Đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi tại công ty xuất nhập khẩu và Đầu tư (IMEXIN)

LỜI MỞ ĐẦU Kể từ khi nền kinh tế Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và đặc biệt là từ khi gia nhập WTO, nhiều cơ hội lớn đã được mở ra để nước ta từng bước chuyển đổi cơ cấu ngành theo hướng phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, không thể phủ nhận vai trò của ngành nông nghiệp đặc biệt là nông nghiệp chăn nuôi đối với nền kinh tế Việt Nam từ trước đến nay. Nhiều chuyên gia nhận định rằng, nước Việt Nam càng hội nhập, mở cửa với thế giới thì càng phải chú trọng đến việc đảm bảo một nền nông nghiệp phát triển vững bền và ổn định, vì đây chính là thế mạnh của nước ta khi cạnh tranh với các nền kinh tế lớn trên thế giới. Một nền nông nghiệp không những được giữ vững về tốc độ tăng trưởng mà còn phát triển theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa chính là đường lối của Đảng và Chính phủ trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, các sản phẩm phục vụ ngành nông nghiệp nói chung và ngành chăn nuôi nói riêng là vấn đề đang được nhiều doanh nghiệp xem trọng. Trong đó công tác đầu tư được coi là tiền đề căn bản, quyết định mức độ thành công hay thất bại của sản phẩm. Công ty XNK và Đầu tư là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Đầu những năm 2000, theo chính sách khuyến khích sản xuất thức ăn chăn nuôi của Nhà nước, Công ty đã có dự án đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ, và trở thành sản phẩm chiến lược của Công ty với khối lượng đầu tư ngày càng lớn. Dự án đã đem lại hiệu quả đầu tư đáng chú ý cho doanh nghiệp và cho nền kinh tế nước ta. Sau một thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty XNK và Đầu tư, kết hợp với kiến thức tích lũy được, em đã chọn đề tài: “Đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi tại công ty XNK và Đầu tư (IMEXIN)”. Nội dung của chuyên đề là sự tổng hợp và phân tích dựa trên những tài liệu mà Công ty cung cấp và các kiến thức đã học về công tác đầu tư trên nhiều phương diện để sản xuất ra sản phẩm thức ăn chăn nuôi Nsm Mỹ của Công ty, từ đó rút ra những kết quả và hiệu quả đạt được. Chuyên đề được chia thành 3 chương: Chương 1: Tổng quan về Công ty XNK và Đầu tư (IMEXIN). Chương 2: Thực trạng đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi tại Công ty XNK và Đầu tư (IMEXIN). Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi tại công ty XNK và Đầu tư (IMEXIN). Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song do lần đầu tiếp cận với vấn đề và kiến thức còn hạn chế nên chuyên đề này khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được các thầy cô cùng các bạn và những người quan tâm góp ý.

doc68 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3109 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi tại công ty xuất nhập khẩu và Đầu tư (IMEXIN), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i chính - Kế toán công ty XNK và Đầu tư IMEXIN Như vậy, giá trị tổng đầu tư cho nguồn nhân lực chiếm không nhiều trong tổng vốn đầu tư cho sản xuất hàng năm, năm 2006 là 816 triệu đồng, năm 2007 tăng lên 1.125 triệu đồng, năm 2008 có xu hướng giảm xuống còn 990 triệu đồng. Sự biến động này cho thấy năm nhu cầu về nhân lực năm 2008 thấp hơn so với năm 2007, một nguyên nhân là do tình trạng biến động về kinh tế khiến nhà máy tạm thời cần cắt giảm một số chi phí hoặc chưa có nhu cầu tăng thêm nhân công vì gián đoạn trong sản xuất. Trong cơ cấu đầu tư cho nguồn nhân lực thì chi phí đào tạo là thành phần chiếm tỷ trọng lớn : khoảng 50% tổng vốn đầu tư. Phần lớn chi phí là để đào tạo chuyên viên thiết kế, những người quyết định mẫu mã, thành phần của sản phẩm và công nhân trực tiếp, những người tham gia sử dụng máy móc thiết bị của nhà máy, giúp công nhân viên thành thạo hơn trong các công việc trộn, nấu nguyên liệu, vận hành máy móc và dây chuyền công nghệ. IV. KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI CỦA CÔNG TY XNK VÀ ĐẦU TƯ NHỮNG NĂM QUA 1. Kết quả hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty XNK và Đầu tư những năm qua Trong 3 năm 2006-2008, tổng doanh thu của công ty đều đạt được những con số khả quan. Như vậy, công ty luôn giữ được mức tăng ổn định và đều đặn. Trong tổng doanh thu thì có khoảng trên dưới 30% là do doanh thu từ sản xuất thức ăn chăn  nuôi đóng góp. Có thể khẳng định thức ăn chăn nuôi là ngành hàng kinh doanh quan trọng của công ty, kết quả sản xuất và tiêu thụ thức ăn chăn nuôi có ảnh hưởng trực tiếp và to lớn tới lợi nhuận, uy tín và vị thế của công ty. Do vậy, nâng cao hiệu quả đầu tư  cho sản xuất thức ăn chăn  nuôi luôn được công ty coi trọng.  Nhìn chung, hoạt động sản xuất thức ăn chăn  nuôi của công ty những năm qua luôn giữ được mức tăng trưởng ổn định           Về doanh thu tiêu thụ thức ăn chăn nuôi, trong tình hình bão giá và cạnh tranh gay gắt với các xí nghiệp khác nhưng doanh thu tiêu thụ các năm của công ty vẫn tăng (năm 2006 là 56.709 triệu đồng, năm 2007 là 59.412 triệu đồng, năm 2008 là 62.393 triệu đồng). Cũng phải nói thêm rằng, giá thức ăn chăn nuôi tăng cao cũng gây ảnh hưởng nhiều đến kết quả kinh doanh. Xét sản lượng tiêu thụ của công thức ăn chăn nuôi của công ty trong những năm qua, sản lượng đều đạt được mức trên 10 nghìn tấn mỗi năm. Như vậy sản phẩm của công ty đã đứng vững trên thị trường . Năm 2007 sản lượng tiêu thụ bị chững lại, đến năm 2008 sản lượng tăng có xu hướng tăng nhưng tốc độ tăng của sản lượng chậm hơn tốc độ tăng của doanh thu cho thấy ảnh hưởng của biến động giá cả tới doanh thu của mặt hàng này.           Doanh thu tiêu thụ thị trường nội địa vẫn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng  80 - 90 % trong tổng doanh thu vì đây là thị trường chính công ty cung cấp sản phẩm của mình. Thị trường xuất khẩu cũng đang được công ty khai thác nhằm tận dụng triệt để năng lực sản xuất, tạo thêm doanh số và uy tín của sản phẩm trên thị Bảng 17: Kết quả sản xuất thức ăn chăn nuôi của Công ty XNK và Đầu tư giai đoạn 2006-2008 STT Chỉ tiêu Đơn vị  tính Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) Giá trị Tỷ trọng (%) I Tổng sản lượng TĂCN tiêu thụ Tấn 10.347 11.254 13.883 II Tổng doanh thu tiêu thụ TĂCN Trđ 56.709 100 59.412 100 65.593 100 1 Doanh thu nội địa Trđ 49.204 86,77 51.036 85,90 56.373 85,94 2 Doanh thu xuất khẩu Trđ 7.505 13,23 8.376 14,10 9.220 14,06 III Giá vốn hàng bán Trđ 55.186 97,31 57.745 97,19 63.798 97,26 IV Lợi nhuận gộp Trđ 1.523 2,69 1.667 2,81 1.795 2,74 V Tổng chi phí Trđ 1.137 2,00 1.224 2,06 1.287 1,96 1 Chi phí tài chính Trđ 215 0,38 228 0,38 226 0,34 2 Chi phí quản lý doanh nghiệp Trđ 532 0,94 617 1,04 645 0,98 3 Chi phí bán hàng Trđ 390 0,69 379 0,64 416 0,63 VI Lợi nhuận trước thuế Trđ 386 0,68 443 0,75 508 0,77 VII Nộp ngân sách Trđ 105 0,19 125 0,21 140 0,21 VIII Lợi nhuận sau thuế Trđ 278 0,49 319 0,54 366 0,56 Nguồn: Phòng Tài chính – Kế toán Công ty XNK và Đầu tư Bảng 18: So sánh kết quả sản xuất thức ăn chăn nuôi của Công ty XNK và Đầu tư giai đoạn 2006-2008 STT Chỉ tiêu Đơn vị  tính 2007/2006 2008/2007 Chênh lệch Tỷ lệ (%) Chênh lệch Tỷ lệ (%) I Tổng sản lượng TĂCN tiêu thụ Tấn 907 8,8 2.629 23,4 II Tổng doanh thu tiêu thụ TĂCN Trđ 2.703 4,8 6.181 10,4 1 Doanh thu nội địa Trđ 1.832 3,7 5.337 10,5 2 Doanh thu xuất khẩu Trđ 871 11,6 844 10,1 III Giá vốn hàng bán Trđ 2.559 4,6 6.053 10,5 IV Lợi nhuận gộp Trđ 144 9,5 128 7,7 V Tổng chi phí Trđ 87 7,7 63 5,1 1 Chi phí tài chính Trđ 13 6,0 -2 -0,9 2 Chi phí quản lý doanh nghiệp Trđ 85 16,0 28 4,5 3 Chi phí bán hàng Trđ -11 -2,8 37 9,8 VI Lợi nhuận trước thuế Trđ 57 14,7 65 14,7 VII Nộp ngân sách Trđ 20 19,0 15 12,0 VIII Lợi nhuận sau thuế Trđ 41 14,7 47 14,7                    Nguồn: Phòng Tài chính – Kế toán Công ty XNK và Đầu tư trường. Tuy nhiên, kết quả cho thấy công ty mới chỉ bước đầu hướng sang các thị trường Đông Nam Á như Lào và Campuchia, sản lượng xuất khẩu còn thấp.           * Về lợi nhuận gộp           Cùng với sự tăng trưởng của doanh thu tiêu thụ, lợi nhuận gộp của công ty trong ba năm qua đều tăng nhưng tỷ suất lợi nhuận gộp lại giảm. Đó là do nguồn nhập nguyên liệu thô và phụ gia khan hiếm, giá đầu vào liên tục tăng đã tác động trực tiếp tới hoạt động sản xuất của công ty, làm giá vốn các sản phẩm thức ăn chăn nuôi tăng 4,63% năm 2007 và 4,94% năm 2008. Điều này cũng đã ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của công ty trong thời gian qua.           * Về chi phí kinh doanh           Tổng chi phí kinh doanh của công ty tăng dần qua 3 năm do sản lượng tiêu thụ của công ty tăng, đặc biệt là việc mở rộng thị trường xuất khẩu và phát triển một số khách hàng  mới đòi hỏi đầu tư nghiên cứu, tốn kém chi phí đàm phán giao dịch. Chi phí kinh doanh về mặt tuyệt đối tăng lên nhưng tốc độ tăng của chi phí lại giảm. Bên cạnh đó, tỷ suất chi phí của công ty có xu hướng giảm dần, từ  7,65% năm 2006 giảm còn 5,15% năm 2008. Như vậy, có thể thấy công ty đã làm tốt công tác quản lý, đảm bảo tăng trưởng nhanh, tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả kinh doanh.           * Về lợi nhuận           Tổng lợi nhuận trước thuế từ hoạt động kinh doanh thức ăn chăn nuôi của công ty trong giai đoạn 2006-2008 đã tăng 125 triệu đồng do doanh thu tiêu thụ không ngừng tăng lên đồng thời tiết kiệm được chi phí kinh doanh. Năm 2007, tỷ suất lợi nhuận tăng 4,66 % so với năm 2006, tuy nhiên tốc độ tăng của tỷ suất lợi nhuận và lợi nhuận gộp giảm, sự tăng chậm về sản lượng và lợi nhuận năm 2008 có thể giải thích bởi sự biến động của thị trường khiến công ty gặp gián đoạn trong sản xuất. Năm 2008, mặc dù vẫn chịu ảnh hưởng của giá đầu vào tăng cao nhưng do công ty đã quản lý tốt hoạt động kinh doanh, cắt giảm được chi phí trong quản lý và bán hàng nên tỷ suất lợi nhuận tăng 2,55% so với năm 2007.           Kết quả kinh doanh thức ăn chăn nuôi của công ty ngày càng tăng không chỉ đảm bảo cho sự phát triển của thương hiệu thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ, nâng cao đãi ngộ cho đội ngũ lao động, mà còn đem lại nguồn thu ổn định cho Ngân sách Nhà nước. Công ty tính thuế theo mức thuế hàng năm 28%, như vậy năm 2006 ngành thức ăn chăn nuôi của công ty đã đóng góp cho Ngân sách 107 triệu đồng, năm 2007 là 124 triệu đồng và năm 2008 là 142 triệu đồng.           Trong những năm qua (2006-2008), tình hình kinh doanh thức ăn chăn nuôi của công ty XNK và Đầu tư IMEXIN đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, thể hiện ở lợi nhuận tăng lên hàng năm trên cơ sở đẩy mạnh tiêu thụ và tiết kiệm chi phí. Đó là điều kiện để công ty tiếp tục cải thiện cơ sở vật chất, tăng thu nhập cho người lao động, qua đó nâng cao hiệu quả kinh doanh, thực hiện tốt hơn nghĩa vụ đối với nhà nước. Tuy thị trường thức ăn chăn nuôi hiện nay có nhiều biến động, đồng thời gặp phải nhiều khó khăn trong cạnh tranh nhưng công ty vẫn cố gắng giữ vững thị phần và được kết quả kinh doanh cao hơn nữa. 2. Hiệu quả hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty XNK và Đầu tư những năm qua Mỗi dự án đầu tư khi được thực hiện đều có mục đích cuối cùng là đem lại hiệu quả, hiệu quả của dự án đầu tư có thể ở phương diện tài chính, kinh tế hay xã hội. Việc tính toán hiệu quả đầu tư là không thể thiếu với mỗi dự án vì nó là thước đo chất lượng của dự án đầu tư, là tiêu chuẩn để ra quyết định đầu tư hoặc để xem xét mức độ thành bại của dự án. a. Hiệu quả tài chính Hiệu quả tài chính của hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi tại nhà máy SX TĂCN Nam Mỹ thể hiện qua các chỉ tiêu tài chính. Bảng 19: Các chỉ tiêu tài chính chủ yếu STT                                                   Năm           Chỉ tiêu 2006 2007 2008 1 Hệ số Doanh thu thuần/Vốn đầu tư (lần) 1,63 1,60 1,30 2 Hệ số Doanh thu thuần/Vốn cố định (lần) 2,03 2,12 2,15 3 Hệ số Doanh thu thuần/Vốn lưu động (lần) 2,41 2,37 1,96 4 Hệ số Lợi nhuận thuần/Vốn đầu tư (%) 0,79 0,86 0,76 5 Hệ số Lợi nhuận thuần/Vốn cố định (%) 0,99 1,14 1,26 6 Hệ số Lợi nhuận thuần/Vốn lưu động (%) 1,17 1,27 1,15 7 Hệ số Lợi nhuận thuần/Doanh thu thuần (%) 0,49 0,54 0,59           Nguồn: Phòng Tài chính -Kế toán Công ty XNK và Đầu tư.           Hệ số doanh thu thuần/vốn đầu tư của nhà máy luôn đảm bảo ở mức lớn hơn 1 cho thấy một đồng vốn đầu tư đã sinh ra nhiều hơn một đồng doanh thu. Tuy nhiên hệ số này lại có xu hướng giảm từ 1,63 năm 2006 xuống còn 1,60 năm 2007 và 1,30 năm 2008. Đây là tín hiệu không tốt cho thấy cơ cấu đầu tư chưa thực sự đem lại hiệu quả trong những năm gần đây. Nguyên nhân của sự sụt giảm này là do vốn đầu tư đã tăng mạnh trong năm 2008 nhưng tốc độ tăng của doanh thu lại chậm hơn tốc độ tăng của vốn đầu tư. Nhà máy cần điều chỉnh lại sản lượng và cơ cấu đầu tư sao cho hợp lý để mang lại doanh thu tối ưu.           Doanh thu thuần/vốn cố định của nhà máy tăng đều cho thấy vốn cố định đã đem lại hiệu quả. Tuy nhiên, doanh thu thuần/vốn lưu động lại giảm qua các năm, cũng có nghĩa là vốn đầu tư cho tài sản lưu động ngày càng có xu hướng ít phát huy tác dụng. Tuy nhiên, các hệ số khá đồng đều và sức giảm là không đáng kể, nhà máy đã kết hợp tốt việc sử dụng vốn cố định và vốn lưu động trong hoạt động dầu tư           Lọi nhuận thuần/Vốn đầu tư năm 2008 và lợi nhuận thuần/Vốn lưu động năm 2008 cũng giảm so với năm 2007 (Lợi nhuần thuần/Vốn đầu tư giảm từ 0,86% xuống còn 0,76%, lợi nhuận thuần/Vốn lưu động giảm từ 1,17% xuống 1,15%) do tốc độ tăng của vốn đầu tư và vốn lưu động nhanh hơn so với tốc độ tăng của lợi nhuận. . Hệ số lợi nhuận thuần/Vốn cố định lại tăng trong 3 năm 2008 do vốn cố định tăng không nhiều. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu tương đối thấp, trong 3 năm lần lượt là 0,49, 0,54 và 0,59 nhưng tăng dần qua các năm. Nếu tỷ suất lợi nhuận giữ được mức tăng này thì sẽ có thể đạt cao hơn trong các năm sau.           Các chỉ tiêu tài chính cho hiệu quả về mặt tài chính của hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ là ổn định, các chỉ tiêu về khả năng thanh toán luôn đạt mức đảm bảo, tỷ suất lợi nhuận cũng có sự tăng trưởng tốt mặc dù năm 2008 nhà máy phải chi phí lớn cho các khoản đầu tư khác. Quý IV/2008 dây chuyền sản xuất thức ăn dạng viên của nhà máy sẽ tăng công suất hoạt động, do đó từ năm 2008 đến năm 2010, IMEXIN sẽ thu được doanh thu và lợi nhuận ngày càng tăng từ hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi.           Nhà máy đang phấn đấu đưa các chỉ tiêu tài chính của mình ngày càng khả quan hơn, tạo được lòng tin của các cán bộ công nhân viên trong nhà máy trong việc tiếp tục gia tăng sản xuất và hứa hẹn về một tương lai tốt cho thương hiệu và thị phần của sản phẩm. b. Hiệu quả kinh tế - xã hội Ngoài việc đem lại hiệu quả tài chính cho công ty, hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi còn mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, chẳng hạn như làm tăng GDP, tạo ra việc làm cho người lao động, và đóng góp vào ngân sách nhà nước, thể hiện qua các chỉ tiêu về hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án (Bảng 17). Trong suốt 8 năm từ năm 2003 đến năm 2008, hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi của IMEXIN đã đem lại những hiệu quả kinh tế và xã hội tích cực. Bảng 20: Các chỉ tiêu kinh tế - xã hội STT Chỉ tiêu ĐVT Giá trị 1 Tổng giá trị sản phẩm gia tăng Trđ 32.769 2 Giá trị gia tăng bình quân Trđ/năm 4.096 3 Số lao động thu hút vào dự án người 115 4 Thu nhập bình quân của người lao động Trđ/người.tháng 1,78 5 Tổng mức đóng góp cho ngân sách Trđ 657 6 Mức đóng góp ngân sách bình quân Trđ/năm 82 Nguồn: Phòng Kế toán - Tài chính Công ty XNK và Đầu tư Tổng giá trị sản phẩm gia tăng (tính trong 8 năm) là 32.769 triệu đồng, tổng mức đóng góp cho ngân sách nhà nước là 657 triệu đồng. Đây chưa thực sự là những con số lớn nhưng đã phần nào phản ánh hiệu quả của dự án. GDP của Việt Nam thời gian qua luôn tăng ở mức 7-8%. Đóng góp của hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty XNK và Đầu tư vào GDP không chỉ ở số lượng mà còn ở chất lượng vì đã góp phần thúc đẩy sự phát triển ngành nông nghiệp mà cụ thể là ngành chăn nuôi theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng hóa thức ăn chăn nuôi, tăng sản lượng thức ăn chăn nuôi công nghiệp, giúp cho vật nuôi tăng trưởng và phát triển ổn định.           Tổng số lao động làm việc trong nhà máy là 115 người, bao gồm cả cán bộ quản lý, kỹ sư, công nhân và thợ phụ, được đào tạo theo tiêu chuẩn của ngành nghề, đến nay đã có trình độ quản lý và tay nghề kĩ thuật cao. Một số chuyên gia của nhà máy đã có thể truyền đạt kinh nghiệm của mình cho những lao động mới vào nghề, góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của đất nước. Hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty XNK và Đầu tư không chỉ giúp cho việc phát triển nguồn nhân lực mà còn đem lại thu nhập cho người lao động, ước tính thu nhập bình quân của một người là 1,78 triệu đồng một tháng, cao hơn khoảng 38% so với mức thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam.           Mức đóng góp cho ngân sách nhà nước và cho kim ngạch xuất nhập khâu không đáng kể do tỷ lệ lợi nhuận giữ lại trên doanh thu tương đối nhỏ và tỷ lệ sản lượng xuất khẩu trên tổng sản lượng là chưa nhiều. Nhưng dự tính trong vài năm tới, công ty sẽ mở rộng thị phần xuất khẩu, đây là dấu hiệu tích cực cho việc tăng kim ngạch xuất khẩu thức ăn chăn nuôi của nước ta.           Về tác động của hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ đến môi trường, ngoài việc cải thiện đàn vật nuôi, mặt khác hoạt động này cũng đem lại một số tác động tiêu cực như tiêu hao một lượng lớn về nước (nguồn nước chủ yếu từ con sông Châu Giang tại thị trấn Bình Lục), và tiêu hao về điện. Tuy  nhiên sự hao tổn này là cần thiết và trong mức độ cho phép. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐẦU TƯ SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI CỦA CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU VÀ ĐẦU TƯ (IMEXIN) I. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI CỦA CÔNG TY XNK VÀ ĐẦU TƯ 1. Kết quả đạt được           Những năm qua, mặc dù phải đối mặt với nhiều biến động của thị trường và sức ép cạnh tranh của các hãng sản xuất thức ăn chăn nuôi trong và ngoài nước nhưng kết quả sản xuất và tiêu thụ thức ăn chăn nuôi của Công ty vẫn không ngừng tăng cao. Sản lượng sản xuất các sản phẩm thức ăn gia súc, gia cầm hàng năm tăng với tốc độ cao 8-9 %, năm 2008 tăng trên 20%, thị phần và thương hiệu thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ ngày càng được củng cố vững mạnh, lợi nhuận mang lại cho Công ty ngày một tăng, tạo điều kiện để đóng góp nhiều hơn cho Ngân sách Nhà nước và không ngừng nâng cao đời sống của cán bộ công nhân viên. Đặc biệt, Công ty đã từng bước đẩy mạnh sản lượng xuất khẩu, mang lại nguồn thu mới cho Công ty. Kết quả trên đã khẳng định phương phướng và các biện pháp, chính sách đầu tư vào sản xuất thức ăn chăn nuôi của IMEXIN là đúng đắn. Chất lượng  công tác đầu tư luôn được IMEXIN quan tâm và đã mang lại kết quả tích cực:           * Về công tác lập kế hoạch đầu tư:           Các mục tiêu và giải pháp đặt ra trong quá trình lập kế hoạch đầu tư của IMEXIN luôn đảm bảo tính thống nhất, cụ thể và khả thi, đã thu được hiệu quả cao trong việc nâng cao năng suất đồng thời tạo đà cho sự tăng trưởng bền vững trong tương lai. Các biện pháp của IMEXIN nhằm đẩy nhanh tốc độ tăng sản lượng (như đẩy nhanh vòng quay hàng tồn trữ, mua nguyên liệu với khối lượng lớn) đã từng bước thu được kết quả, giúp cho sản phẩm không chỉ có chỗ đứng trên thị trường trong nước mà còn xuất khẩu một phần sang nước ngoài.           * Về chính sách đầu tư :           Với chính sách đa dạng hóa sản phẩm, IMEXIN dã đáp ứng được nhu cầu sử dụng thức ăn chăn nuôi của bà con nông dân. Chính sách đầu tư đúng đắn cho nghiên cứu, pha chế  các sản phẩm mới  có chất lượng cao, đón đầu xu hướng nhu cầu đã giúp các sản phẩm thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ tạo được uy tín đối với người tiêu dùng , tiếp tục giữ vững và mở rộng tập khách hàng truyền thống.           Về chính sách huy động vốn đầu tư, IMEXIN đã sử dụng chính sách đa dạng hóa nguồn vốn, tạo ra sự linh hoạt trong tạo lập và sử dụng vốn, đã huy động được một lượng vốn cần thiết để trang trải cho hoạt động đầu tư của mình mỗi năm.             * Về sử dụng vốn đầu tư:           Vốn đầu tư được sử dụng một cách có tính toán kĩ lưỡng và toàn diện vào nhiều khía cạnh: Tài sản cố định, tài sản lưu động và tài sản vô hình, trên cơ sở đem lại lợi nhuận tối ưu cho Công ty. Trong quá trình sử dụng vốn đầu tư, Công ty không để xảy ra tình trạng thất thoát lãng phí, tình trạng đầu tư dàn trải, kém hiệu quả mà đã tận dụng mọi nguồn vốn huy động để tiến hành đầu tư một cách tiết kiệm và có lợi.           Trong cơ cấu đầu tư thì Công ty dành một tỷ trọng lớn vốn đầu tư cho nguyên liệu sản xuất. Đây là chiến lược đúng đắn vì chất lượng nguyên liệu quyết định chất lượng của sản phẩm, sản phẩm có chất lượng cao thì mới có thể được khách hàng tin dùng và có vị trí nhất định trên thị trường. Ngoài việc chú trọng đầu tư cho nguyên vật liệu, Công ty còn chú trọng đầu tư cho tài sản cố định và nguồn nhân lực… Dây chuyền sản xuất thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ được nhập khẩu đồng bộ từ Đài Loan nên sản phẩm của Công ty đạt tiêu chuẩn cao về mẫu mã và chất lượng. Trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào thì yếu tố con người cũng mang tính quyết định đến sự thành bại vì vậy Công ty không ngừng tổ chức các khóa tập huấn cho cán bộ công nhân viên của nhà máy, tuyển chọn những người có năng lực cao vào những vi trí quan trọng. 2. Tồn tại và nguyên nhân a. Những tồn tại           Bên cạnh những thành tựu và kết quả khả quan đạt được, hoạt động đầu tư  sản xuất thức ăn chăn nuôi vẫn còn những mặt tồn tại cần khắc phục sau:           Thứ nhất, sản lượng sản xuất ngày một tăng cao nhưng vẫn chưa xứng với tiềm năng đầu tư. Công ty đầu tư cho dây chuyền công nghệ hiện đại có công suất khá cao: 60.000 tấn/năm nhưng công suất sử dụng thực tế còn ở mức thấp là 30.000 tấn một năm, chỉ bằng 50% công suất thiết kế. Một trong những nguyên nhân của việc sản xuất dưới công suất là do Công ty chưa tạo lập đủ vốn đầu tư nên vốn đầu tư cho lĩnh vực sản xuất thức ăn chăn nuôi còn thấp hơn so với mục tiêu ban đầu. Sản xuất thức ăn chăn nuôi là một mục tiêu có tính chiến lược lâu dài trong hoạt động kinh doanh của công ty XNK và Đầu tư vì vậy cần đẩy hệ số sử dụng công suất lên cao cho xứng với tiềm năng và nguồn lực đầu tư ban đầu của Công ty.           Thứ hai, Công ty còn gặp khó khăn trong vấn đề tìm kiếm thị trường đầu vào và thị trường đầu ra. Một trong những biểu hiện là chi phí cho nguyên liệu tăng cao trong những năm 2007, 2008 đặc biệt là năm 2008. Nguồn nguyên liệu giá rẻ thì chất lượng không đảm bảo còn nguyên liệu chất lượng cao thì giá cả cũng khá cao. Thị trường đầu ra cũng gặp nhiều biến động. Do phải cạnh tranh với các hãng sản xuất trong nước và nước ngoài cộng thêm các dịch bệnh trong đàn gia súc, gia cầm nên Công ty thường xuyên phải thay đổi các đối tượng khách hàng, khiến cho đầu ra mất ổn định, lượng cầu tăng giảm không đều gây khó khăn cho công tác lập kế hoạch đầu tư. b. Nguyên nhân của những tồn tại ·        Nguyên nhân chủ quan - Khả năng tài chính của công ty ở trong mức giới hạn Khả năng tài chính, được đánh giá dựa trên tình hình tài chính của công ty  là một trong những tiêu chí quan trọng quyết định hiệu quả đầu tư. Khi đầu tư vào sản xuất thức ăn chăn nuôi, thực tế cho thấy nhu cầu vốn đầu tư ban đầu khá lớn so với qui mô vốn của công ty. Cụ thể, vốn đầu tư ban đầu của nhà máy SXTĂCN Nam Mỹ là 38.554 triệu đồng, tương đương với khoảng 80% vốn tham gia kinh doanh của công ty thời điểm xây dựng nhà máy. Nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh của nhà máy cũng ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả đầu tư, nếu có năng lực về tài chính thì công ty mới có thể tiến hành đầu tư cho các khoản mục cần thiết, mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, thanh toán nợ đọng. Tuy nhiên, năng lực tài chính của Công ty chỉ ở trong mức giới hạn nên nhiều khoản đầu tư cần thiết chưa được thực hiện và quan tâm đúng mức. - Hoạt động sản xuất kinh doanh của IMEXIN khá đa dạng, đa lĩnh vực. Công ty hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác nhau như xuất nhập khẩu, kinh doanh nội địa, sản xuất thức ăn chăn nuôi, sản xuất chiếu tre… Như vậy, ta có thể thấy sản xuất thức ăn chăn nuôi chỉ là một trong nhiều lĩnh vực hoạt động của Công ty XNK và Đầu tư IMEXIN. Vì vậy, Công ty còn có trách nhiệm với các chiến lược kinh doanh khác, không thể hoàn toàn chuyên tâm đầu tư cho chiến lược sản xuất thức ăn chăn nuôi. ·        Nguyên nhân khách quan  - Môi trường kinh tế vĩ mô có nhiều biến động Là những chỉ tiêu phản ánh tình trạng của nền kinh tế nói chung như sự ổn định và tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm phát, thu nhập quốc dân, sức mua của thị trường nói chung và thị trường thức ăn chăn nuôi nói riêng, thuế, giá cả... Là một tế bào của nền kinh tế, hàng ngày doanh nghiệp phải đối mặt với những diễn biến chung của môi trường kinh tế vĩ mô. Các yếu tố này là thông tin đầu vào quan trọng cho công tác đầu tư của doanh nghiệp, cho phép dự báo về thị trường, phát hiện những cơ hội cũng như những khó khăn có thể gặp phải, từ đó đưa ra những phương án thích hợp. Hiện nay, giá cả nguyên liệu thức ăn chăn nuôi cũng như giá cả thức ăn chăn nuôi tăng cao khiến cho IMEXIN tốn kém rất nhiều về vốn đầu tư cho nguyên liệu. Bên cạnh đó, giá bán sản phẩm tăng khiến cầu về sản phẩm thay đổi góp phần làm gián đoạn hoạt động sản xuất của Công ty. - Nguồn cung cấp yếu tố đầu vào chưa ổn định Với đặc thù của ngành, công ty thường xuyên phải thu mua và nhập khẩu nguyên liệu phục vụ cho sản xuất. Các đại lý tại Nghệ An là nơi cung ứng nguyên liệu thô mà chủ yếu là ngô và sắn cho công ty theo đơn đặt hàng với số lượng lớn và tương đối ổn định. Đối với những nguyên liệu nhập khẩu như đậu tương và phụ gia, các nhà cung cấp chính cho công ty là Đài Loan, Thái Lan và Brazil. Tuy nhiên nguồn hàng nhập khẩu từ nước ngoài thường không ổn định, thuế nhập khẩu cao nên chưa đáp ứng được mục tiêu của công ty. Tuy phụ gia là chất quan trọng trong thành phần của sản phẩm nhưng nguồn nhập khan hiếm, giá các nguyên liệu này liên tục tăng cũng đang ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiêu thụ sản phẩm cũng như chính sách đầu tư của IMEXIN. - Thị trường tiêu thụ nhiều biến động Thị trường tiêu thụ hay thị trường đầu ra là khâu quyết định cuối cùng đối với sự thành bại của hoạt động sản xuất. Nếu sản phẩm sản xuất ra đạt tiêu chuẩn về số lượng, chất lượng nhưng lại không bán được thì đầu tư thất bại. Chính vì vậy trước khi tiến hành đầu tư thì doanh nghệp phải nghiên cứu kĩ thị trường để sản phẩm có thể được chấp nhận và tiêu thụ, như vậy thì hoạt động đầu tư mới có lãi và mới được xem là hiệu quả. Tuy nhiên, diễn biến thị trường không phải lúc nào cũng như ý muốn của nhà đầu tư. Cụ thể, ngành chăn nuôi nước ta đang bị tuột dốc về tốc độ tăng trưởng, hiện nay thời điểm lên cao nhất chỉ đạt được 7-8% trong khi tốc độ tăng trưởng giai đoạn 2001-2006 là 8-9%. Nguyên nhân chủ yếu là do sự suy giảm của đàn lợn bởi các dịch bệnh. Trong khi đó thức ăn cho lợn của công ty chiếm một phần không nhỏ trong cơ cấu sản phẩm. Trước tình hình đó công ty không cắt giảm vốn đầu tư mà đang có chính sách chuyển dịch dần cơ cấu đầu tư sang các sản phẩm thức ăn cho gia cầm. II. TRIỂN VỌNG VÀ THÁCH THỨC PHÁT TRIỂN NGÀNH THỨC ĂN CHĂN NUÔI NƯỚC TA 1. Triển vọng           Nước ta là một nước nông nghiệp lấy ngành chăn nuôi làm trọng điểm. Hiện nay, ngành chăn nuôi nước ta đang có ưu thế về tốc độ tăng trưởng, luôn ở mức cao hơn so với tốc độ tăng trưởng của cả ngành nông nghiệp. Năm 2008, tỷ trọng của ngành chăn nuôi trong nông nghiệp chiếm 22,5% , tổng giá trị toàn ngành chăn nuôi đạt 21.980 tỷ đồng. Chất lượng giống và kỹ thuật chăn nuôi đã được cải thiện, phương thức chăn nuôi trang trại, hàng hoá bước đầu hình thành và phát triển nhanh về số lượng và quy mô. Bên cạnh đó công nghệ chăn nuôi đã có những tiến bộ đáng kể. Đây là điều kiện thuận lợi cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi phát triển. Những năm gần đây, công nghệ chế biến thức ăn chăn nuôi phát triển nhanh với tỷ trọng thức ăn công nghiệp chiếm gần 39% tổng lượng thức ăn tinh. Về cơ cấu vật nuôi, đàn vật nuôi của nước ta hiện nay đã phát triển hoàn chỉnh và phong phú: gồm có đàn bò, đàn trâu, ngựa, đàn lợn, đàn dê, cừu, và đàn gia cầm. Trong đó, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi lợn và gia cầm chiếm tỷ trọng cao, tiếp đến là bò thịt. Chăn nuôi lợn từ trước đến nay luôn giữ vai trò chủ đạo trong ngành chăn nuôi cả nước. Ngoài ra, ngành nuôi trồng thuỷ hải sản nước ta cũng đang ngày được quan tâm, hiện nay sản lượng thủy hải sản nước ta hiện nay là 2063,8 nghìn tấn, với qui mô sản xuất như vậy, lượng thức ăn chăn nuôi cho ngành này là một nhu cầu cấp thiết. Chiến lược phát triển nông nghiệp từ năm 2000 đến năm 2010 đã xác định rõ: Chăn nuôi là hướng phát triển quan trọng, lâu dài của sản xuất nông nghiệp, là ngành có thế mạnh, có tỷ suất hàng hóa cao. Cần tập trung đầu tư phát triển ngành chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi lợn trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Theo đó, việc đầu tư cho ngành chế biến thức ăn chăn nuôi của nước ta cũng đang trong giai đoạn cần được quan tâm đúng mức.   Về nguồn nguyên liệu: Hiện nay, Việt Nam là một trong những quốc gia xuất khẩu thủy sản hàng đầu thế giới, với bờ biển dài hơn 3.000 km hoàn toàn đủ khả năng cung cấp nguyên liệu bột cá cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Việt Nam đang hướng ngành thủy sản chú trọng hơn trong việc quy hoạch thời gian đánh bắt cá hợp lý vừa bảo đảm nguồn lợi thủy sản, vừa có tác dụng giữ ổn định mức giá và chất lượng nguyên liệu bột cá. Là một nước nông nghiệp nhiệt đới, nước ta có nhiều lợi thế để phát triển ngành công nghiệp chế biến thức ăn chăn nuôi hiện đại hơn, đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành chăn nuôi. Tập trung vào các giải pháp cụ thể nhằm tạo đủ nguồn thức giàu năng lượng như cám, gạo, ngô, sắn...; đồng thời chủ động khai thác tối đa nguồn nguyên liệu giàu đạm, đầu tư nghiên cứu công nghệ sản xuất hoá dược, khoáng, vi lượng, vi sinh, enzyme, công nghệ sinh học tạo nguồn nguyên liệu thức ăn bổ sung trong nước, chẳng hạn như khuyến khích các cơ sở sản xuất thức ăn chăn nuôi trực tiếp ký hợp đồng với người nông dân đầu tư xây dựng vùng nguyên liệu trồng ngô, đậu tương, sắn... để có nguồn nguyên liệu ổn định. Nhu cầu lớn trong nước và tầm quan trọng của ngành chăn nuôi trong cơ cấu ngành nước ta là cơ sở để đầu tư cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi. Định hướng đầu tư mới cho ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam hướng tới việc khuyến khích phát triển hệ thống sản xuất hiện đại và hiệu quả. Nhà nước đã và đang định hướng hỗ trợ cho các doanh nghiệp Việt Nam rõ ràng hơn, như hỗ trợ đào tạo kỹ thuật, đào tạo nghiên cứu sản xuất để các doanh nghiệp Việt Nam có đủ nhân lực đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành và cạnh tranh với sản phẩm của nước ngoài có thể tràn vào Việt Nam. 2. Thách thức  Là một nước nông nghiệp có ngành chăn nuôi lâu đời nhưng ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam vẫn đứng trước rất nhiều khó khăn và thách thức từ các nguyên nhân chủ quan - những yếu kém nội tại lẫn những nguyên nhân khách quan của thời cuộc, gây ra ít nhiều ảnh hưởng tới công cuộc sản xuất của các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi nói chung và của công ty XNK và Đầu tư IMEXIN nói riêng. Thứ nhất là trở ngại trong vấn đề nguyên liệu đầu vào. Nguồn nguyên liệu để sản xuất thức ăn chăn nuôi trong nước chỉ đáp ứng được 70% so với nhu cầu sản xuất, số còn lại phải nhập khẩu. Lượng thức ăn chăn nuôi ở Việt Nam được nhập khẩu khá lớn do nhu cầu trong nước đáp ứng không đủ. Nước ta còn thiếu khả năng thực hiện quy hoạch phát triển toàn diện các nguồn nguyên liệu thô cũng như công nghiệp phụ trợ cho ngành thức ăn chăn nuôi, diện tích trồng ngô và các cây nguyên liệu khác lớn nhưng năng suất thấp đầy giá thức ăn chăn nuôi cao hơn so với các nước trong khu vực. Giá nguyên liệu phục vụ cho sản xuất thức ăn cũng ngày một tăng cao. Thứ hai, khó khăn về thị trường đầu ra. Nguyên nhân của khó khăn này là do các dịch bệnh liên tiếp như cúm gia cầm, dịch lở mồm long  móng, đã đe dọa trực tiếp ngành chăn nuôi, khiến đầu ra của thị trường thức ăn chăn nuôi giảm sút nghiêm trọng. Các dịnh bệnh gây thiệt hại lớn cho người chăn nuôi là các bạn hàng của công ty, làm giảm doanh thu, gây gián đoạn đến kế hoạch sản xuất và tiêu thụ của công ty.  Thứ ba là tình trạng trái ngược giữa chất lượng và giá cả. Giá thức ăn chăn nuôi của Việt Nam luôn cao hơn so với các nước trong khu vực từ 10 - 20%. Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng nhanh của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi thời gian qua cũng đi kèm với tồn tại trong công tác giám sát, kiểm định chất lượng. Chất lượng thức ăn không đạt yêu cầu nêu trên đã gây thiệt hại cho người chăn nuôi. Giá cả không thể cạnh tranh mà chất lượng cũng chưa chắc bảo đảm tốt hơn sản phẩm của nước ngoài, bởi vậy hiện hay, hơn 50% lượng thức ăn chăn nuôi đáp ứng cho nhu cầu tiêu thụ trong nước vẫn phải nhập từ các nước khác về. Cuối cùng là thách thức gây ra bởi nền kinh tế vĩ mô. Trước hết là tình trạng lạm phát. Từ cuối 2007, Việt Nam đã rơi vào cuộc lạm phát phi mã và kéo dài từ đó đến nay.  Lạm phát làm tăng giá thức ăn chăn nuôi và nguyên liệu sản xuất thức ăn chăn nuôi. Tiếp theo là thắt chặt tín dụng. Với tín dụng thương mại, do lạm phát, Chính phủ đã chủ trương thắt chặt tín dụng và đầu tư, gây khó khăn trong việc huy động vốn để đầu tư sản xuất cho cả các chủ trang trại và các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi. III. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI Qua các nhận định về triển vọng, thách thức của ngành sản xuất thức ăn chăn nuôi Việt Nam và tình hình năng lực sản xuất của công ty đặt trong bối cảnh chung của thị trường, công ty XNK và Đầu tư IMEXIN đã đưa ra định hướng phát triển phù hợp cho mình trong thời gian tới như sau : 1. Định hướng chung về phát triển sản xuất thức ăn chăn nuôi của Công ty Những năm qua, kết quả sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi của công ty XNK và Đầu tư IMEXIN luôn giữ được tốc độ tăng trưởng ổn định, giữ vững được sản lượng và doanh thu tiêu thụ trong hoàn cảnh khó khăn của thị trường đã chứng tỏ nỗ lực không ngừng của các nhà quản trị cùng toàn thể cán bộ công nhân viên. Tuy nhiên trong thời gian tới, công ty sẽ phải đối mặt với nhiều thử thách từ phía môi trường bên ngoài, đặc biệt là sự khan hiếm của thị trường đầu vào và sức ép cạnh tranh ngày càng cao của các sản phẩm trong và ngoài nước. Trước tình hình mới, công ty đã đề ra phương hướng hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi là đạt được tốc độ tăng trưởng từ 10-11%/năm, mở rộng thị phần, tạo được uy tín đối với người chăn nuôi, đẩy mạnh xuất khẩu ra các nước trong khu vực. Cụ thể: Đối với thị trường nội địa, IMEXIN đang cung cấp thức ăn chăn nuôi cho một số hộ chăn nuôi nhỏ lẻ và các trang trại ở miền Bắc, tuy nhiên thị phần không đáng kể so với sức mua của thị trường. Mục tiêu của công ty là duy trì khách hàng truyền thống và tiếp tục mở rộng, thâm nhập thị trường, tìm kiếm nhu cầu về thức ăn chăn nuôi từ các trang trại phân bố ở miền Bắc nước ta, nếu có điều kiện có thể mở rộng sang thị trường miền Trung và Nam Bộ. Đây là các khách hàng tiềm năng, thường đặt mua hàng với khối lượng lớn. Muốn vậy thì công ty phải có hệ thống đại lý phân bố đều tại những địa điểm chăn nuôi công nghiệp. Trong tình hình cạnh tranh, việc duy trì mối quan hệ bền vững với khách hàng là hết sức quan trọng. Do đó, bên cạnh cung cấp các sản phẩm đảm bảo chất lượng, IMEXIN còn hướng tới xây dựng các dịch vụ hậu mãi hoàn thiện cho khách hàng như các chính sách đầu tư cho khách hàng, các dịch vụ kĩ thuật bổ sung, hướng dẫn tư vấn sử dụng sản phẩm… Đối với thị trường xuất khẩu, hiện nay IMEXIN đang gặp khó khăn trong việc tìm hiểu, đánh giá đối tác nên trong thời gian tới, công ty sẽ tiếp tục đầu tư nghiên cứu, khai thác thị trường này. Trước mắt, thị trường xuất khẩu trọng điểm của công ty vẫn là các nước trong khu vực như Lào và Campuchia. Do tập quán chăn nuôi, nhu cầu lấy giống vật nuôi, tiêu chuẩn thức ăn cho gia súc, gia cầm  giữa các nước không giống nhau nên sản phẩm của công ty còn gặp khó khăn trong việc thâm nhập thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên đây lại là các thị trường nhiều tiềm năng trong hoàn cảnh thị trường trong nước đang gặp nhiều biến động. Để tạo nền móng vững chắc từ khi xâm nhập, công ty chủ trương tiếp tục gia tăng các nỗ lực marketing nhằm xây dựng, quảng bá thương hiệu thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ trên các thị trường này.   Thời gian tới, IMEXIN sẽ tiếp tục đầu tư cho việc nghiên cứu, pha trộn các sản phẩm mới có khả năng tương thích với các giống vật nuôi mới trên thị trường. Yêu cầu về chất lượng của khách hàng trong nước ngày càng khắt khe, thị trường xuất khẩu cũng có nhu cầu lớn về các sản phẩm chất lượng cao nên định hướng của IMEXIN là ưu tiên cho nghiên cứu, pha trộn các loại thức ăn chăn nuôi chất lượng tốt, góp phần tăng thêm lợi nhuận. 2. Mục tiêu sản xuất thức ăn chăn nuôi năm 2009 của Công ty Năm 2008 được đánh giá là một năm có nhiều thách thức với hoạt động sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi của công ty XNK và Đầu tư IMEXIN. Diễn biến thị trường trong nước theo chiều hướng bất lợi, giá đầu vào tiếp tục leo thang, trong khi đó, thị trường xuất khẩu chưa thể xem là thị trường chiến lược bởi còn thiếu nhiều thông tin và kinh nghiệm. Vì vậy, công ty đưa r a một số chỉ tiêu phấn đấu sau: * Về kết quả kinh doanh, năm 2009, IMEXIN cần cố gắng duy trì tốc độ tăng trưởng đều đặn như những năm trước, đảm bảo hiệu quả kinh doanh. IMEXIN đã lập kế hoạch chi tiết gồm các chỉ tiêu quan trọng cần đạt được, thể hiện trên bảng 10. Bảng 21: Kế hoạch kinh doanh thức ăn chăn nuôi năm 2009 của IMEXIN TT Chỉ tiêu ĐVT Thực hiện năm 2008 Kế hoạch năm 2009 So sánh TH/KH (%) 1 Tổng sản lượng tiêu thụ Tấn 11.883 13 9,4 - Trong nước Tấn 10.948 12 9,6 - Xuất khẩu Tấn 935 1 7,0 2 Tổng doanh thu tiêu thụ Trđ 143.662 160 11,4 - Doanh thu nội địa Trđ 128.442 142 10,6 - Doanh thu xuất khẩu Trđ 15.220 17 11,7 3 Giá vốn hàng bán Trđ 119.670 133 11,1 4 Lãi gộp Trđ 23.992 26 8,4 5 Chi phí kinh doanh Trđ 17.958 19 5,8 6 Lọi nhuận trước thuế Trđ 6.034 7 16,0 7 Nộp ngân sách Trđ 1.689 1.9 12,5 Nguồn: Phòng kinh doanh I Công ty XNK và Đầu tư           * Về sản phẩm, tiếp tục thực hiện chính sách đa dạng hóa sản phẩm, chú trọng sản phẩm dạng tinh, viên, đem lại hiệu quả cao trong việc thúc đẩy quá trình tăng trưởng của vật nuôi. Theo chính sách của nhà nước, dù trong những năm qua các dịch bệnh như dịch lở mồm long móng, dịch tai xanh gây thiệt hại lớn cho đàn lợn nhưng công ty vẫn chủ trương duy trì tỷ trọng cao về thức ăn cho lợn để thúc đẩy sự phát triển các giống lợn trong nước, đem lại con giống có sức đề kháng cao và làm hài lòng người chăn nuôi. Tỷ trọng thức ăn tinh cho lợn dự kiến ở mức 65% trên tổng sản lượng thức ăn tinh.           * Về giá bán, do tình hình giá cả leo thang nên công ty chưa thể tính đến việc cắt giảm giá thành vì vậy giá bán đươc công ty duy trì ở mức giá hợp lý với thành phần và chất lượng sản phẩm,  phù hợp với chi phí đầu vào, cụ thể: - Thức ăn thô có giá  90.000-120.000 đồng/ bao 25 kg - Thức ăn tinh dạng cám có giá 260.000-330.000 đồng/bao 25kg - Thức ăn tinh dạng viên có giá 310.000-360.000 đồng/bao25kg           * Về thị trường nội địa, công ty đặt ra mục tiêu giữ vững mức tăng trưởng sản lượng chung là 10% so với năm 2008. Năm 2009, nhiệm vụ đầu tiên của công ty là giữ được các khách hàng truyền thống có sản lượng mua lớn.           * Về thị trường xuất khẩu, công ty tiếp tục tìm kiếm các đối tác nước ngoài có nhu cầu. Thị trường mục tiêu của IMEXIN vẫn là các nước có ngành nông nghiệp chăn nuôi còn lạc hậu trong khu vực. Đó là những nước chưa tự sản xuất được thức ăn chăn nuôi chất lượng vao nên phải nhập khẩu từ Việt Nam . IMEXIN đặt ra mục tiêu cụ thể cho các thị trường: Lào 500 tấn, Campuchia 300 tấn, Phillipin 200 tấn.           Như vậy, IMEXIN đã có sự chuẩn bị tích cực trong việc sản xuất thức ăn chăn nuôi trên nhiều mặt cho năm 2009, hoạch định những kế hoạch, mục tiêu cụ thể, rõ ràng nhằm định hướng tốt cho hoạt động đầu tư đem lại hiệu quả cao nhất. Nhưng để hoàn thành các mục tiêu này, không thể thiếu sự nỗ lực và đoàn kết của ban lãnh đạo công ty cùng toàn thể các cán bộ công nhân viên trong nhà máy IV. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ SẢN XUẤT THỨC ĂN CHĂN NUÔI CỦA CÔNG TY XNK VÀ ĐẦU TƯ  1. Xây dựng chiến lược đầu tư phù hợp           Một dự án, một quy trình sản xuất không thể bắt đầu mà thiếu sự chuẩn bị trước. Sự chuẩn bị ấy có thể là về nhân lực, về vốn, hay về ý tưởng đầu tư, sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào, bằng cách nào, gọi chung là chiến lược đầu tư ban đầu. Muốn công cuộc đầu tư hoàn thành tốt đẹp thì chiến lược đề ra phải là đúng đắn. Ngay từ những năm đầu nhà máy thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ đi vào hoạt động cũng đã có thể thấy rõ ảnh hưởng của chiến lược sản xuất đến hiệu quả đầu tư của công ty trong lĩnh vực này. Sự thể hiện của chiến lược đầu tư ở đây là sự chuẩn bị về mặt địa điểm, về nhân công, sự ủy thác trách nhiệm cho những nhà quản lý, các chính sách về mặt hàng, công thức sản phẩm… Việc sản phẩm bán được trên thị trường, bán được với số lượng tương đối lớn, đem lại lợi nhuận cho công ty cho thấy chiến lược đầu tư của công ty đã đi đúng hướng. Trước mỗi chu kỳ sản xuất, công ty cần có kế hoạch rõ ràng về vốn, về danh mục và cơ cấu các sản phẩm cúng như số lượng sản xuất. Không chỉ chú ý đến sản phẩm về chất lượng mà công ty cũng cần chú đến mẫu mã bao bì sao cho đẹp mắt, hợp với thị hiếu của người mua, để cho sản phẩm nổi bật trong tâm trí người tiêu dùng mà lại khó bị làm giả, làm nhái gây tổn hại đến thương hiệu sản phẩm. Thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ có chất lượng tốt tuy nhiên là sản phẩm mới, thị phần chưa nhiều nên giá cả nên ở mức vừa phải, không quá cao cũng không quá thấp, đảm bảo đem lại lợi nhuận tài chính cho công ty. Để có chiến lược đầu tư đúng đắn, công ty XNK và Đầu tư cần xây dựng chiến lược sản xuất thức ăn chăn nuôi dựa trên những yếu tố sau: * Mục tiêu của công ty Công ty nên có mục tiêu cụ thể cho hoạt động sản xuất của mình. Cụ thể, để dự án đem lại hiệu quả tài chính thì lợi nhuận phải đạt được một con số cụ thể nào đó. Mục tiêu hoạt động sản xuất của công ty cũng có thể là sản lượng bán được hay doanh thu tiêu thụ vào năm kế hoạch. Từ đó có kế hoạch huy động và sử dụng vốn đầu tư hợp lý. * Chính sách của nhà nước Công ty nên dựa vào các chính sách của nhà nước về lãi suất, về thuế để xác định sản lượng cho mình. Trong thời gian gần đây, nhà nước có xu hướng thắt chặt tín dụng và giảm lãi suất cho vay. Trước tình hình khan hiếm về vốn công ty có thể có một số giải pháp như điều chỉnh lại kế hoạch huy động vốn, tăng tỷ lệ vốn tự có và mở rộng khoản vốn vay từ các tổ chức nước ngoài. Một biện pháp khác là điều chỉnh lại cơ cấu sản phẩm, đầu tư  sản xuất có trọng điểm, cắt giảm các mặt hàng mà những năm trước không đem lại lợi  nhuận cao. * Tình hình biến động thị trường Đây là nhân tố quan trọng trong việc đề ra chiến lược đầu tư đúng đắn trong sản xuất thức ăn chăn nuôi của IMEXIN. Vì thị trường thức ăn chăn nuôi gần đây luôn có nhiều biến động, điển hình là các biến động bất lợi về thị trường đầu ra cũng như đầu vào. Công ty cần có các chiến lược thu mua nguyên vật liệu sao cho phù hợp, tiết kiệm chi phí đồng thời nỗ lực tìm kiếm thị trường đầu ra, đẩy mạnh tìm kiếm đối tác và giữ gìn mối quan hệ tốt đẹp với bạn hàng. 2. Đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và lựa chọn hình thức thích hợp. Đầu tư cho sản xuất kinh doanh thức ăn chăn nuôi là lĩnh vực đòi hỏi nhiều vốn nhất trong các lĩnh vực đầu tư của công ty XNK và Đầu tư IMEXIN. Vì vậy cân một nguồn vốn huy động lớn và có tính đa dạng. * Huy động vốn từ bên trong doanh nghiệp Về cơ bản lâu dài, nguồn vốn bên trong doanh nghiệp là yếu tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững của doanh nghiệp, mà cũng thể hiện sự phát huy nội lực của doanh nghiệp. Nguồn vốn bên trong mà công ty XNK và Đầu tư IMEXIN có thể huy động để phục vụ cho hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi bao gồm: - Tiền khấu hao cơ bản tài sản cố định của nhà máy SX TĂCN Nam Mỹ. Với giá trị tài sản cố định của nhà máy SX TĂCN Nam Mỹ tương đối lớn thì nguồn vốn thu được từ khấu hao tài sản cố định sẽ chiếm một phần đáng kể trong nguồn vốn huy động. - Lợi nhuận để lại để tái đầu tư. Đây có thể là lợi nhuận từ hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi hoặc lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh khác. Công ty nên lấy lợi nhuận của một mảng kinh doanh để làm vốn tái đầu tư cho mảng kinh doanh đó, để dễ dàng hơn trong việc xác định giá trị hiện tại tròng và thời gian thu hồi vốn đầu tư, từ đó xác định hiệu quả tài chính của năm đầu tư để điều chỉnh kế hoạch cho năm sau. - Thu hồi nhanh vốn các tài sản, vật tư ứ đọng, không cần dùng. Trong quá trình sản xuất, chắc hẳn sẽ xuất hiện các vật tư thừa không dùng đến như nguyên liệu thừa, công cụ dụng cụ vừa sử dụng, bao bì thừa… Một cách bổ sung cho nguồn vốn đầu tư là thu hồi các vật dụng này để bán hoặc sử dụng cho kỳ sản xuất sau.  * Huy động vốn bên ngoài doanh nghiệp Do nguồn vốn bên trong doanh nghiệp là hạn chế mà nguồn vốn huy động được bên ngoài doanh nghiệp lại có tiềm năng lớn nên đây là nguồn vốn quan trọng đối với mọi hoạt động sản xuất kinh doanh. - Vay vốn trung hạn, dài hạn của ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong nước và ngoài nước đang hoạt động tại Việt Nam . Nguồn vốn vay truyền thống của IMEXIN là vốn vay của các ngân hàng trong nước, trên cơ sở nghiên cứu tìm hiểu các ngân hàng có lãi suất vay thấp và có độ an toàn cao. Ngoài ra công ty có thể vay vốn từ các tổ chức tài trợ nước ngoài, nguồn vốn này thường được cho vay với lãi suất ưu đãi và khối lượng lớn. - Huy động vay vốn của các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong lực lượng này còn khá lớn. Tận dụng nguồn vốn này Công ty rất có lợi như: Thời gian thanh toán nợ cho cán bộ nhân viên không bị khắt khe như ở ngân hàng. Công ty có thể chủ động hơn về vốn, không phải chịu sức ép từ phía ngân hàng khi đến hạn thanh toán.Khi cán bộ nhân viên trong công ty bỏ vốn ra cho công ty vay thực hiện khi họ tự nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình đối với hoạt động của công ty. - Chiếm dụng vốn của bạn hàng: Đây cũng là một nguồn vốn tương đối quan trọng, xuất phát từ việc chiếm dụng tiền hàng của bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng hoặc xin ứng vốn trước khi xuất hàng. - Ngoài ra công ty còn có thể huy động vốn từ các nguồn khác như mua thiết bị trả chậm của các hãng cung cấp máy móc thiết bị nước ngoài, thực hiện liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong nước và nước ngoài, thuê tài sản, phát hành cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp… Tuy nhiên do tình hình và đặc điểm sản xuất riêng nên công ty rất ít sử dụng các hình thức huy động vốn này hoặc lượng vốn huy động không đáng kể. Như vậy, có rất nhiều giải pháp huy động vốn cho hoạt động sản xuất của công ty. Vấn đề quan trọng là công ty phải xác định cơ cấu vốn huy động cho phù hợp và tìm được giải pháp huy động vốn thích hợp nhất. 3. Nâng cao hiệu quả quản lý việc sử dụng vốn đầu tư Quản lý vốn đầu tư là lập kế hoạch, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn đầu tư, sử dụng vốn đầu tư là dùng vốn đầu tư huy động được để thực hiện các công việc đầu tư như mua sắm tài sản, nguyên vật liệu, vận hành máy móc, hoàn thành sản phẩm… Cá hai đều phát huy tác dụng trong suốt quá  trình thực hiện đầu tư. Quản lý đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi của công ty IMEXIN thể hiện ở các nhiệm vụ sau: - Quản lý đầu vào nguyên liêu, nhiên liệu, vật tư cho quá trình sản xuất. - Lập kế hoạch cho sản phẩm về mẫu mã, chất lượng, cơ cấu, thành phần và công thức pha trộn. - Quản lý và điều phối việc thực hiện sản xuất của các cán bộ công nhân viên trong nhà máy. - Quản lý, theo dõi tình hình tài sản, kết quả kinh doanh thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ. - Tìm kiếm và xác định thị trường đầu ra. Lập kế hoạch, theo dõi tình hình tiêu thụ sản phẩm trên thị trường. Để làm tốt công tác quản lý đầu tư thì trước hết công ty cần xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý có kinh nghiệm và tinh thần trách nhiệm cao, bao gồm các nhà lãnh đạo gián tiếp làm việc tại trụ sở công ty và các cán bộ quản lý trực tiếp tại nhà máy. Đây là những con người trực tiếp quyết định đến sự thành bại của công cuộc đầu tư vì họ là những người quyết định chủ yếu trong mọi khâu của quá trình sản xuất từ khi bắt đầu đến khi đem sản phẩm ra thị trường tiêu thụ, mọi khía cạnh sản xuất như khối lượng vốn, cơ cấu sản phẩm, nguồn nguyên liệu…  Trong tình hình lạm phát cao như hiện nay, công ty nên đầu tư có trọng điểm, tránh đầu tư dàn trải gây lãng phí, chẳng hạn như chỉ đầu tư vào các chủng loại sản phẩm đem lại lợi nhuận kinh tế cao. Mặt khác, các cán bộ quản lý cần có các biện pháp rút ngắn các khoảng thời gian không cần thiết trong quá trình sản xuất. 4. Đa dạng hóa cơ cấu sản phẩm, hướng sang đầu tư sản xuất thức ăn thủy hải sản           Sản phẩm của hoạt động sản xuất thức ăn chăn nuôi của Công ty XNK và Đầu tư là các mặt hàng thức ăn chăn nuôi nhãn hiệu Nam Mỹ. Ngay từ khi bắt đầu đi vào hoạt động, Công ty đã xác định hướng đi cho mình là cơ cấu sản phẩm phải đa dạng, đáp ứng đầy đủ nhu cầu của thị trường. Từ đó đến nay, Công ty không ngừng cải tiến sản phẩm về chất lượng, mẫu mã, bổ sung thêm mặt hàng cho phù hợp. Như vậy, chiến lược về  sản phẩm là chiến lược lâu dài của Công ty, nó chịu sự tác động của thị trường vì thế cần trở nên linh hoạt.           Hiện nay, thị trường thức ăn chăn nuôi đang có sự biến động mạnh mẽ. Thị trường đầu ra đã phần nào bị thu hẹp do tác động của các dịch bệnh gia súc, gia cầm như dịch cúm ở gà, dịch lở mồm long móng và dịch tai xanh ở lợn. Các dịch bệnh này không chỉ xuất hiện một lần mà xuất hiện thành đợt, không thể dự báo trước. Trong khi đó, nuôi trồng thuỷ hải sản là một ngành đang phát triển tại Việt Nam . Với lợi thế  trên 3000 km đường bờ biển chạy dài, nhiếu sông suối ao hồ, nước ta có ngành thuỷ hải phát triển ở cả ba miền Bắc, Trung , Nam . Vì vậy, lượng nhu cầu về thức ăn cho thuỷ hải sản ở nước ta khá lớn, và ổn định vì dịch bệnh ở thuỷ hải sản không nhiều và thường xuyên như dịch bệnh ở lợn và gà.           Với tình hình thị trường như vậy, công ty XNK và Đầu tư nên bổ sung thêm  các mặt hàng thức ăn chăn nuôi thuỷ hải sản, đưa sản phẩm thức ăn chăn nuôi thuỷ hải sản vào một trong những sản phẩm thức ăn chăn nuôi chính, góp phần tăng doanh số bán và mở rộng thị phần.           Tuy nhiên, mở rộng thêm mặt hàng và chuyển đổi cơ cấu đầu tư không có nghĩa là đầu tư dàn trải mà phải có chính sách đầu tư nhạy bén. Tạo ra quá nhiều chủng loại sản phẩm sẽ khiến Công ty không hiểu đúng nhu cầu của khách hàng, không đưa đúng sản phẩm đến đúng đối tượng khách hàng hay đúng kênh bán hàng. Việc tạo ra quá nhiều chủng loại sản phẩm cũng làm giảm hiệu quả sản xuất và tăng tính phức tạp của các hoạt động đầu tư. Vì vậy giải pháp về mặt hàng thức ăn chăn nuôi cho công ty XNK và Đầu tư là cần đầu tư đúng chỗ, đúng thời điểm với cơ cấu đầu tư hợp lý. KẾT LUẬN           Trong những năm qua, Công ty XNK và Đầu tư luôn coi đầu tư cho sản xuất thức ăn chăn nuôi là chiến lược quan trọng, là con đường để đưa sản phẩm và uy tín của Công ty lên vị thế lớn mạnh, thực hiện tốt vai trò của một nhà đầu tư và một nhà sản xuất, đóng góp vào việc thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung. Mặc dù thị trường đang có nhiều biến động và trong đó có cả những biến động bất lợi nhưng bằng những nỗ lực không ngừng, bộ phận sản xuất thức ăn chăn nuôi đã đạt được những kết quả tốt trong sản xuất và kinh doanh, nhờ có chính sách đầu tư đúng đắn dựa trên những nghiên cứu kĩ lưỡng. Tuy vậy, để đưa sản phẩm thức ăn chăn nuôi Nam Mỹ trở thành một sản phẩm thực sự có uy tín, có một thương hiệu mạnh trên thị trường và tạo ra nhiều lợi nhuận, ban lãnh đạo Công ty cùng bộ phận sản xuất thức ăn chăn nuôi vẫn cần tiếp tục cố gắng, hoàn thiện hơn các hoạt động đầu tư và sản xuất nhằm hỗ trợ cho việc phát triển sản phẩm, gia tăng thị phần, đem lại hiệu quả trên mọi phương diện.           Thời gian tìm hiểu thực tế tại Công ty XNK và Đầu tư vừa qua em đã giúp em có cơ hội nâng cao nhận thức thực tiễn về hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, kết hợp với những lý luận đã được học trên ghế nhà trường, em đã có những đánh giá của bản thân về hoạt động đầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi của IMEXIN, đồng thời đưa ra một số giải pháp với hy vọng góp phần nâng cao chất lượng của hoạt động đầu tư này trong thời gian tới.           Do thời gian nghiên cứu và khả năng nhận thức còn hạn chế, chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự thông cảm và đóng góp ý kiến từ phía các thầy cô giáo, Công ty XNK và Đầu tư và những người quan tâm.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docĐầu tư sản xuất thức ăn chăn nuôi tại công ty XNK và Đầu tư (IMEXIN).doc
Luận văn liên quan