Đầu tư quốc tế và tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài đối với tổng công ty lắp máy Việt Nam

MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH VẼ LỜI MỞ ĐẦU1 CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ QUỐC TẾ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI TỔNG CÔNG TY LẮP MÁY VIỆT NAM . 3 1.1Tổng quan về đầu tư quốc tế. 3 1.1.1Khái niệm và vai trò của đầu tư quốc tế. 3 1.1.1.1 Khái niệm về đầu tư quốc tế. 3 1.1.1.2 Vai trò của đầu tư quốc tế. 5 1.1.2Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài10 1.1.2.1Các yếu tố bên trong. 10 1.1.2.2 Các nhân tố bên ngoài11 1.1.3Các loại hình đầu tư quốc tế. 14 1.1.3.1 Đầu tư trực tiếp nước ngoài14 1.2 Tầm quan trọng của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đối với Tổng công ty Lắp máy Việt Nam .28 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA TỔNG CÔNG TY LẮP MÁY VIỆT NAM . 33 2.1 Tình hình thu hút đầu tư thành lập các công ty liên doanh của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam33 2.1.1 Công ty tư vấn thiết kế CIMAS. 36 2.1.2 Công ty tư vấn quốc tế LHT39 2.1.3 Công ty tư vấn thiết kế LFC40 2.2 Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu41 2.2.1 Tình hình thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua việc phát hành cổ phiếu. 41 2.2.2 Thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua phát hành trái phiếu doanh nghiệp. 52 2.3 Các chương trình hợp tác quốc tế khác. 60 2.4 Đánh giá chung về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam64 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA TỔNG CÔNG TY LẮP MÁY VIỆT NAM . 71 3.1 Phương hướng phát triển của Tổng công ty Lắp máy. 71 3.2 Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư quốc tế của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam72 3.2.1 Xây dựng thương hiệu. 72 3.2.2 Xếp hạng hệ số tín nhiệm73 3.2.3 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực. 77 3.2.4 Thực hiện các biện pháp xúc tiến đầu tư80 3.3 Kiến nghị với Nhà nước. 80 3.3.1 Hoàn thiện môi trường đầu tư80 3.3.2Thực hiện các biện pháp hỗ trợ xúc tiến đầu tư84 KẾT LUẬN86 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

doc88 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2786 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư quốc tế và tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài đối với tổng công ty lắp máy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ma hợp tác với Mitsubishi - một tập đoàn công nghiệp lớn của Nhật Bản với các công ty thành viên: Mitsubishi thương mại, Mitsubishi công nghiệp nặng và Mitsubishi Metal One. Tổng giám đốc Phạm Hùng và đại diện của Metal One - Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Moriji Kanada đã ký thoả thuận thành lập một công ty sơ chế thép chất lượng cao và thiết lập hệ thống phân phối sản phẩm này tại Việt Nam. Với Mitsubishi công nghiệp nặng, hai bên đã thoả thuận thành lập một nhóm chuyên gia công tác mỗi bên ba người để hoạch định, phân chia công việc mà mỗi bên có khả năng làm trong các dự án điện. Trên cơ sở đó, tiến tới việc ký thoả thuận hợp tác dài hạn nhằm tổ chức thực hiện các dự án phát triển nguồn điện tại Việt Nam theo hình thức tổng thầu EPC. Ba chuyên gia của Mitsubishi sẽ sang làm việc tại Lilama để thực hiện những thoả thuận trên. Ngoài ra, Lilama và Mitsubishi công nghiệp nặng cũng đề cập đến việc thành lập một công ty liên doanh đóng tàu vận tải biển sức chở tới 100.000 tấn tại một địa điểm ở miền Nam Việt Nam. Và theo thoả thuận này, Lilama được cử một số kỹ sư sang thực tập tại các nhà mày của Mitsubishi. Tại Mitsubishi thương mại, Lilama và One Energy -công ty thành viên của Mitsubishi thương mại, đã có cuộc làm việc nhằm thúc đẩy việc thực hiện thoã thuận hợp tác đã ký trước đó tại Việt Nam về việc hợp tác đầu tư xây dựng Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 2 công suất 1.200MW. Cũng theo thoả thuận này, Mitsubishi thương mại sẽ tham gia quá trình thực hiện dự án xây dựng nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 do Lilama làm chủ đầu tư. Theo thoã thuận công ty One Energy sở hữu 50% công ty này, Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 với 1,25 tỷ USD trong đó Mitssubishi đóng góp 50% tương ứng là 0,625 tỷ USD dự kiến số vốn góp được giải ngân từ 2008-2011. Một thoả thuận hợp tác để chế tạo các bồn, bể chứa dung tích lớn cho các nhà máy lọc dầu, hoá chất cũng đã được ký giữa Lilama và Tập đoàn TKK (Toyo Kanetsu KK). Thoả thuận này nhằm đẩy nhanh tiến độ thi công các hạng mục của Nhà máy lọc dầu Dung Quất do Lilama đảm nhiệm. Lilama cũng đã làm việc với Tập đoàn ngân hàng Tokyo Mitsubishi - UFJ - ltd - ngân hàng lớn nhất Nhật Bản hiện nay. Ngân hàng Tokyo - Mitsubishi - UFJ - ltd sẽ thu xếp vốn dài hạn cho các dự án đầu tư của Lilama, đồng thời chi nhánh của ngân hàng này tại Hà Nội sẽ thu xếp vốn ngắn hạn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của Lilama. Tiếp theo, trong chuyến tháp tùng đoàn của Thủ tướng Chính phủ đi thăm và làm việc tại các nước Liên Bang Nga, Cộng Hoà CZech và Ba Lan từ ngày 5/9 đến 14/9 năm 2007, Tổng công ty Lilama đã tiếp xúc, làm việc và ký thoả thuận hợp tác với một số đối tác của Nga. Nhận thấy thị trường máy xây dựng tại Việt Nam đang tăng cao, có nhiều điều kiện thuận lợi để các bên hợp tác nghiên cứu, chế tạo và phát triển sản phẩm máy xây dựng. Ngày 11/9/2007 tại Matxcơva Tổng công ty Lilama đã ký thoả thuận hợp tác với Liên hiệp sản xuất công ích URALVAGONZAVOD (UVZ) và Tập đoàn CHTZ-URALTRAC (CHTZ) - Liên Bang Nga về việc hợp tác chế tạo máy xúc và máy ủi tại và phát triển thị trường máy xây dựng tại Việt Nam. UVZ và CHTZ là hai doanh nghiệp của Nga chuyên hoạt động trong lĩnh vực chế tạo máy xây dựng như máy xúc bánh xích, máy ủi ... Các bên sẽ thành lập Công ty cổ phần để sản xuất lắp ráp máy xúc và máy ủi tại Việt Nam. Phía Nga sẽ chịu trách nhiệm thiết kế, cung cấp một số thiết bị như động cơ, hộp số, mô tơ, bơm thủy lực, các bộ phận điều khiển phía Việt Nam chế tạo các thiết bị còn lại theo thiết kế của phía đối tác. Tiếp theo đó phía đối tác sẽ chuyển giao công nghệ cho Lilama đủ khả năng chế tạo trọn gói sản phẩm mang thương hiệu Lilama. Ngày 11/9/2007 Tổng công ty Lắp máy Việt Nam, Viện Nghiên cứu cơ khí NARIME và Công ty Kondor-eco (OAO)-Liên Bang Nga ký thoả thuận thành lập Công ty cổ phần quốc tế thiết bị lọc bụi Lilama các cổ đông thống nhất góp vốn thành lập công ty cổ phần với tư cách là cổ đông sáng lập của Công ty. Công ty sẽ hoạt động trong lĩnh vực: tư vấn, thiết kế, chế tạo, sửa chữa, chuyển giao công nghệ thiết bị xử lý khí thải công nghiệp bao gồm nhưng không hạn chế các thiết bị như lọc bụi tĩnh điện, lọc bụi túi cho các nhà máy công nghiệp. Ngày 27/12/2007, tại Hà Nội, Tổng công ty Lắp máy Việt Nam (Lilama) và Tập đoàn Đầu tư Điện lực Trung Quốc (CPI) ký thỏa thuận hợp tác phát triển các dự án công nghiệp tại Việt Nam và một số nước trong khu vực. Tổng giám đốc Lilama Phạm Hùng cho biết, theo thoả thuận hợp tác này, Lilama và CPI cùng phối hợp đầu tư các dự án nhiệt điện than theo hình thức BOT tại Việt Nam trên cơ sở quy hoạch phát triển điện lực của Chính phủ. Hiện nay, việc hợp tác với các đối tác nước ngoài theo hình thức BOT là một giải pháp để giải quyết vấn đề thiếu vốn và công nghệ Ngoài lĩnh vực điện lực, Lilama và CPI sẽ tiếp tục mở rộng hợp tác đầu tư phát triển về khoáng sản, luyện kim. Trên cơ sở biên bản hợp tác này, Lilama và CPI cũng ký thoả thuận tham gia đấu thầu để làm chủ đầu tư dự án nhiệt điện Nghi Sơn 2 theo hình thức BOT. Cùng đó, Lilama, CPI và Công ty Veagle (đăng ký tại Hồng Công) cũng ký thoả thuận hợp tác thành lập Công ty cổ phần quản lý dự án chuyên nghiệp để cùng tham gia xây dựng, vận hành và kinh doanh các dự án sau này. Tại lễ ký kết, Phó tổng giám đốc Tập đoàn CPI khẳng định Lilama là đối tác hợp tác chiến lược lý tưởng của CPI bởi Lilama không chỉ có đẳng cấp cao về cơ khí lắp máy mà còn rất thành công trong lĩnh vực phát triển các dự án điện tại Việt Nam. Tập đoàn CPI là doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, triển khai thành công nhiều dự án năng lượng trong khu vực Châu Á và đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam từ rất sớm. Hiện nay, CPI đang quản lý và vận hành nhiều công trình điện lớn tại Trung Quốc với tổng công suất ước tính khoảng 45.000 MW (sản lượng này gấp khoảng 3 lần tổng công suất điện của Việt Nam Theo thỏa thuận vừa ký kết, thời gian tới, Lilama và CPI sẽ đồng phối hợp tham gia đầu tư các dự án nhiệt điện than, nhiệt điện hạt nhân theo hình thức BOT tại Việt Nam trên cơ sở qui hoạch phát triển điện lực đã được Chính phủ Việt Nam phê duyệt. Ngoài ra, hai bên sẽ cùng mở rộng đầu tư các dự án công nghiệp ra một số quốc gia khác. Để triển khai quá trình hợp tác này, động thái đầu tiên của hai bên sẽ là thành lập Công ty cổ phần quản lý dự án điện chuyên nghiệp, đảm nhiệm tất cả các khâu xây dựng - vận hành - kinh doanh - quản lý các dự án nhà máy điện. Tập đoàn CPI là doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn, triển khai thành công nhiều dự án năng lượng trong khu vực Châu Á và đã thâm nhập vào thị trường Việt Nam từ rất sớm. Hiện nay, CPI đang quản lý và vận hành nhiều công trình điện lớn tại Trung Quốc với tổng công suất ước tính khoảng 45.000 MW (sản lượng này gấp khoảng 3 lần tổng công suất điện của Việt Nam). CPI có tổng vốn 220 tỷ nhân dân tệ với hệ thống dự án trải rộng khắp nơi, sản lượng bình quân hàng năm của một số sản phẩm chính cũng đạt cao như: than 28 triệu tấn, nhôm 360.000 tấn, 331 km đường sắt... Hợp tác giữa Lilama và CPI còn góp phần thúc đẩy quan hệ hợp tác thương mại giữa Việt Nam - Trung Quốc. 2.4 Đánh giá chung về tình hình thu hút đầu tư nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam Qua trình bày trên, chúng ta thấy rằng Lilama đã thu hút được nhiều tập đoàn lớn trên thế giới để đầu tư hợp tác. Đối tác của Lilama đến từ khắp mọi nơi trên thế giới Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nga, Đan Mạch, Trung Quốc…Và đó đều là những tập đoàn có uy tín lớn trên thế giới như đối tác trong công ty Liên doanh CIMAS là tập đoàn CTCI – là tập đoàn đóng vai trò tổng thầu lớn nhất Đài Loan, Tập đoàn Huyndai, Tập đoàn Mitssubishi, Tập đoàn CPI- tập đoàn điện lực hàng đầu của Trung Quốc… Hợp tác với các tập đoàn hàng đầu nên các công ty liên doanh của Lilama đang làm việc có hiệu quả không chỉ đáp ứng nhu cầu tư vấn, thiết kế các dự án của Tổng công ty mà còn đáp ứng nhu cầu thiết kế xây dựng cho các dự án trong thị trường nội địa. Các công ty liên doanh đang thực hiện tư vấn thiết kế cho các dự án do Lilama đảm trách. Công ty liên doanh tư vấn quốc tế LHT đang thực hiện tư vấn thiết kế cho dự án nhà máy điện Nhơn Trạch 1 do Lilama làm tổng thầu EPC với giá trị hợp đồng xấp xỉ 305 triệu USD. Hợp đồng trên dự kiến sẽ hoàn thành vào 12/2008. Sau khi ra đời Liên doanh LFC đang thực hiện tư vấn cho dự án nhà máy xi măng Sông Thao. Đây là dự án do Lilama và Tập đoàn dầu khí Việt Nam- PetroVietNam làm chủ đầu tư. CIMAS là liên doanh hoạt động hiệu quả với lợi nhuận trên 200.000USD/năm, đóng góp hàng chục triệu đồng vào ngân sách nhà nước. Trong năm 2006, CIMAS đã chính thức nhận được hợp đồng EPC cho dự án Nhà máy điện Cà Mau tại Việt Nam - một dự án do Lilama làm tổng thầu EPC. Cùng với sự tư vấn của công ty tư vấn thiết kế CIMAS và sự nỗ lực của hơn 7000 kỹ sư, công nhân của Lilama Nhà máy điện Cà Mau 1 đã hoàn thành đúng tiến độ phát điện lên mạng lưới quốc gia với công suất 750 MW vào cuối tháng 3/2008. ăm 2007 doanh thu của công ty là 8 triệu USD. Các doanh nghiệp liên doanh đang hỗ trợ để Lilama dần dần khẳng định thương hiệu của mình. Bên cạnh sự hoạt động thành công của các công ty liên doanh, việc phát hành trái phiếu của Lilama thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài. Với nguồn vốn lớn thu được từ hoạt động phát hành trái phiếu đang được Lilama sử dụng vào các dự án nhà máy điện theo mục đích phát hành trái phiếu. Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1, Thuỷ điện Hủa Na, Nhà máy xi măng Đô Lương, Trụ sở Tổng công ty tại đường Phạm Hùng và Khu nhà hỗn hợp ở và kết hợp việc làm Lilama tại Tp Hồ Chí Minh đang được thực hiện. Tổng hợp hiệu quả sử dụng vốn của Tổng công ty Lắp máy được tóm tắt qua bảng sau: Bảng 2.7 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của Lilama giai đoạn 2005-2007 2005 2006 2007 Tỷ suất lợi nhuận trên vốn 13% 24% 30% (Nguồn: Báo cáo tài chính Tổng công ty Lắp máy Việt Nam) Theo báo cáo của Bộ Tài chính năm 2007, tỷ suất lợi nhuận trên vốn của các doanh nghiệp nhà nước đạt 10-20%. Theo số liệu bảng 2.7 tỷ suất lợi nhuận trên vốn của Lilama cao từ 13-30% đã khẳng định được sự hiệu quả hoạt động của nguồn vốn. Ngoài các dự án đang thực hiện, Lilama cũng đã thực hiện nhiều biện pháp xúc tiến đầu tư để thu hút nguồn vốn đầu tư quốc tế. Các biện pháp này đã đem lại hiệu quả cao. Các cuộc tiếp xúc giữa đoàn đại biểu cấp cao của Tổng công ty với các tập đoàn lớn trên thế giới được diễn ra. Đoàn đại biểu cấp cao của Lilama thường đem các dự án đi kêu gọi vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Việc thu hút đầu tư nước ngoài không còn là vấn đề của các cấp lãnh đạo mà còn là vấn đề được chú trọng của các doanh nghiệp. Năm 2007, Lilama đã thực hiện nhiều chương trình tiếp xúc trực tiếp với các đối tác nước ngoài. Từ ngày 3 đến 9/6/2007, đoàn đại biểu cấp cao của Lilama do Chủ tịch Hội đồng quản trị Nguyễn Thế Thành và Tổng Giám đốc Phạm Hùng dẫn đầu đã sang thăm, làm việc tại Hàn Quốc và Nhật Bản. Trong chuyến đi này Tổng công ty đã ký kết được nhiều hợp đồng lớn. Đặc biệt là ký kết thoã thuận về dự án Nhà máy Nhiệt điện Vũng Áng 1 giữa Lilama v à Mitsubishi thương mại đây là những dự án đầu tiên mà Lilama kêu gọi thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Cũng trong năm này, trong chuyến tháp tùng đoàn của Thủ tướng Chính phủ đi thăm và làm việc tại các nước Liên Bang Nga, Cộng Hoà CZech và Ba Lan từ ngày 5/9 đến 14/9, Tổng công ty Lilama đã tiếp xúc, làm việc và ký thoả thuận hợp tác với một số đối tác của Nga. Các cuộc tiếp xúc này đã đem lại cho Lilama những dự án lớn mang lại hiệu quả cao trong tương lai. Đặc biệt là, việc hợp tác giữa Lilama và Tập đoàn CI của Trung Quốc dưới hình thức BOT các dự án điện. Đây là hình thức đầu tư mà Nhà nước không phải bỏ vốn mà các nhà đầu tư phải tự bỏ vốn sở hữu của mình, chịu hoàn toàn trách nhiệm về dự án trong suốt thời gian dự án được thực hiện. Điều này đã giảm được sức ép về vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng lên ngân sách nhà nước, đồng thời, phát huy được tính chủ động và sáng tạo của các nhà đầu tư. Tuy nhiên, vốn chủ sở hữu của nhà đầu tư thường không thể đáp ứng đủ tổng vốn đầu tư của dự án mà thường chỉ chiếm một tỷ lệ nhất định nào đó (thông thường là 30% tổng vốn đầu tư), vì vậy các nhà đầu tư thường phải vay tín dụng từ các ngân hàng, các tổ chức tài chính trong nước và quốc tế. Dự án đầu tư theo hình thức BOT phải được tính toán cẩn thận và xác định là có hiệu quả thì các ngân hàng, tổ chức tài chính mới có thể cho vay. Như vậy, hình thức đầu tư BOT đã kết hợp được rất nhiều bên có năng lực tham gia dự án mà không cần đến vốn từ ngân sách nhà nước mà vẫn đảm bảo dự án được thực hiện có hiệu quả và theo đúng chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Chính phủ các nước. Theo số liệu của ngành điện, nhu cầu tiêu thụ điện hàng năm của cả nước tăng khoảng 14% - 15% và để đáp ứng được mức tăng này mỗi năm phải bỏ ra khoảng 1 tỷ USD vốn đầu tư. Trong khi đó, khả năng tự đầu tư của ngành điện chỉ đáp ứng được 250-300 triệu USD từ các khoản khấu hao cơ bản, tăng giá và phụ thu, lợi nhuận sau thuế... Tổng nguồn vốn đầu tư để đáp ứng được các nhu cầu về điện và năng lượng chiếm tới 12% giá trị GDP. Chính phủ chỉ có thể cung cấp 25% số vốn cần thiết, trong khi nguồn vốn ODA chỉ có thể tài trợ được 17%. Như vậy rõ ràng nguồn vốn đầu tư của khu vực tư nhân sẽ là nguồn vốn chủ đạo, chiếm 58% còn lại. Vì lý do này mà hiện nay tất cả các dự án phát triển điện đều được Chính phủ cam kết bao tiêu toàn bộ sản lượng điện sản xuất ra thông qua các hợp đồng mua bán với ngành điện trong nhiều năm. Đây chính là cơ hội khá thuận lợi cho các dự án đầu tư BOT và rất hấp dẫn các đối tác đầu tư có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Ưu điểm lớn nhất của hình thức đầu tư BOT trong nước là khả năng huy động được vốn cũng như năng lực về quản lý, về khoa học kỹ thuật của mọi thành phần kinh tế, mọi cá nhân để thực hiện, mở rộng các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, do vậy, các dự án BOT có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của đất nước. Thông qua thực hiện các dự án theo hình thức đầu tư BOT, các nhà đầu tư buộc phải tính toán hiệu quả kinh tế một cách chính xác, do đó phải nghiên cứu, hoàn thiện và áp dụng các phương pháp quản lý tối ưu, phải đầu tư đổi mới kỹ thuật, áp dụng những công nghệ tiên tiến. Như vậy, hình thức BOT sẽ góp phần nâng cao trình độ quản lý sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cá nhân hiện nay cũng như trong tương lai, đồng thời đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá và sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Ngoài những thành công đã đạt được, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài thành lập các công ty liên doanh của Lilama còn nhiều hạn chế. Vẫn còn tình trạng công ty liên doanh làm ăn thua lỗ. Công ty Poslilama là công ty liên doanh của Lilama được thành lập vào năm 1995. Poslilama một công ty hoạt động trong lĩnh vực cơ khí chế tạo, là công ty liên doanh giữa Tổng Công Ty Lắp Máy Việt Nam và Tập Đoàn POSCO của Hàn Quốc chuyên về lắp đặt và gia công kết cấu thép và thùng, bể chứa bằng thép, công trình dân dụng, tòa nhà cao ốc và nhà máy công nghiệp. Công ty Liên doanh Kết cấu thép POS-Lilama với vốn đầu tư hơn 20 triệu USD, vốn pháp định 8,4 triệu USD, phía Việt Nam là Tổng công ty Lắp máy Việt Nam góp vốn 30%, tương đương 36,3 tỷ đồng. Tuy nhiên hoạt động không hiệu quả trong năm 2005, số lỗ luỹ kế lên tới gần 129 tỷ đồng. Mà trong các công ty Liên doanh các bên đối tác chỉ chịu trách nhiêm giới hạn trong số vốn mình đã góp như đã trình bày ở chương 1. Do đó, với sỗ lỗ luỹ kế 129 tỷ đồng Lilama với mức vốn góp 30% tương đương với mức lỗ là 38,7 tỷ đồng. So với số vốn góp điều lệ 36,3 tỷ đồng Lilama chẳng những mất hết phần vốn góp trong liên doanh mà còn bị âm thêm gần 2,4 tỷ đồng nữa. Do đó, Poslilama đã bị bên nước ngoài mua lại với giá rẻ và hiện nay Poslilama đang hoạt động dưới hình thức 100% vốn nước ngoài. Từ bài học của Poslilama đặt các liên doanh khác của Lilama cảnh giác trước những khó khăn của hoạt động liên doanh. Đó là Lilama tốn công giải tỏa mặt bằng, góp phần phổ cập thương hiệu…trong các liên doanh, để rồi một ngày do thua lỗ, bên nước ngoài dường như thôn tính phần vốn trong nước với giá rẻ. Đây không phải là vấn đề của riêng Tổng công ty Lắp máy Việt Nam gặp phải mà đây là một vấn đề lớn. Bởi lẽ, phần lớn (khoảng 70% dự án) các dự án có vốn đầu tư nước ngoài đã được thực hiện dưới hình thức các liên doanh giữa bên nước ngoài và bên Việt Nam, trong đó bên Việt Nam thường là các doanh nghiệp nhà nước (98% trong các dự án liên doanh). Lựa chọn hình thức liên doanh, nhà đầu tư nước ngoài có một số ưu điểm như: tiếp cận thị trường nội địa nhờ góp sức của bên Việt Nam, tiếp cận nguồn đất đai đang do doanh nghiệp nhà nước chiếm giữ mà chưa sử dụng, có được hậu thuẫn của các cơ quan nhà nước Việt Nam, nhất là cơ quan chủ quản của bên Việt Nam và chia sẻ rủi ro. Tuy vậy, hình thức liên doanh cũng bộc lộ khá nhiều yếu điểm, như việc quản trị công ty đôi khi rất khó khăn do triết lí và văn hóa kinh doanh của các bên khác nhau, đôi khi bên Việt Nam có khả năng vốn rất hạn chế, sau khi góp vốn bằng quyền sử dụng đất, thường lệ thuộc vào bên nước ngoài trong việc tìm kiếm các nguồn vốn bổ sung hoặCác cơ quan quản lý chưa có sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ, tháo gỡ những khó khăn về tài chính của các liên doanh, đặc biệt là sau khi cấp phép, các liên doanh bước vào sản xuất kinh doanh. Nhiều liên doanh chưa xây dựng cơ chế quản lý, điều hành thích hợp. Một số đối tác Việt Nam chưa tạo được thế đứng vững mạnh trong liên doanh, thậm chí phó mặc cho phía nước ngoài giải quyết khó khăn nên đã dẫn đến thua lỗ kéo dài. Một số cán bộ phía Việt Nam được cử vào bộ máy quản lý, điều hành liên doanh chưa làm tròn trách nhiệm trong việc đấu tranh bảo vệ quyền lợi, không thông tin kịp thời cho các đối tác Việt Nam và các cơ quan quản lý Nhà nước. Bên cạnh đó, có không ít đối tác Việt Nam chưa có biện pháp xử lý kiên quyết khi liên doanh thua lỗ. Dù chưa có chứng minh bằng thực nghiệm và cơ sở dữ liệu, song có nhiều dấu hiệu cho thấy bên nước ngoài có thể thao túng liên doanh khá dễ dàng, nếu bên Việt Nam thường chỉ là các doanh nghiệp nhà nước. Tỷ lệ vốn góp áp đảo (thường 70% vốn góp từ nước ngoài) chỉ là một khía cạnh. Thậm chí, bên nước ngoài chỉ cần chiếm một tỷ lệ vốn rất thấp, kiểu như 10% cổ phần của các cổ đông chiến lược nước ngoài trong các ngân hàng quốc nội, song cổ đông nhỏ bé ấy vẫn có thể thao túng công ty, bởi lẽ phần quốc nội, dù là 30% hay tới 90%, đều không có đại diện rõ ràng. Bằng cách mua chuộc đại diện bên Việt Nam trong Hội đồng quản trị các liên doanh những lợi ích tư, ví dụ lương bổng cao (2,500-3,000 USD/tháng), cấp học bổng cho người thân, bên nước ngoài có thể vô hiệu hóa vai trò giám sát của các vị đại diện quốc hữu này và khai thác khối tài sản hầu như vô chủ góp từ Việt Nam. Chính sự yếu kém về năng lực của bên Việt Nam cùng những khó khăn của hoạt động liên doanh đã làm cho Poslilama làm ăn thua lỗ và bị nước ngoài thôn tính. Ngoài ra, việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam mới chỉ tập trung vào lĩnh vực tư vấn thiết kế, thu hút đầu tư trực tiếp vào các dự án mới bắt đầu thực hiện gần đây. Điều này là do, Lilama hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng như điện, xi măng… Các dự án cần vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn chậm nên chưa thu hút được các nhà đầu tư vào các lĩnh vực này. Hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài vào các dự án chỉ mới bắt đầu hình thành. Mặt khác, các cổ phiếu của các công ty thành viên của Lilama chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài. Do chưa tạo được sự tin tưởng của các nhà đầu tư. CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI CỦA TỔNG CÔNG TY LẮP MÁY VIỆT NAM 3.1 Phương hướng phát triển của Tổng công ty Lắp máy Chiến lược phát triển của Lilama là thành tập đoàn công nghiệp xây dựng mạnh, hoạt động đa ngành nghề vào năm 2010. Lilama đã bắt đầu chuyển sang đầu tư vào điện, xi măng và sắt thép. Chính phủ cũng đã phê duyệt để Lilama xây dựng các trung tâm cơ khí công nghiệp nặng để tiến tới chế tạo 80 - 90% thiết bị cho các công trình công nghiệp lớn. Các dự án đầu tư của Lilama đang được triển khai chọn lọc, trọng điểm vào những lĩnh vực then chốt phù hợp với quy hoạch phát triển của Chính phủ đến năm 2020. Đó là các dự án thuộc ngành điện : nhà máy nhiệt điện Vũng Áng 1 công suất 1.200 MW, thuỷ điện Hủa Na 200 MW, thuỷ điện Sông Ông,  Sông Vàng, xi măng Thăng Long…Sau 2012 và chậm nhất là 2015 Lilama sẽ có khoảng 3000MW trong 13.000 MW điện của cả nước, chiếm 10% sản lượng điện Quốc gia. Các dự án nhà máy xi măng đang xây dựng như nhà máy xi măng lớn nhất ở Hoành Bồ (Quảng Ninh) 2,3 triệu tấn/năm, Nhà máy xi măng Thăng Long 1 và Thăng Long 2 đã có quyết định của Chính phủ, thêm vào đó là các nhà máy xi măng Đô Lương, Sông Thao và một số nhà máy nhỏ khác để có thể đạt sản lượng 6,5 triệu tấn/năm vào 2012. Đến lúc đó Lilama sẽ chiếm 15% sản lượng xi măng cả nước. Lilama cũng đang tính tới hướng hợp tác với Bộ Quốc phòng trong lĩnh vực chế tạo thiết bị cơ khí đồng thời "tấn công" sang lĩnh vực đóng tàu với mục tiêu: phải đuổi kịp Vinashin. Tranh thủ sự chuyển dịch kinh tế thế giới, Tổng công ty đẩy mạnh đầu tư cho đóng tàu vận tải biển. Ngoài các cơ sở đóng tàu đã có ở Hải Phòng, Hải Dương, Lilama sẽ đầu tư xây dựng nhà máy đóng tàu sức trở 60.000 tấn ở Long An. Không chỉ mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực công nghiệp khác, Lilama còn tham gia vào đầu tư bất động sản. Đầu tư bất động sản để đón bắt xu hướng phát triển. Lilama đang có 3 công ty bất động sản đó là Lilama Land, Lilama UDC và...3 công ty này trong tương lai sẽ làm ăn rất tốt vì thị trường rất lớn. Do đó, nguồn vốn cho đầu tư và phát triển của Lilama trong giai đoạn tới là rất lớn. Theo số liệu của Phòng kế hoạch và đầu tư Tổng công ty Lắp máy , giai đoạn 2007 – 2010 Tổng Công ty cần huy động khoảng 37.000 tỷ đồng. Để đáp ứng được nhu cầu vốn đó, Tổng công ty tiếp tục thực hiện các biện pháp để thu hút nguồn vốn đầu tư từ trong và ngoài nước thông qua việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu, trái phiếu quốc tế và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án. 3.2 Giải pháp tăng cường thu hút vốn đầu tư quốc tế của Tổng công ty Lắp máy Việt Nam 3.2.1 Xây dựng thương hiệu Để tăng cường thu hút vốn đầu tư nước ngoài, Tổng công ty cần xây dựng thương hiệu để khẳng định vị trí của mình trên thị trường.Thương hiệu chính là tiền. Chúng ta phải biết chuyển nó thành của cải vật chất. Của cải ở đây lại chính là tiền, là tài chính, là nguồn vốn. Các nhà đầu tư khi bỏ vốn vào một công ty nào đó thì quan tâm đến thương hiệu của công ty đó. Hiện nay, thị trường chứng khoán đang phát triển mạnh mẽ ngày càng có nhiều công ty niêm yết trên sàn chứng khoán đem lại nhiều cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, để cổ phiếu của công ty luôn hấp dẫn các nhà đầu tư không phải là điều dễ dàng. Với tỷ lệ 0,04% cổ phiếu của Lilama 10 mà các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ - một tỷ lệ thấp nhất mà các nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ đối với các cổ phiếu niêm yết trên sàn đặt Lilama trước thách thức phải xây dựng một thương hiệu mạnh tạo lòng tin cho các nhà đầu tư. Đã đến lúc phải chấm dứt cái thời "bán lưng cho đất, bán mặt cho trời" trên các công trình, các dự án nhỏ hay mải mê vào việc tìm kiếm những hợp đồng và cạnh tranh với các nhà thầu thua kém về nhiều mặt. Đã đến lúc phải chuyển sang một hướng khác khi đã bỏ ra cả chục năm trời để xây dựng thương hiệu và biến nó thành những khả năng về tài chính, vốn... Đấy là cái tư duy tài chính mà bây giờ các tập đoàn kinh tế công nghiệp lớn đang làm. Lilama đã khẳng định được thương hiệu thông qua vai trò là tổng thầu EPC, các lô hàng xuất khẩu mang thương hiệu Lilama. Những năm gần đây, các công ty của Lilama lớn mạnh dần về tài chính bằng cổ phần hoá, bằng phát hành thêm trái phiếu, cổ phiếu. Thương hiệu công ty nào mạnh, có uy tín hơn thì việc huy động vốn trở nên dễ dàng hơn, và như vậy chúng ta đã biến thương hiệu thành tiền, thành khả năng tài chính, có điều chúng ta còn dè dặt quá, chúng ta chưa chú ý đền việc đánh bóng thương hiệu. Tuy nhiên, Lilama lại chưa thực sự chú trọng đến xây dựng thương hiệu một cách bài bản. Thương hiệu Lilama mới chỉ dừng ở mức độ phân biệt chứ chưa được thương mại hoá. Đây cũng là một thực trạng của quá trình chuyển đổi nền kinh tế. Ở nền kinh tế tập trung , chúng ta không có sự cạnh tranh về thương hiệu nhưng trong nền kinh tế thị trường có sự hội nhập sâu của nền kinh tế toàn cầu, việc định vị thương hiệu là một việc làm cần thiết. Thương hiệu không có nghĩa một cái tên, một cái logo nhãn hiệu được đăng ký bảo hộ thế là hoàn thành xong việc xây dựng thương hiệu…nhưng thực chất của việc xây dựng, phát triển và định vị thương hiệu phải là làm cho cái tên trở nên có ý nghĩa, có tác động tâm lý tới các nhà đầu tư và quan trọng là phải có giá trị thương mại. Việc này là một công việc lâu dài, mang tính chiến lược của doanh nghiệp, bao gồm việc định hướng chiến lược cho hệ thống thương hiệu, việc quảng bá và định vị thương hiệu và các hệ thống quản lý nhằm bảo vệ và phát triển thương hiệu. Cho nên, cần có ngay những biện pháp cụ thể, nghĩa là toàn Tổng Công ty phải có những cuộc hội thảo và các công ty phải có ngay một lực lượng đặc biệt về tài chính, kế toán, có những lớp đào tạo để có những tiêu chí đó rồi chuyển thành kiến thức thực thi. 3.2.2 Xếp hạng hệ số tín nhiệm Để có thể tiếp tục huy động vốn thông qua các đợt phát hành trái phiếu và đặc biệt Lilama đang có chiến lược phát hành trái phiếu quốc tế thì việc tiến hành xếp hạng hệ số tín nhiệm là việc làm cần thiết. Hệ số tín nhiệm tức là định mức tín dụng hay hệ số tín nhiệm - là hệ số đánh giá khả năng tài chính và khả năng thanh toán của một tổ chức đối với các khoản tiền nghĩa vụ - gốc và lãi - của các công cụ nợ mà nó phát hành. Công cụ nợ bao gồm cả công cụ ngắn hạn như hối phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi, hoặc dài hạn như trái phiếu, cổ phiếu ưu đãi. Tổ chức phát hành có thể là chính phủ cấp quốc gia, cấp tỉnh, thành phố, hay các công ty. Đối với các công ty, tổ chức: kết quả xếp hạng hệ số tín nhiệm có ảnh huởng rất lớn đến sự thành công của việc phát hành trái phiếu, nhất là khi phát hành trái phiếu ra nuớc ngoài, cũng như việc xác định lãi suất trái phiếu (hệ số tín nhiệm càng cao thì lãi trái phiếu càng thấp và ngược lại). Thiếu sự xác định hệ số tín nhiệm, thị trường trái phiếu dài hạn của các công ty chưa thể phát triển được. Đối với các nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư tổ chức, chuyên nghiệp, ngoài việc căn cứ vào hệ số tín nhiệm để quyết định mua trái phiếu, họ còn dùng hệ số tín nhiệm của trái phiếu của công ty đó để làm căn cứ để quyết định có đưa cổ phiếu của công ty đó vào danh mục đầu tư. Hệ số tín nhiệm thể hiện mức độ rủi ro của các khoản nợ. Hệ số tín nhiệm càng cao, lãi suất trái phiếu, nói cách khác là lãi suất đi vay càng thấp và ngược lại. Các yếu tố quyết định đánh giá độ rủi ro gồm yếu tố chính trị, triển vọng tăng trưởng và cơ cấu nền kinh tế, tính linh hoạt tài chính. Lilama đang có kế hoạch phát hành trái phiếu quốc tế thì cần phải chuẩn bị các điều kiện để xếp hạng hệ số tín nhiệm. Các điều kiện để xếp hạng hệ số tín nhiệm : Điều kiện chung là trị giá phát hành trái phiếu quốc tế phải nằm trong tổng hạn mức vay thương mại của quốc gia được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt hàng năm; các chương trình, dự án được xác định là trọng điểm quốc gia hoặc các dự án đầu tư có hiệu quả cao, đã hoàn chỉnh các thủ tục đầu tư, đơn vị phát hành phải đáp ứng được yêu cầu của thị trường quốc tế về hệ số tín nhiệm để phát hành trái phiếu và có đề án phát hành chi tiết được các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đối với trái phiếu doanh nghiệp được Chính phủ bảo lãnh, DN phải có hệ số tín nhiệm bằng hoặc chỉ thấp hơn một bậc so với hệ số tín nhiệm quốc gia và có phương án sử dụng tiền trái phiếu được Bộ Tài chính thẩm định và chấp thuận để báo cáo Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đối với trái phiếu do DNNN tự phát hành, không có bảo lãnh của Chính phủ thì đơn vị đó phải có hệ số tín nhiệm bằng hoặc cao hơn hệ số tín nhiệm quốc gia, đảm bảo chi phí vay hợp lý, bởi lẽ nợ của các DNNN vẫn thuộc về nợ của khu vực công. Trị giá tương đương của mỗi đợt phát hành trái phiếu doanh nghiệp không dưới 200 triệu USD. Ở Việt Nam, hiện tại có 3 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tương tự nhưng vẫn chưa được quốc tế công nhận và  vẫn chưa thực hiện đúng chức năng của một tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm. Trong khi đó, định mức tín dụng xuất hiện từ trước thế kỷ trước tại Mỹ do nhu cầu đánh giá tín nhiệm của các doanh nghiệp ngành đường sắt. Đến năm 1914 thì công ty Moody’s - tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm đầu tiên trên thế giới được thành lập bởi ông John Moody dựa vào một công ty được ông thành lập trước đó vào năm 1909.  Năm 1941 tổ chức Standard and Poors được thành lập trên sự sát nhập của Poor’s Publishing va Standard Statistics.  Hiện tại trên thế giới có một số tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm được quốc tế công nhận, cũng như một số dành tổ chức được quốc gia của họ công nhận. Tuy vậy 3 tổ chức Moody’s, Standard and Poor’s và Pitch Ratings  là 3 tổ chức được công nhận, có uy tín và thị phần cao nhất trên thế giới. Tùy theo từng tổ chức, mà phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm có khác nhau đôi chút. Tuy vậy về cơ bản chúng khá giống nhau. Theo đó, công ty đối tương sẽ được đánh giá từ quốc gia, môi trường, đến ngành kinh doanh mà nó đang hoạt động. Sau đó, các thông số có tính cách định tính chẳng hạn chất lượng, kỹ năng của ban quản lý, chiến lược marketing, chính sách quản lý…cũng sẽ được xem xét. Kế đó, và cũng rất quan trọng là tất cả các chỉ số chính phản ánh tình hình tài chính sẽ được đưa ra phân tích, đánh giá. Tổng hợp lại những yếu tố trên, tổ chức đánh giá tín nhiệm sẽ xếp hạng các trái phiếu theo các mức khác nhau đã định sẵn và ký hiệu bằng các chữ cái đầu tiên; theo bảng sau : Bảng 3.1 Các hạng Mức của Hệ Số Tín Nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn Chỉ số Tín Nhiệm theo S&P Chỉ số Tín Nhiệm theo Moody’s Diễn giải Phân loại AAA Aaa Chất luợng cao nhất, ổn định, độ rủi ro thấp nhất Trái phiếu có thể  đầu tư AA Aa Chất lượng cao, rủi ro thấp, Độ rủi ro chỉ cao hơn hạng AAA một bậc. A A Chất lượng khá, tuy vậy có thể bị ảnh huỡng bởi tình hình kinh tế. BBB Baa Chất lượng trung bình, an toàn trong thời gian hiện tại, tuy vậy có ẩn chứa một số yếu tố rủi ro. BB Ba Chất lượng trung bình thấp, có thế gặp khó khăn trong việc trả nợ, bị ảnh hưởng đối với sự thay đổi của tình hình kinh tế. Trái phiếu có độ rủi ro cao B B Chất lượng thấp, rủi ro cao, có nguy cơ không thanh toán đúng hạn Trái phiếu không nên đầu tư CCC Caa Rủi ro cao, chỉ có khả năng trả nợ nếu tình hình kinh tế khả quan. CC Ca Rủi ro rất cao, rất gần phá sản, C C Rủi ro rất cao, khó có khả năng thực hiện thanh toán các nghĩa vụ nợ D Xếp hạng thấp nhất, đã phá sản hay hầu như sẽ phá sản NR NR Không đánh giá (Nguồn: Bộ tài chính) Do đó, để được quốc tế công nhận Lilama cần mời các tổ chức quốc tế đánh giá định mức tín nhiệm cho công ty. 3.2.3 Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực Đào tạo nguồn nhân lực nhằm tăng khả năng hấp thụ khoa học công nghệ nước ngoài nâng cao hiệu quả của các công ty liên doanh, phù hợp với những đòi hỏi cạnh tranh trong nước và quốc tế. Lilama cần xây dựng và phát triển nguồn nhân lực con người Lilama mạnh về mọi mặt, đủ về số lượng, trình độ học vấn và tay nghề cao, có năng lực quản lý, có năng lực sáng tạo và ứng dụng công nghệ mới, lao động với năng suất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao hơn. Trong hoàn cảnh chúng ta đang hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, những yêu cầu đặt ra cho lực lượng lao động ngày càng cao. Lực lượng này tất cả phải qua đào tạo để có đủ những kỷ năng nghề nghiệp theo kịp với nhiệm vụ. Do đó phải tăng cường đào tạo từ các cán bộ quản lý, kỹ sư, đặc biệt là lực lượng kỹ sư trẻ đến công nhân có tay nghề và kỹ năng làm việc cao. Về trình độ quản lý nghiệp vụ: Công tác đào tạo tiếp tục đổi mới theo hướng gắn kết đào tạo, nghiên cứu, sản xuất, đào tạo, tái đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên ngành, cán bộ quản lý có phẩm chất và năng lực đáp ứng cạnh tranh và hội nhập kinh tế quốc tế. Mục tiêu : - Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực quản lý điều hành của cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý của Tổng công ty và các Công ty thành viên, làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo cán bộ vừa đáp ứng yêu cầu trước mắt và đáp ứng nhiệm vụ lâu dài của Tổng công ty. - Tổ chức các khóa đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ, cán bộ công nhân viên cơ quan Tổng công ty và các Công ty thành viên, bồi dưỡng họ thành các chuyên gia giỏi về các lĩnh vực thiết kế, chế tạo, xây lắp. - Thường niên tổ chức các lớp nâng cao nghiệp vụ cho các kỹ sư mới tuyển dụng theo yêu cầu của nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. - Tổng công ty cũng nên nên đầu tư để mua các phần mềm như: Phần mềm PDS thiết kế thông minh 3 chiều, DIRECTA - Phần mềm quản lý hồ sơ, PRIMAVERA &ndash Phần mềm quản lý tiến độ, nguồn lực và giá thành, MARIAN &ndash Quản lý mua sắm vật tư để trang bị cho các cán bộ, kỹ sư sử dụng giúp cho công tác thiết kế, quản lý các dự án của LILAMA tiến tới trình độ các nước khu vực và tiếp cận với trình độ tiên tiến thế giới. - Ngoài chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao năng lực quản lý, LILAMA cần chú trọng đào tạo trình độ chính trị, trình độ ngoại ngữ, tin học để phù hợp với sự phát triển của Tổng công ty trong giai đoạn mới. LILAMA đã mở nhiều lớp nâng cao tiếng Anh chuyên ngành kỹ thuật cho các cán bộ, công nhân viên trong Tổng công ty. - Kết hợp với các trường Đại học, các Viện nghiên cứu, các chuyên gia trong và ngoài nước tổ chức các khóa học chuyển giao công nghệ tiên tiến, các giải pháp IT cho thiết kế, quản lý các dự án EPC nhằm đáp ứng đầy đủ các yêu cầu về số lượng, chất lượng cán bộ, kỹ thuật thi công, tư vấn giám sát tại các công trình, dự án trọng điểm của Tổng công ty. - Khuyến khích tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên tự học tập để nâng cao trình độ tay nghề, đẩy mạnh phong trào kèm cặp kỹ sư, cử nhân và công nhân mới ra trường trong toàn Tổng công ty. - Là Công ty hoạt động tronh lĩnh vực lắp máy xây dựng nên cần kết hợp giữa đào tạo với thực hành, LILAMA còn cần đào tạo và xây dựng được đội ngũ quản lý dự án, kỹ sư thiết kế, thi công giám sát, vận hành có trình độ tiên tiến và kinh nghiệm thông qua các dự án tại công trường. Nhiều chuyên gia giỏi, nhiều nhà quản lý doanh nghiệp của LILAMA đã trưởng thành và có uy tín trên các công trường xây dựng. - Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên đi tham quan tìm hiểu, học hỏi và tiếp thu kinh nghiệm của các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Nga, Italia, Úc, Hàn quốc.... Hiện nay, với vai trò là tổng thầu EPC thực hiện các hợp đồng EPC với đối tác nước ngoài Lilama không chỉ quan tâm tới đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ mà còn nâng cao tay nghề của công nhân. Tổng công ty đã nâng cấp 02 trường kỹ thuật và công nghệ của ngành lên thành 02 trường cao đẳng nghề LILAMA 1 tại Ninh Bình và trường cao đẳng nghề LILAMA 2 tại Đồng Nai và tiến tới xây dựng trường đại học công nghệ LILAMA. Trong đó,Trường Kỹ thuật và công nghệ Lilama 2 là đơn vị được kết nạp làm thành viên Hội đồng Nghề Vương quốc Anh (City & Guild), hiện đang tiến hành đào tạo theo tiêu chuẩn quốc tế các nghề hàn, ống công nghệ, chế tạo cơ khí và điện công nghiệp. Để có thể đảm nhận được các công trình lớn Lilama cần tiếp tục đầu tư kinh phí xây dựng mới, nâng cấp các khu giảng đường, nhà làm việc, nhà xưởng thực tập, ký túc xá&hellip đầu tư các thiết bị hiện đại phục vụ giảng dạy và học tập. Đặc biệt chú trọng các trang thiết bị hàn, thiết bị điện, thiết bị điều khiển tự động, các loại máy chiếu, vi tính phục vụ giảng dạy và học tập, nâng cấp hệ thống phòng học chuyên môn dạy trên Projector và các thiết bị DEMO theo mô hình đào tạo của các nước công nghệp G7. Các trường cũng cần cập nhật nội dung và phương pháp đào tạo tiên tiến để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về công nghệ và chất lượng. Nội dung và phương pháp đào tạo luôn được bổ xung, cải tiến để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao về công nghệ và chất lượng công trình. Ví dụ như chương trình đào tạo nghề hàn 6G được xây dựng theo chuẩn AWS (American Welding Standard), chế tạo ống công nghệ theo chuẩn API (American Petrolium Indutries), điện điều khiển theo chuẩn IEC (International Electric Control)... Cần tăng cường hợp tác với các tổ chức quốc tế. Hiện nay, Nhà trường đã ký các văn bản hợp tác với các tổ chức quốc tế như Lloyd’s, Apave... cùng phối hợp để tổ chức thi và cấp chứng chỉ nghề quốc tế cho học viên của trường. Hệ thống trang thiết bị cũng được đầu tư tương ứng với các máy móc thực hành hiện đại: máy hàn ống TIG, máy hàn tự động SAW, bán tự động FCAW, máy cắt CNC. Đặc biệt, các thiết bị điện công nghiệp, PLC và điều khiển tự động Scada, DCS là thế hệ công nghệ mới nhất hiện nay. Đối với nghề hàn, chứng chỉ Lloyd’s (Lloyd’s: cơ quan đăng kiểm quốc tế Anh) có thể coi là một thứ “bảo chứng bằng vàng” của người công nhân. Những doanh nghiệp có lao động đạt chứng chỉ này sẽ nắm lợi thế lớn trong việc tham gia đấu thầu các công trình cơ khí, dầu khí. Đổi mới phương pháp dạy học để xây dựng các trường đào tạo nghề đạt các tiêu chuẩn quốc tế  để cung cấp nguồn nhân lực bậc cao phục vụ cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước, cho sự nghiệp Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Đất nước. 3.2.4 Thực hiện các biện pháp xúc tiến đầu tư Để tiếp tục thu hút vốn đầu tư nước ngoài Tổng công ty cần chủ động thực hiện các biện pháp xúc tiến đầu tư. Để kịp thời nắm bắt thông tin về thị trường Tổng công ty đã và đang xây dựng mạng lưới kinh doanh tại các thị trường tiềm năng thông qua việc thành lập các văn phòng đại diện của Lilama tại một số nước trong đó có CHLB Nga, hoặc các đại diện thương vụ đại sứ quán Việt Nam tại các nước. Hiện nay, Lilama có văn phòng đại diện tại thành phố Matxcova và đang còn gấp rút thành lập văn phòng đại diện ở những thị trường tiềm năng và tăng cường quảng bá sản phẩm tại một số thị trường mới ở khu vực Trung đông, Châu Phi, Châu Mỹ la Tinh. Lilama chủ động kêu gọi các nhà đầu tư thông qua việc xây dựng các dự án để trực tiếp kêu gọi đầu tư nước ngoài. Do các dự án của Lilama đầu tư vào các lĩnh vực như điện, xi măng ... nguồn vốn đầu tư là rất lớn nên Tổng công ty cần chủ động kêu gọi đầu tư thông qua các cuộc gặp gỡ tiếp xúc với các đối tác nước ngoài hay tham dự các cuộc hội chợ triến lãm quốc tế. Để thực hiện được thành công các chương trình này Lilama cần thực hiện tốt khâu chuẩn bị như có kế hoạch, quy hoạch đầu tư rõ ràng, xây dựng các dự án đầu tư hợp lý cùng những hoạt động khuếch trương, giới thiệu hình ảnh của Lilama. 3.3 Kiến nghị với Nhà nước 3.3.1 Hoàn thiện môi trường đầu tư Các nhà đầu tư khi đầu tư ra nước ngoài vấn đề họ quan tâm khi quyết định đầu tư đó là môi trường đầu tư của nước tiếp nhận. Do đó, để tạo điều kiện cho Lilama cũng như các doanh nghiệp khác thu hút được vốn đầu tư nước ngoài Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật tạo lập môi trường đầu tư thông thoáng. Hiện nay, các nhà đầu tư quốc tế tin tưởng vào tương lai sáng sủa của nền kinh tế Việt Nam sau khi chứng kiến hơn 10 năm đổi mới vừa qua. Đến nay, hầu như toàn thế giới biết đến công cuộc cải cách đổi mới ở Việt Nam. UNDP còn coi Việt Nam là một trong những ví dụ thành công nhất về chuyển đổi kinh tế trong lịch sử đương đại, đổi mới làm thay đổi gần như tất cả mọi mặt của cuộc sống kinh tế. Theo Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, ông Jordan Ryan, từ sau Đại hội Đảng CSVN lần thứ VI (12/1986), đã có nhiều thay đổi quan trọng trong sản xuất, tiêu dùng, tiết kiệm, đầu tư, chính sách tiền tệ và ngoại thương. Chính sách đổi mới mở ra nhiều phương thức tổ chức và quản lý kinh tế mới mẻ, góp phần cải thiện đời sống; tạo ra nguồn động lực sáng tạo cho hàng triệu người Việt Nam có dịp sử dụng một cách hiệu quả tiềm năng của mình. Các nhà đầu tư tỏ ra lạc quan với việc Việt Nam được coi là nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao và ổn định thứ hai Châu Á, chỉ sau Trung Quốc. Bên cạnh đó, phải kể đến việc sụt giảm lòng tin của nhà đầu tư đối với trái phiếu cùng loại của Indonesia và Phillipines do tình hình kinh tế chính trị các nước này thời gian qua không ổn định lắm. Số tiền thu được sẽ được bơm thêm vào nền kinh tế đang tăng trưởng nhanh với tốc độ trung bình từ 7 - 8% của Việt Nam, cùng với việc đầu tư nước ngoài đang tăng nhanh tại đây. Theo khảo sát mới nhất của Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản (JBIC), Việt Nam đứng thứ 4 trên thế giới sau Trung Quốc, Ấn Độ và Thái Lan về sức hấp dẫn của môi trường đầu tư. Ông Christian Ludwig, Đại sứ CHLB Đức tại Việt Nam nhận định: "Hầu như không có nước thứ 2 nào ở châu Á tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư Đức như ở Việt Nam. Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam chủ yếu bắt nguồn từ ngành sản xuất công nghiệp, đây là lĩnh vực còn vô số khả năng hợp tác với Đức".Theo báo cáo mới nhất của Tổ chức Xúc tiến Đầu tư Hàn Quốc (KOTRA): có tới 76% doanh nghiệp của Hàn Quốc khẳng định họ sẽ mở rộng đầu tư tại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO đồng nghĩa với việc Việt Nam phải thực hiện các cam kết, nguyên tắc của WTO về đầu tư như đã trình bày ở chương 1 do đó càng tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời, với chiến lược phát triển đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại. Các nhà đầu tư hy vọng chiến lược đó giúp họ hưởng lợi lớn khi bỏ tiền vào Việt Nam để cùng Việt Nam bước vào công cuộc cải cách mới. Với nhữnh thành công đã đạt được, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp về đầu tư quốc tế Về đầu tư gián tiếp, mặc dù Luật chứng khoán đã có hiệu lực nhưng chất lượng kiểm toán báo cáo tài chính, chất lượng quản trị công ty đại chúng vẫn còn nhiều bất cập. Do vẫn có sự khác biệt giữa chuẩn mực kế toán Việt Nam và quốc tế, các nhà đầu tư nước ngoài còn e dè khi đọc các báo cáo tài chính do các công ty kiểm toán trong nước thực hiện. Việc phát triển và mở rộng quy mô của thị trường trái phiếu vẫn còn gặp nhiếu khó khăn. Dịch vụ định mức tín nhiệm và thống kê dữ liệu ngành hầu như không có. Hai là sự thiếu và không đồng bộ về mặt luật pháp, Luật chứng khoán có hiệu lực từ năm 2007 nhưng chưa thể đi vào vận hành vì thiếu hệ thống nghị định, thông tư hướng dẫn. Luật không quy định được vấn đề chi tiết nên phải chờ các văn bản hướng dẫn của các Bộ, ban ngành. Do đó, Nhà nước cần sớm ban hành đầy đủ và đồng bộ các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật đầu tư và Luật chứng khoán trên tinh thần tiến đến mực tiêu tư do hoá nguồn vốn đầu tư cả trực tiếp và gián tiếp bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư. Phát triển các công ty quản lý quỹ, khuyến khích thành lập các quỹ đầu tư nước ngoài để huy động vốn đầu tư vào thị trường Việt Nam. Đa dạng hoá các loại hình quỹ đầu tư như quỹ đóng, quỹ mở, quỹ dạng hợp đồng, quỹ đầu tư là pháp nhân…Thúc đẩy hoạt động của các quỹ đầu tư, Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thông pháp lý, khuôn khổ quản lý thị trường, phát triển quy mô thị trường, xây dựng và triển khai áp dụng các chuẩn mực quốc tế và quản trị điều hành doanh nghiệp, quản lý Nhà nước, tăng tính minh bạch của thị trường chứng khoán, thị trường OTC và tại các doanh nghiệp cổ phần tư nhân, ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động lâu dài của các quỹ đầu tư nước ngoài… Tiếp tục thực hiện chính sách tự do hoá tài khoản vãng lai để tạo điều kiện thu hút nguồn vốn từ nước ngoài và tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển các trong việc quản lý các dòng vốn nhằm đảm bảo sự an toàn, vững chắc và lành mạnh của hệ thống tài chính. Về đầu tư trực tiếp, cần xây dựng Nghị định hướng dẫn thi hành Luật đầu tư 2005, nhất là từ góc nhìn bảo hộ lợi ích của bên Việt Nam trong các liên doanh với nhà đầu tư nước ngoài. Luật đầu tư 2005, dự thảo Nghị định đưa ra một số quy định riêng khi thành lập liên doanh nguồn thu nhập hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài ra nước ngoài. Ở đây hệ thống ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát các giao dịch của tài khoãn vãng vốn. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng cần tăng cường an ninh của hệ thống tài chính, thực hiện kiểm soát các doangngfvốn khi cần thiết. Tăng cường phối hợp giữa các chính sách tiền tệ, chính sách tài khoá và chính sách thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đảm bảo sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngân hàng- tài chính- chứng khoán. Trong bối cảnh cả thế giới đang tìm cách giảm thiểu quy chế hành chính và tìm cách viết luật dễ hiểu, dễ nhớ, dễ thi hành cho giới doanh nhân, có thể ban soạn thảo nghị định cần suy tính tập trung vào những điều trọng yếu nhất mà Luật đầu tư cần hướng tới. Trong khi đăng ký dự án đối với đầu tư của tư nhân trong nước có thể chưa là mục đích chính, thì việc bảo vệ lợi ích của nước nhận đầu tư, hạn chế lạm quyền bởi nhà đầu tư nước ngoài nên là một chủ đích rất đáng quan tâm. Điều này càng đặc biệt trong các dự án liên doanh với nước ngoài, bởi đa số đối tác Việt Nam trong các dự án này đều là doanh nghiệp quốc doanh. Sự không rỏ ràng về sở hữu toàn dân đã và đang là cơ hội để các nhà tư bản lão luyện nước ngoài khai thác nhằm khống chế các liên doanh hoạt động theo ý đồ kinh doanh của họ. Luật đầu tư và các văn bản hướng dẫn thi hành không thể né tránh thực tiễn đó. Một trọng tâm không thể tránh được của Luật đầu tư 2005 là cân đối lợi ích của Việt Nam như một nước tiếp nhận đầu tư và lợi ích các nhà đầu tư nước ngoài. Bảo vệ quyền lợi của bên Việt Nam suy cho cùng cũng là bài toán bảo vệ cổ đông, bảo vệ đối xử bình đẳng giữa các cổ đông trong một công ty- một chủ đích mà cả hai đạo luật về doanh nghiệp và đầu tư cùng quan tâm. Tuy nhiên, có thể nhận thấy hai đạo luật này tiếp cận bài toán bằng các công cụ khác nhau. Trong khi Luật doanh nghiệp 2005 tìm cách hạn chế cấp phép, gia tăng hậu kiểm, buộc doanh nghiệp tuân thủ kỷ luật báo cáo và bị giám sát thường xuyên thì Luật đầu tư 2005 duy trì tư duy truyền thống, kiểm tra ngay từ khi tổ chức thực hiện dự án, duy trì kiểm soát khi đăng ký đầu tư, dự án nhỏ hơn 300 tỷ đồng phải đăng ký, lớn hơn 300 tỷ đồng phải thẩm tra để cấp phép đầu tư. Do đó, cần có sự thống nhất giữa Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư để đảm bảo lợi ích của bên Việt Nam trong liên doanh tránh hiện tượng công ty liên doanh dần trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. 3.3.2 Thực hiện các biện pháp hỗ trợ xúc tiến đầu tư Ngoài việc tạo lập một môi trường kinh tế chính trị xã hội ổn định, để thúc đẩy dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp nói chung và Lilama nói riêng. Nhà nước cần thực hiện các biện pháp hỗ trợ gián tiếp. Nhà nước cần đẩy mạnh các biện pháp xúc tiến đầu tư thông qua các cuộc gặp gỡ ngoại giao với các nước. Các cuộc gặp gỡ ngoại giao cho phép sự tham gia của các doanh nhân để học hỏi kinh nghiệm và xúc tiến thương mại, đầu tư. Lilama đang hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp nặng nên nhu cầu vốn lớn, chậm thu hồi vốn do đó gặp khó khăn trong việc thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Những nhà đầu tư khi đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp thường là những nhà đầu tư có tên tuổi, tầm cỡ lớn trên thế giới. Trong khi, những nhà đầu tư có tên tuổi thường lựa chọn rất kỹ trước khi quyết định đầu tư do những nhà đầu tư này có tầm nhìn chiến lược xa và rộng khác với những nhà đầu tư nhỏ lẻ thường hay thay đổi khi có sự thay đổi trong chính sách của nước sở tại. Chính vì lẽ đó, những nhà đầu tư này thường thông qua con đường chính phủ được xem là an toàn, như những cuộc thương lượng thượng đỉnh đảm bảo chiến lược đầu tư lâu dài của các nhà đầu tư. Do đó, để thu hút các nhà đầu tư tầm cỡ ngoài việc cải thiện môi trường đầu tư tốt nhất nên có sự khuyến khích từ phía nhà nước nhất là trong các chương trình xúc tiến đầu tư ở nước ngoài. Hiện nay, Lilama đang chuẩn bị thực hiện các dự án BOT điện – đây là các lại dự án phức tạp nhất. Các mối quan hệ hợp thành các dự án đều phải thực hiện trên cơ sở hợp đồng cực kỳ chặt chẽ liên quan đến nhiều bên, trong đó có sự tham gia của Chính phủ, các Bộ ngành, các ngân hàng cùng các nhà đầu tư. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần hỗ trợ tổ chức các chương trình xúc tiến thương mại, đầu tư của các doanh nghiệp cơ khí trong nước. Đồng thời, khuyến khích các doanh nghiệp tham gia triển lãm, hội thảo, các cuộc khảo sát thị trường ở nước ngoài. Qua đó, tạo lập quan hệ hợp tác giữa các doanh nghiệp cơ khí trong nước với các tập đoàn, doanh nghiệp nước ngoài để hợp tác, liên doanh, liên kết, chuyển giao công nghệ, công nghệ thiết kế, chế tạo sản phẩm thiết bị. Nhà nước khuyến khích thông qua việc hỗ trợ một phần chi phí như vé máy bay, chi phí tham gia hội thảo... KẾT LUẬN Tổng công ty Lắp máy Việt Nam với các công ty liên doanh đang hoạt động, làm ăn có hiệu quả cùng những công ty liên doanh chuẩn bị thành lập giữa Lilama và các đối tác nước ngoài sẽ hình thành nên một hệ thống các công ty liên doanh khắc phục khó khăn về nguồn nhân lực, khoa học công nghệ của Lilama trong quá trình hội nhập. Các dự án BOT trong các dự án điện, khoáng sản, những chương trình hợp tác nước ngoài đang đóng góp vào những thành công của Lilama trong tương lai. Những công ty thành viên của Lilama đã và đang cổ phần hoá sẽ góp phần đa dạng cho sự lựa chọn của các nhà đầu tư trong và ngoài nước trong tương lai. Sự thành công của đợt phát hành trái phiếu năm 2007 sẽ mở đường cho trái phiếu Lilama phát triển không chỉ thị trường trong nước mà còn mở rộng sang cả thị trường quốc tế. Bên cạnh những thành công, còn rất nhiều mục tiêu chưa đạt được. Việc phát hành cổ phiếu của các công ty thành viên chưa thực sự thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài… Tuy nhiên, với những giải pháp đưa ra cùng những kiến nghị với Nhà nước sẽ góp phần khắc phục những khó khăn, phát huy những thành công đã đạt được để thúc đẩy hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài của Lilama phát triển mạnh mẽ hơn. Góp phần vào việc thực hiện mục tiêu năm 2010 Lilama sẽ trở thành tập đoàn công nghiệp nặng- xây dựng đầu tiên của nước ta tiến tới một nước Việt Nam công nghiệp hoá hiện đại hoá vào năm 2020. TÌNH HÌNH THU HÚT ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI TỔNG CÔNG TY LẮP MÁY VIỆT NAM (LILAMA) MỤC LỤC DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC BẢNG, BIỂU, HÌNH VẼ TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐầu tư quốc tế và tầm quan trọng của việc thu hút đầu tư nước ngoài đối với tổng công ty lắp máy việt nam.DOC
Luận văn liên quan