công trình đủ tiêu chí như quy định tại Quyết định số 20/2008/QĐ-TTg của Chính Phủ theo hướng loại bỏ các công trình đã được đầu tư từ các nguồn vốn, chương trình dự án để bổ sung cho các công trình mới trên cơ sở không vượt tổng số phòng đã được chấp thuận.
Đề nghị Chính phủ xem xét tăng mức hỗ trợ từ nguồn trái phiếu chính phủ cho mỗi phòng học và công vụ giáo viên.
Đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh bố trí vốn hỗ trợ của tỉnh(theo tỷ lệ quy định) cho các công trình đã được triển khai đầu tư xây dựng năm 2008 theo chi phí xây dựng thực tế đã được phê duyệt.
Đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh tiếp tục tăng cường hơn nữa các nguồn lực đầu tư cho việc phát triển mạnh mẽ GD-ĐT tỉnh, tạo điều kiện cho ngành thực hiện chương trình xây dựng và phát triển GD-ĐT nguồn nhân lực tỉnh Phú Thọ đến năm 2010, nhằm “Phát huy nguồn lực trí tuệ, tập trung cho GD-ĐT nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa tỉnh Phú Thọ”.
Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trường học, đề nghị UBND tỉnh xem xét chấp thuận chủ trương đầu tư xây dựng mở rộng phát triển trường học theo đề nghị của các địa phương và đề xuất của ngành ở từng giai đoạn cụ thể; trên cơ sở đó, ngành và địa phương chủ động hơn trong việc lập các thủ tục chuẩn bị đẩu tư. Đối với các công trình đã hoàn thành thủ tục, đề nghị được triển khai thi công (có thể dưới hình thức được vay vốn đầu tư hoặc đơn vị thi công ứng vốn trước, thanh toán chậm). Ưu tiên dành quỹ đất trong quy hoạch phát triển thành phố, quy hoạch đô thị cho các trường và các cơ sở giáo dục đào tạo theo hướng đạt chuẩn quốc gia.
5. Đối với Uỷ Ban Nhân Dân, Ban chỉ đạo, Ban quản lý dự án các huyện và chủ đầu tư.
Đề nghị các huyện rút kinh nghiệm trong việc chỉ định thầu các công trình trái với quy định của Luật đấu thầu và thực hiện lưu trữ tốt hồ sơ, thủ tục đối với các công trình thực hiện đấu thầu.
Đề nghị duyệt và xây dựng bổ sung bếp, công trình vệ sinh, hệ thống điện nước sinh hoạt cho các nhà công vụ nhằm đáp ứng nhu cầu sử dụng cho giáo viên.
Đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân, Ban chỉ đạo và ban quản lý dự án các huyện, thành thị trong quá trình đầu tư xây dựng cần tăng cường công tác giám sát thi công đối với các nhà thầu để vừa đảm bảo tiến độ, vừa đảm bảo chất lượng và mỹ quan các công trình.
Đề nghị Uỷ Ban Nhân Dân các huyện khi phê duyệt thiết kế để triển khai xây dựng các công trình nhà lớp học cho các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở tại các khu trung tâm cần lựa chọn mẫu thiết kế phù hợp để gắn với mục tiêu xây dựng trường chuẩn. Tăng cường phối hợp chỉ đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển GD-ĐT địa phương theo kế hoạch phát triển KT-XH của tỉnh và định hướng của ngành. Phối hợp thực hiện tốt các chương trình, dự án được đầu tư trên địa bàn, đặc biệt là việc giải quyết đất đai xây dựng trường học và phát huy các nguồn lực địa phương tham gia xây dựng, tu bổ trường sở (cơ bản thực hiện theo phương thức 7-3, ngân sách Nhà nước đầu tư 70% - địa phương huy động 30%; phần huy động của địa phương tập trung giải quyết mặt bằng và các nhu cầu bức xúc về cải tạo, nâng cấp sửa chữa trường lớp...).
Để góp phần làm cho nền GD-ĐT của tỉnh phát huy hiệu quả đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội, tôi xin đề xuất một số ý kiến sau:
1. Tăng cường mối quan hệ chặt chẽ giữa các tổ chức GD với nhà trường và gia đình
Để công tác GD đạt hiệu quả cao cần phải có sự phối hợp đồng bộ giữa gia đình, nhà trường và xã hội. Hiện nay, "vũ khí" duy nhất kết nối nhà trường với gia đình là sổ liên lạc mà chỉ khi nào kết thúc học kỳ hoặc đi họp thì phụ huynh mới cầm được để xem kết quả học tập của con cái mình. Đều đó làm cho phụ huynh không kịp thời nắm bắt tình hình học tập của con em mình để có biện pháp uốn nắn. Nên chăng, Sở GD-ĐT cần xây dựng 1 trang web riêng của ngành với sự hợp tác chặt chẽ giữa các Phòng GD-ĐT và các trường phổ thông. Trang web này đăng tải các thông tin về GD của tỉnh; cập nhật thường xuyên kết quả học tập, các điểm thi, kiểm tra và các hoạt động khác của học sinh ở từng trường (có thể chia ra làm 11 khu vực ứng với 11 huyện - TP để dễ quản lý và truy cập) và nếu có điều kiện thì nối mạng internet tới tất cả các trường trong tỉnh. Có như thế thì phụ huynh học sinh mới nắm rõ được các hoạt động của con em mình ở trường như thế nào, kể cả các khoản đóng góp do nhà trường thu và cũng sẽ giúp cho sở hay phòng GD dễ dàng nắm bắt và quản lý tình hình hoạt động của từng trường do mình quản lý…
2. Giải quyết chế độ lương bổng, nghỉ hưu cho GV một cách hợp lý
Có thể nói, chế độ lương của giáo viên hiện nay là không thấp hơn so với một số ngành khác nhưng cũng không thật hợp lý vì nó chưa tương xứng với công sức của GV. Chính điều này đã tạo ra không ít tiêu cực trong ngành GD chẳng hạn nạn dạy thêm - học thêm, tình trạng chạy điểm… làm giảm uy tín cũng như chất lượng GD của ngành. Độ tuổi nghỉ hưu của GV được quy định là có thâm niên 30 năm. Hiện nay, cũng có khá nhiều GV đã cống hiến cho sự nghiệp GD trên 25 năm và chưa đủ 30 năm. Vì lý do sức khỏe hay vì lý do nào đó muốn nghỉ hưu nhưng vì chế độ lương hưu chưa hợp lý (phải công tác đủ 30 năm mới được hưởng 75% lương, còn nếu nghỉ sớm hơn thì sẽ được nhận trợ cấp 1 lần) nên họ vẫn "ráng" cầm cự thêm ít năm nữa để hưởng lương hưu hàng tháng. Chính sự "ráng" này cũng phần nào làm giảm đi nhiệt huyết của người GV đối với sự nghiệp giáo dục của mình. Để giải quyết vấn đề này, Sở GD-ĐT cần kết hợp với các cơ quan chức năng tạo điều kiện giúp đỡ, cải thiện và nâng cao đời sống cho GV bằng cách tăng thêm phụ cấp hàng tháng; giải quyết chế độ hưu trí thỏa đáng cho số GV đã cống hiến lâu năm muốn nghỉ nhưng chưa đủ tuổi về hưu.
3. Khuyến khích và tạo điều kiện cho GV tham gia nghiên cứu khoa học
Trong những năm qua, việc GV tham gia nghiên cứu khoa học để phục vụ cho sự nghiệp phát triển GD còn rất hạn chế, đặc biệt là đối với các GV ở các trường phổ thông. Có thể có nhiều nguyên nhân như ít có thời gian nghiên cứu, không có kinh phí… nhưng cái chính là giáo viên không có thói quen nghiên cứu khoa học. Có chăng thì cũng chỉ là hình thức viết các chuyên đề để báo cáo cho có lệ. Còn quy mô, tầm vóc và khả năng ứng dụng của các bài nghiên cứu đó thì cũng chưa được chú trọng và hiệu quả mang lại không cao. Sở GD-ĐT cần quan tâm khuyến khích GV tham gia nghiên cứu khoa học, chẳng hạn như thành lập các đề tài nghiên cứu GD (có thể giao cho các cụm trường hoặc các phòng GD-ĐT làm chủ đề tài tùy thuộc vào đặc điểm, điều kiện giáo dục cụ thể ở từng địa phương), tạo điều kiện về thời gian, vật chất và các chế độ khác cho GV tham gia nghiên cứu khoa học. Nếu làm tốt điều này thì chất xám trong mỗi GV sẽ phát huy để giúp tìm ra những phương pháp hay ứng dụng vào công tác GD một cách thiết thực và có hiệu quả cao.
4. Chú trọng đầu tư các trang thiết bị, phòng thí nghiệm và các tiết học ngoại khóa, đảm bảo việc học đi đôi với hành
Hiện nay, chương trình dạy học của chúng ta còn chú trọng khá nhiều đến khâu lý thuyết mà phần thực hành thì dường như còn quá ít. Chính vì thế mà khả năng ứng dụng các kiến thức đã học của học sinh vào thực tế còn bị hạn chế. Cũng vì vậy mà trong các cuộc thi Olympic quốc tế, học sinh chúng ta thường bị thua thiệt rất nhiều về kỹ năng thực hành mặc dù điểm lý thuyết của chúng ta rất cao. Để làm tốt việc "học" đi đôi với "hành", việc đầu tiên là phải đầu tư trang thiết bị hiện đại, xây dựng các phòng thí nghiệm, phòng bộ môn đạt chuẩn ngay tại các trường học để giúp các em có thể thực hành ngay những gì vừa học. Thêm nữa là tổ chức các tiết học ngoại khóa cho học sinh thâm nhập thực tế. Về điều này, Sở GD-ĐT nên tiến hành liên kết với các cơ quan, nhà máy, xí nghiệp… để tạo điều kiện cho học sinh đến tham quan và học tập.
5. Thường xuyên bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho GV
Các Sở GD, Phòng GD và nhà trường phổ thông tổ chức cho GV tham quan học tập các lớp dạy mẫu do các GV dạy giỏi và có kinh nghiệm đứng lớp để cho các GV khác tham khảo, bổ sung thêm kinh nghiệm cho mình. Đồng thời thường xuyên tổ chức các buổi thảo luận về sáng kiến, kinh nghiệm giảng dạy, đổi mới phương pháp dạy và học hay làm đồ dùng dạy học giúp cho các GV có thể ứng dụng vào công việc giảng dạy một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, cần có kế hoạch bồi dưỡng cho tất cả các GV để đạt chuẩn và trên chuẩn, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp GD và ĐT.
6. Chú trọng công tác tuyển chọn đầu vào đối với GV
Hiện nay, công tác tuyển chọn công chức ngành GD vẫn dựa chủ yếu trên sự phân loại ưu tiên (con thương binh, liệt sĩ, bằng khá giỏi…) nên chất lượng đầu vào của GV cũng chưa thật sự đồng đều. Theo tôi, khi tuyển công chức ngành GD thì cần phải trải qua 2 vòng: Vòng 1 là vòng điều kiện - có nghĩa là nhận hồ sơ của các ứng viên theo thứ tự đã quy định như hiện nay. Nhưng như thế chưa có nghĩa là các ứng viên được tuyển vào ngay mà cần phải bước vào vòng 2 đó là thi kỹ năng chuyên môn nghiệp vụ sư phạm. Nếu có năng lực sư phạm thực sự thì nên lưu ý vì chưa chắc các ứng viên có bằng khá giỏi có thể đứng vững trên bục giảng để truyền đạt cho học sinh. Việc tổ chức thi kỹ năng nghề nghiệp dù rất mất thời gian và công sức nhưng nếu làm được thì sẽ có một đội ngũ GV tốt.
7. Xây dựng các mô hình liên kết.
Việc xây dựng mô hình liên kết đào tạo được xem là có hiệu quả trong tất cả các hoạt động kinh tế – xã hội nói chung và trong ngành giáo dục – đào tạo nói riêng. Nó giúp cho các chủ thể tham gia liên kết phát huy được những thế mạnh, hạn chế những điểm yếu kém. Mặt khác, còn tranh thủ thế mạnh và nguồn lực của đối tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi. Có thể xem xét ba mô hình liên kết đào tạo thường diễn ra trong ngành giáo dục – đào tạo, đó là:
+ Liên kết hợp tác đào tạo giữa các trường trong tỉnh:
Đây là mô hình liên kết đào tạo giữa các trường trong tỉnh với nhau. Mô hình này cũng mang lại hiệu quả chung như những mô hình liên kết khác. Ngoài ra, còn có được những ưu điểm tích cực nữa là: Do các trường đều nằm trên cùng một vùng lãnh thổ, nên các chủ thể tham gia liên kết sẽ hiểu rõ nhau hơn, việc trao đổi nguồn lực sẽ trở nên dễ dàng hơn do có điều kiện thuận lợi về mặt địa lý và hành chính. Tất cả các trường tham gia liên kết sẽ hiểu rõ hơn về nhu cầu hiện tại của các huyện cũng như các chính sách phát triển vĩ mô của tỉnh mình. Mô hình liên kết này cần được mở rộng và phát triển hơn nữa để phát huy hiệu quả.
+ Liên kết hợp tác đào tạo trong nước:
Việc liên kết đào tạo trong nước cho phép các cơ sở giáo dục trong nước tranh thủ tối đa nguồn lực của các tỉnh, thành phố trong cả nước, đồng thời cũng tạo cơ hội học tập tốt hơn cho các học viên trong nước vì có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm, kiến thức một cách nhanh nhất lại không tốn kém.
+ Liên kết hợp tác giữa nhà trường và doanh nghiệp: Mô hình liên kết này nhằm tạo mối quan hệ giữa nhà trường và các doanh nghiệp trong tỉnh. Đặc biệt chú trọng đến mối quan hệ giữa các doanh nghiệp xây dựng với nhà trường, bởi có thể các trường sẽ là chủ đầu tư còn doanh nghiệp sẽ là các đơn vị thi công xây dựng trường học. Mặt khác thiết lập mối quan hệ này sẽ huy động được các doanh nghiệp tham gia đóng góp, ủng hộ cho sự nghiệp giáo dục. Ngày nay, sự xuất hiện của rất nhiều doanh nghiệp đã đóng góp một lượng vốn đầu tư khá lớn cho sự nghiệp giáo dục trong tỉnh. Mô hình này cũng cần mở rộng hơn nữa để phát huy hết hiệu quả.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu thực trạng “Đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ” đã giúp ta nhận thấy được những thành quả mà tỉnh đã đạt được trong sự nghiệp phát triển giáo dục và cũng giúp ta biết được những hạn chế cần khắc phục để đạt được hiệu quả cao trong lĩnh vực đầu tư. Trong 5 năm trở lại đây việc đầu tư cho giáo dục của tỉnh đã được chú trọng hơn nhưng thực sự vẫn chưa đem lại hiệu quả cao hoặc chưa tương xứng với nguồn lực đã bỏ ra vì vậy mà các cấp lãnh đạo Tỉnh cần phải quan tâm hợn nữa đến lĩnh vực giáo dục, phải đề ra nhiều biện pháp để khắc phục những hạn chế, khó khăn đó. Bên cạnh đó phải giúp người dân nhận thức được vai trò to lớn của sự nghiệp giáo dục và ban hành nhiều chương trình vận động nhân dân trong tỉnh tham gia đóng góp và ủng hộ sự nghiệp phát triển giáo dục.
Chuyên đề thực tập đã giúp em có được cái nhìn toàn diện hơn, sâu sắc hơn về việc đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh mình, giúp em thấy được những vướng mắc trong lĩnh vực đầu tư để từ đó có được những bài học kinh nghiệm quý giá trước khi ra trường.
Chuyên đề thực tập của em tuy đã hoàn thành nhưng có thể chưa hoàn thiện và còn nhiều sai xót vì vậy em rất mong được sự tham gia đóng góp ý kiến của cô giáo hướng dẫn, các thầy – cô trong khoa và các bạn sinh viên.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết số 33/2002/NQ-HĐND-KXV của Hội đồng nhân dân tỉnh về tăng cường cơ sở vật chất trường học giai đoạn 2002-2010.
2. Kế hoạch thực hiện Đề án phổ cập bậc trung học phổ thông tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2015.
3. Nghị quyết số 79/2006/NQ-HĐND Quy định về một số chính sách khuyến khích phát triển các cơ sở cung ứng dịch vụ ngoài công lập hoạt động trong các lĩnh vực giáo dục- đào tạo, y tế, văn hoá, thể dục thể thao trên địa bàn tỉnh.
4. Kế hoạch về thực hiện Đề án kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ cho giáo viên giai đoạn 2002-2007 và giai đoạn 2008-2012 .
5. Báo cáo kết quả thực hiện Đề án kiên cố hoá trường, lớp học và nhà công vụ giáo viên giai đoạn 2002-2007.
6. Báo Ngoại thương số 11.2009 từ 11-20/2009. “Phú Thọ hội nhập” trang 15.
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT.
Bộ GD&ĐT : Bộ giáo dục và đào tạo
THCS : Trung học cơ sở
THPT : Trung học phổ thông
UBND : Uỷ ban nhân dân
ODA : Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
NS : Ngân sách
NSTƯ : Ngân sách trung ương
XHHGD : Xã hội hoá giáo dục
VĐT : Vốn đầu tư
ĐTPT : Đầu tư phát triển
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Đầu tư phát triển giáo dục của tỉnh Phú Thọ.doc