Lời mở đầu. 5
Chương 1: Lý luận chung về đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 6
1.1Phát triển nguồn nhân lực. 6
1.1.1Nguồn nhân lực. 6
1.1.2Phát triển nguồn nhân lực. 6
1.2Đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 7
1.3Nội dung đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 8
1.3.1Đầu tư giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. 8
1.3.1.1Đầu tư cho chương trình giảng dạy. 8
1.3.1.2Đầu tư đội ngũ giáo viên và phương pháp dạy học. 8
1.3.1.3Đầu tư cơ sở hạ tầng giáo dục. 9
1.3.2Đầu tư y tế và chăm sóc sức khỏe. 10
1.3.2.1Đầu tư cơ sở vật chất (bệnh viện)10
1.3.2.2Đầu tư trang thiết bị y tế, chăm sóc sức khỏe. 11
1.3.2.3Đầu tư cho cán bộ y tế. 12
1.3.3Đầu tư cải thiện môi trường làm việc của người lao động. 13
1.3.4Đầu tư cho tiền lương. 13
1.4Đặc điểm của đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 14
1.5Các học thuyết đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 15
1.5.1Lý thuyết nguồn vốn con người (Human Capital Theory)15
1.5.1.1Giáo dục và thu nhập - mô hình đi học (Education and earnings - the Schooling model)15
1.5.1.2Coi người nô lệ là vốn đầu tư. 16
1.5.1.3Quyết định đi học. 17
1.5.1.4Trợ cấp cho giáo dục nên hay không?. 19
1.5.1.5 Nhận xét đánh giá về lý thuyết nguồn vốn con người20
1.5.2Lý thuyết tăng trưởng nội sinh. 21
1.5.2.1Nội dung lý thuyết tăng trưởng nội sinh. 21
1.5.2.2Đánh giá lý thuyết tăng trưởng nội sinh. 22
1.6Lợi ích của đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 23
1.6.1Lợi ích cá thể của vốn con người23
1.6.2Lợi ích xã hội của vốn con người26
1.7Các chỉ tiêu đánh giá đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 27
1.7.1Chỉ tiêu phản ánh tình trạng sức khoẻ cuả dân cư. 27
1.7.2Chỉ tiêu biểu hiện trình độ văn hóa của người lao động. 27
1.7.3Chỉ tiêu biểu hiện trình độ chuyên môn kĩ thuật27
1.7.4Chỉ số phát triển con người HDI28
1.7.5Chỉ tiêu khác. 28
Chương 2: Thực trạng đầu tư phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001-200729
2.1. Đầu tư kế hoạch hóa dân số và đầu tư cho chăm sóc sức khỏe nhân dân. 29
2.1.1. Đầu tư cho kế hoạch hóa dân số. 29
2.1.2. Đầu tư cho y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. 29
2.2. Đầu tư cho giáo dục đào tạo. 30
2.2.1. Nguồn vốn và quy mô vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước. 30
2.2.2. Đầu tư cho hệ thống giáo dục.33
2.2.2.1. Đầu tư giáo dục mầm non.34
2.2.2.2. Đầu tư giáo dục phổ thông.34
2.2.2.3. Đầu tư giáo dục bậc đại học, cao đẳng. 34
2.2.2.4. Đào tạo cho giáo dục sau đại học. 36
2.3. Đầu tư tạo việc làm.37
2.3.1 Đầu tư tạo việc làm cho lao động. 37
2.4. Đầu tư xã hội và xuất khẩu lao động. 38
2.4.1. Đầu tư toàn xã hội38
2.4.2. Xuất khẩu lao động. 39
2.5. Đầu tư cải thiện môi trường lao động. 39
2.5.1. Tiền lương. 39
2.5.2. Bảo hiểm40
2.5.3. Công đoàn. 41
2.5.4. Điều kiện làm việc. 41
2.6. Kết quả và hiệu quả đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 43
2.6.1 Về sức khỏe. 43
2.6.2 Về trình độ văn hóa. 44
2.6.3 Về chuyên môn kỹ thuật44
2.6.4 Chỉ số tổng hợp. 45
Chương 3: Giải pháp đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 46
3.1. Cơ hội và thách thức đối với đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn tới46
3.1.1.Cơ hội cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực. 46
3.1.2.Thách thức trong bối cảnh hiện nay. 49
3.1.3.Định hướng cho hoạt động Đầu tư phát triển nguồn nhân lực trong giai đoạn tới46
3.2. Giải pháp đầu tư bảo vệ và tăng cường thể lực nguồn nhân lực. 50
3.2.1.Đầu tư tăng cường thể lực. 50
3.2.2.Đầu tư bảo vệ thể lực. 51
3.3.Giải pháp đầu tư phát triển trí lực và kỹ năng nguồn nhân lực. 51
3.3.1.Tăng cường nguồn vốn cho đầu tư cho giáo dục đào tạo. 51
3.3.2.Giải pháp đầu tư đối với giáo dục cơ sở. 54
3.3.3.Giải pháp đầu tư cho đào tạo nghề. 55
3.3.3.1.Đầu tư đào tạo dạy nghề khối kỹ thuật công nghiệp. 55
3.3.3.2.Đầu tư đào tạo phục vụ cho xuất khẩu lao động ra nước ngoài56
3.3.3.3. Đầu tư đào tạo dạy nghề khối kỹ thuật nông nghiệp. 56
3.3.4. Đầu tư đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý cấp cơ sở. 57
3.4. Giải pháp đầu tư về việc làm và chống thất nghiệp. 58
3.4.1. Giải pháp đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư. 58
3.4.2. Giải pháp đầu tư khuyến khích hỗ trợ tạo việc làm59
3.4.3. Giải pháp đầu tư cho thị trường lao động. 60
3.4.3.1. Đầu tư giảm cung lao động.60
3.4.3.2. Đầu tư tăng cầu lao động.61
3.4.4. Nhóm các giải pháp đầu tư thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động. 61
3.4.4.1. Đầu tư phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm61
3.4.4.2. Đầu tư phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động. 62
3.4.5. Đầu tư cải cách hệ thống trả công lao động theo hướng thị trường. 62
3.4.6. Đầu tư tăng cường an sinh xã hội63
3.4.7.Đầu tư nâng cao an toàn và vệ sinh lao động. 64
Lời mở đầu
Con người, vốn và công nghệ là ba yếu tố sản xuất để con người tạo ra của cải vật chất, thiếu một trong ba yếu tố này hay có sự tăng không đều giữa 3 yếu tố này đều tạo nên sự phát triển không cân đối cho nền kinh tế. Nếu chúng ta chỉ chú trọng thu hút càng nhiều vốn để đầu tư sản xuất kinh doanh mà quên mất đầu tư cho nâng cấp nguồn nhân lực thì quá trình đầu tư đó không thể phát huy được hết lợi ích của nguồn vốn, dẫn tới một khoản đầu tư không hiệu quả.
Nền kinh tế toàn cầu đang chuyển dịch nhanh chóng sang dạng kinh tế tri thức cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển bùng nổ của công nghệ thông tin và truyền thông. Cơ cấu kinh tế của nước ta cũng đang chuyển mạnh theo hướng dịch vụ, công nghiệp, đặc biệt là dịch vụ cao cấp. Điều này đòi hỏi khách quan của thị trường cầu về số lượng, cơ cấu chất lượng, cơ cấu ngành nghề đối với nguồn nhân lực. Từ đó cho thấy vai trò quan trọng của hoạt động Đầu tư phát triển nguồn nhân lực đối với sự phát triển lâu dài và bền vững của nền kinh tế. Bối cảnh mới đã đặt ra những cơ hội cũng như thách thức cho hoạt động Đầu tư phát triển nguồn nhân lực mà chúng ta cần xem xét để có thể đưa ra những định hướng hợp lý, đáp ứng được những yêu cầu trong giai đoạn hiện nay.
Vì nhiều lý do bài tập này chỉ đề cập được trong một chừng mực nhất định những lý thuyết chung trong vấn đề đầu tư phát triển nguồn nhân lực, vì vậy cũng không tránh khỏi những khiếm khuyết chủ quan và khách quan, hi vọng nhiều ở sự góp ý của thầy và các bạn.
Xin trân trọng cảm ơn PSG.TS Từ Quang Phương và TS. Phạm Quang Hùng đã giúp chúng em thực hiện bài tập này
65 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2973 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực tế xây dựng đất nước, học tập của người dân trong điều kiện hội nhập quốc tế.
Xây dựng và phát triển đội ngũ công chức hành chính nhà nước theo hướng chuyên nghiệp hoá, có trình độ chuyên môn cao, văn hoá công sở, năng lực làm việc và ứng xử theo những chuẩn mực của Nhà nước pháp quyền và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Xây dựng và phát triển đội ngũ chuyên gia tư vấn hoạch định chính sách trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý… tinh thông nghiệp vụ, am hiểu sâu rộng kiến thức và thực tiễn quốc tế, đảm bảo cho việc xây dựng và thực hiện các chính sách có tính khả thi cao, thích ứng với tình hình quốc tế không ngừng biến đổi nhằm kịp thời hỗ trợ làm tăng sức mạnh, sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của các doanh nghiệp Việt Nam trên trường quốc tế trong quá trình hội nhập.
Bồi dưỡng, xây dựng và phát triển đội ngũ doanh nhân và chuyên gia quản trị doanh nghiệp có bản lĩnh vững vàng, giỏi về nghiệp vụ quản lý, am hiểu luật lệ kinh doanh quốc tế có đủ năng lực đưa doanh nghiệp Việt Nam cạnh tranh thắng lợi trên thị trường trong nước và quốc tế. Phải nhanh chóng đào tạo được đội ngũ giám đốc điều hành (CEO), lãnh đạo và chuyên gia quản lý bậc trung cho các doanh nghiệp đáp ứng những yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, phải có những chương trình đào tạo kiến thức và kỹ năng quản lý, cung cấp thông tin về tình hình thị trường trong nước và quốc tế cho hơn 12 triệu chủ hộ kinh tế gia đình - những doanh nhân tiềm năng để họ kịp thời ứng phó có hiệu quả trước những biến động của thị trường.
Tập trung xây dựng và phát triển nhanh đội ngũ lao động kỹ thuật, trong đó đặc biệt chú trọng đến đội ngũ kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật trình độ cao đạt chuẩn quốc tế để nhanh chóng, kịp thời đáp ứng yêu cầu của các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, đón trước các làn sóng mới của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam với quy mô ngày càng lớn và trình độ công nghệ ngày càng cao, trong đó chú trọng đảm bảo lao động kỹ thuật cho các Khu công nghệ cao ở TP Hồ Chí Minh, Hà Nội, Khu công nghệ cao Hoà Lạc, các Khu kinh tế là nơi tập trung các dự án lớn có ý nghĩa tạo động lực như Dung Quất, Chu Lai, Vân Phong, Chân Mây-Lăng Cô, đảo Phú Quốc… và các khu công nghiệp trên địa bàn cả nước.
Thứ ba, Phát triển toàn diện thể chất, tăng cường thể lực người lao động, hướng tới thực hiện những mục tiêu phát triển toàn diện con người Việt Nam, đáp ứng những yêu cầu tổ chức lao động khoa học và cường độ làm việc của xã hội công nghiệp văn minh, hiện đại và có tinh thần dân tộc, ý chí vươn lên mạnh mẽ, quyết tâm vượt qua tình trạng nước kém phát triển, tiến tới xây dựng xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ tư, Hoàn thiện khung khổ pháp lý trên cơ sở hoàn cảnh thực tiễn của Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo môi trường thuận lợi, thông thoáng và huy động rộng rãi tất cả các nguồn lực, lực lượng trong xã hội, kể cả trong nước và ngoài nước cho phát triển nguồn nhân lực.
Thứ năm, Nhanh chóng xây dựng và phát triển mạng lưới thông tin thị trường lao động và dịch vụ về đào tạo, tìm kiếm, giới thiệu việc làm. Mạng lưới này sẽ thực hiện chức năng làm cầu nối liên kết giữa cung và cầu lao động, giữa người lao động, cơ sở đào tạo và cơ sở sử dụng lao động.
Thứ sáu, Mở rộng hợp tác quốc tế, đa dạng hoá hình thức, phương pháp hợp tác, liên doanh, liên kết và thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển nguồn nhân lực. Tăng cường đào tạo nhân lực trình độ cao và trong các lĩnh vực khoa học, công nghệ hiện đại và quản lý kinh tế ở nước ngoài. Mạnh dạn thuê giảng viên và chuyên gia giỏi là người nước ngoài và Việt Kiều tham gia đào tạo nguồn nhân lực ở trong nước để nhanh chóng đạt được đẳng cấp quốc tế trong đào tạo nhân lực.
Cơ hội cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực
Thứ nhất, làm tăng cầu lao động, nhất là cầu lao động có chuyên môn kỹ thuật
Do đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài: Khi trở thành thành viên của WTO, nước ta sẽ có điều kiện thuận lợi hơn trong việc thu hút đầu tư nước ngoài do mở rộng diện các nước thành viên đầu tư vào Việt Nam và môi trường đầu tư của nước ta hấp dẫn hơn. Chúng ta buộc phải tuân thủ hoàn toàn hiệp định TRIMs của WTO, phải cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hướng giảm thiểu các rào cản trái với quy định của WTO, phải bãi bỏ phân biệt đối xử theo MFN và NT.
Do phát triển mạnh các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu: Phát triển mạnh sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu sẽ tạo mở thêm nhiều chỗ việc làm mới. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy ở Việt Nam khu vực sản xuất hàng xuất khẩu có mức sử dụng lao động cao gấp hai lần so với khu vực sản xuất thay thế hàng nhập khẩu.
Thứ hai, góp phần nâng cao chất lượng cung lao động: Hội nhập kinh tế quốc tế sẽ tạo ra sức ép lớn về cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Để đứng vững trong cạnh tranh, tránh phá sản, đòi hỏi các doanh nghiệp phải quan tâm nâng cao trình độ người lao động. Có như vậy, người lao động mới làm chủ được các công nghệ mới. Hơn nữa, bản thân người lao động cũng phải không ngừng học tập nâng cao trình độn để sẵn sáng đáp ứng yêu cầu của công viêc. Mặt khác, hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho người lao động tiếp cận được với những kiến thức mới, công nghệ mới.
Thứ ba, làm tăng mức di chuyển lao động trên thị trường, từ đó làm cho việc phân bổ và sử dụng nguồn lao động hợp lý và hiệu quả hơn. Hội nhập kinh tế quốc tế đồng nghĩa với việc mở rộng thương mại quốc tế và đầu tư nước ngoài. Vì thế sẽ làm thay đổi cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu việc làm và cơ cấu lao động. Trên thị trường lao động sẽ có sự chuyển dịch lớn về lao động giữa nước ta với các nước thành viên khác, giữa các khu vực kinh tế, các địa phương, các ngành nghề, các doanh nghiệp trong nước. Đây là sự dịch chuyển theo quy luật của thị trường, tức là di chuyển từ nơi có thu nhập thấp đến nơi có thu nhập cao, từ nơi có ít cơ hội việc làm đến nơi có nhiều cơ hội việc làm, từ nơi có điều kiện việc làm kém đến nơi có điều kiện việc là tốt... Xét trên ý nghĩa kinh tế đây là sự dịch chuyển hợp lý, mang lại hiệu quả kinh tế và lợi ích lớn hơn cho người lao động, cho doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
Thứ tư, làm cho tiền công, tiền lương phản ánh đúng hơn giá trị sức lao động. Như chúng ta đã biết, giá cả sức lao động được hình thành và điều chỉnh theo quy luật giá trị, quy luật cung cầu lao động và quy luật cạnh tranh. Trên thị trường lao động, người lao động và người sử dụng lao động tự do thỏa thuận mức tiền lương, tiền công theo yêu cầu của công việc và trình độ năng lực làm việc của người lao động và đương nhiên mức thỏa thuận này bị chi phối bởi các quy luật trên. Khi thị trường lao động hoạt động lành mạnh, các giao dịch thuê mướn, sử dụng lao động được thực hiện công khai, minh bạch, người lao động có quyền làm việc cho bất cứ ai, miễn là công việc đó không bị pháp luật cấm thì việc thỏa thuận tiền lương, tiền công cũng trở nên khách quan hơn, người lao động sẽ nhận được tiền lương xứng đáng với công sức họ bỏ ra. Khi Việt Nam gia nhập WTO thì đòi hỏi phát triển thị trường lao động càng trở nên bức xúc hơn và khi đó mức lương cho các vị trí công việc sẽ được điều chỉnh phù hợp hơn với quy luật thị trường. Chênh lệch mức lương giữa lao động quản lý, lao động kỹ thuật, lao động giản đơn sẽ được phân định rõ ràng hơn. Giá cả sức lao động được đánh giá khách quan hơn, đầy đủ, chính xác hơn. Đây cũng chính là động lực thúc đẩy tưang năng suất lao động, khuyến khích người lao động học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ để có thể làm việc ở những vị trí có tiền công, tiền lương cao hơn.
Thách thức trong bối cảnh hiện nay
Bên cạnh những cơ hội có được thì cũng có không ít những thách thức đặt ra trong hoạt động Đầu tư phát triển nguồn nhân lực của nước ta:
Trước hết, đó là các vấn đề trong hoạt động quản lý của nhà nước và các doanh nghiệp trong nước. Có thể thấy rằng cơ chế quản lý và luật định của nước ta vẫn còn nhiều thủ tục phức tạp và bất cập. Nhà nước ta cần có chính sách mở cửa thông thoáng hơn, sửa đổi luật hợp lý hơn, giảm bớt các thủ tục hành chính rườm ra để tạo thuận lợi thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Nhà nước cũng cần xem xét hạn chế trong vấn đề cơ sở hạ tầng, đây cũng là điều kiện cần thiết cho việc thu hút các nguồn lực bên ngoài. Tuy nhiên, điều này cũng gây ra một vấn đề nảy sinh đó là sẽ gây ra khó khăn cho các doanh nghiệp trong nước về vấn đề chảy máu chất xám sang các doanh nghiệp nước ngoài. Vì vậy thách thức đặt ra cho các doanh nghiệp đó là trong vấn đề cải thiện điều kiện làm việc và chê độ ngộ đãi công nhân viên và người lao động.
Tiếp đến là thách thức về chất lượng nguồn nhân lực. Đây không phải là vấn đề mới nhưng lại là vấn đề cần giải quyết lâu dài vì nó mang tính chất quyết định. Những yêu cầu ngày càng cao về chất lượng nguồn nhân lực đòi hỏi chúng ta cần có những giải pháp hợp lý ở cả tầm vĩ mô và vi mô để có thể đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Lực lượng lao động của nước ta có thể nói là dồi dào nhưng chủ yếu trong ngành nông nghiệp lại chiếm tỷ trọng lớn. Đối với nguồn lao động trí thức được đào tạo ra, phần lớn chưa đáp ứng được chuẩn quốc tế. Vì thế mà ta thấy một thực trạng xảy ra là nguồn nhân lực tạo ra nhiều nhưng vẫn không đáp ứng được nhu cầu. Để tận dụng được sự đầu tư của nước ngoài trong mở rộng thị trường lao động thì đòi hỏi nước ta phải phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Muốn mở rộng thị trường xuất khẩu lao động cũng đòi hỏi phải nâng cao chất lượng tay nghề của đội ngũ này.
Khả năng sử dụng vốn chưa cao: Hàng năm, nước ta vẫn nhận được các nguồn vốn hỗ trợ cho đầu tư phát triển nguồn nhân lực từ nhiều nước như Nhật Bản, Anh, Pháp, Australia… nhưng những hạn chế trong vấn đề giải ngân và hiệu quả sử dụng nguồn vốn chưa cao. Muốn duy trì được nguồn hỗ trợ này và thu hút thêm các nguồn khác thì cần phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tạo dựng lòng tin và mối quan hệ tốt đẹp với các nước phát triển.
Giải pháp đầu tư bảo vệ và tăng cường thể lực nguồn nhân lực
Đầu tư tăng cường thể lực
Trong lịch sử, Việt Nam đã trải qua đô hộ áp bức của phong kiến Trung Quốc và thực dân Pháp, qua mỗi giai đoạn chúng ta không chỉ bị áp bức về kinh tế mà còn bị chính sách cai trị hà khắc làm cho thể lực bị suy giảm nghiêm trọng. Cả chiều cao và thể lực người Việt Nam thuộc loại kém nhất khu vực: trong khi nam 18 tuổi của thế giới cao trung bình 176,8cm, nữ 18 tuổi cao 163,7cm thì nam VN chỉ cao 163,5, nữ VN cao 152,7cm. Để giải quyết điều này chúng ta không còn cách nào khác ngoài tăng cường tập luyện và chế độ dinh dưỡng cho mọi người dân đặc biệt là chú trọng tới trẻ em.
Theo kinh nghiệm của Nhật, để tăng cường chiều cao, họ đã có hẳn chiến lược mang tầm quốc gia qua bữa ăn học đường. Sau chiến tranh, người Nhật rơi vào khủng hoảng, tài nguyên thiên nhiên ít, thất nghiệp, thiếu đói. Chính phủ Nhật đã nghiên cứu làm sao dùng đồng tiền hiệu quả nhất và coi đây là đòn bẩy, đưa đất nước đi lên. Họ nhận thấy không gì tốt hơn là đầu tư vào nguồn nhân lực, vào thế hệ trẻ, chủ yếu từ bữa ăn học đường, ly sữa cho học sinh cấp I. Kết quả, sau 15 năm, chiều cao người Nhật đã cải thiện và tới nay đã đứng trong tốp đầu về chiều cao của thế giới.
Bên cạnh đó, để khuyến khích người dân rèn luyện thân thể, nhà nước cần ban hành những quy định trong việc quy hoạch khu dân cư, phải đảm bảo một tỷ lệ số m2 vui chơi trên số m2 để ở, làm sao để những người có nhu cầu rèn luyện có khu vực để tập luyện. Với những công trình công cộng như công viên, sân chơi thì nhà nước phải trực tiếp đầu tư và đảm bảo chúng sẽ được sử dụng đúng mục đích.
Đầu tư bảo vệ thể lực
Bảo vệ thể lực nguồn nhân lực chính là phòng ngừa, chữa trị những rủi ro có thể mắc phải của nhân dân khi lao động và làm việc. Việc thực hiện đầy đủ nghĩa vụ bảo hiểm và bảo hộ lao động cho công nhân viên không chỉ là chính sách đứng hoàn toàn về phía người lao động mà nó còn có ý nghĩa rất lớn đối với bản thân doanh nghiệp. Đã có không ít trường hợp doanh nghiệp đã đứng ra mua “bảo hiểm suốt đời” cho công nhân viên của mình, nó tạo ra sự gắn bó chặt chẽ giữa người lao động và doanh nghiệp, làm cho người công nhân cảm thấy yên tâm hơn trong công tác, lại vừa đảm bảo cho doanh nghiệp tiến hành sản xuất ổn định, không bị ngắt quãng chậm tiến độ. Để thực hiện tốt vấn đề này nhà nước cần nghiêm khắc giám sát việc thực hiện bảo hộ lao động cho công nhân ở các doanh nghiệp, nâng cao khung pháp lý, xử phạt nghiêm khắc với các trường hợp vi phạm bảo hộ lao động hay, chậm bảo hiểm y tế cho công nhân.
Giải pháp đầu tư phát triển trí lực và kỹ năng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực có vị trí rất quan trọng trong nền kinh tế và doanh nghiệp. Và giáo dục đào tạo là hoạt động đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Việc đào tạo thích ứng nguồn nhân lực là một yếu tố quan trọng để thực hiện các mục tiêu kinh tế vì nó tạo ra con người có đủ trình độ, khả năng phù hợp với một công việc nhất định được xã hội phân công, giao phó. Bước vào ngưỡng cửa hội nhập thế giới, những yêu cầu và đòi hỏi về chất lượng nguồn nhần lực ngày càng cao hơn. Trong phần trên, chúng ta đã đi tìm hiểu về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt Nam và thấy rõ những mặt còn hạn chế cũng như những thách thức đặt ra trong việc đáp ứng nguồn nhân lực cho nhu cầu thị trường. Vấn đề đặt ra cho giáo dục và đào tạo là làm thế nào để vừa đáp ứng đủ về số lượng, đồng thời đảm bảo chất lượng cho nguồn nhân lực ở nước ta.
Tăng cường nguồn vốn cho đầu tư cho giáo dục đào tạo
Trước tiên, chúng ta cùng đi tìm hiểu các giải pháp về vấn đề tài chính và nguồn vốn để đầu tư cho giáo dục đào tạo (GDĐT). Từ trước đến nay, nguồn ngân sách chính cho giáo dục đào tạo phần lớn là từ ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, với tiềm lực nền kinh tế nước ta hiện nay thì ngân sách dành cho giáo dục và đào tạo vẫn còn rất khiêm tốn. Để có vốn cho GDĐT nhà nước thường dùng hình thức phát hành trái phiếu, công trái giáo dục hoặc là kêu gọi khuyến khích các doanh nghiệp và người dân ủng hộ, đóng góp. Những hình thức huy động vốn này thường mang tính chất tự nguyện vì vậy mà hiệu quả mang lại không cao. Nhà nước cũng có thể tạo ngân sách bằng hình thức đi vay nhưng đây không phải là giải pháp lâu dài. Phần lớn mọi người đều nhận thức được tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo nhưng chúng ta lại thường mang một suy nghĩ ỷ lại vào nhà nước. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta có thể thực hiện một số giải pháp sau:
Thứ nhất,cần có phối hợp giữa “3 nhà” trong vấn đề giáo dục đào tạo nguồn nhân lực. Đó là nhà nước, nhà trường và nhà doanh nghiệp. Về phía Nhà nước, bộ cần xúc tiến xin cơ chế dành 3%-5% thuế của doanh nghiệp hỗ trợ cho GDĐT. Đối với trường Đại học (ĐH), trường có chương trình đào tạo chất lượng cao theo nhu cầu doanh nghiệp đã được ký kết có thể đề xuất ngay mức học phí mới. Các trường ĐH cần có cơ chế hoạt động như một đơn vị kinh tế để hạn chế xin ngân sách hỗ trợ từ phía nhà nước. Tùy từng điều kiện của mỗi trường, từng đối tượng có nhu cầu được đào tạo mà đưa ra mức học phí hợp lý. Có thể áp dụng việc tăng học phí đối với những ngành có kỳ vọng về việc làm cũng như thu nhập cao sau khi ra trường, những ngành đào tạo mà thị trường có nhu cầu lớn. Đối với doanh nghiệp, cần có thông tin về nhu cầu nhân lực của mình, hỗ trợ tài chính và tham gia vào quá trình đào tạo, xây dựng chương trình, cho sinh viên thực tập. Các doanh nghiệp có thể tham gia dưới hình thức các cổ đông góp vốn để thành lập các trường đại học, đầu tư cho nguồn lực đầu vào của doanh nghiệp mình trong tương lai. Một ví dụ minh họa cho việc hợp tác giữa doanh nghiệp và nhà trường đã đem lại những hiệu quả tích cực, đó là Ban quản lý khu Công nghệ cao thành phố Hồ Chí Minh đã ký thỏa thuận liên kết hợp tác trong nghiên cứu và đào tạo với Đại học quốc gia TP HCM để đào tạo hàng ngàn kỹ sư về các ngành: tin học, điện - điện tử, cơ khí chế tạo, cơ khí chính xác, hóa - sinh học... theo phương thức các doanh nghiệp đưa ra các yêu cầu về số lượng, trình độ chuyên môn cần đào tạo của người lao động với các trường đại học. Và đây là con đường tất yếu, một kinh nghiệm quý đối với việc đào tạo nhân lực trình độ cao. Các DN có nhu cầu sử dụng lao động sẽ kết hợp, hỗ trợ một phần kinh phí đào tạo với các trường đại học và cam kết sẽ tuyển chọn những người kỹ sư, cán bộ kỹ thuật có đủ trình độ chuyên môn và tay nghề đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư sau khi những dự án xây dựng các nhà máy ở khu công nghệ cao hoàn thành và đi vào hoạt động.
Tiếp đến, nhà nước nên giảm bớt trường công lập và khuyến khích thành lập các trường dân lập, cơ sở đào tạo tư để giảm bớt gánh nặng ngân sách cho nhà nước. Những trường dân lập này học phí sẽ cao hơn nhưng bù lại thì có thể được đầu tư trang thiết bị, tư liệu học tập đầy đủ hơn. Các trường công lập vẫn cần được duy trì để đáp ứng nhu cầu cho tầng lớp dân cư có thu nhâp thấp và trung bình. Còn đối với những người có thu nhập cao, có nhu cầu và có khả năng có thể học tập, nghiên cứu ở những trường dân lập để được hưởng những môi trường đào tạo tốt hơn. Về phía các cơ sở, trung tâm đào tạo dạy nghề nên để các doanh nghiệp tham gia đào tạo. Các doanh nghiệp ngoài hoạt động kinh doanh là chính, có thể tự mở cơ sở dạy nghề để tạo nên quy trình đào tạo khép kín, vừa đáp ứng được đầu vào vừa đảm bảo đầu ra cho lực lượng lao động.
Bên cạnh đó, Nhà nước có thể hình thành các “quỹ đầu tư giáo dục” kêu gọi sự đóng góp của những kiều bào ở nước ngoài. Thực tế số lượng Kiều bào của nước ta cũng khá đông đảo và nhiều người trong số đó luôn có mong muốn được góp phần cho công cuộc xây dựng và phát triển tổ quốc mình. Chính vì thế mà chúng ta cần dang rộng cánh tay chào đón họ, vừa tạo điều kiện vừa tận dụng được nguồn lực tài chính đáng quý này.
Giáo dục đào tạo không chỉ là vấn đề riêng của mỗi nước mà nó còn là vấn đề mà cả thế giới rất quan tâm. Đặc biệt, những nước phát triển thường có những sự hỗ trợ và giúp đỡ nhất định dành cho các nước kém và đang phát triển trong lĩnh vực này. Nhà nước cần có những chính sách ngoại giao tốt, cần tạo được lòng tin cho các nước phát triển để thu hút nguồn vốn đầu tư và những hỗ trợ trong kinh nghiệm cũng như đội ngũ đào tạo cho giáo dục đào tạo nước ta. Nếu chúng ta cho họ thấy được rằng nước ta sử dụng những nguồn vốn đó đúng mục đích và đem lại hiệu quả chính đáng thì họ sẽ yên tâm đầu tư và nguồn vốn cho giáo dục từ đó sẽ được tăng lên đáng kể. Một số nước điển hình thường xuyên giúp đỡ, hỗ trợ cho giáo dục đào tạo của nước ta như là Nhật Bản, Pháp, Hàn Quốc, Anh…
Bên cạnh việc thu hút nguồn vốn đầu tư như ODA thì chúng ta cũng cần phải chỉnh sửa hệ thống pháp luật để tạo điều kiện cho các tổ chức nước ngoài đầu tư mở các trung tâm giáo dục đào tạo dưới hình thức hợp tác hoặc 100% vốn nước ngoài. Điều này không những giảm chi phí cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng mà còn góp phần nhanh chóng hoàn thiện hơn hệ thống đào tạo trong nước. Một khi các cơ sở giáo dục đào tạo chất lượng cao của nước ngoài được xây dựng ở trong nước thì tạo thuận lợi hơn cho liên kết đào tạo, Nhà nước cũng như các doanh nghiệp sẽ giảm được đáng kể chi phí cũng như thời gian để gửi cán bộ, nhân viên đi đào tạo ở nước ngoài.
Tóm lại, Nhà nước có thể huy động nguồn vốn cho giáo dục đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, đa dạng hóa và tận dụng các nguồn tài chính một cách triệt để trong giới hạn cho phép. Nhưng vấn đề về nguồn vốn chưa phải là tất cả. Không phải cứ có tiền là giải quyết được mọi vấn đề. Một vấn đề khó khăn hơn đặt ra là phân bổ và sử dụng nguồn vốn ấy như thế nào để đem lại những kết quả mong muốn và đạt được hiệu quả cao. Những định hướng đúng đắn và những chính sách hợp lý trong giáo dục đào tạo là điều hết sức cần thiết.
Giải pháp đầu tư đối với giáo dục cơ sở
Để thực hiện các mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước, việc cải cách và hoàn thiện hệ thống giáo dục đào tạo (GDĐT) là quan trọng. Chúng ta cần đầu tư kinh phí vào những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục, hiện đại hóa giáo dục trước mắt và lâu dài:
Trước mắt là chấn chỉnh, xoá bỏ những bức xúc trong giáo dục mà xã hội quan tâm như dạy thêm, học thêm tràn lan, mua bằng, bán điểm, thi cử, đánh giá học sinh, sinh viên không đúng thực chất, chạy theo thành tích.
Đầu tư để đổi mới chương trình dạy và học, đặc biệt là đổi mới sách giáo khoa ở các bậc học phổ thông. Đầu tư xây dựng các phòng thí nghiệm, trang bị các giáo cụ trực quan, đẩy mạnh công tác giáo dục phân ban, giáo dục hướng nghiệp ở các trường phổ thông.
Khuyến khích hình thành các quỹ khuyến học từ các tổ chức xã hội, doanh nghiệp và từ những nguồn tài chính khác nhau trong cộng đồng, mở rộng hình thức hỗ trợ tín dụng, tạo điều kiện cho sinh viên, học sinh tiếp tục tham gia học tập. Chấn chỉnh quy chế tuyển sinh (đặc biệt là hệ mở rộng), quy chế thi và cấp bằng tại các trường cao đẳng và đại học. Nhà nước ban hành các tiêu chuẩn về chất lượng, chương trình, nội dung dạy và học, điều kiện cơ sở vật chất thống nhất cho các cấp học, đổi mới cơ chế thanh tra, giám sát chất lượng dạy và học, xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm.
Phát triển các hình thức đào tạo, dạy nghề cấp chứng chỉ nghề nghiệp, phục vụ nhu cầu học nghề cho mọi người, ban hành cơ chế hỗ trợ cho các trung tâm đào tạo nghề dân lập hoặc bán công, đặc biệt đối với những ngành nghề mới, gắn kết các chương trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước với chương trình đào tạo nghề, đáp ứng nguồn nhân lực.
Nhà nước dành tỷ lệ ngân sách thích đáng, kết hợp đẩy mạnh xã hội hoá để phát triển sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Chuyển chế độ tài trợ ngân sách Nhà nước cho các trường công lập từ phương thức cấp phát hành chính sang cơ chế tài trợ theo đầu học sinh, thực hiện chế độ cho sinh viên nghèo vay tiền. Ngân sách Nhà nước tập trung hơn cho các bậc giáo dục phổ cập ở các vùng nông thôn, miền Núi. Nhà nước cũng cần trích ngân sách ưu đãi cho những đội ngũ giáo viên ở các vúng nông thôn miền núi, xem xét nâng lương cho ngành giáo dục.
Để hỗ trợ trong quản lý cũng như trong giảng dạy, chúng ta cần đầu tư công nghệ thông tin vào hệ thống giáo dục đào tạo. Nó không những giúp giảm chi phí cho công tác điều hành, quản lý mà còn giúp cho học sinh, sinh viên cũng như giáo viên có thêm cơ hội để tiếp cận với nhiều nguồn tài liệu, kiến thức mới. Kết nối internet có thể tạo điều kiện cho các trường chia sẻ kinh nghiệm, tài nguyên, liên kết đào tạo và cũng có thể phát triển thêm hình thức đào tạo từ xa.
Phân loại các cơ sở giáo dục, đào tạo để có kế hoạch đầu tư tập trung, xây dựng các trường Đại học quốc gia, các trường trọng điểm, các ngành trọng điểm trong các trường khác. Những cơ sở này phải đi đầu trong quản lý chất lượng đồng bộ để sớm có trường, có ngành đào tạo ngang với khu vực và quốc tế. Các trường đại học thực hiện hình thức liên kết đào tạo với các trường đại học quốc tế.
Nghiên cứu sửa đổi Luật giáo dục phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đáp ứng yêu cầu hội nhập và hiện đại hóa. Trong đó những nội dung cần được quan tâm là đổi mới hệ thống chương trình, nội dung đào tạo liên thông được với các chương trình đào tạo với các trường tương tự trong nước và nước ngoài. Tổ chức các cơ sở giáo dục nhiều mô hình đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực, đa cấp để mỗi cơ sở giáo dục là điểm sáng tin cậy của nhân dân theo chủ trương xã hội hoá, học tập suốt đời.
Giải pháp đầu tư cho đào tạo nghề
Nhà nước nên ưu tiên dành một nguồn kinh phí tương xứng cho công tác đào tạo nghề, đầu tư cả cơ sở vật chất trang thiết bị máy móc dạy nghề, cơ sở thực tập, đào tạo giáo viên dạy nghề... Cũng cần có những chính sách khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế đi vào đầu tư cho lĩnh vực dạy nghề như chính sách cho vay vốn, chính sách miễn giảm thuế và các loại khuyến khích ưu tiên khác, kể cả cho phép nước ngoài liên kết với các thành phần kinh tế trong tỉnh để mở các trường dạy nghề. Mặt khác, ngành chức năng sẽ phải làm tốt hơn nữa công tác quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát, thống nhất giáo trình dạy nghề cho từng loại ngành nghề, đảm bảo học viên có thể đi làm việc bất cứ nơi nào trong tỉnh, ngoài tỉnh cũng như đạt chất lượng để tham gia xuất khẩu lao động.
Đầu tư đào tạo dạy nghề khối kỹ thuật công nghiệp
Chúng ta cần tích cực tham gia vào khâu đào tạo, bồi dưỡng tay nghề, nâng cao trình độ chuyên môn kỹ thuật cho người lao động bằng đầu tư mở rộng các loại hình đào tạo nghề nghiệp ngắn hạn, dài hạn, mở lớp ngay tại địa phương, từng bước phổ cập nghề nghiệp, nâng cao kỹ năng, thành thạo tay nghề cho mọi người lao động.
Ðào tạo lực lượng lao động tại các thành phố, các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp.
Ðào tạo đội ngũ công nhân trong các ngành công nghiệp, các ngành có hàm lượng công nghệ cao như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, cơ khí chính xác, chế biến nông, lâm, thủy, hải sản.
Ngành công nghiệp dệt may, da giầy do được đầu tư công nghệ và thiết bị mới nên phát triển với tốc độ rất nhanh sẽ thu hút được lực lượng lao động đáng kể. Vì vậy nên đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật và lao động lành nghề cho ngành công nghiệp dệt may, da giầy là yêu cầu rất cần thiết.
Ngành công nghiệp xây dựng hiện nay đang phát triển mạnh, nên cần một đội ngũ công nhân kỹ thuật có tay ngề cao để thu hút lực lượng lớn lao động có kỹ thuật. Nếu không chuẩn bị sẽ dẫn đến thiếu hụt đội ngũ kỹ thuật này.
Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho xuất khẩu lao động ra nước ngoài
Trong thời gian qua,việc gắn kết giữa đào tạo nghề và xuất khẩu lao động thời gian qua còn nhiều bất cập, cơ sở dạy nghề không nắm được nhu cầu để đào tạo, còn doanh nghiệp xuất khẩu lao động thì không tìm được lao động đạt trình độ tay nghề theo yêu cầu của nhà tuyển dụng.
Chúng ta cần đầu tư trang bị ngoại ngữ, kiến thức về pháp luật, xã hội và nâng cao trình độ tay nghề, trang bị kỹ năng làm việc cơ bản cho người lao động, trước khi họ ra nước ngoài làm việc.
Giáo dục định hướng cho người lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài.
Đào tạo Anh ngữ cho một số lao động xuất khẩu đạt trình độ chuẩn TOFEL, IELTS đáp ứng thị trường lao động một số quốc gia như: Mỹ, Canada, Australia, Singapore… Đồng thời dạy tiếng Nhật, Pháp, Trung Quốc, Hàn ...
Đào tạo nghề cho người lao động đáp ứng kỹ năng hành nghề của thị trường lao động ngoài nước.
Đào tạo ngoại ngữ song hành với nâng cao tay nghề, cho người lao động đã qua đào tạo hoặc những người đã xuất khẩu lao động trở về mong muốn tiếp tục đi xuất khẩu lao động.
Thực hiện mô hình đào tạo tập trung chuyên nghiệp nhằm mang lại tác phong công nghiệp, ý thức kỷ luật, tập thể, cộng đồng ngay trong nước cho người lao động để đạt được các yêu cầu sau: thành thạo ngoại ngữ để giao tiếp khi làm việc ở nước ngoài, có thể lực tốt, có kỹ năng chuyên môn cần thiết đáp ứng được yêu cầu công việc, có những thói quen tốt, phù hợp với tập quán, văn hóa của nước tiếp nhận lao động.
Đầu tư đào tạo dạy nghề khối kỹ thuật nông nghiệp
Thực trạng người lao động ở nông thôn có tới 2/3 là không có tay nghề, không qua đào tạo mà chỉ lao động đơn thuần theo kinh nghiệm nghề nông. Do đó vấn đề chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn gặp không ít khó khăn.
Vì vậy, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng lực lượng lao động ở nông thôn là việc làm rất cần thiết và cấp bách. Nó quyết định trực tiếp đến quá trình chuyển đổi cơ câu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Lực lượng lao động chủ yếu ở nông thôn hiện nay là thanh niên chiếm tới 60%; đa số họ có trình độ văn hoá hết cấp 2, nên họ có khả năng tiếp thu nhanh những kiến thức về khoa học kỹ thuật nông nghiệp và những tiến bộ về khoa học công nghệ trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp. Ða số trong họ có khát vọng vươn lên làm giàu chính trên mảnh đất quê hương họ. Vì vậy phương pháp đào tạo:
Cần tập hợp lực lượng nòng cốt này để mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng ngắn ngày cung cấp cho họ những kiến thức về kỹ thuật nông, lâm, ngư nghiệp như kỹ thuật nhân giống cây trồng, vật nuôi, thú y, sử dụng giống mới, chăm sóc, nuôi dưỡng, thâm canh, tăng vụ, phân bón, thuốc phòng trừ sâu bệnh, quản lý hợp tác xã, bảo quản, chế biến thức ăn gia súc, chế biến thuỷ hải sản.
Tuỳ theo từng điều kiện và hoàn cảnh của từng địa phương mà tổ chức các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho hợp lý, phù hợp với điều kiện và thời gian của người nông dân, với mục đích nâng cao trình độ kỹ thuật nông, lâm, ngư nghiệp góp phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Hình thức đào tạo: đào tạo theo tính chất thời vụ, theo thời gian nông nhàn của người nông dân, đào tạo ngay tại địa phương, đào tạo ngắn ngày theo hình thức tại chức, tại chỗ, kết hợp với bổ túc kiến thức cho kỹ thuật viên vốn có của địa phương.
Nội dung đào tạo gồm:
Ðào tạo và bồi dưỡng các chủ trang trại và gia trại.
Ðào tạo, huấn luyện kỹ thuật viên, kỹ thuật sơ cấp cho các hợp tác xã nông nghiệp.
Ðào tạo khuyến nông viên, khuyến lâm viên cơ sở. Chính lực lượng này trực tiếp hướng dẫn kỹ thuật nông nghiệp cho bà bà con xã viên.
Ðào tạo cán bộ sơ cấp, trung cấp nông nghiệp thuộc các lĩnh vực chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, thú y, bảo vệ thực vật, kinh tế hợp tác xã, quản lý hoạch toán kinh tế nông nghiệp, nông thôn, quản lý ruộng đất.
Thêm vào đó dạy nghề cho nông dân còn có thể mở rộng thêm các ngành nghề phi nông nghiệp như: may mặc, đan thêu, dệt thảm, chiếu, đan lát, sửa chữa cơ khí, điện nông thôn, điện tử, trồng cây cảnh, thẩm mỹ uốn hớt tóc, nữ công gia chánh... nghĩa là những nghề, những dịch vụ địa bàn nông thôn có nhu cầu.
Đầu tư đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý cấp cơ sở
Ðội ngũ cán bộ chủ chốt cấp cơ cở là người gần dân nhất, tiếp xúc với dân thường xuyên, mọi chỉ thị nghị quyết, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước được triển khai tới dân thông qua lực lượng cán bộ nòng cốt này. Vì vậy trình độ năng lực tổ chức, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ chủ chốt này sẽ ảnh hưởng và quyết định sự vững mạnh của tổ chức cơ sở Ðảng và bộ máy quản lý Nhà nước cũng như chất lượng hoạt động của các tổ chức quần chúng. Phương pháp đào tạo đó là:
Kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao nhận thức, bồi dưỡng quan điểm lập trường, đạo đức công chức, ý thức phục vụ và nâng cao kỹ năng nghiệp vụ, năng lực tổ chức thực tiễn.
Kết hợp chặt chẽ công tác đào tạo với công tác quy hoạch cán bộ.
Kết hợp đào tạo dài hạn, cơ bản với đào tạo bồi dưỡng cán bộ đang tại chức, đào tạo ngắn hạn, kết hợp với bổ túc nghiệp vụ chuyên môn, chính trị và lãnh đạo.
Kết hợp đào tạo bồi dưỡng theo quy hoạch cán bộ với việc mở rộng giáo dục lý luận chính trị theo yêu cầu xã hội.
Ðào tạo lại, đào tạo mới cán bộ công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý, cán bộ kế cận. Chú ý đào tạo bồi dưỡng về quản lý nhà nước, quản lý xã hội, quản lý đô thị, quản lý doanh nghiệp.
Ðào tạo tại chỗ theo địa chỉ, kết hợp vừa đào tạo vừa làm việc.
Giải pháp đầu tư về việc làm và chống thất nghiệp
Toàn cầu hóa mang lại cho nước ta nhiều cơ hội, song bên cạnh đó là không ít khó khăn và thách thức. Trong đó, vấn đề việc làm và thất nghiệp đang là tâm điểm của mọi cuộc tranh luận về toàn cầu hóa hiện nay. Các giải pháp về việc làm và chống thất nghiệp cũng được xã hội quan tâm nhiều nhất. Cùng với việc phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các chính sách thu hút và sử dụng lao động đã được đổi mới từng bước nhằm đáp ứng và thích nghi với cơ chế thị trường. Sự đổi mới này dược thể hiện vừa cả trong nội dung, phạm vi và phương pháp tác động của chính sách, theo đó vừa tăng cường vai trò của nhà nước vừa sử dụng ngày càng rộng rãi các cộng cụ của thị trường trong quản lí nguồn nhân lực. Căn cứ vào tính chất và đối tượng tác động, những chính sách về thu hút và sử dụng lao động dược phân tổ theo các nhóm sau:
Giải pháp đa dạng hóa các nguồn vốn đầu tư
Nhà nước không phải là nguồn và chủ thể duy nhất tạo việc làm, mà thực hiện chính sách khuyến khích hỗ trợ các thành phần kinh tế tạo việc làm cho người lao động.
Lập quỹ giải quyết việc làm quốc gia từ nhiều nguồn để giúp các chương trình, dự án tạo việc làm, đầu tư cho các trung tâm dạy nghề, dịch vụ việc làm, các trung tâm phổ biến tiến bộ khoa học kĩ thuật, chuyền giao công nghệ sử dụng nhiều lao động, cho nhân dân vay để tự tạo việc làm với lãi suất đảm bảo toàn vốn hợp lí, lấy mục tiêu và hiệu quả là tạo ra chỗ làm việc mới cho người lao động.
Bên cạnh nguồn quỹ giải quyết việc làm của quốc gia, cần còn khuyến khích người lao động đầu tư vốn nhàn rỗi phát triển sản xuất tạo ra việc làm. (thành lập các công ty tư nhân, các cơ sở sản xuất, chế biến nhỏ…). Nhà nước cần chú trọng đầu tư vào cơ sở hạ tầng, đặc biệt là giao thông vận tải để tạo điều kiện cho đầu tư tư nhân phát triển.
Ngoài nguồn vốn trong nước, nhà nước cần có những chính sách để tranh thủ và thu hút vốn đầu tư nước ngoài để tạo việc làm trong nước. Tăng cường thực hiện các hợp đồng gia công với nước ngoài, tranh thủ vốn và tiếp thu những tiến bộ trong quản lý, khoa học kĩ thuật để phát triển sản xuất, thu hút thêm lao động, sử dụng có hiệu quả nguồn viện trợ nhân đạo cho mục tiêu phát triển sản xuất, tạo việc làm như chương trình EC, HCR…
Giải pháp đầu tư khuyến khích hỗ trợ tạo việc làm
Nhà nước chủ động và tích cực trực tiếp tạo việc làm trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, trong đó ưu tiên các ngành mũi nhọn và có khả năng giải quyết việc làm cho người lao động. Nước ta có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ. Nhưng trong thời điểm hiện nay, giá nhân công chỉ quan trọng đối với những ngành sử dụng nhiều lao động như: dệt may, lắp ráp điện tử.. do vậy khi lấy mục tiêu là giải quyết việc làm cho người lao động, ngoài chính sách đầu tư phát triển các ngành công nghiệp mũi nhọn, sử dụng nhiều lao động, chính sách giáo dục để nâng cao trình độ chuyên môn kĩ thuật đáp ứng nhu cầu đòi hỏi, nhà nước cần có những chính sách khuyến khích mọi người dân tự tạo việc làm cho mình và cho mọi người:
Ban hành những chính sách ruộng đất, thuế, tín dụng phù hợp nhằm khuyến khích hỗ trợ người dân tạo việc làm, tạo điều kiện cho người có vốn và tài năng, kĩ thuật đầu tư sản xuất tạo việc làm mới, thu hút lao động. (Ví dụ: Chính sách tín dụng ưu đãi cho người nghèo vay vốn với lãi suất thấp, tạo điều kiện cho họ có cơ hội tạo việc làm và thu nhập cho gia đình).
Nước ta là một nước có nguồn nhân lực dồi đào. Do vậy nhà nước cần chú trọng đầu tư vào một số ngành có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới và thu hút được nhiều lao động như dệt may, chế biến nông lâm_thủy sản. Bên cạnh đó cần tạo điều kiện cho các ngành có khả năng cạnh tranh thấp trên thế giới như: xi măng, sắt thép, mía đường, thuốc lá… có khả năng cạnh tranh để đảm bảo ổn định sản xuất và việc làm của người lao động. Các chính sách như: giảm thuế, tăng cường nghiên cứu sản xuất trong nước để giảm giá thành, ứng dụng khoa học công nghệ, nâng cao sản lượng và chất lượng.
Cần chú trọng đầu tư xây dựng các trung tâm dạy nghề và tạo việc làm cho người khuyết tật. Giáo dục cải tạo gắn với dạy nghề và tạo việc làm cho các đối tượng tệ nạn xã hội. Khuyến khích lực lượng vũ trang tham gia làm kinh tế và có chính sách việc làm cho người tàn tật.
Đối với Việt kiều trở về nước, Chính phủ cần tạo điều kiện cho họ làm việc (lập tổ tư vấn hay tổ chức hội nghị tư vấn với các chuyên gia, nhà tư vấn. Hoặc có thể tạo điều kiện cho họ vào làm tại các trường đại học, viện nghiên cứu.) Chính sách này không những tạo công ăn việc làm cho một bộ phận lớn người lao động mà còn giúp chúng ta có điều kiện tiếp xúc với khoa học thế giới và trang bị thêm vốn ngoại ngữ cần thiết.
Giải pháp đầu tư cho thị trường lao động
Đây là nhóm chính sách đặc biệt vì nhằm kích thích, điều tiết phát triển thị trường lao động phục vụ lợi ích chung và lợi ích của người lao động. Ở nước ta loại thị trường này hiện nay mới chỉ trong giai đoạn hình thành nên có những đặc điểm là kém phát triển và còn nhiều khuyết tật. Vì vậy cần phải có những giải pháp riêng để quản lí và thúc đẩy sự phát triển của loại thị trường đặc biệt này. Sự hình thành và phát triển ngày càng rộng rãi và phát triển của thị trường lao động cùng với việc hội tụ khá đầy đủ các yếu tố thị trường sẽ tác động nhiều mặt và mạnh mẽ hơn đến quá trình phát triển nguồn nhân lực.
Đầu tư giảm cung lao động
Phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí. Nước ta có nguồn lao động dồi dào, giá nhân công rẻ tuy nhiên một vấn đề nổi cộm lên là chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, là sự thiếu, hiếm nghiêm trọng nguồn lao động được đào tạo, có tay nghề phù hợp. Nguyên nhân chính là do sự yếu kém của hệ thống giáo dục đào tạo. Vì vậy, đầu tư phát triển giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí nói chung và trình độ cho người lao động nói riêng là giải pháp cơ bản không chỉ trong thời gian trước mắt mà còn trong lâu dài. Các chính sách cụ thể đã được đề cập ở phần trước.
Giải pháp nhằm giảm sức ép đối với cung lao động: nước ta có một nguồn lực lao động rất dồi dào, tỷ lệ tăng hàng năm của số người đền tuổi lao động khá cao. Điều này đã tạo ra một sức ép lớn đối với thị trường lao động, do vậy nhà nước cần thực hiện các chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình nhằm hạn chế gia tăng dân số, giảm sức ép về cung lao động, đầu tư cho hệ thống tuyên truyền, vận động tới toàn xã hội về lợi ích của việc kế hoạch hóa dân số.
Cần đầu tư xây dựng mạng lưới y tế đến tận cấp cơ sở, tăng cường công tác truyền thông về dinh dưỡng và sức khỏe, thực hiện vệ sinh an toàn lao động. Đây là những giải pháp quan trọng để giải quyết vấn đề chất lượng lao động trong những năm tới.
Nhà nước cấn thực hiện các biện pháp gián tiếp, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng sản xuất và sinh hoạt an toàn hơn cho người dân tại điểm đến. Nâng cao độ linh hoạt cuả thị trường lao động thông qua việc tạo điều kiện thuận lợi cho di chuyển lao động, vì đây là một xu hướng tất yếu giúp người lao động có cơ hội tìm việc làm cho mình.
Đầu tư tăng cầu lao động
Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế là tiền đề để phát triển thị trường lao động. Tuy tăng trưởng kinh tế cao không nhất thiết dẫn đến tăng cầu về việc làm, vì điều này còn phụ thuộc vào phương thức tăng trưởng (dựa nhiều vào vốn, công nghệ hay dựa nhiều vào lao động). Song, để có thể tăng mức việc làm cho người lao động, việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, để đạt được “ngưỡng việc làm” vẫn là nhiệm vụ không thể thiếu trong thời gian tới.
Phát triển kinh tế phi nông nghiệp ở nông thôn. Nhà nước cần đầu tư và có cơ chế, chính sách phát triển các hoạt động phi nông nghiệp, tạo việc làm ở nông thôn bằng cách phát triển các ngành công nghiệp, ngành tiểu thủ công nghiệp ở nông thôn.
Xuất khẩu lao động được Đảng và nhà nước coi là một lĩnh vực kinh tế đối ngoại quan trọng, So với một số nhành khác, thu nhập cuả người lao động xuất khẩu có hiệu quả cao, vốn đầu tư ít và đem lại lợi ích nhiều mặt. Ngoài những chính sách, nguyên tắc để khuyến khích các tổ chức doanh nghiệp và các cá nhân hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu lao động, cần đầu tư, hỗ trợ tài chính cho công tác khảo sát, khai thác thị trường lao động ngoài nước để từ đó xây dựng các đề án mở rộng phát triển thị trường lao động ngoài nước. Ngoài ra, đối với từng thị trường cụ thể, cần áp dụng những chính sách phù hợp. Như đối với thị trường Đài Loan, cần tập trung đầu tư hỗ trợ các doanh nghiệp mạnh, có khả năng tiếp cận các công trình nhận thầu xây dựng, dự án lớn để cung cấp lao động ta với quy mô lớn trong lĩnh vực xây dựng, điện tử và các ngành công nghệ cao thay thế dần cho việc quá phụ thuộc vào việc cung cấp nguồn lao động giúp việc gia đình và chăm sóc người bệnh tại gia đình. Bên cạnh đó cần đầu tư hợp lý cho công tác tuyển chọn và đào tạo nguồn lao động xuất khẩu nhằm nâng cao chất lượng và đáp ứng cho thị trường lao động Đài Loan. Đẩy mạnh giáo dục người lao động về trách nhiệm và quyền hạn của họ khi làm việc ở nước ngoài. Đối với thị trường Nhật Bản, cần tiếp tục nâng cao chất lượng tuyển chọn, đào tạo và quản lý để tăng cường nhanh số tu nghiệp sinh sang Nhật Bản.
Nhóm các giải pháp đầu tư thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động
Đầu tư phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm
Khuyến khích, hỗ trợ đầu tư phát triển rộng rãi các trung tâm giới thiệu việc làm ở những nơi có thị trường lao động phát triển tương đối mạnh, ở những địa bàn có nhiều người tìm kiếm việc làm(các thành phố, thị xã, thị trấn, các huyện ở những vùng nông thôn cần thiết). Khi đầu tư thành lập hệ thống các trung tâm giới thiệu việc làm cần chú ý đến cả các cấp huyện, xã để đưa số lao động ở các vùng nông thôn vào dòng luân chuyển việc làm của xã hội. Hiện nay, hệ thống này mới chủ yếu tập trung ở các tỉnh lỵ. Hơn nữa việc thành lập các tổ chức giới thiệu việc làm cần được đầu tư mở rộng đối với mọi thành phần và khu vực kinh tế,mọi cơ quan, mọi đoàn thể để tạo ra dòng luân chuyển lao động có hiệu quả hơn.
Cần đầu tư xây dựng,nâng cấp trang thiết bị, đào tạo nâng cao kiến thức đội ngũ cán bộ của các trung tâm giới thiệu việc làm về pháp luật, về nghiệp vụ tư vấn việc làm…
Đầu tư phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động
Hỗ trợ nguồn kinh phí cho hoạt động điều tra, khảo sát, tập hợp, xử lý và lưu trữ các thông tin về thị trường lao động nhằm cung cấp đầy đủ, nhanh chóng, thuận tiện các thông tin về người tìm việc và việc tìm người, các yêu cầu về nghề nghiệp, kỹ năng…cho các bên tham gia thị trường lao động.
Cung cấp nguồn kinh phí để đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường lao động ngoài nước, xây dựng các kênh thông tin, cung cấp thông tin về nhu cầu lao động trên thị trường quốc tế, yêu cầu về chất lượng lao động ở nước ngoài để phục vụ cho việc đào tạo, tuyển chọn lao động xuất khẩu.
Đầu tư cải cách hệ thống trả công lao động theo hướng thị trường
Tiền lương là mối quan tâm đặc biệt đối với người làm công ăn lương, bởi vì tiền lương là nguồn thu nhập chính nhằm duy trì và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động và gia đình họ. Vì vậy tiền lương và thu nhập phải thể hiện sự công bằng trong phân phối theo kết quả lao động và hiệu suất công tác của mỗi người. Trên thế giới, chính sách tiền lương của mỗi quốc gia là chính sách tiền lương tối thiểu của mỗi quốc gia đó. Tiền lương tối thiểu có chức năng bảo vệ người lao động giản đơn khỏi sự bóc lột và đó cũng chính là lưới an toàn cho người lao động làm công ăn lương trong xã hội. Ở nước ta hiện nay, tiền lương tối thiểu còn được dùng làm căn cứ tính các mức lương trong thang bảng lương, làm căn cứ để xác định lương hưu và trợ cấp hàng tháng, ban hành mức lương tối thiểu. Thực tế đặt ra, cần phải có những giải pháp hoàn thiện và đổi mới chính sách tiền lương:
Đầu tưu tăng cường vai trò quản lý của nhà nước về tiền lương, trước hết cần xây dựng và ban hành luật tiền lương tối thiểu. Qua đó xác định rõ các đối tượng chịu tác động của tiền lương tối thiểu, cơ chế, nguyên tắc xác định và điều chỉnh tiền lương tối thiểu, xác định mức tiền lương tối thiểu (mức lương tối thiểu chung, mức lương tối thiểu vùng, mức lương tối thiểu ngành, mức lương tối thiểu tháng…) theo luật tiền lương tối thiểu.
Xây dựng cơ chế đóng và hưởng bảo hiểm xã hội phù hợp các mức hưởng an sinh xã hội, không dựa vào mức lương tối thiểu. Mục đích là loại bỏ các yếu tố không thuộc chức năng của tiền lương tối thiểu, đồng thời hạn chế dần cách xác định mức bảo hiểm xã hội dựa vào hệ thống thang bảng lương do nhà nước ban hành.
Thực hiện cơ chế 3 bên và 2 bên trong thỏa thuận tiền lương. Chính phủ cùng các cơ quan, tổ chức có liên quan nghiên cứu xây dựng cơ chế đối thoại, thương lượng và thỏa thuận về tiền lương, đặc biệt là tiền lương tối thiểu ở các doanh nghiệp và các ngành. Phải tạo ra sự bình đẳng giữa các bên. Do vậy cần xem xét cơ chế trả lương cho cán bộ công đoàn để tạo thế bình đẳng và ngang hàng đối với người đại diện các quyền lợi cho người lao động. Cần tổ chức các lớp đào tạo tập huấn nhằm trang bị và nâng cao kĩ năng đàm phán, thương lượng cho cán bộ công đoàn.
Đối viên chức nhà nước, để giải quyết hiện tượng chảy máu chất xám ra khu vực tư nhân, cần tăng cường đầu tư lương, để tiến tới san bằng khoảng cách với khu vực lương phi nhà nước. Sự san bằng này không chỉ về mặt con số mà còn về mặt đánh giá chất lượng. Với hệ thống nâng lương hiện nay cứ 3 năm nâng lương 1 lần không tạo ra sự phấn đấu trong nhà nước. Người làm ít cũng như người làm nhiều, cần có một hệ thống thưởng ngoài lương mạnh, gắn với công việc được giao để khuyết khích mọi người hoàn thành tốt công việc. Ngoài ra để tăng cường hiệu quả cũng như tạo sự hấp dẫn của công việc, cần lập một quỹ đào tạo thường xuyên, để vừa trang bị kỹ năng nghề nghiệp cho công chức lại vừa là phần thưởng cho những người làm việc xuất sắc.
Đầu tư tăng cường an sinh xã hội
An sinh xã hội cho mọi người, đặc biệt là người nghèo là một vấn đề cần phải được quan tâm giải quyết. Mặc dù đã được cải thiện nhưng tỷ lệ người nghèo vẫn rất cao. Thu nhập của những người nghèo chỉ đạt mức dưới 200 nghìn đồng một tháng một người. Điều này đồng nghĩa với việc người nghèo ở Việt Nam không có tích lũy cho tiết kiệm và dự phòng cho cuộc sống. Thực tế này đặt ra yêu cầu cần phải có giải pháp đảm bảo cuộc sống cho người dân, nhất là người nghèo khi họ về già, sức khỏe giảm sút, không thể lao động kiếm sống. Chính vì vậy việc đầu tư phát triển hệ thống ASXH thông qua bảo hiểm hưu trí cho người dân là một thực tế cần đáp ứng.
Thực tế cho thấy người dân được hưởng rất ít các chương trình phúc lợi xã hội, đặc biệt là các chương trình chăm sóc sức khỏe hiện nay còn rất mới mẻ ở một số khu vực nông thôn và miền núi. Các chương trình chăm sóc sức khỏe cho người dân mới chỉ dừng lại ở công tác phòng bệnh, các dịch vụ khám chữa bệnh cho người dân và còn rất hạn chế. Phần lớn tuyến y tế cơ sở không đáp ứng được yêu cầu điều trị cho người dân khi ốm đau do vậy phải chuyển lên tuyến trên, điều này làm chi phí đi lại, thuốc men… tăng quá tải so với thu nhập của họ. Do vậy cần đầu tư mở rộng bao phủ y tế tự nguyện, xây dựng cơ sở vật chất và trang thiết bị y tế, đào tạo đội ngũ cán bộ y tế có đầy đủ trình độ chuyên môn kĩ thuật đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Lao động nông nghiệp chiếm khoảng 66,5% lao động cả nước. Trong khi đó, lao động nông nghiệp phải phụ thuộc hoặc thường xuyên tiếp xúc với sự khắc nghiệt của thời tiết, thiên tai, dịch bệnh… điều này ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe và tính mạng của người lao động. Đặc biệt trong thời gian gần đây, hạn hán, lũ lụt, cúm gia cầm, lợn tai xanh… đã ảnh hưởng rất lớn đến các hoạt động sản xuất của người dân. Để giảm thiểu những gánh nặng liên quan đến bệnh tật, tai nạn rủi ro thất bát trong sản xuất đòi hỏi phải thực hiện tốt các chính sách ASXH như bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm sản xuất, trợ giúp khẩn cấp…cho người dân.
Đầu tư nâng cao an toàn và vệ sinh lao động
Xây dựng mục tiêu đảm bảo vệ sinh – an toàn lao động (VS-ATLĐ), cải thiện điều kiện lao động và chủ động thực hiện tốt các chương trình quốc gia về Bảo hộ lao động, ATLĐ, VSLĐ đến 2010 đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt, phấn đấu đạt được các mục tiêu đề ra. Tránh tình trạng không xây dựng kế hoạch cho chương trình quốc gia ở một số tỉnh như hiện nay.
Cải tạo các cơ quan chức năng ở địa phương, phối hợp với các bộ ngành có liên quan tăng cường công tác thanh tra về AT-VSLĐ ở tất cả các cơ sở thuộc mọi thành phần kinh tế, tập trung thanh tra các lĩnh vực xây dựng, lắp đặt, sử chữa và sử dụng điện, khai thác khoáng sản và khai thác đá. Sử dụng các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về ATLĐ ở các chương trình xây dựng trọng điểm. Phối hợp chặt chẽ với liên đoàn lao động, các tổ chức chính trị, xã hội địa phương thực hiện tốt công tác bảo hộ lao động.
Đẩy mạnh đầu tư cho công tác thông tin tuyên truyền, huấn luyện nâng cao nhận thức về AT-VSLĐ cho người sử dụng lao động, người lao động nhằm phòng ngừa và hạn chế thấp nhất TNLĐ, BNN, cháy nổ, đặc biệt là trong các lĩnh vực có nhiều yếu tố nguy hiểm, độc hại đe dọa đến tính mạng, sức khỏe người lao động, tăng cường phổ biến các biện pháp cải thiện điều kiện lao động dến các doanh nghiệp.
Các chính sách lao động và việc làm của nhà nước ngày càng bao quát rộng rãi hơn đến toàn bộ lực lượng lao động xã hội và từng bước đáp ứng được những yêu cầu về phát triển nguồn nhân lực trong điều kiện nền kinh tế thị trường. Song, thực tế, chính sách đầu tư và chính sách việc làm chưa thực sự gắn kết với nhau: vốn đầu tư liên tục tăng nhưng chất lượng việc làm được tạo ra thấp và sự chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra chậm chạp.
[1] Lợi tức thu được từ việc đi học bao gồm thu nhập, lợi ích tiền mặt ngoài lương và những đặc tính phi tiền khác của công việc. Giả định rằng đồ thị thể hiện tất cả những lợi ích này dưới những
[2] Dữ liệu trong hai hình vẽ minh họa và bảng này được lấy từ Bảng 6 của R. Allen, "Cách mạng Giáo dục và Cách mạng Kỹ thuật: Vai trò của KHXH & NV trong nền Kinh tế dựa trên Tri thức," Báo cáo của Ủy ban KHXH & NV, tháng 9 năm 1999 (có thể xem trên mạng tại địa chỉ english/resnews/researchresults/allen99.pdf), dựa trên cuộc Tổng điều tra dân số năm 1996.
[3] Nguồn: Thống kê Canada's Labour Force Historical Survey 2001.
[4] Trang web của ông có địa chỉ . Tại đây, bạn có thể tiếp cận dễ dàng với những phiên bản nghiên cứu của ông.
[5] Bạn có thể xem một số lập luận của ông ủng hộ việc trợ cấp cho cung nhân viên hoạt động trong lĩnh vực khoa học tại địa chỉ
[6] N. G. Mankiw, David Romer và David Weil, "Một Đóng góp vào Thuyết Kinh nghiệm của Tăng trưởng Kinh tế," Tạp chí Kinh tế hàng Quý 107, tháng 5 năm 1992, 407-437.
Tài liệu tham khảo:
- Quản lý nguồn nhân lực ở Việt Nam, một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Phạm Thành Nghị - Vũ Hoàng Ngân, Nhà xuất bản khoa học xã hội.
- Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam.,Ts Đoàn Văn Khải, Nhà xuất bản lý luận chính trị.
- Giáo trình Kinh tế đầu tư, PGS.TS. Nguyễn Thị Bạch Diệp, PGS.TS. Từ Quang Phương, Nhà xuất bản đại học Kinh tế Quốc dân.
- www.na.gov.vn, trang web của quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
- Nguồn vốn nhân lực, Bryan Caplan, George Mason University. Dịch viện: Lê Nga, www.kinhtehoc.com.
- Thời báo kinh tế Việt Nam, www.vneconomy.vn
- www.gso.gov.vn, trang web của Tổng cục thống kê Việt Nam.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dau tu phat trien nguon nhan luc.doc
- DTPTNNL2.ppt