Đề 5 - Bán phá giá

Phối hợp với Bộ Công thương hoàn thiện cơ chế quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam theo hướng đa dạng hóa cách tính thuế: thuế hạn ngạch; thuế theo mùa; thuế theo giá trị (cùng một áo sơmi: giá rẻ hơn mức nào đó đánh thuế cao; cao hơn đánh thuế mức thấp ); hoặc thuế (hoặc phụ thu) đánh vào sản phẩm khi xuất khẩu sang các thị trường khác nhau (có thị trường xuất khẩu thuế =0; có những thị trường xuất khẩu cũng sản phẩm ấy bị phụ thu phí ). - Đầu tư mạnh cho công tác hải quan: hiện đại hóa thủ tục hải quan; tăng cường nối kết mạng giữa các cơ quan Chính phủ nhằm giám sát chặt chẽ kịp thời tốc độ tăng (giảm) XK, NK trên các thị trường, để đề xuất các giải pháp điều tiết nhằm giữ thị trường. - Giúp Chính phủ xây dựng đề án “Hoàn thiện công tác kế toán kiểm tóan VN đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” và đưa vào áp dụng trong thực tế để giúp các doanh nghiệp đối phó có hiệu quả các vụ kiện AD.

doc76 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2708 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề 5 - Bán phá giá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều nhất. WTO cho phép các nước thành viên được áp đặt các biện pháp chống bán phá giá trong khuôn khổ pháp luật của mình. Tuy nhiên, các nước đang phát triển vẫn thường phản đối điều này, đặc biệt là phản đối một số quốc gia thường sử dụng các biện pháp chống bán phá giá vào mục đích bảo hộ ngành công nghiệp nội địa. Từ đó, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, chính sách cạnh tranh có thể là công cụtốt hơn để giải quyết các trường hợp phá giá với điều kiện tất cả các nước thành viên của WTO sẵn sàng theo đuổi những chính sách cạnh tranh có hiệu quả. Và cho tới khi điều này xảy ra, các quy tắc về chống phá giá chỉ tạo nên một cơ chế pháp lý hiệu quả chống lại cạnh tranh bất chính nếu nó hợp pháp và công bằng, nhằm giải quyết những lo ngại do cộng đồng thương mại đưa ra. Các nước áp dụng thuế chống bán phá giá thường bị nước xuất khẩu hàng hóa là đối tượng chịu thuế chống bán phá giá khởi kiện đến WTO, cụ thể là Cơ quan Giải quyết tranh chấp. Các vụ việc giải quyết tranh chấp về việc chống bán phá giá luôn là vấn đề phức tạp và gây nhiều tranh cãi. Đôi khi, kết quả thường dẫn đến các hành vi trả đũa trong thương mại, gây ra rất nhiều mâu thuẫn, ảnh hưởng xấu đến tình hình thương mại chung trên thế giới. Vì vậy, các quốc gia thường rất thận trọng khi quyết định việc áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng hóa nhập khẩu bị bán phá giá vào nước mình. Áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ tạo ra sự bảo hộ cao hơn đối với các nhà sản xuất sản phẩm tương tự ở trong nước. Mức bảo hộ tăng lên bằng biên độ phá giá, hay là sự chênh lệch giữa giá bán của sản phẩm đó tại nước xuất khẩu và giá xuất khẩu (GTTT - GXK). Do đó, nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở trong nước không thể bán sản phẩm của mình ở mức giá cao hơn giá bán của sản phẩm đó ở nước xuất khẩu cộng thêm các chi phí liên quan tới xuất khẩu như bảo hiểm, vận tải, môi giới, v.v. nhân với thuế nhập khẩu. Thực tế cho thấy chỉ có các ngành sản xuất có qui mô đáng kể, có sự liên kết khá chặt chẽ, có sức mạnh chính trị nhất định mới có thể phối hợp với các cơ quan có thẩm quyền của chính phủ để áp dụng thành công thuế chống bán phá giá. Như vậy, trong ngắn hạn,việc áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ góp phần duy trì sản xuất của những ngành đó, qua đó tạo ra sự ổn định chính trị, giảm thất nghiệp và sự phá sản của một số nhà sản xuất VII/ Hậu quả của việc áp dụng chống bán phá giá và các hình thức đối kháng. Kinh tế thế giới đang trong giai đoạn khó khăn, cùng với đó là những xu hướng đang gia tăng ở các thị trường xuất khẩu nhằm bảo hộ, hạn chế tự do thương mại dưới nhiều hình thức, trong đó đặc biệt đáng chú ý là các vụ kiện chống bán phá giá. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, kiện chống bán phá giá là một rào cản nguy hiểm bởi chúng có thể gây ra những thiệt hại lâu dài, trên diện rộng nếu không được đối phó hợp lý. Vì vậy, việc hiểu biết đầy đủ và chủ động chuẩn bị phòng tránh, đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá là rất cần thiết Về bản chất, các vụ kiện chống bán phá giá là quá trình điều tra để xử lý tranh chấp giữa ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu với ngành sản xuất xuất khẩu của nước xuất khẩu liên quan đến cáo buộc hàng nhập khẩu liên quan bán phá giá vào nước nhập khẩu (theo đơn kiện của đại diện ngành sản xuất nội địa). Trên cơ sở kết quả điều tra, cơ quan có thẩm quyền (hầu hết là cơ quan hành chính) sẽ quyết định có áp dụng biện pháp chống bán phá giá (mà chủ yếu là thuế chống bán phá giá) đối với hàng liên quan nhập khẩu từ nước bị kiện hay không. Thiệt hại phát sinh từ các vụ kiện chống bán phá giá đối với doanh nghiệp xuất khẩu là rất lớn và trên nhiều phương diện với mức độ khó có thể đong đếm chính xác được. Thứ nhất, thiệt hại có thể là rất nặng nề bởi thuế chống bán phá giá là loại thuế bổ sung bên cạnh thuế nhập khẩu thông thường, và với những mức thuế cao (đôi khi lên tới hàng chục, hàng trăm phần trăm) khả năng cạnh tranh của hàng hóa sẽ bị ảnh hưởng lớn. Riêng với trường hợp của Việt Nam, do không được hưởng cách tính toán chuẩn dựa trên chi phí sản xuất thực tế nên nguy cơ bị thuế cao hơn thực tế là rất lớn. Hơn nữa mức thuế này lại không ổn định (do có thể bị rà soát để điều chỉnh lại mỗi năm). Thứ hai, thiệt hại có thể ở phạm vi rất rộng, bởi một vụ kiện chống bán phá giá có thể ảnh hưởng đến tất cả các doanh nghiệp đang hoặc sẽ xuất khẩu mặt hàng liên quan sang thị trường đó (dù có bị nêu tên trong đơn kiện hay không) ngay cả khi mới có nguy cơ bị kiện (đơn hàng giảm sút), trong quá trình kiện (chi phí theo kiện) và sau khi có biện pháp thuế (mức thuế cao). Thứ ba, thiệt hại có thể kéo rất dài bởi thời hạn áp thuế chống bán phá giá thường là 5 năm, và có thể bị gia hạn nhiều lần. Thiệt hại từ các vụ kiện chống bán phá giá là rất nghiêm trọng không chỉ đối với doanh nghiệp xuất khẩu mà còn đối với người lao động trong doanh nghiệp, các đơn vị cung cấp nguồn nguyên liệu đầu vào và tương lai phát triển của cả ngành sản xuất liên quan… Vì vậy các doanh nghiệp, hiệp hội cần có biện pháp phòng tránh từ xa và nếu không thể tránh được thì có biện pháp đối phó thích hợp với các vụ kiện này VI/ Thực trạng bán phá giá và chống bán phá giá trên thế giới và Việt Nam. 1.Thực trạng của bán phá giá và chống bán phá giá trên thế giới Theo số liệu của Ban Thư ký WTO, từ năm 1995 đến hết năm 2009 trên thế giới đã tiến hành 3632 cuộc điều tra về chống bán phá giá, đứng đầu danh sách nước bị kiện là Trung Quốc (677 vụ), Hàn Quốc (252 vụ), Hoa Kỳ (189 vụ) và Đài Loan (187 vụ). Số lượng các vụ điều tra chống bán phá giá giai đoạn 1995 – 2009 (số liệu: Tóm tắt từ Báo cáo tình hình phòng vệ thương mại toàn cầu Quý I/2010 và dự báo cho Quý II/2010 của Chad P. Bown, kinh tế gia cao cấp thuộc Nhóm Nghiên cứu Phát triển của Ngân hàng thế giới tại Washington D.C, tháng 5/2010) Năm   1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 Tổng Số vụ  157 225 243 257 356 292 366 312 232 214 200 202 163 208 205 3632 Nguồn: Bộ Công Thương Số vụ áp dụng biện pháp tự vệ giai đoạn 1996 - 6/2010 (số liệu: website WTO) Năm 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 6/2010 Tổng Số vụ 1 3 5 5 7 9 14 15 6 6 7 5 6 10 1 100 Nguồn: Bộ Công Thương Tuy nhiên không phải tất cả các cuộc điều tra về chống bán phá giá đều có kết luận dẫn đến việc áp dụng thuế chống bán phá giá. Các loại mặt hàng chịu thuế chống bán phá giá thường là các sản phẩm hóa chất, dệt may, giầy dép, sắt thép, kim loại và một số sản phẩm công nghiệp cơ khí, v.v… Theo Báo cáo của Ban Thư ký WTO, giai đoạn từ 1/1 - 30/12/2010 số lượng điều tra các vụ việc chống bán phá giá tăng 40% so với cùng kỳ năm 2009, theo đó số lượng áp dụng các biện pháp chống bán phá giá cũng tăng lên, mặc dù không nhiều trong giai đoạn này. 16 thành viên của WTO đã đưa ra con số các vụ điều tra chống bán phá giá giai đoạn này là 95 vụ so với 61 vụ cùng kỳ năm 2009. 12 thành viên WTO báo cáo áp dụng biện pháp chống bán phá giá 54 vụ trong quý I/ 2010, cao hơn 6% so cùng kỳ năm 2009. 31 vụ trong số 95 vụ kiện bán phá giá đã được các thành viên là các quốc gia phát triển tiến hành điều tra và 13 trong số 54 vụ được các nước phát triển áp dụng biện pháp chống bán phá giá trong nửa năm 2010. Con số này có thể so sánh với 20 vụ điều tra đã được tiến hành và 13 biện pháp được áp dụng của các quốc gia phát triển trong suốt nửa năm đầu 2009. Mặt hàng bị áp thuế nhiều thứ hai trong nửa năm đầu 2008 là lĩnh vực hóa chất, chiếm 16 trong số 54 vụ. Mặt hàng về kim loại chiếm 14 vụ và các sản phẩm nhựa chiếm 13 vụ bị áp thuế chống bán phá giá trong giai đoạn này. Ấn Độ có 6 vụ liên quan đến sản phẩm hóa chất bị áp thuế trong số 16 vụ, Trung Quốc 4 vụ, EU bị áp thuế 2 vụ, Brazil, Ukraina và Hoa Kỳ mỗi nước 1 vụbị áp thuế chống bán phá giá. Năm Stt (Tổng số) Stt (Theo từng năm) Mặt hàng Tên tiếng Anh Mã HS Nước  khởi kiện Nước bị khởi kiện 2010 34 1 Điều hoà nhiệt độ Air Conditioners 8415.10.11 8415.83.00 8418.69.40 Achentina Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Việt Nam 2009 33 4 Điều hòa nhiệt độ Air Conditioners 8415.10.90 8415.81 8415.90 8415.82 Thổ Nhĩ Kỳ Việt Nam, Philippines, Ai Cập, Pakistan, Indonesia 32 3 Đĩa ghi DVD Recordable Digital Versatile Disc 8523 Ấn Độ Malaysia, Thái Lan, Việt Nam 31 2 Túi nylon đựng hàng hóa bán lẻ bằng sợi polyethylene Polyethylene Retail Carrier Bags 3923.21.0085 Hoa Kỳ Việt Nam, Indonesia, Đài Loan 30 1 Giày và đế giày cao su không thấm nước waterproof rubber footwear and bottoms 26 mã HS Canada Việt Nam, Trung Quốc 2008 29 3 Sợi All Fully Drawn or Fully Oriented Yarn/Spin Draw Yarn/Flat Yarn of Polyester (FDY) 5402.47 Ấn Độ Việt Nam, Trung Quốc, Thái Lan 28 2 Lò xo đệm không bọc uncovered innerspring 9404.29.9010, 7320.20.5010, 7320.90.5010, 7326.20.0070, 9404.10.0000 Hoa Kỳ Việt Nam, Trung Quốc, Nam Phi 27 1 Vải bạt polypropilen và polyetylen Tarpaulin, made of polyethylene or polypropylene 3921.90.60.00.11, 3921.90.60.00.13, 5407.20.11.90.00, 5407.20.19.90.00 Thổ Nhĩ Kỳ Việt Nam, Trung Quốc 2007 26 3 Đĩa Compact CD-R Compact Disc-Recordable (CD-R) 8523 9050 Ấn Độ Iran, Malaysia, Hàn Quốc, Thái Lan, UAE, Việt Nam 25 2 Đèn huỳnh quang Compact Fluroescent Lamps (CFL) 8539 Ấn Độ Việt Nam, Trung Quốc, Sri Lanka 24 1 Bật lửa ga pocket lighter 9613.10.00.00.00, 9613.20.10.00.00, 9613.20.90.00.00, 9613.90.00.00.11 Thổ Nhĩ Kỳ Việt Nam, Áo, Hà Lan 2006 23 2 Giày mũ vải cloth-upper shoes 6404.1110 6404.1120 6404.1900 6405.2000 Peru Việt Nam, Trung Quốc 22 1 Dây cu-roa V-belts 4010.32.00.00.00 4010.34.00.00.00 4010.39.00.00.00 Thổ Nhĩ Kỳ VN, Trung Quốc, Ấn Độ 2005 21 3 Nan hoa xe đạp, xe máy Spokes for bicycles and motorcycles 8714.92.00 8714.19.00 8714.99.90 Argentina VN, Indonexia, Malaysia 20 2 Đèn huỳnh quang Common Fluorescent Lamps from 18 to 40 watt 8539.3110 8539.9000 Ai Cập Ấn Độ, Thái Lan, Trung Quốc, Indonesia và Việt Nam 19 1 Giày mũ da Footwear with uppers of leather EU Việt Nam và Trung Quốc 2004 18 7 Ván lướt sóng Boards for Surfing type bodyboard 9506.29.00.00 9503.90.00.00 Peru Việt Nam 17 6 Đèn huỳnh quang Integrated Compact Fluoescent Lamps (CFL-i) EU 16 5 Ốc vít bằng thép và phụ tùng Stainless steel fasteners and parts thereof (SSF) EU Trung Quốc, Indonesia, Malaysia, Philippines, Đài Loan, Thái Lan và Việt Nam 15 4 ống tuýt thép Tube or pipe fittings EU Việt Nam, Đài Loan 14 3 Xe đạp Bicycles 8712.0010 8712.0030 8712.0080 EU Việt Nam, Trung Quốc 13 2 Săm lốp xe đạp, xe máy Bicycle Tyres and Bicycle Tubes Motorcycle Tyres and Motorcycle Tubes 4011.50.00.00.00 4013.20.00.00.00 4011.40 4013.90.00.00.11 Thổ Nhĩ Kỳ VN, Trung Quốc, Sri Lanka 12 1 Vòng khuyên kim loại Ring binder mechanisms 8305.10.00 EU Việt Nam 2003 11 2 Tôm Warm-water Shirmp Hoa Kỳ 10 1 Oxyde kẽm Zinc Oxides EU 2002 9 4 Cá tra, cá ba-sa Catfish Hoa Kỳ 8 3 Bật lửa ga Pocket Lighters Hàn Quốc 7 2 Bật lửa ga Pocket Lighters 9613.10.00, 9613.20.10, 9613.20.90 EU Trung Quốc, Indonexia, Malaysia, Việt Nam 6 1 Giày và đế giày không thấm nước Waterproof Footwear and Waterproof Footwear Bottoms 6401 - 6404 Canada Hồng Kông, Macao, Việt Nam 2001 5 1 Tỏi Garlic Canada 2000 4 1 Bật lửa ga Pocket Lighter BaLan Nguồn: Bộ Công Thương 2. Thực trạng của bán phá giá và chống bán phá giá tại VN 2.1 Thực trạng bán phá giá hàng nhập khẩu của nước ngoài ở Việt nam Thị trường Việt nam đang diễn ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các hãng đa quốc gia của nhiều nước có nền kinh tế lớn mạnh như Mỹ, Nhật, EU, Trung quốc, Hàn quốc... Với sự cạnh tranh như vũ bão của các công ty nước ngòai lớn mạnh hơn hẳn về mọi mặt, nhiều ngành sản xuất của Việt nam đã từng một thời làm ăn khá như: xe đạp, quạt điện, may mặc, điện tử, nước giải khát... nay bị sức ép mạnh mẽ dồn ép vào một góc thị phần nhỏ hẹp. Trong quá trình cạnh tranh, các công ty nước ngoài dùng mọi biện pháp để chiếm đoạt thị phần của đối phương, mở rộng thị phần của mình kể cả các biện pháp tiêu cực trong đó có biện pháp bán phá giá. Tình trạng buôn lậu ở nước ta vẫn đang có chiều hướng gia tăng phức tạp làm cho hàng hoá ế thừa, hàng hết hạn sử dụng hoặc hàng kém phẩm chất tràn vào nước ta bày bán tràn lan khắp nơi gây tổn thất nặng nề cho các nhà sản xuất trong nước trong cuộc cạnh tranh bất bình đẳng trên thị trường. Nhìn trên toàn cảnh, chúng ta thấy rất rõ thế suy yếu của công nghiệp nội địa nước ta trước sự cạnh tranh không bình đẳng và không trung thực của các hàng hoá nước ngoài. Đi sâu vào phân tích thực trạng đối với một số nhóm hàng, ngành hàng cụ thẻ giúp chúng ta rõ hơn hiện trạng bán phá giá hàng nhập khẩu từ nước ngoài trên thị trường Việt nam. Ngành cơ khí Máy móc động lực nông nghiệp bán trên thị trường nước ta hiện nay có máy mới, máy cũ, có máy nhập từ nước ngoài( Nhật bản, Hàn quốc, Đài loan, Trung quốc...), có máy chế tạo trong nước. Công nghiệp Việt nam có khoảng 100 nhà máy cơ khí của trung ương và cấp tỉnh, cú khả năng sản xuất đỏp ứng 60% nhu cầu trong nước nhưng đó phải nhường phần lớn thị trường trong nước cho hàng ngoại nhập, chủ yếu là hàng Trung quốc( chiếm hơn 60% thị phần). Máy nông nghiệp của Trung quốc chiếm được thị phần chủ yếu do được bán với giá thấp hơn 15%-20% so với giá máy nội địa. Cách bán máy của họ lại rất linh hoạt như hàng đổi hàng, mua trả chậm, gửi bán rồi thu tiền dần...Giá bán máy động cơ nổ của Trung quốc nhiều khi rẻ đến mức không thể tin được, chỉ bằng 50% giá máy động cơ nổ của Việt nam. Cơ chế bán hàng dành cho đại lý của họ quá thoáng, chỉ phải trả tiền sau khi dã bán được máy làm cho hàng của Việt nam không thẻ cạnh tranh nổi. 2.1.2 Ngành hàng sản xuất xe đạp Trước thập niên 1980 ngành nay mỗi năm sản xuất hơn 500.000 chiếc xe đạp. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, do nhiều nguyên nhân trong đó có nguyên nhân quan trọng là hàng ngoại nhập khẩu trốn thuế vào tràn lan được bán với giá quá rẻ khiến cho hàng xe đạp nội địa không thể cạnh tranh nổi. Ngành sản xuất xe đạp đã bị tổn thương nặng, năm 1998 chỉ còn sản xuất được 150.000 chiếc mà tiêu thụ rất chật vật. Trong khi nhu cầu xe đạp trong nước rất lớn khoảng 500.000 chiếc/năm khả năng sản xuất trong nước hoàn toàn có thể đáp ứng được nhưng chúng ta đã phải nhường 75% thị phần cho xe đạp nhập khẩu từ các nước Nhật bản, Pháp, Singapore và nhiều nhất là xe đạp Trung quốc. Hàng Trung quốc đa phần là nhập lậu trốn thuế, mẫu mã đẹp lại thay đổi liên tục, giá bán rẻ lại liên tục hạ giá; các đại lý bán xe đạp Trung quốc có thể được chịu vốn nên các chủ kinh doanh ưa thích và người tiêu dùng cũng thích mua xe đạp Trung quốc. 2.1.3 Ngành hàng sản xuất quạt điện Hàng năm nước ta cần khoảng 2 triệu đến 2,5 triệu cái quạt điện. Các cơ sở sản xuất trong nước có thể đáp ứng được 80% nhu cầu sử dụng quạt điện với đỉnh cao đạt sản lượng 685.000 chiếc quạt các loại. Nhưng từ năm 1994 cùng với dòng chảy quạt ngoại nhập khẩu giá rẻ vào ồ ạt, ngành hàng này bị xuống đốc nhanh chóng. Số doanh nghiệp sản xuất giảm xuống chỉ còn 8 đơn vị, sản lượng tiêu thụ giảm gần một nửa. Năm 1996 toàn ngành sản xuất được 497.000 chiếc quạt, tiêu thụ chỉ đạt 430.000 chiếc. Thị phần của các doanh nghiệp quạt điện Việt nam giảm từ 80% năm 1993 xuống chỉ còn giữ được 20% năm 1997. Giá bán các quạt nội đã giảm đi từ 150 đến 200 nghìn đồng/ chiếc mà tiêu thụ vẫn rất khó khăn. 2.1.4 Điện tử Vào năm 1996 -1997 năng lực của các đơn vị sản xuất và lắp ráp ti vi ở nước ta là khoảng 3 triệu sản phẩm mỗi năm, đủ sức đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước mỗi năm là 700.000 - 800.000 chiếc/ năm. Nhưng thị trường tồn tại một nghịch lý là tivi mới nhập ngoại được bán với giá rẻ một cách không bình thường, rẻ hơn titi lắp ráp trong nước hàng trăm nghìn đồng một chiếc, mặc dù phải chịu thuế suất thuế nhập khẩu 60%. Một lượng lớn hàng nhập lậu mang các nhãn hiệu nổi tiếng đã tràn vào thị trường Việt nam bằng nhiều con đường khác nhau, và được bán với giá chỉ bằng 40-60% giá các mặt hàng cùng loại của chính hãng đang được bày bán trên thị trường nội địa. Năm 1996 cả nước sản xuất và tiêu thụ khoảng 700.000 tivi, sang năm 1997, lượng bán ra của các nhà máy trong nước chỉ còn là 500.000 tivi. Vì những lý do trên mà nhiều nhà máy lắp ráp tivi trong nước đã phải giảm từ 50-70% công suất. Năm 1997, nhiều hãng điện tử Việt nam có tiếng một thời đã phải ngừng lắp ráp tivi như Điện tử Giảng Võ, Sao Mai (Bộ Quốc phòng), TODIMAX (Bộ Quốc phòng), Vietronics Đống Đa ... Như vậy là các hãng nước ngoài đã đang làm việc chia nhau thị phần ở Việt nam. Nếu họ làm xong việc này thì họ sẽ làm tiếp việc gì? Nếu không ngăn chặn được tiến trình này thì chắc chắn là nước ta sẽ trở thành thị trường tiêu thụ của các hàng nước ngoài. 2.1.5 Ngành giấy Ngành giấy nước ta cũng bị ảnh hưởng nặng nề vì lượng giấy và bột giấy nhập khẩu bán phá giá. Giá giấy và bột giấy nhập khẩu giảm mạnh hơn nữa, so với mức giá của năm 1996 thì các loại giấy giảm từ 25 - 35%, giá bột giấy giảm 35 - 45%, thậm chí 2 loại bột giấy A5 và B1 giảm tới 79 - 80%. Giá giảm là do một số doanh nghiệp sản xuất giấy ở nước ngoài bị tồn đọng sản phẩm với số lượng lớn, đã đẩy mạnh việc xuất khẩu bán phá giá ra nước ngoài với mức giá ưu đãi là giá rất thấp và được thanh toán chậm. Rõ ràng là công nghiệp giấy Việt nam đã bị tổn thất nặng nề do giấy và bột giấy nhập khẩu của các hãng nước ngoài mang vào bán phá giá với giá quá rẻ. Ngành dệt may Có đội ngũ hùng hậu với hơn 130 xí nghiệp, nhưng trên thực tế hiện nay vải nội chỉ mới giữ được khoảng hơn 20% thị phần, còn nhường 80% thị phần cho hàng ngoại nắm giữ, trong đó hàng Trung quốc chiếm lĩnh khoảng 60% thị phần. Ngay cả các xí nghiệp may xuất khẩu của Tổng Công ty dệt may cũng không sử dụng vải của các xí nghiệp trong nước, vải cho may mặc xuất khẩu vẫn phải nhập khẩu 80 - 90%. Giá hàng vải Trung quốc chỉ bằng một nửa thậm chí 1/3 hàng sản xuất trong nước, một mét vải siu Trung quốc giá 12.000 - 15.000đ tuỳ theo khổ và mầu sắc, trong khi đó vải siu Long an là 21.000 đ/m. Quần áo của Trung quốc giá rất rẻ lại thích hợp với tầm vóc của người Việt nam, một bộ complet nếu mua ở một cửa hàng sang trọng ở Bắc kinh giá có thể là 2 triệu đồng, trong khi nếu mua ở Việt nam cũng bộ complet đó giá chỉ khoảng vài trăm nghìn đồng. Lý giải tại sao hàng Trung quốc lại rẻ hơn hàng Việt nam, mặc dù phải chịu chi phí chuyên chở, tiền lãi cho các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài và tiền lãi cho các nhà nhập khẩu Việt nam. Báo “Diễn đàn doanh nghiepẹ” số ra ngày 25/4/1997 cho rằng “Xuất khẩu ra nước ngoài với giá rẻ, nhiều khi rẻ hơn giá sản xuất trong nước đã giúp xí nghiệp đạt công suất tối đa, doanh thu và lợi nhuận đều cao hơn trường hợp bán trong nước với giá cao nhưng xí nghiệp không đạt công suất tối đa, chịu chi phí bất biến cao và rồi cuối cùng chỉ đạt lợi nhuận thấp”. 2.1.7 Dược phẩm Thị trường dược phẩm nước ta rất hỗn tạp, thuốc ngoại quốc được nhập khẩu hầu như khắp các nước trên thế giới. Các đường dây nhập lậu thuốc phát triển không kiểm soát được. Các loại thuốc độc, thuốc gây nghiện, thuốc quá hạn sử dụng, thuốc kém chất lượng, thuốc không có nguồn gốc được bán lén lút, tràn lan khắp các ngõ phố. Ngay cả thuốc đã bị cấm sử dụng ở các nước khác cũng có bán ở Việt nam. Về giá cả thì không có một cơ quan nào có trách nhiệm kiểm tra xem giá các công ty bán ra như vậy có hợp lý hay không. Cùng một loại thuốc mà giá chênh lệch khác hẳn nhau. Thí dụ, một viên Cipre của Đức giá 30.000 đ, của Pháp 15.000 đ, của ấn độ từ 1.500 – 2.000 đ. Các hãng nước ngoài trong giai đoạn khai phá thị trường có thể bán hàng chấp nhận lỗ đến 6 tháng. Chai thuốc nhỏ mắt V.Rohto ở Nhật giá bán lẻ là 8 USD, sang Việt nam bán đến tay người tiêu dùng là 4 USD. Tuy bán phá giá như thế nhưng họ vẫn có lãi vì thuế kinh doanh ở Nhật rất cao và Chính phủ Nhật lại miễn thuế một số mặt hàng xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh. Trước sức công phá mãnh liệt của các hãng nước ngoài, các công ty dược Việt nam chỉ còn chi phối được khoảng 25% thị phần. Hầu hết các loại thuốc nhập khẩu hiện nay các xí nghiệp trong nước đều có thể sản xuất được. Vấn đề bây giờ là phải hạn chế được thuốc ngoại nhập khẩu bán phá giá thì công nghiệp sản xuất thuốc nội mới có cơ hội phát triển được. Qua phân tích đối với một số ngành sản xuất khác nhau đã nêu trên, chúng ta nhìn thấy bức tranh tổng quát là hầu hết các ngành đã từng có thể mạnh ở nước ta như: xe đạp, quạt điện, cơ khí, điện tử dân dụng, vải và may mặc, giấy... đều đã có những thời gian bị suy yếu nghiêm trọng với lý do cơ bản là không cạnh tranh nổi với các loại hàng nhập khẩu bán phát giá. Rõ ràng là bán phá giá hàng nhập khẩu nước ngoài đã xảy ra ở Việt nam, nhiều hãng nước ngoài đã tiến hành các hoạt động bán phá giá và họ đã thành công trong việc đạt được một số mục tiêu chiếm lĩnh thị phần của các doanh nghiệp Việt nam. Ngược lại, các nhà doanh nghiệp Việt nam như là người chơi trên sân bóng mà không có trọng tài, họ bị các hãng nước ngoài chèn ép thô bạo với biện pháp không trung thực, nhưng chúng ta lại không thể kiện họ được. Do chúng ta chưa ban hành “Luật chống bán phá giá” nên không có cơ sở pháp lý để khẳng định những mặt hàng nào đã và đang bán phá giá và không thể tiến hành hành động pháp lý để chống lại chúng. Bán phá giá hàng nhập khẩu từ nước ngoài đã gây ra hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế và xã hội nước ta, thể hiện như sau: Là một trong những nguyên nhân quan trọng góp phần gây ra hiện tượng trì trệ, hạn chế tốc độ phát triển của nền kinh tế như đã thể hiện trong một số năm gần đây (cụ thể là đôí với một số ngành sản xuất như đã nêu ở trên). Đối với nền sản xuất trong nước đã từng gây ra sự đình trệ sản xuất của nhiều xí nghiệp, thậm chí có xí nghiệp đã bị phá sản hoặc bị giải thể. Đối với người kinh doanh việc nhập khẩu hàng hóa giá rẻ, kể cả nhập lậu, thu lợi nhuận cao đã lôi cuốn nhiều doanh nghiệp (trong đó có nhiều doanh nghiệp Nhà nước có việc làm kinh doanh bất hợp pháp, làm tha hoá nhiều cán bộ Nhà nước gây hậu quả to lớn cho xã hội. Đối với người tiêu dùng bị thiệt thòi vì lượng hàng quá thời hạn sử dụng, hàng kém phẩm chất, hàng giả thậm chí cả hàng độc hại từ nước ngoài tuồn vào bán với khối lượng lớn gây hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, về sức khoẻ cho người tiêu dùng. Đối với xã hội thì tình trạng sản xuất trì trệ, xí nghiệp hoạt động cầm chừng hoặc bị đóng cửa đã làm cho rất nhiều công nhân không có đủ việc làm hoặc bị thất nghiệp hoàn toàn, đời sống lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn. 2.2 Thực trạng của bán phá giá và chống bán phá giá tại Việt Nam Hơn một thập kỷ qua Việt nam đã đạt được thành tựu ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa. Đối với Việt Nam tính đến tháng 12/2010 đã phải đối phó với 39 vụ kiện chống bán phá giá, trong đó có 13 vụ Việt Nam phải chịu thuế chống bán phá giá. EU là nước khởi kiện Việt Nam nhiều nhất (8 vụ) với mức thuế cao nhất lên đến 93% đối với mặt hàng Oxyde kẽm. Điều đáng chú ý là số lượng các cuộc điều tra chống bán phá giá tăng mạnh trong thời gian gần đây. Nếu trong giai đoạn 1994-2001, Việt Nam chỉ chịu 1-2 vụ kiện/năm thì đến năm 2008 phải đối phó với 64 vụ kiện liên tiếp liên quan đến nhiều mặt hàng công nghiệp xuất khẩu. Ở thời kỳ trước, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam bị áp dụng thuế chống bán phá giá chưa phải là những mặt hàng chiến lược, vì vậy ảnh hưởng chưa lớn đến kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Nhưng từ vụ kiện cá tra, cá ba sa năm 2002 đến nay có thể thấy không chỉ một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam: thuỷ sản, giày dép... mà cả những mặt hàng xuất khẩu có số lượng chưa lớn nhưng mới thâm nhập thị trường đều có thể trở thành đối tượng của kiện bán phá giá do phương thức tính gộp tổng lượng hàng hoá liên quan từ nhiều nguồn nhập khẩu (không được quá 7%) của nước khởi kiện như: khoá Inôx (EU) săm lốp xe đạp, xe máy (Thổ Nhĩ Kỳ), đèn huỳnh quang (Ai Cập)... Tuy nhiên, tình trạng hàng xuất khẩu của ta bị nước nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá ngày càng tăng. Trong xu hướng nhiều nước trên thế giới tăng cường sử dụng biện pháp chống bán phá giá như một công cụ bảo hộ thì có thể dự kiến rằng trong thời gian tới chúng ta sẽ phải đối phó với biện pháp này nhiều hơn khi kim ngạch xuất khẩu nhiều mặt hàng Số liệu các vụ điều tra chống bán phá giá chống trợ cấp và tự vệ đối với hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam: 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng AD 1 1 4 2 7 3 2 3 3 4 1 31 SG 0 1 0 1 1 1 2 0 0 1 0 7 CV 0 0 0 0 0 0 0 0 0 1 0 1 TOTAL 1 2 4 3 8 4 4 3 3 6 1 39 Nguồn: Bộ Công Thương Số liệu thống kê 10 ngành bị khởi kiện chống bán phá giá nhiều nhất Ngành  hàng 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Totals: Kim loại và các sản phẩm từ kim loại  138 96 52 36 37 33 24 64 480 Hóa chất hay các ngành liên quan  66 94 69 49 37 38 53 33 439 Các sản phẩm nhựa, cao su 55 42 25 44 37 27 16 20 266 Dệt và các sản phẩm dệt  26 6 14 21 27 16 11 39 160 Máy móc, thiết bị cơ khí, thiết bị điện  23 9 14 14 18 28 29 16 151 Bột gỗ, giấy  7 7 20 8 6 17 19 2 86 Đá, thạch cao, xi măng, các sản phẩm gốm sứ, kính, a-mi-ăng, mi-ca và các sản phẩm tương tự  6 11 11 8 10 11 2 4 63 Các sản phẩm sản xuất khác  5 11 3 3 8 6 1 5 42 Khoáng vật  16 8 9 1 0 2 4 0 40 Động vật sống, các sản phẩm từ động vật  3 1 10 9 2 2 0 9 36 Nguồn: Bộ Công Thương Số liệu thống kê 10 ngành bị khởi kiện tự vệ nhiều nhất từ 2000 đến 6/2010 Ngành  hàng 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 2009 2010 Tổng Hóa chất hay các ngành liên quan 5 0 8 2 2 1 1 1 2 6 1 37 Kim loại cơ bản và các sản phẩm bằng kim loại cơ bản 2 4 12 1 0 0 0 1 2 3 6 33 Da sống, da thuộc, da lông và các sản phẩm từ da; bộ đồ yên cương, hàng du lịch, túi xách tay và các loại đồ chứa tương tự; các mặt hàng từ ruột động vật (trừ tơ từ ruột con tằm) 0 1 2 5 3 1 2 1 1 3 1 20 Thực phẩm chế biến; đồ uống, rượu mạnh và giấm; thuốc lá và các nguyên liệu thay thế thuốc lá đã chế biến 4 3 3 3 0 1 0 0 1 1 0 17 Động vật sống, các sản phẩm từ động vật 3 0 1 1 1 0 1 1 0 2 0 16 Các sản phẩm thực vật 3 2 1 0 2 1 0 0 0 1 0 15 Máy điện và các thiết bị điện và các bộ phận của chúng; máy ghi âm tái tạo âm thanh, máy ghi và tái tạo hình ảnh truyền hình và âm thanh; bộ phận và các dụng cụ của các loại máy trên. 0 0 3 0 3 0 4 1 1 0 1 14 Plastics và các sản phẩm bằng plastics; cao su và các sản phẩm bằng cao su 3 0 0 1 0 0 1 1 0 1 0 10 Nguyên liệu dệt và sản phẩm dệt 1 0 0 0 1 0 0 0 2 3 1 8 Bột giấy từ gỗ hoặc từ vật liệu xơ sợi Xenlulo khác; giấy loại hoặc cáctông các loại (phế liệu và vụn thừa); giấy, cáctông và các sản phẩm của chúng 1 0 0 1 0 0 0 0 0 4 1 7 Giày, dép, mũ và các vật đội đầu khác, ô dù. Batoong, gậy tay cầm có thể chuyển thành ghế… 1 0 1 0 0 1 2 0 0 0 0 7 Nguồn: Bộ Công Thương Tự vệ Năm Stt (Tổng số) Stt (Theo từng năm) Mặt hàng Tên tiếng Anh Mã HS Nước  khởi kiện Nước bị khởi kiện 2009 1 1 Túi nylon đựng hàng hóa bán lẻ bằng sợi polyethylene Polyethylene Retail Carrier Bags 3923.21.0085 Hoa Kỳ Việt Nam Nguồn: Bộ Công Thương Số vụ áp dụng chống bán phá giá tính từ năm 1995 đến năm 2008 thì tổng số vụ là 2190 vụ Xu thế sử dụng công cụ chống bán phá giá   (số liệu: website WTO) 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008 Totals: Số vụ áp dụng 119 92 125 170 186 228 169 215 220 152 132 137 107 138 2190 Số liệu các vụ kiện tự vệ ở nước ngoài đối với hàng hoá Việt Nam (Tính đến 12/2009) Năm Mặt hàng Nước điều tra Kết quả 09/04/2009 Thép cuộn/tấm/xẻ băng cán nóng Ấn Độ Vụ kiện chấm dứt, không áp dụng biện pháp tự vệ (08/12/2009) 2006 Hoá chất STPP Philippines Vụ kiện chấm dứt do không có thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa 2005 Xe đạp Canada Vụ kiện chấm dứt do không có thiệt hại nghiêm trọng đối với ngành sản xuất nội địa 2004 Tinh bột sắn Ấn Độ Thuế bổ sung 33% 2003 Kính nổi Philippines Kính nổi không màu: 3,971peso/MT Kính nổi phủ màu: 5,016peso/MT 2001 Gạch ốp lát Philippines 2,15 peso/kg Số liệu các vụ kiện tự vệ hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam (Tính đến 12/2009) Năm Mặt hàng Nước điều tra Kết quả 07/2009 Kính nổi Việt Nam Chưa có kết luận Thống kê các vụ kiện chống bán phá giá mà Việt Nam có liên quan (Tính đến tháng 12/2010) Năm Tổng số vụ kiện Mặt hàng bị kiện Nước kiện Quá trình điều tra Thời gian khởi kiện Biện pháp tạm thời Biện pháp cuối cùng Ghi chú Ngày Tỉ l ệ Thời gian Ngày Tỉ lệ Thời gian 2010 36 Mắc treo quần áo bằng thép Hoa Kỳ 22/07/2010 (Điều tra chống lẩn tránh thuế) 35 Máy điều hòa Achentina 16/02/2010 2009 34 Máy điều hòa Thổ Nhĩ Kỳ 25/07/2009 Chưa có kết luận (Điều tra chống lẩn tránh thuế) 33 Đĩa ghi DVD Ấn Độ 05/05/2009 02/07/2010 64.09% (50,51 USD/1.000 chiếc) 5 năm 32 Túi nhựa PE Hoa Kỳ 31/03/2009 28/10/2009 52.30% - 76.11% 04/05/2010 52.30% - 76.11% 5 năm 26/03/2010 DOC đưa ra mức phá giá chính thức (52.30% - 76.11%) 15/04/2010: ITC kết luận khẳng định có thiệt hại 31 Giầy và đế giày cao su Canada 27/02/2009 12/06/2009 16% - 49% Vụ kiện chấm dứt do không có thiệt hại liên quan tới phá giá (25/09/2009) 30 Giầy Braxin 05/01/2009 Rút đơn kiện do số lượng hàng nhập khẩu quá thấp 2008 29 Sợi vải Ấn Độ 06/05/2008 23/01/2009 232.86 USD/tấn Áp dụng từ 26/03/2009 đến 25/09/2009 Giày mũ vải Peru 13/03/2008 02/11/2009 0.8 USD/đôi Tiếp tục điều tra lại theo vụ việc số 23 28 Lò xo không bọc Hoa Kỳ 25/01/2008 116,31% 22/12/2008 116,31% 5 năm 27 Vải nhựa Thổ Nhĩ Kỳ 11/01/2008 1.16 USD/kg 5 năm 2007 26 Đĩa ghi CD-R Ấn Độ 12/09/2007 Ritek: (3.04 Rupi/ cái). Các công ty khác (3.23 Rupi/cái) 06/06/2009 46,94 USD/1000 chiếc 5 năm 25 Đèn huỳnh quang Ấn Độ 30/08/2007 19,5 – 72,16 Rupi/cái 26/05/2009 0,452-1,582 USD/chiếc 5 năm 24 Bật lửa ga Thổ Nhĩ Kỳ 13/5/2007 Không áp thuế vì không có bằng chứng về việc lẩn tránh thuế chống bán phá giá 2006 23 Giày mũ vải Peru 23/5/2006 12% 09/2007 Không áp thuế CBPG Không áp thuế vì không có bằng chứng về thiệt hại. Tuy nhiên, ngày 10/07/2008, INDEPICO thông báo tiếp tục tiến hành điều tra lại. 22 Dây curoa Thổ Nhĩ Kỳ 13/5/2006 31/3/2007 4,55 US$/kg 5 năm 2005 21 Nan hoa xe đạp, xe máy Argentina 21/12/2005 81% 24/6/2007 81% 5 năm 20 Đèn huỳnh quang Ai Cập 31/10/2005 0,36-0,43 USD/cái 22/8/2006 0,32 USD/cái 5 năm 19 Giày mũ da EU 7/7/2005 14,2%-16,8% 5/10/2006 10% 2 năm Gia hạn thêm 15 tháng kể từ 31/12/2009. 2004 18 Ván lướt sóng Peru 20/9/2004 5,2 USD/ chiếc 17 Đèn huỳnh quang EU 10/9/2004 66,1 % Điều tra chống lẩn tránh thuế (thuế chống bán phá giá đối với đèn huỳnh quang Trung Quốc) 16 Chốt thép không gỉ (Stainless steel fasteners) EU 24/8/2004 7,7 % 5 năm Tự động chấm dứt hiệu lực từ ngày 20/11/2010 do không có yêu cầu rà soát từ ngành sản xuất nội địa 15 Ống tuýt thép EU 11/8/2004 Đơn kiện bị rút lại 14 Xe đạp EU 29/4/2004 15,8 %- 34,5 % 5 năm Tự động chấm dứt hiệu lực từ ngày 15/07/2010 do không có yêu cầu rà soát từ ngành sản xuất nội địa 13 Lốp xe Thổ Nhĩ Kỳ 27/9/2004 29%- 49% 12 Vòng khuyên kim loại EU 28/4/2004 51,2 %- 78,8 % Điều tra chống lẩn tránh thuế (thuế chống bán phá giá đối với vòng khuyên kim loại Trung Quốc) 2003 11 Tôm Hoa Kỳ 31/12/2003 12,11%- 93,13% 4,13%- 25,76% Kết quả rà soát lần 3: Minh Phú 0,43% , Camimex 0,08%, Phương Nam 0,21%, các công ty khác có tham gia vào cuộc điều tra 0% đến 4.57%.Mức thuế suất toàn quốc 25.76% 10 Ô xít kẽm EU 2003 28% Điều tra chống lẩn tránh thuế (thuế chống bán phá giá đối với ô xít kẽm Trung Quốc) 2002 9 Cá da trơn Hoa Kỳ 2002 36,84%- 63,88% Tiếp tục áp thuế CBPG thêm 5 năm nữa, mức thuế từ 36,84% đến 63,88%. 8 Bật lửa ga Hàn Quốc 2002 Đơn kiện bị rút lại 7 Bật lửa ga EU 2002 Đơn kiện bị rút lại 6 Giày và đế giày không thấm nước Canada 2002 Vụ kiện chấm dứt do không có bằng chứng về thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của EU 2001 5 Tỏi Canada 2001 1,48 CAD/kg 2000 4 Bật lửa ga BaLan 2000 0,09 Euro/cái 1998 3 Giày dép EU 1998 Vụ kiện chấm dứt do không có bằng chứng về thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa của EU 2 Mì chính EU 1998 16,8% Điều tra chống lẩn tránh thuế (thuế chống bán phá giá đối với mỳ chính Trung Quốc) 1994 1 Gạo Columbia 1994 Vụ kiện chấm dứt do không có thiệt hại đối với ngành sản xuất nội địa Nguồn: Hội đồng Tư vấn các biện pháp phòng vệ thương mại quốc tế (Hội đồng TRC) VIII/ Đề xuất giải pháp để vượt rào cản chống bán phá ở nước nhập khẩu Trên thực tế, việc hàng hóa xuất khẩu bị kiện chống bán phá giá có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo lý thuyết thì việc kiện được cho là do có dấu hiệu của hành vi bán phá giá của nhà xuất khẩu. Tuy nhiên, khá nhiều trường hợp, đặc biệt ở Hoa Kỳ, các vụ kiện chống bán phá giá lại xuất phát từ tình trạng khó khăn của các nhà sản xuất nội địa và họ tìm đến biện pháp này như là công cụ để cạnh tranh với nhà sản xuất nước ngoài. Tuy nhiên, về mặt hình thức, nguy cơ kiện thường cao hơn khi có hiện tượng tăng đột biến lượng xuất khẩu vào một thị trường và giá xuất khẩu thấp. Vì thế để đối phó với những nguy cơ này về lâu dài, doanh nghiệp cần tính đến chiến lược phát triển đa dạng thị trường, tránh phát triển quá nóng một khu vực nào và chuyển dần sang cạnh tranh bằng chất lượng thay vì bằng giá. Trước mắt, khi những yếu tố này chưa thể thực hiện được triệt để, doanh nghiệp cần thường xuyên quan sát thị trường (kết hợp với các nhà nhập khẩu) để phát hiện nguy cơ sớm, từ đó chủ động phòng tránh, đối phó. Bên cạnh đó, việc thiết lập và duy trì một hệ thống sổ sách kế toán hợp chuẩn quốc tế và minh bạch là rất cần thiết bởi chỉ những thông tin được chứng minh bởi sổ sách kế toán lưu giữ theo đúng chuẩn mới được chấp nhận trong quá trình điều tra chống bán phá giá và từ đó doanh nghiệp mới có hy vọng chứng minh mình không bán phá giá. Một cơ sở dữ liệu kế toán được lưu trữ như vậy không thể được hình thành trong một sớm một chiều, do đó các doanh nghiệp xuất khẩu cần lưu ý điều chỉnh hệ thống kế toán sổ sách của mình ngay từ thời điểm này Nhóm giải pháp để không bị kiện Chính phủ tích cực triển khai đàm phán song phương,đa phương để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường, do đó không áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối với Việt Nam. Dự báo danh mục các ngành hàng và các mặt hàng Việt Nam có khả năng bị kiện phá giá trên cơ sở rà soát theo tình hình sản xuất,xuất khẩu từng ngành hàng của Việt Nam và cơ chế chống bán phá giá của từng quốc gia để từ đó có sự phòng tránh cần thiết. Xây dựng chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và đa phương hoá thị trường xuất khẩu của các doanh nghiệp để phân tán rủi ro, tránh tập trung xuất khẩu với khối lượng lớn vào một nước vì điều này có thể tạo ra cơ sở cho các nước khởi kiện bán phá giá. Theo hướng đó các doanh nghiệp cần chú trọng đến các thị trường lớn (Trung Quốc, Nhật Bản..) các thị trường mới nổi (Hàn Quốc, Úc..) các thị trường mới (SNG, Trung Đông, Nam Phi...). Bên cạnh đó cần tăng cường khai thác thị trường nội địa - một thị trường có tiềm năng phát triển. Đây là những kinh nghiệm ta đã rút ra được từ các vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa của Mỹ trước đây. Tăng cường áp dụng các biện pháp cạnh tranh phi giá để nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu thay cho cạnh tranh bằng giá thấp. Đó là phải đầu tư nâng cao chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh các dịch vụ hậu mãi, tiếp thị quảng cáo, áp dụng các điều kiện mua bán có lợi cho khách hàng... Xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về thị trường xuất khẩu,về luật thương mại quốc tế,luật chống bán phá giá của các nước... và phổ biến, hướng dẫn cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết nhằm tránh những sơ hở dẫn đến các vụ kiện. Xác định rõ vai trò và nhiệm vụ của Hiệp Hội Doanh Nghiệp vì đó chính là cơ quan điều phối mọi họat động liên quan tới vụ kiện. Hiệp hội cần theo dõi tình hình của ngành và cơ chế vận hành sao cho có thể đưa ra những cảnh báo sớm cho các doanh nghiệp. Hiệp hội cũng chịu trách nhiệm trong việc tổ chức đào tạo cho các thành viên để đối phó với việc điều tra chống bán phá giá cũng như là người phát triển mạng lưới quan hệ ở quốc gia xảy ra vụ kiện. Để chuẩn bị một cách tốt nhất cho các vụ kiện chống bán phá giá, mỗi hiệp hội doanh nghiệp cần thành lập một nhóm chuyên trách với nhiệm vụ: + Đánh giá mức khả năng hàng hoá của hiệp hội bị kiện chống bán phá giá ở nước ngoài; + Nghiên cứu luật pháp về chống bán phá giá tại các thị trường xuất khẩu chính của hiệp hội; + Làm việc với luật sư và các kinh tế gia chuyên ngành về chống bán phá giá để nghiên cứu các vụ kiện trước đây tại các quốc gia mà hàng hoá Việt Nam có khả năng bị kiện để tìm hiểu chiến thuật và chiến lược của ngành công nghiệp nội địa tại quốc gia đó cũng như quan điểm của cơ quan quản lý chống bán phá giá; + Làm việc với các thành viên hiệp hội để hoàn thiện tiêu chuẩn kế toán nhằm đáp ứng các đòi hỏi của việc điều tra chống bán phá giá; + Hoạch định một kế hoạch nhằm hợp tác giữa các thành viên của hiệp hội trong trường hợp bị kiện. Nhóm giải pháp đối phó khi bị kiện * Về phía chính phủ: cần tích cực hỗ trợ các doanh nghiệp trong kháng kiện - Thành lập quỹ trợ giúp theo đuổi các vụ kiện để hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp kháng kiện. - Cung cấp cho các doanh nghiệp các thông tin cần thiết về các thủ tục kháng kiện, giới thiệu các luật sư giỏi ở nước sở tại có khả năng giúp cho doanh nghiệp thắng kiện... * Về phía các hiệp hội ngành hàng: cần phát huy vai trò là tổ chức tập hợp và tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp trong ngành nhằm nâng cao năng lực kháng kiện của các doanh nghiệp. - Thông qua hiệp hội quy định hành vi bảo vệ lẫn nhau, phối hợp giá cả trên thị trường, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh có thể tạo ra cớ gây ra các vụ kiện của nước ngoài. - Thiết lập cơ chế phối hợp trong tham gia kháng kiện và hưởng lợi khi kháng kiện thành công để khuyến khích các doanh nghiệp tham gia kháng kiện. - Tổ chức cho các doanh nghiệp nghiên cứu thông tin về giá cả,định hướng phát triển thị trường, những quy định pháp lý của nước sở tại về chống bán phá giá... để các doanh nghiệp kháng kiện có hiệu quả giảm bớt tổn thất do thiếu thông tin. * Về phía các doanh nghiệp: cần chủ động theo đuổi các vụ kiện khi bị nước ngoài kiện bán phá giá. - Hoàn thiện hệ thống sổ sách chứng từ kế toán phù hợp với các quy định của luật pháp và chuẩn mực quốc tế, lưu trữ đầy đủ hồ sơ về tình hình kinh doanh nhằm chuẩn bị sẵn sàng các chứng cứ, các lập luận chứng minh không bán phá giá của doanh nghiệp, tổ chức nhân sự, dự trù kinh phí, xây dựng các phương án bảo vệ lợi ích của doanh nghiệp... - Tạo ra những mối liên kết với các tổ chức để vận động hành lang nhằm lôi kéo những đối tượng có cùng quyền lợi ở nước khởi kiện ủng hộ mình. Như trong vụ kiện tôm đã có “Liên minh hành động ngành thương mại công nghiệp tiêu dùng Mỹ” (CITAC) “Hiệp hội các nhà nhập khẩu và phân phối tôm Mỹ” (ASDA) đứng về phía các doanh nghiệp Việt Nam chống lại vụ kiện bán phá giá của Mỹ. - Các doanh nghiệp xuất khẩu chủ động đề nghị được điều tra chống bán phá giá (áp dụng đối với các doanh nghiệp xuất khẩu không nằm trong nhóm bị đơn bắt buộc);. - Chủ động thương lượng với chính phủ của nước khởi kiện thực hiện cam kết giá nếu doanh nghiệp thực sự có hành vi phá giá, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp cùng ngành hàng của nước nhập khẩu. Các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình điều tra phải hợp tác với cơ quan điều tra. Thay vì việc cố gắng chứng minh “ai đúng” và “ai sai” thì doanh nghiệp cần tập trung vào việc cung cấp cho cơ quan điều tra tất cả các thông tin mà cơ quan này cần. Điều quan trọng nhất không phải là chứng minh rằng “lẽ phải thuộc về mình” mà là giảm thiểu mức áp thuế chống bán phá giá càng thấp càng tốt. Cam kết giá là việc nhà sản xuất, xuất khẩu cam kết sửa đổi mức giá bán (tăng giá lên) hoặc cam kết ngừng xuất khẩu với giá bị coi là bán phá giá hàng hoá. Đây là một thoả thuận tự nguyện giữa các nhà sản xuất, xuất khẩu và nước nhập khẩu. Khi một cam kết giá được chấp thuận. quá trình điều tra sẽ chấm dứt. Hiện nay, cam kết giá được coi là một biện pháp đối phó chủ động của các nước xuất khẩu trong các vụ kiện chống bán phá giá, đặc biệt đối với các sản phẩm công nghiệp. Có thể thấy, với mức tăng trưởng xuất khẩu hàng năm gần 20% trong thời gian gần đây và việc một số mặt hàng xuất khẩu Việt Nam đã bước đầu có được chỗ đứng vững chắc tại các thị trường lớn đã dẫn đến khả năng các vụ kiện chống bán phá giá ngày càng gia tăng. Điều này về lâu dài sẽ kìm hãm tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam. Vì vậy, để giảm thiểu tối đa những tác động tiêu cực do các vụ kiện bán phá giá gây ra, các doanh nghiệp Việt Nam cần có các biện pháp không chỉ ứng phó có hiệu quả mà phải chủ động ngăn ngừa những nguy cơ xảy ra các vụ kiện chống bán phá giá. Đó là phải thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản phẩm và thị trường xuất khẩu, tăng cường vai trò của các hiệp hội ngành hàng, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện về thông tin, tiến hành cam kết giá khi cần thiết... Nhóm giải pháp khi bị thua kiện. Tiếp tục giữ thị trường ở nước nguyên đơn, bằng các cách: Chuyển sang sản xuất ở những mặt hàng không bị áp thuế chống bán phá giá. Tiếp tục kháng kiện đề nghị xem xét lại mức thuế chống bán phá giá; Về nhóm giải pháp cụ thể cho các ngành hàng xuất khẩu chủ lực, gồm 2 nhóm giải pháp: Giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản và giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may, da giày. Nhóm giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản gồm 4 giải pháp: + Khuyến khích các doanh nghiệp nuôi trồng chế biến thủy sản ở hai mặt hàng tôm sú và cá basa, cá tra đầu tư sang Campuchia hoặc mượn sông, hồ để nuôi; + Đầu tư công nghệ để tạo ra sản phẩm thủy sản có giá trị tăng cao, có hương vị độc đáo, tạo ra các sản phẩm khác biệt; + Hoàn thiện quy hoạch nuôi trồng thủy sản trên cơ sở đánh giá điều kiện tự nhiên của từng vùng; đánh giá cung cầu của thị trường trong và ngoài nước; + Phát triển thương mại nội địa ở mặt hàng thủy sản; Nhóm giải pháp cho các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may, da giày cũng gồm 4 giải pháp: + Bộ Công thương phối hợp với các Hiệp hội ngành hàng giám sát chặt mức độ gia tăng xuất khẩu ở những Categorise – Cat (loại hàng) nhạy cảm, để tránh gia tăng xuất khẩu quá mức; + Chuyển dần từ phương thức gia công xuất khẩu sang phương thức tự doanh; + Cổ phần hóa doanh nghiệp và bán cổ phiếu cho các đối tác chiến lược nước ngoài là những tập đoàn thương mại hoặc dệt, may; giày dép lớn trên thế giới; + Đẩy mạnh liên doanh, liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành (áp dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ) nhằm gia tăng quy mô để có thể nhận được các hợp đồng sản xuất lớn. Về kiến nghị: Để hệ thống giải pháp nêu trên được thực hiện một cách hiệu quả, nhóm nghiên cứu đề xuất tập hợp kiến nghị với các cơ quan quản lý nhà nước (Thủ tướng Chính phủ, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan) và kiến nghị với Phòng Thương mại và Công nghiệp VN, các hiệp hội ngành hàng xuất khẩu. Cụ thể: Đối với Thủ tướng Chính phủ: Cần đẩy nhanh tiến trình cải cách kinh tế để VN sớm được WTO thừa nhận là nước có nền kinh tế thị trường; Quan tâm hơn nữa đến công tác dự báo kinh tế đối ngoại; Nâng cao năng lực hoạt động của các cơ quan đối ngoại của Nhà nước đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế; Hoàn thiện bộ máy cơ quan chống bán phá giá của quốc gia. Đối với Bộ Công thương: Cần hoàn thiện bộ máy tổ chức của Cục Quản lý cạnh tranh; xây dựng cơ chế giám sát khối lượng và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu ở những ngành hàng xuất khẩu chủ lực: dệt may; giày dép; … (những mặt hàng xuất khẩu trên một tỷ USD) trên những thị trường xuất khẩu chủ lực: Mỹ, EU, Úc,… Làm đầu mối tổ chức phòng ngừa các vụ kiện AD từ ngoài lãnh thổ Việt Nam; Xây dựng chiến lược phát triển hoạt động thương mại Việt Nam một cách khoa học, tiến tiến, phù hợp với điều kiện hội nhập. Đối với Bộ Tài chính: - Phối hợp với Bộ Công thương hoàn thiện cơ chế quản lý thuế xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam theo hướng đa dạng hóa cách tính thuế: thuế hạn ngạch; thuế theo mùa; thuế theo giá trị (cùng một áo sơmi: giá rẻ hơn mức nào đó đánh thuế cao; cao hơn đánh thuế mức thấp…); hoặc thuế (hoặc phụ thu) đánh vào sản phẩm khi xuất khẩu sang các thị trường khác nhau (có thị trường xuất khẩu thuế =0; có những thị trường xuất khẩu cũng sản phẩm ấy bị phụ thu phí…). - Đầu tư mạnh cho công tác hải quan: hiện đại hóa thủ tục hải quan; tăng cường nối kết mạng giữa các cơ quan Chính phủ nhằm giám sát chặt chẽ kịp thời tốc độ tăng (giảm) XK, NK trên các thị trường, để đề xuất các giải pháp điều tiết nhằm giữ thị trường. - Giúp Chính phủ xây dựng đề án “Hoàn thiện công tác kế toán kiểm tóan VN đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” và đưa vào áp dụng trong thực tế để giúp các doanh nghiệp đối phó có hiệu quả các vụ kiện AD. Đối với Tổng cục Hải quan - Cập nhật và kịp thời thông báo thông tin về tình hình XK các mặt hàng XK chủ lực trên các thị trường trọng yếu về: khối lượng; giá trị; giá cả hàng XK. - Giám sát chặt chẽ khối lượng, giá trị hàng NK và gửi báo cáo về tình hình XK, NK đến Bộ Công Thương, đến Tổng cục Quản lý Cạnh tranh. - Tăng cường quản lý và chống hiện tượng chuyển tải bất hợp pháp khác; giả mạo xuất xứ VN để đưa hàng giá rẻ vào các nước khác. - Xây dựng mối liên kết với Hải quan của các nước nhập khẩu hàng Việt Nam để hợp tác trên các lĩnh vực: chống buôn lậu; giả mạo hàng hoá Việt Nam; kiểm soát tốc độ tăng giảm hàng Việt Nam trên thị trường nước nhập khẩu (chú trọng ở mặt hàng xuất khẩu chiến lược) để từ đó cung cấp thông tin cho Bộ Công Thương; Hiệp hội ngành hàng, để những nơi này có những giải pháp điều chỉnh phù hợp. Ngoài ra sự hợp tác chặt chẽ hoạt động hải quan giữa các nước sẽ góp phần giảm thủ tục và thời gian thông quan góp phần đẩy mạnh tốc độ xuất khẩu mà không bị áp dụng các biện pháp chống bán phá giá hoặc tự vệ ở nước NK. Kết luận Muốn áp dụng được thuế chống bán phá giá cần có sự quan tâm phối hợp chặt chẽ của nhiều cơ quan trung ương tới địa phương và doanh nghiệp. Cần nhanh chóng tổ chức các khoá đào tạo về áp dụng thuế chống bán phá giá cho đông đảo các bộ ngành. Nội dung của các khoá đào tạo này sẽ bao gồm những vấn đề kinh tế liên quan tới bán phá giá, những quy định về thuế chống bán phá giá của WTO, kinh nghiệm áp dụng thuế chống bán phá giá của một số nước và những vấn đề đang nổi lên tại Vòng đàm phán Doha của WTO liên quan tới vấn đề chống bán phá giá. Các cơ quan nghiên cứu cần triển khâi các đề tài về chống bán phá giávà tư vấn cho nhà hoạch định chính sách về những ưu điểm cũng như nhược điểm của hệ thống chính sách hiện tại liên quan tới chống bán phá giá. Đồng thời, các cơ quan nghiên cứu cũng phải đi tiên phong trong việc đưa ra các kiến nghị về áp dụng thuế chống bán phá giá trong các trường hợp cụ thể, đặc biệt là khi cơ quan chức năng đã quyết định điều tra. Những kiến nghị cần cụ thể như có nên áp dụng thuế chống bán phá giá đối với hàng nhập khẩu đang được điều tra hay không, lợi ích và thiệt hại đối với mỗi nhóm là bao nhiêu, thuế suất có đúng bằng mức biên độ phá giá không hay nên thấp hơn, những phản ứng quốc tế khi áp dụng thuế chống bán phá giá sẽ như thế nào,.v.v.. Cần tổ chức, tuyên truyền cho các doanh nghiệp có những hiểu biết nhất định về quyền của họ đối với việc tiến hành điều tra áp dụng thuế chống bán phá giá, nghĩa vụ tham gia của họ trong tiến trình điều tra,... Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cần biết rõ nguy cơ hàng xuất khẩu của họ cũng có bị nước nhập khẩu áp dụng thuế chống bán phá giá. Vì vậy các doanh nghiệp sản xuất/ xuất khẩu một loại mặt hàng nên hợp tác với nhau dưới hình thức hiệp hội để thường xuyên trao đổi thông tin, tìm hiểu biện pháp đối phó khi mặt hàng mình xuất khẩu bị nước ngoài điều tra phá giá, đồng thời các doanh nghiệp cũng cần hợp tác chặt chẽ với Chính phủ để tiến hành những vận động cần thiết khi hàng xuất khẩu của Việt Nam có nguy cơ bị điều tra/ áp dụng thuế chống bán phá giá. Tài liệu tham khảo GS.TS Võ Thanh Thu - Quan hệ kinh tế quốc tế - Nhà xuất bản thống kê - Tháng 3/2010 Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1994) Hiệp định chống bán phá giá của WTO Luật Thuế chống bán phá giá của Mỹ Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng (Điều XVI của GATT 1994) Luật chống bán phá giá của EU (quy định của Hội đồng EC số 2238/2000 ban hành ngày 9/10/2000) Pháp lệnh chống bán phá giá hàng nhập khẩu vào VN, 29/4/2004 Cẩm nang thuế chống bán phá giá và chống trợ cấp – Hội đồng Thương mại Quốc tế Mỹ, 11/1999 Nghị định số 90/2005/NĐ-CP ngày 11/7/2005 về “Quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh chống bán phá giá hàng hóa nhập khẩu vào VN” Báo cáo của Uỷ ban Chống bán phá giá, Ban Thư ký WTO, cập nhật hàng tháng. Cẩm nang Kháng kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp tại Liên minh Châu Âu Hướng dẫn về các Biện pháp Phòng vệ Thương mại tại Cộng đồng Châu Âu - Pháp luật, Thực tiễn và Thủ tục vụ kiện chống bán phá giá, chống trợ cấp và tự vệ do Trung tâm Thương mại Quốc tế (ITC) phát hành Bộ Thương mại VN – “Tài liệu về vụ kiện” Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994) Đoàn Thị Hồng Vân, Võ Thanh Thu và nhóm nghiên cứu, đề tài khoa học cấp Thành phố “Đề xuất những giải pháp đối phó với rào cản ‘Chống bán phá giá’ ở nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp VN – trường hợp TP.HCM”, bảo vệ tháng 1/2008. Bộ Thương mại, Chống bán phá giá - mặt trái của tự do hoá thương mại, 2003. Vũ Kim Dũng, Bán phá giá và hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 94, 2005. Đoàn Tất Thắng, Những giải pháp giúp các doanh nghiệp Việt Nam đối phó với các vụ kiện chống bán phá giá, Tạp chí Thương mại, số 10, 2005.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDe tai so 5- ban pha gia.doc