MỤC LỤC
Lời Nói Đầu 1
Chương I: Tổng quan về hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ trong cơ chế thị trường
I. Khái quát về hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ 3
1. Khái niệm và đặc điểm của thiết bị toàn bộ 3
2. Hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam hiện nay 4
2.1. Đối tượng được phép nhập khẩu thiết bị toàn bộ 4
2.2. Các phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ 6
2.3. Khung pháp lý hiện nay cho hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở Việt Nam 7
3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ đối với nền kinh tế Việt Nam 10
II. Quy trình nhập khẩu thiết bị 11
1. Nghiên cứu thị trường 11
2. Lựa chọn đối tác và hình thức giao dịch 13
3. Đàm phán, ký kết hợp đồng nhập khẩu hàng hoá 14
4. Tổ chức thực hiện hợp đồng 16
4.1. Xin giấy phép nhập khẩu 16
4.2. Mở L/C 16
4.3. Thuê tàu 17
4.4. Mua bảo hiểm hàng hoá 17
4.5. Thủ tục hải quan 17
4.6. Nhận hàng nhập khẩu 18
4.7. Kiểm tra hàng hoá 18
4.8. Thanh toán tiền hàng nhập khẩu 19
4.9. Giải quyết khiếu nại và tranh chấp ( nếu có ) 19
III. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ 19
1. Yếu tố chính trị - luật pháp 19
2. Trình độ sản xuất - khoa học công nghệ và quản lý 20
3. Tỷ giá hối đoái 22
4. Các nhân tố ảnh hưởng khác 23
Chương II Thực trạng về việc thực hiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại technoimport
I. Tóm lược về công ty 24
1. Sự hình thành và phát triển của công ty 24
2. Chức năng, nhiệm vụ của công ty 25
3. Cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý của công ty 26
4. Thị trường và mặt hàng kinh doanh của công ty 28
II. Hoạt động kinh doanh của công ty 32
1. Kết quả hoạt động kinh doanh của Technoimport 32
2. Kết quả hoạt động xuất nhập khẩu 34
III. Thực trạng quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật 36
1. Phương thức nhập khẩu thiết bị toàn bộ chủ yếu của công ty 36
2. Quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở công ty 38
IV. Những tồn tại trong quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại công ty Technoimport 52
1. Nghiên cứu thị trường 52
2. Tổ chức đấu thầu 53
3. Đàm phán 55
4. Thực hiện hợp đồng và giám sát thực hiện hợp đồng 56
5. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên 58
6. Vốn 59
Chương III: Giải pháp hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport
I. Mục tiêu và phương hướng hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian tới 61
1. Mục tiêu của công ty 61
2. Phương hướng hoạt động kinh doanh của công ty 61
II. Giải pháp góp phần hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ ở công ty 62
1. Đẩy mạnh nghiên cứu nhu cầu khách hàng 63
2. Tổ chức đấu thầu một cách có hiệu quả 65
3. Quá trình kiểm tra đánh giá tính tiên tiến của thiết bị toàn bộ định nhập khẩu 66
4. Nâng cao công tác đàm phán và kí kết hợp đồng 68
Đàm phán: gồm có chuẩn bị đàm phán và thực hiện quá trình đàm phán. 68
5. Để công tác hải quan có thể được thực hiện tốt 70
6. Nâng cao công tác giao nhận, vận chuyển 70
7. Hoàn thiện công tác thanh toán 70
8. Giám sát việc thực hiện hợp đồng của phía đối tác 72
III. Một số kiến nghị 72
1. Về phía công ty 72
2. Về phía nhà nước 76
Kết luận 79
Danh mục tài liệu tham khảo 80
86 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2716 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài 1 số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ướng mặt hàng kinh doanh. Đây có thể nói là điểm thiếu năng động của công ty, tuy nhiên nó cũng là điều dễ hiểu vì xuất phát từ đặc điểm của ngành hàng thiết bị toàn bộ là ngành hàng phục vụ cho nhu cầu sản xuất hàng hóa hay nói cách khác là nhu cầu thứ cấp nên việc nghiên cứu thiết bị toàn bộ không phải là dễ dàng.
+ Thông tin ở những thị trường không có văn phòng đại diện vẫn chưa thu thập được hoặc rất khó thu thập được.
+ Công tác tìm kiếm bạn hàng của công ty còn rất đơn giản, chủ yếu chỉ dựa vào các mối quan hệ quen biết hoặc do khách hàng tự tìm đến với công ty. Mặt khác hoạt động này đã được cán bộ công nhân viên chủ động nhưng mang tính tự phát, thiếu tính năng động, chưa được tổ chức quy củ.
2. Tổ chức đấu thầu
- Vướng mắc từ các qui chế chính sách của Nhà nước:
+ Hiện nay vẫn còn nhiều quy định pháp luật về mua sắm máy móc thiết bị ở Việt nam vẫn có những điểm không phù hợp với quy định của các tổ chức quốc tế, nhiều khi gây khó khăn cho các nhà thầu nước ngoài khi tới tham gia thầu ở Việt nam, không hấp dẫn được các nhà thầu nước ngoài vào Việt nam.
+ Việc đấu thầu cũng gặp nhiều khó khăn khi Nhà nước hạn chế đối tượng được phép áp dụng hợp đồng có điều chỉnh giá. Hợp đồng có điều chỉnh giá chỉ được phép áp dụng khi hợp đồng có thời gian thực hiện trên một năm, đấu thầu làm tăng rủi ro cho các hợp đồng có thời gian thực hiện ít hơn do không được điều chỉnh giá nếu có biến động về giá cả. Trong mua sắm thiết bị toàn bộ, biến đổi giá cả phần lớn có nguyên nhân do sự biến đổi tỷ giá đồng Việt nam và các ngoại tệ, chủ yếu là USD. Giả sử đồng nội tệ mất giá so với đồng USD nhưng tổng mức đầu tư đã được phê duyệt bằng đồng Việt Nam, khó có thể thay đổi làm cho phía Việt nam thua thiệt nhiều, một số dự án thậm chí phải ngừng thực hiện.
+ Một điều kiện hết sức quan trọng trong quá trình đấu thầu đó là yêu cầu bảo mật thông tin. Cho đến nay mới chỉ có quy định về việc bên mời thầu không được tiết lộ thông tin chứ chưa có quy định và cũng không cấm việc trao đổi giữa các nhà thầu với nhau nên thường dẫn đến việc các nhà thầu thông đồng ép giá gây bất lợi cho người nhập khẩu.
+ Trong qui chế đấu thầu, việc người nhập khẩu bị buộc phải thực hiện nhập khẩu công trình cho dự án bằng phương thức đấu thầu là một điều bất hợp lý vì đấu thầu là phương thức rất phức tạp và mất nhiều thời gian nên nếu ngay cả đối với các dự án nhỏ hoặc không lớn lắm mà vẫn phải áp dụng nó dẫn đến việc tăng chi phí, ảnh hưởng đến hiệu quả của dự án và mất cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, quy chế đấu thầu còn có một số quy định chưa hợp lý về số nhà thầu tối thiểu. Trong thực tế, có những trường hợp chỉ có hai hoặc thậm chí một nhà thầu duy nhất tham gia, có khi bên mời thầu phải hoãn thời điểm mở thầu để các nhà thầu khác có cơ hội tham gia mà vẫn không có đủ số hồ sơ dự thầu cần thiết. Đặc biệt, đối với một số dự án thuộc một số lĩnh vực công nghệ chuyên biệt như sản xuất dụng cụ y tế, giáo cụ, thiết bị cơ khí chính xác v.v..,thì có rất ít hãng trên thế giới có khả năng dự thầu, vì thế tình trạng không đủ số nhà thầu tối thiểu thường xuyên xảy ra.
- Vướng mắc từ bản thân công ty: hiện nay, đối với những dự án lớn có kỹ thuật phức tạp, công ty chỉ đảm nhận phần xét thầu thương mại trong đánh giá chi tiết hồ sơ dự thầu (như đánh giá về giá cả, về hàng hoá, uy tín nhà cung cấp, phương án tài chính cho việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ .v.v.. ) còn phần kỹ thuật công ty sẽ mời tổ xét thầu riêng bao gồm các chuyên gia có uy tín, có kinh nghiệm trong lĩnh vực kỹ thuật đó. Điều này cho thấy năng lực xét thầu của Technoimport chưa mạnh, còn nhiều hạn chế. Technoimport thiếu những cán bộ xét thầu kỹ thuật thực sự có chuyên môn, nhất là với các công trình lớn. Mặt khác, việc mời tổ xét thầu kỹ thuật riêng còn chia sẻ khoản lợi nhuận được hưởng của công ty (do Technoimport sẽ phải trả cho tổ xét thầu kỹ thuật một khoản tiền bồi dưỡng).
Mục đích của việc phân chia gói thầu thích hợp là tiết kiệm chi phí và tăng tính cạnh tranh giữa các nhà thầu. Tuy nhiên đôi lúc, việc phân chia này còn chưa hợp lý và không đảm bảo tính đồng bộ. Trong nhiều cuộc đấu thầu, gói thầu được phân chia quá nhỏ gây lãng phí về thời gian và tiền bạc của công ty hoặc quá lớn làm ảnh hưởng đến cơ hội tham gia của các nhà thầu.
Về vấn đề cho điểm, công ty thường dùng hệ thống thang điểm 100, cách dùng thang điểm này là tốt tuy nhiên trong nhiều trường hợp lại không nên dùng thang điểm này bởi sẽ không đánh giá được chính xác đến từng chi tiết về mặt kỹ thuật của đơn dự thầu.
3. Đàm phán
Như đã trình bày ở trên, ngoài việc tổ chức đấu thầu, Technoimport còn có thể gọi chào hàng cạnh tranh để lựa chọn nhà cung cấp thiết bị toàn bộ cho mình. Trong gọi chào hàng cạnh tranh, Technoimport cần phải thương lượng, đàm phán với nhà cung cấp để thống nhất các điều khoản trước khi kí kết hợp đồng. Tuy nhiên, quá trình đàm phán của công ty còn tồn tại nhiều vướng mắc cụ thể như sau
Trong đàm phán hợp đồng nhập khẩu thiết bị toàn bộ, nội dung đàm phán thường bao gồm 3 lĩnh vực: kỹ thuật, thương mại và pháp lý nhưng trong đoàn đàm phán được công ty cử đi không phải bao giờ cũng đầy đủ các thành viên am hiểu đầy đủ về cả 3 lĩnh vực.
Các công ty nước ngoài rất ngại khi phải làm việc và tiến hành đàm phán với đối tác Việt nam trong cơ chế hiện nay của nước ta. Đó là vì các thỏa thuận trên bàn đàm phán tại Việt nam sẽ còn chịu sự kiểm tra và phê duyệt của các chuyên môn phía sau đoàn đàm phán. Các qui định như thế này của Việt Nam gây lãng phí thời gian trong khi chờ đợi phê duyệt, làm chậm tiến độ triển khai dự án, làm cho phía nước ngoài kém tin tưởng vào các thỏa thuận đã giành được trên bàn đàm phán, bởi vì những thỏa thuận đó lại còn phải chờ đợi sự phê duyệt của các cơ quan quyền lực ở phía sau. Thực tế cho thấy nhiều khi đoàn đàm phán của công ty rất bị động khi tham gia thương thảo hoàn thiện hợp đồng mua sắm thiết bị toàn bộ và một trong những loại hợp đồng lớn có nội dung qui định hết sức chi tiết và phức tạp. Người tham gia đàm phán nhiều khi không có quyền quyết định đối với những điều đạt được hay chưa được trên bàn đàm phán mà lúc nào cũng phải chờ ý kiến chỉ đạo của cấp có thẩm quyền, mà nhiều khi các cán bộ thuộc cấp có thẩm quyền này không có đủ năng lực cũng như thiếu kinh nghiệm thực tế để giải quyết một vấn đề cụ thể.
4. Thực hiện hợp đồng và giám sát thực hiện hợp đồng
Về các loại giấy phép nhập khẩu .
Hiện nay, các qui định về thủ tục nhập khẩu máy móc thiết bị cho các dự án do quá trình nhiều cơ quan thuộc nhiều cấp ban hành dẫn đến việc làm ách tắc nhập khẩu, gây thiệt hại về thời gian và tiền bạc cho nhà nhập khẩu.
Những vướng mắc về thuế.
Các văn bản pháp luật liên quan đến thuế được ban hành liên tục và quá nhiều nên đã dẫn đến tình trạng chồng chéo, gây khó khăn cho người nhập khẩu, chủ đầu tư và các bên có liên quan.
Thiết bị toàn bộ bao gồm rất nhiều chi tiết kĩ thuật, nhiều bộ phận đồng bộ với những tên gọi khác nhau. Vì vậy, việc khai báo chính xác các tên gọi này, gặp nhiều khó khăn. Hơn nữa, văn bản pháp luật trong lĩnh vực này tuy được ban hành nhiều nhưng lại quy định không rõ ràng về đối tượng chịu thuế. Điều này, dẫn đến việc xuất hiện rất nhiều vướng mắc trong khâu áp mã tính thuế của công ty. Phía hải quan do không thể tự quyết định phương thức áp mã thuế nên đã chọn phương thức có thuế suất cao gây thiệt hại nặng cho người nhập khẩu và chủ đầu tư. (có lúc lên tới hàng tỷ đồng).
Ví dụ: vào tháng 4/2003, Technoimport có nhập một lô hàng thiết bị y tế trong lô hàng này có một bộ phận là ống đồng mạ kẽm. Do vận chuyển hàng theo từng chuyến nên ống đồng mạ kẽm này là chuyến hàng về sau cùng. Khi áp mã thuế cho ống đồng mạ kẽm, hải quan đã tính là 5% -tức là coi ống đồng mạ kẽm này là một lô hàng riêng tách rời khỏi thiết bị y tế- thay vì tính thuế 0% -nếu coi ống đồng mạ kẽm là một bộ phận không thể tách rời của thiết bị y tế. Điều này đã gây tổn thất cho công ty kể cả về mặt thời gian, tiền bạc và uy tín của Technoimport đối với phía đối tác.
Mặt khác, hệ thống thông tin của Hải quan còn nhiều bất cập. Nhiều khi, công ty bị cưỡng chế lô hàng nhập khẩu do còn nợ thuế Hải quan. Thực chất thì công ty đã thanh toán các khoản nợ thuế này từ lâu nhưng do Hải quan vẫn chưa nhận được giấy báo có từ kho bạc chuyển về hoặc chưa cập nhật lại thông tin trên hệ thống mạng máy tính chuyên ngành hải quan dù thời gian đã quá lâu
Những vấn đề đặt ra đối với thủ tục Hải quan cho thiết bị toàn bộ nhập khẩu.
Theo quy định hiện hành mới của Hải quan, việc quy định các doanh nghiệp khi khai báo Hải quan phải tự chịu trách nhiệm kê khai, áp mã tính thuế đối với hàng hóa như vậy Hải quan đã dồn hết trách nhiệm sang doanh nghiệp, còn doanh nghiệp thì phải tiếp tục chịu trách nhiệm tiếp tục chị trách nhiệm trong 5 năm. Rõ ràng trách nhiệm của Hải quan là kiểm tra tờ khai, nếu tờ khai được khai đúng thì không có lý do gì yêu cầu doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm về tờ khai đó trong 5 năm.
Ngoài các khoản chi có chứng từ hợp lệ nói trên trong khâu làm thủ tục hải quan cho hàng hóa nhập khẩu có rất nhiều các khoản phải chi thực tế nhưng không có chứng từ hợp lệ, người nhập khẩu cũng phải gánh chịu toàn bộ mà hầu như không có khả năng nhận lại từ chủ đầu tư
Bên cạnh đó, người nhập khẩu gặp phải nhiều khó khăn khi Hải quan yêu cầu giám định đối với hàng hóa nhập khẩu mỗi khi họ cảm thấy "kết quả giám định không phù hợp với thực tế hàng hóa ". Đây là điều không hợp lý vì kết quả giám định thông thường không phải chỉ đơn thuần là những gì nhìn thấy mà đòi hỏi phải có hệ thống máy móc tiêu chuẩn kiểm tra v.v.. Do vậy, Hải quan không thể đưa ra những lý do như vậy để từ chối kết quả giám định và yêu cầu tiến hành giám định tràn lan gây thiệt hại cho công ty.
Những vấn đề xử lý tranh chấp phát sinh khi thực hiện hợp đồng.
Tranh chấp phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng là vấn đề rất có thể xảy ra. Việc giải quyết tranh chấp hợp đồng loại này, tuy thế vẫn còn gặp phải một số vướng mắc do pháp luật trong lĩnh vực này còn thiếu chặt chẽ. Các quy định mâu thuẫn với nhau làm cho các doanh nghiệp thiếu tin tưởng và coi thường điều khoản trọng tài, nhiều khi làm nảy sinh thái độ thiếu nghiêm túc khi thực hiện hợp đồng.
5. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên
Mặc dù nguồn nhân lực của công ty có trình độ trên đại học cao học nhưng trước những đòi hỏi riêng của lĩnh vực nhập khẩu thiết bị toàn bộ thì còn phải nghiêm túc đánh giá lại. Có hai vấn đề còn tồn tại trong đội ngũ cán bộ ở công ty.
Thứ nhất, không phải tất cả cán bộ kinh doanh ở công ty đều đáp ứng được yêu cầu về ngoại ngữ, về nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu hiện đại, về pháp luật và đặc biệt là về những tri thức khoa học công nghệ kỹ thuật.
Thứ hai, một bộ phân cán bộ vẫn chưa có tư duy kinh doanh trong cơ chế thị trường, chưa thực sự năng động trong việc tìm kiếm khách hàng, chủ động tạo công việc, đặc biệt là lôi kéo khách hàng và khuyếch trương uy tín của công ty. Một số cán bộ công nhân viên công ty còn thụ động trong việc tìm kiếm công việc , coi đây là việc của lãnh đạo công ty, phụ trách phòng chứ không phải việc của từng cán bộ công nhân viên, coi việc công ty phải trả lương hàng tháng ở mức ổn định là trách nhiệm và nghĩa vụ của công ty đối với cán bộ công nhân viên mà không thấy là công ty đã nhiều năm nay hoạt động theo cơ chế thị trường nên chỉ có thể trang trải các khoản chi phí của mình kể cả thu nhập cho cán bộ công nhân viên, chính lợi nhuận thu được từ hoạt động sản xuất kinh doanh mà thôi.
6. Vốn
Đối với một số dự án tự doanh, vấn đề khó khăn lớn nhất chính là nguồn vốn cho dự án bởi vì giá trị các công trình thiết bị toàn bộ thường tốn hơn nhiều so với nguồn vốn mà công ty có thể đáp ứng. Vì thế, giải pháp vay vốn ngân hàng hoặc vay tín dụng nước ngoài đang là hướng đi cho nhập khẩu tự doanh ở công ty. Tuy nhiên vẫn còn nhiều bất cập trong các chính sách đi vay cũng như cho vay của nhà nước.
Cụ thể là đối với vay ngân hàng trong nước hiện nay thì vốn các ngân hàng cho vay với lãi suất quá cao, thời hạn cho vay ngắn, trong khi đó đặc điểm của mặt hàng thiết bị toàn bộ là thời gian mua bán thiết bị toàn bộ thường dài đôi khi đến hàng năm mới kết thúc. Hơn nữa, trong thời gian gần đây để tránh thất thoát tiền các ngân hàng hiện đã thắt chặt các khoản vay của doanh nghiệp.
Mặt khác, việc thu hồi công nợ khó đòi của công ty diễn ra chậm cũng ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình tài chính của công ty gây khó khăn trở ngại cho việc công ty tiếp tục vay vốn ngân hàng để kinh doanh cho các đơn vị không có công nợ quá hạn hoặc đối với những hợp đồng có lợi nhuận cao.
Vấn đề vướng mắc trong việc vay vốn nước ngoài để nhập khẩu công trình thiết bị toàn bộ lại không nằm ở phía bên nước ngoài cho vay mà lại nằm chủ yếu ở chính sách và cách thức quản lý nguồn vốn của phía Việt Nam.
Đối với các dự án sử dụng vốn của các khách hàng là các doanh nghiệp. nhà nước, chủ đầu tư không phải là người sở hữu vốn mà vốn là của Nhà nước và họ chỉ là người quản lý nguồn vốn đó. Vì vậy, nhiều khi giải ngân không đúng tiến độ trong khi chủ đầu tư khó có thể tìm ra nguồn vốn bổ sung. Khi đó, Technoimport là người trực tiếp đứng ra nhập khẩu thiết bị toàn bộ tất nhiên cũng bị ảnh hưởng đến tiến độ thanh toán ngoại do việc thanh toán không đúng hạn của khách hàng trong nước. Điều này không chỉ làm Technoimport bị thất tín với đối tác nước ngoài mà còn dẫn đến sự ngừng trệ của công trình và phát sinh hàng loạt các chi phí ngoài các tính toán ban đầu, khiến cho tổng mức đầu tư tăng, thậm chí công trình đang thực hiện phải bỏ dở.
Có thể thấy rằng những vướng mắc đã đề cập ở trên dù là phía công ty hay là từ phía Nhà nước đều gây rất nhiều khó khăn cho công tác nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty. Để tháo gỡ những vướng mắc này đòi hỏi phải có sự kết hợp giữa cố gắng của công ty và sự thay đổi trong các chính sách của Nhà nước.
CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN QUY TRÌNH NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ TẠI TECHNOIMPORT
I. MỤC TIÊU VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÔNG TY TRONG THỜI GIAN TỚI
1. Mục tiêu của công ty
Mục tiêu năm 2003
+ Các khoản nộp ngân sách :
16690 triệu VNĐ
+ Kim ngạch xuất khẩu :
5200 nghìn USD
+ Kim ngạch nhập khẩu :
40000 nghìn USD
+ Tồng doanh thu :
260000 triệu VNĐ
+ Lợi nhuận thực hiện :
600000 triệu VNĐ
Bên cạnh các mục tiêu cụ thể phải đạt được như đã nêu trên thì doanh nghiệp đã đặt ra cho mình mục tiêu lâu dài đó là: không ngừng nâng cao uy tín, thế lực của công ty, mở rộng thị trường mục tiêu, tăng thị phần, hạn chế đến mức tối đa độ rủi ro, mạo hiểm trong kinh doanh và cố gắng tiếp tục là đơn vị dẫn đầu về nhập khẩu máy móc, thiết bị đặc biệt là thiết bị toàn bộ trong cả nước hoàn thiện quy chế bổ nhiệm cán bộ, đẩy mạnh việc triển khai quy chế dân chủ ở cơ sở , chuẩn bị cho công tác cổ phần hoá công ty vào năm 2005 .
2. Phương hướng hoạt động kinh doanh của công ty
Trên cơ sở những kết quả đạt được trong những năm qua, công ty nhận định xu thế cạnh tranh sẽ ngày càng gay gắt hơn trong cơ chế thị trường, cơ chế quản lí của nhà nước ngày càng chặt chẽ hơn. Vì vậy, công ty cần tăng cường các mối quan hệ, giữ vững khách hàng và thị trường truyền thống, thu hút khách hàng mới. Đặc biệt cần chú trọng vào việc hoàn thiện một số bước trong quy trình nhập khẩu để tránh lãng phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Công ty đã đề ra phương hướng cho hoạt động kinh doanh của mình trong những năm tới như sau:
+ Thứ nhất là tiếp tục phát huy vai trò dẫn đầu trong hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ, đặc biệt là nhập khẩu ủy thác. Cụ thể là hoàn thành tốt các nghĩa vụ với chủ đầu tư, đảm bảo chất lượng công trình, đôn đốc trách nhiệm của người bán với việc bảo hành, hỗ trợ cho người mua về mặt kỹ thuật, tư vấn cho khách hàng lựa chọn nhập khẩu những dây chuyền thiết bị toàn bộ hiện đại để hàng hóa sản xuất ra có khả năng cạnh tranh trên thị trường Quốc tế. Bên cạnh nhập khẩu ủy thác cần tiếp tục chú ý và khai thác hình thức nhập khẩu tự doanh nhằm tạo thế chủ động và mang lại lợi nhuận cao, tuy nhiên không nên đầu tư tràn lan gây lãng phí vốn và công nợ dây dưa mà phải xem xét cẩn thận hiệu quả đầu tư.
+ Thứ hai là chú trọng nghiên cứu thị trường, quá trình hội nhập, gắn kết chặt chẽ hơn nữa với sản xuất thông qua việc mỗi đơn vị tự đề xuất ít nhất 1 đề án tham gia sản xuất hoặc đại lý tiêu thụ sản phẩm được sản xuất tại các công trình do đơn vị nhập khẩu để công ty xem xét và quyết định triển khai
+ Thứ ba là tăng cường liên doanh liên kết với các doanh nghiệp sản xuất nhằm tạo sự ổn định cho nguồn hàng, tiếp tục đa dạng hóa kinh doanh ngoài ngành hàng cơ bản là máy móc thiết bị nhằm tạo sự ổn định thu nhập và hỗ trợ vốn cho nghiệp vụ nhập khẩu chính. Ngoài ra, công ty cần triệt để tiết kiệm các chi phí trong kinh doanh, phấn đấu đưa ra các định mức cụ thể hoặc trung bình đối với từng khâu để phấn đấu
+ Thứ tư là trên cơ sở chủ sở hữu đầu tư các công trình thường không có nhiều kinh nghiệm cần thiết cho hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ, công ty cần tiếp tục nâng cao chất lượng, đẩy mạnh và mở rộng phạm vi của hoạt động tư vấn đầu tư và thương mại, cố vấn cho các phòng kinh doanh tham gia vào quá trình đánh giá hiệu quả đầu tư và thiết kế kỹ thuật của khách hàng. Tăng cường sự phối kết hợp giữa các đơn vị trong công ty và các đơn vị ngoài công ty thực hiện kinh doanh sản xuất. Phát triển kinh doanh nội địa và dịch vụ thương mại
II. GIẢI PHÁP GÓP PHẦN HOÀN THIỆN QUY TRÌNH NHẬP KHẨU THIẾT BỊ TOÀN BỘ Ở CÔNG TY
Trong những năm qua, hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Technoimport được đánh giá là tốt, đem lại lợi nhuận va uy tín, tạo nền tảng quan trọng cho sự tồn tại và phát triển của công ty. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều yếu tố gây khó khăn và ảnh hưởng không tốt đến hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty. Nguyên nhân thì đã rõ và đó cũng là vấn đề đang được công ty nghiên cứu và tìm hướng giải quyết sao cho vừa tuân thủ đúng pháp luật lại vừa giảm thiểu chi phí, nâng cao hiệu quả của việc thực hiện qui trình nhập khẩu. Từ đó, hoàn thiện qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty và hoạt động kinh doanh chung của công ty mới phát triển mạnh
Qua nhận thức về mặt lí luận và qua thời gian nghiên cứu tình hình thực tiễn tại công ty, tôi xin đưa ra một số giải pháp trong một số bước của qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ với mong muốn nâng cao hiệu quả kinh doanh nói chung và hoàn thiện qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty nói riêng.
1. Đẩy mạnh nghiên cứu nhu cầu khách hàng
Công tác nghiên cứu thị trường và tìm kiếm bạn hàng của Technoimport nói chung và của từng bộ phận trong công ty nói riêng nên được tiến hành thường xuyên, liên tục và mang tính hệ thống khoa học.
Technoimport nên chủ động phát hiện nhu cầu của khách hàng và tìm cách thoả mãn những nhu cầu đó vì chỉ có thế Technoimport mới thu hút được khách hàng, mở rộng kinh doanh và thu được lợi nhuận. Muốn thực hiện được điều đó thì bên cạnh những nỗ lực của cán bộ công nhân viên trong công ty, sự lãnh đạo kịp thời của ban giám đốc thì công ty không ngừng hoàn thiện hoạt động marketing. Hoạt động marketing cần phải được tổ chức thực hiện một cách quy củ và phải được xem là một bộ phận quan trọng trong hoạt động kinh doanh của toàn công ty cũng như của từng đơn vị kinh doanh, do đặc điểm tổ chức của Technoimport, marketing cần được tổ chức thành 2 cấp độ: cấp độ công ty và cấp độ đơn vị.
+ Cấp công ty chịu trách nhiệm nghiên cứu, phân tích, đánh giá tình hình chung của thị trường ở cả trong, ngoài nước và của từng khu vực trên thế giới. Kết hợp với việc phân tích, đánh giá các báo cáo kết quả nghiên cứu thị trường của các đơn vị kinh doanh độc lập để lập nên chiến lược marketing chung cho toàn công ty, chỉ đạo các đơn vị thực hiện chiến lược này.
+ Cấp đơn vị phải chịu trách nhiệm tổ chức, tiến hành các hoạt động marketing trong lĩnh vực kinh doanh của đơn vị mình; báo cáo các kết quả nghiên cứu, đánh giá về thị trường của đơn vị, bộ phận, marketing cấp công ty trên cơ sở chiến lược marketing và chính sách marketing của toàn công ty các đơn vị sẽ cụ thể hoá thành chiến lược marketing của đơn vị mình.
Hoạt động marketing phải được thực hiện đầy đủ các chức năng của nó, đó là: nghiên cứu thị trường, phát hiện nhu cầu, đáp ứng nhu cầu, gợi mở nhu cầu.
Từ đó gắn liền với việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh và thiết lập các chính sách, biện pháp để vượt lên trên họ. Sử dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào việc nghiên cứu thị trường và môi trường kinh doanh của nước ngoài thông qua mạng Internet.
Ngoài ra Technoimport cần phát huy hơn nữa vai trò các văn phòng đại diện của công ty tại nước ngoài trong việc thu thập và cung cấp những thông tin về thị trường, bạn hàng, giá cả, nhu cầu... cho công ty để thông qua đó tiến hành các hoạt động nghiệp vụ của mình. Cụ thể từng văn phòng đại diện của Technoimport bên cạnh việc thu thập, nghiên cứu và cung cấp phải thực sự trở thành đơn vị tìm kiếm, thu hút khách hàng cho công ty; đảm bảo quyền lợi của công ty tại nước sở tại, thay mặt công ty tiến hành một hoặc một số hoạt động nghiệp vụ của toàn bộ quá trình thực hiện nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu.
Quảng cáo
Nội dung của chiến lược quảng cáo có thể linh hoạt theo từng thời điểm, nội dung chủ yếu của nó là: đẩy mạnh tiếp thị trực tiếp nhằm củng cố lực lượng khách hàng quen thuộc và lôi kéo những khách hàng mới đến với công ty, cạnh tranh với các đối thủ khác bằng cách giảm mức phí ủy thác nhập khẩu.khuyếch trương uy tín của công ty thông qua các hình thức quảng cáo, tham gia các hội thảo, mở các hội nghị khách hàng nhằm thu thập những ý kiến phản hồi từ phía khách hàng để có sự điều chỉnh lại hoạt động của công ty cho phù hợp. Tăng cường công tác quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng để thu hút khách hàng.
2. Tổ chức đấu thầu một cách có hiệu quả
Từ những vướng mắc về quy trình tổ chức đấu thầu, kiến thức hiểu biết về công nghệ, khả năng của nhà thầu v.v.. đến những vướng mắc trong quản lí hành chính, môi trường pháp lí đã làm cho hiệu quả đấu thầu để chọn thiết bị toàn bộ nhập khẩu của Technoimport vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn. Do đó việc nâng cao hiệu quả công tác đấu thầu là một nhiệm vụ tất yếu. Sau đây là một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu thầu của công ty Technoimport.
Trong quá trình lập “điều kiện dự thầu” thì cần có sự cân nhắc, bên cạnh những điều kiện nhất định phải đáp ứng thì trong từng trường hợp phải có sự thay đổi để phù hợp với từng công trình và từng thời điểm. Điều này sẽ được quyết định từ phía các đơn vị của công ty và nhất là trung tâm tư vấn đầu tư và thương mại phải phát huy sở trường và kinh nghiệm của mình, bên cạnh đó cán bộ công nhân viên của từng phòng nghiệp vụ cũng có thể thực hiện, điều đó phụ thuộc vào qui mô giá trị của hợp đồng hoặc sự chỉ đạo của ban giám đốc.
Công ty nên xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu xét thầu chuẩn xác và phù hợp như: chỉ tiêu kỹ thuật, chỉ tiêu giá cả, chỉ tiêu điều kiện thương mại, chỉ tiêu uy tín của nhà cung cấp. Trong chỉ tiêu điều kiện thương mại, ban xét thầu có thể chia thành các chỉ tiêu nhỏ hơn để đánh giá bao gồm: điều kiện thanh toán (thời hạn thanh toán, cơ chế thanh toán), các điều khoản tín dụng, các thu xếp tài chính v.v.. Việc xác định các hệ số quan trọng cho từng chỉ tiêu tùy thuộc vào từng đối tượng và từng trường hợp cụ thể.
Ngoài ra, để đánh giá các đơn thầu một cách chi tiết, công ty nên dùng hệ thống thang điểm 200 thay vì 100 nhưng cũng không nên dùng thang điểm quá cao vì như vậy có thể dẫn đến việc biểu hiện xét thầu như là một bài tập máy móc, quá tỉ mỉ và không cần thiết.
Công ty phải xem xét kỹ càng các bộ hồ sơ dự thầu, trong đó có những đề xuất của phía dự thầu về kỹ thuật và phương án tài chính đối với dự án nhập khẩu thiết bị toàn bộ, sau đó cần thảo luận cụ thể với từng nhà thầu để thống nhất về yêu cầu và tiêu chuẩn kỹ thuật.
Sau khi đánh giá và xem xét kỹ về nhà thầu cũng như những đề xuất từ phía nhà thầu, lúc này công ty mới nên lựa chọn nhà thầu nào cho phù hợp với mình nhất, điều này cũng là để tạo điều kiện thuận lợi cho công việc đàm phán sau này. Nếu nhập khẩu thiết bị toàn bộ cho các ngành đòi hỏi công nghệ cao như dầu khí, xây dựng, thông tin, viễn thông, điện tử v.v.. thì công ty nên lựa chọn các đối tác ở những nước có nền kỹ thuật công nghệ đã phát triển như Nhật, Pháp, Đức, Italia, Mỹ. Còn đối với các ngành công nghiệp chế biến và công nghiệp nhẹ thì nên lựa chọn các đối tác ở những nước có trình độ công nghệ kỹ thuật tiên tiến như các nước NICs.
Đối với bản thân công ty, Technoimport có những chính sách để khuyến khích cán bộ công nhân viên của tổ xét thầu như sau mỗi lần hoàn thành công việc, công ty đều có trích thưởng dành cho đội ngũ này, thường là 12% lãi ròng (lợi nhuận sau thuế ). Ngoài ra, để giải quyết tình trạng thiếu những cán bộ xét thầu kỹ thuật thực sự có chuyên môn, nhất là với các công trình lớn Technoimport cần tăng cường bổ xung về số lượng và chất lượng các cán bộ xét thầu kỹ thuật bằng các biện pháp như bổ túc kiến thức nghiệp vụ cho cán bộ bằng cách cử họ đi học các lớp ngắn hạn, chuyên tu về nghiệp vụ đấu thầu ( chú trọng về xét thầu kỹ thuật), cập nhật các thông tin về thương mại, công nghệ kỹ thuật của thiết bị toàn bộ cũng như các hãng cung cấp đã và sẽ xuất hiện trên thị trường; tuyển dụng có định kỳ cán bộ mới để bổ xung cho đội ngũ cán bộ hiện thời và thay thế các cán bộ nghỉ hưu; bổ túc trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ nghiệp vụ có khả năng về ngoại ngữ
3. Quá trình kiểm tra đánh giá tính tiên tiến của thiết bị toàn bộ định nhập khẩu
Trong những năm qua, quá trình kiểm tra, đánh giá tính tiên tiến của thiết bị toàn bộ định nhập khẩu không được coi trọng dẫn đến việc các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu những thiết bị toàn bộ đã lỗi thời khiến cho không những doanh nghiệp bị thiệt thòi mà Việt Nam còn bị lạc hậu so với các nước trên thế giới về trình độ công nghệ và môi trường Việt Nam bị ảnh hưởng do các thiết bị này không xử lý được một cách hoàn hảo các chất thải gây ô nhiễm môi trường.
Nhận thức được vấn đề này, trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và Technoimport nói riêng đã sử dụng các tiêu chuẩn của nước ngoài để đánh giá hàng hoá. Tuy nhiên, để đánh giá được chính xác một dây chuyền thiết bị có "tiên tiến " hay không, không phải là một điều đơn giản. Một dây chuyền thiết bị được coi là tiên tiến khi có đủ 3 yếu tố là " hiện đại", " an toàn" và " hiệu quả".
Để giải quyết vấn đề này công ty nên có một hệ thống tiêu chuẩn đối với thiết bị toàn bộ nhập khẩu. Cụ thể như sau:
Tiêu chuẩn đánh giá tính phù hợp của thiết bị toàn bộ:
Dây chuyền thiết bị toàn bộ có tính năng và chất lượng phù hợp với yêu cầu của công nghệ nhằm tạo ra các sản phẩm có số lượng và chất lượng đạt tiêu chuẩn đề ra.
Quá trình hoạt động của dây chuyền thiết bị toàn bộ phải đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo môi trường và an toàn lao động theo qui định của pháp luật.
Các thiết bị trong dây chuyền thiết bị toàn bộ phải bảo đảm khả năng thực hiện các nguyên công và tính đồng bộ trong sơ đồ công nghệ của dây chuyền thiết bị toàn bộ .
Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của thiết bị toàn bộ: xuất xứ của thiết bị toàn bộ (nước sản xuất); Năm chế tạo của thiết bị toàn bộ; Các đặc tính tính năng kỹ thuật (công suất thiết bị, số vòng quay, sản lượng sản phẩm tạo ra trong một đơn vị thời gian,...); Các yêu cầu của thiết bị toàn bộ đối với nguyên nhiên liệu; Tiêu hao nguyên liệu, năng lượng của thiết bị toàn bộ đối với một sản phẩm; Các chỉ tiêu chất lượng sản phẩm do thiết bị toàn bộ sản xuất ra; Đánh giá mức độ tự động hóa, cơ khí hóa, mức độ sử dụng nhân lực của dây chuyền thiết bị toàn bộ.
Tiêu chuẩn đánh giá đối với thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng: ngoài những đặc tính chung của thiết bị toàn bộ như nêu ở trên, riêng đối với những thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng phải xem xét thêm:
Các chỉ tiêu chất lượng, đặc tính kỹ thuật hiện tại của thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng so với thiết bị toàn bộ mới cùng loại.
Số giờ thiết bị toàn bộ đã hoạt động, điều kiện làm việc của thiết bị toàn bộ .
Số lần thiết bị toàn bộ đã được sửa chữa, đại tu. Các bộ phận đã được thay thế mới hoặc đảm bảo chất lượng như mới.
Các điều kiện bảo đảm bảo hành đối với thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng.
Giá của thiết bị toàn bộ đã qua sử dụng so với thiết bị toàn bộ mới.
4. Nâng cao công tác đàm phán và kí kết hợp đồng
Đàm phán: gồm có chuẩn bị đàm phán và thực hiện quá trình đàm phán.
- Chuẩn bị đàm phán: trước khi đàm phán công ty nên chuẩn bị các điều kiện cần thiết để tiến hành đàm phán như chuẩn bị nội dung và xác định mục tiêu, chuẩn bị dữ liệu thông tin, chuẩn bị nhân sự đàm phán, lựa chọn thời điểm và địa điểm đàm phán, chuẩn bị chương trình đàm phán
+ Chuẩn bị nội dung và xác định mục tiêu: xác định chi tiết đầy đủ các nội dung cần đàm phán, trong mỗi nội dung cần xác định các phương án đàm phán, xếp thứ bậc ưu tiên của các phương án và các nội dung. Xác định các mục tiêu cần đạt được, những mục tiêu nào cần ưu tiên tối đa các nỗ lực để thương lượng, phần nào thì cần có những sự nhượng bộ cần thực hiện nếu có yêu cầu để đạt được sự thoả hiệp, những phần không thể nhượng bộ, vì nếu nhượng bộ sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến phương án kinh doanh đã xác lập. Kinh nghiệm cho thấy là muốn đàm phán thắng lợi thì không bao giờ bắt đầu đàm phán mà không có các phương án lựa chọn. Công ty phải lựa chọn sẵn các phương án lựa chọn khác nhau để khi bước vào đàm phán luôn luôn chủ động. Đối phương khi thấy công ty đẵ có sự chuẩn bị kỹ các phương án như vậy thì sẽ dễ phải chấp nhận một trong các phương án công ty đưa ra, khi đó công ty sẽ đạt được mục tiêu của mình.
+ Chuẩn bị số liệu thông tin: các số liệu thông tin cần chuẩn bị gồm thông tin về hàng hoá về thị trường và thông tin về đối tác
+ Chuẩn bị nhân sự đàm phán: thành phần tham gia đàm phán phải là những người có kinh nghiệm về đàm phán và có đầy đủ những kinh nghiệm về kỹ thuật, thương mại, pháp luật. Ngoài ra họ cũng phải có một số đặc tính cá nhân nổi trội về khả năng giao tiếp, có tinh thần sáng tạo và đầu óc phân tích, tổng hợp, quyết đoán và phản ứng linh hoạt trước các tình huống, có khả năng chịu đựng sự căng thẳng và đối mặt với những hoàn cảnh rắc rối, các đòi hỏi không dự đoán được. Về phần công ty thì không nên có những sức ép không cần thiết với những người tham gia đàm phán trước khi bước vào các cuộc đàm phán.
- Thực hiện đàm phán.: trong quá trình đàm phán, đối với những vấn đề còn đang bàn cãi, công ty nên có sách lược tháo dỡ dần, không nên vội vàng vì nếu không sẽ không nắm được toàn bộ vấn đề, không đủ thời gian suy nghĩ thấu đáo, có thể dẫn đến những thỏa thuận không khai thác được hết lợi thế. Tuy nhiên, người đàm phán cũng không nên có thái độ quá cứng rắn, cố chấp bảo vệ những lợi ích đẵ tính toán từ trước mà nên có những nhượng bộ nhất định.
Kí kết hợp đồng: trong phần này, tôi chỉ đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác soạn thảo hợp đồng như
+ Khi sử dụng từ ngữ, nên chọn những từ dễ hiểu tránh những từ ngữ mập mờ khó hiểu hoặc có thể hiểu theo 2 nghĩa. Nếu trong hợp đồng có thuật ngữ khoa học thì cần phải được giải thích ở phần phụ lục
+ Khi sử dụng Incoterms phải ghi rõ trong hợp đồng mua bán sự dẫn chiếu đến phiên bản nào của Incoterms để tránh sự nhầm lẫn và những khó khăn trong việc áp dụng Incoterms
Ví dụ: theo Incoterms 2000
Phải ghi chính xác kí hiệu như trong Incoterms tránh sử dụng những kí hiệu đã lỗi thời.
Ví dụ: những kí hiệu CF, C+F, C and F, CNF đã được thay đổi trong Incoterms 1990 và Incoterm 2000 là CFR
5. Để công tác hải quan có thể được thực hiện tốt
Công ty nên chọn những cán bộ am hiểu các văn bản pháp lý về thuế, các văn bản của tổng cục hải quan đi làm công tác này, đồng thời phải yêu cầu cán bộ chịu trách nhiệm về sự chính xác của tờ khai hải quan. Hiện nay, ở mỗi phòng nghiệp vụ của công ty đều có một cán bộ chuyên trách chịu trách nhiệm riêng về việc làm thủ tục hải quan
Ngoài ra, do thiết bị toàn bộ là mặt hàng siêu trường, siêu trọng, Technoimport nên tiến hành khai báo hải quan trước khi tàu chở hàng đến. Việc khai báo hải quan phải được tiến hành thật chính xác. Yêu cầu hải quan kiểm hoá tại chân công trình. Sau khi hoàn thành thủ tục kiểm tra hàng hóa và tính thuế cán bộ kinh doanh cần sao một tờ khai hải quan cho phòng kế hoạch tài chính giữ để phòng kế hoạch tài phối hợp và theo dõi kịp thời việc nộp thuế và thanh toán các khoản với Hải quan.
6. Nâng cao công tác giao nhận, vận chuyển
Có kế hoạch giao nhận, vận chuyển từ trước, dựa trên hợp đồng ủy thác cũng như đơn hàng của bạn hàng (qua hợp đồng ủy thác hoặc đơn hàng để biết được trách nhiệm trong giao nhận, vận chuyển của công ty đến đâu). Từ đó công ty thiết lập kế hoạch giao nhận, vận chuyển tối ưu để tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian và cắt giảm những khoản trung gian không cần thiết.
Hoàn thiện bộ phận giao nhận vận tải của công ty ở chi nhánh Technoimport Hải Phòng để vận chuyển một khối lượng lớn máy móc , thiết bị và hàng hoá từ cảng lớn đến tận chân công trình
7. Hoàn thiện công tác thanh toán
Technoimport cần tổ chức theo dõi chặt chẽ việc thanh toán, nắm vững thời hạn thanh toán cũng như tiến độ thanh toán của khách hàng trong nước đồng thời phải tích cực đôn đốc khách hàng trong nước thanh toán đúng hạn. thời hạn nộp thuế và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình. Tránh để bị phạt do chậm thanh toán dẫn đến phát sinh thêm chi phí ( trong hoạt động nhập khẩu) và để bạn hàng dây dưa nợ nần, chiếm dụng vốn.
- Về phương thức thanh toán ngoại, công ty nên có một số thay đổi trong các điều kiện của phương thức thanh toán bằng L/C. Chẳng hạn như khi sử dụng hình thức đặt cọc có giá trị lớn, công ty có thể yêu cầu Ngân hàng bảo lãnh cho số tiền đặt cọc đó để trách những rủi ro có thể gặp phải trong kinh doanh.
- Để tránh những khó khăn trong việc thanh toán với khách hàng nội địa, Technoimport nên:
+ Nắm vững các thông tin về khả năng tài chính, nguồn vốn nhập khẩu của người uỷ thác, người mua hàng trước khi ký kết hợp đồng.
+ Chỉ nên duy trì một tỷ lệ % nhất định số khách hàng có khả năng thanh toán thấp để đảm bảo không quá giới hạn cho phép của tỷ trọng tổng các khoản phải thu có khả năng thanh toán thấp trong tổng số các khoản phải thu của công ty.
+ Tiến hành một số biện pháp nhằm đảm bảo khả năng thu hồi vốn cho công ty như:
Yêu cầu người uỷ thác nhập khẩu phải có giấy bảo lãnh thanh toán của cơ quan có thẩm quyền (Ngân hàng, Bộ và Ngành chủ quản của người uỷ thác, Chính Phủ....)
Lập một bản giao kèo giữa Technoimport với người uỷ thác, trong đó quy định các quyền lợi mà Technoimport được hưởng khi người uỷ thác không có khả năng thanh toán hoặc thanh toán không đúng hạn.
Muốn làm được điều này, công ty cần lựa chọn và đánh giá khách hàng. Chỉ chấp nhận các khách hàng có khả năng thanh toán. Tuy nhiên điều này sẽ làm giảm tính cạnh tranh của công ty. Vì thế bên cạnh đó Technoimport phải áp dụng các chính sách ưu đãi khác để lôi kéo khách hàng như: Cấp tín dụng trả chậm với lãi suất thấp, mức phí dịch vụ uỷ thác hợp lý, tăng % giá trị hợp đồng mà người uỷ thác được phép giữ lại trong thời gian lắp đặt, bảo hàn v.v..
8. Giám sát việc thực hiện hợp đồng của phía đối tác
Để thực hiện việc giám sát, công ty có thể thiết lập một hệ thống nhắc nhở đối tác thực hiện nghĩa vụ của mình tại từng thời điểm thích hợp để tránh xảy ra chuyện họ quên hay thực hiện không tốt công việc đó. Qua đó cũng nắm được đối tác có thực hiện hợp đồng theo đúng thời gian biểu của hợp đồng hay không. Công ty nên sử dụng mọi biện pháp liên lạc hay phương tiện liên lạc như thư tín, điện thoại, fax, email v.v.. để gửi và nhận những thông tin liên quan đến công việc.
Ngoài ra, cũng cần thiết lập một hệ thống giám sát để giám sát các hoạt động như vận tải, bảo hiểm, thanh toán v.v.. Muốn giám sát chặt chẽ, công ty nên vạch kế hoạch rõ ràng và ghi chép lại những nội dung và kết quả nắm bắt được để sau này có cơ sở khiếu nại người bán, người vận tải hay người bảo hiểm nếu họ vi phạm hợp đồng đã kí kết với công ty. Nếu có điều kiện công ty nên cử người giám sát hợp đồng tại nước người bán (thông qua văn phòng đại diện của công ty ở nước đó) còn nếu không có thể yêu cầu người bán cung cấp thông tin chính xác bằng fax, điện thoại để công ty theo dõi các nội dung có liên quan đến hợp đồng.
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
1. Về phía công ty
Công tác tổ chức quản lý
Hiện nay, công tác tổ chức quản lý của công ty là quản lý trực tiếp, mọi hoạt động đều nằm dưới sự chỉ đạo của Ban giám đốc. Các phòng chức năng phụ trách từng khu vực và quản lý theo sự phân công lãnh đạo của công ty. Bộ máy hoạt động của công ty như thế là tương đối hợp lý. Tuy nhiên cũng nên có một vài thay đổi để thích ứng với điều kiện hiện nay. Cụ thể là:
Công ty nên thành lập phòng Marketing có nhiệm vụ nghiên cứu thị trường để trợ giúp Ban giám đốc trong chiến lược Marketing. Công ty cần chấn chỉnh lại công tác kế hoạch tài chính cụ thể là vi tính hoá toàn bộ công tác , thiết lập chế độ báo cáo cân đối thu chi hàng ngày, theo dõi và cập nhật tình hình công nợ, mở sổ sách theo dõi cân đối thu chi từng hợp đồng, tổng hợp của đơn vị Xuất Nhập Khẩu , toàn công ty
Một vấn đề nữa là công ty cần có biện pháp giảm đến mức thấp nhất sự cạnh tranh giữa các đơn vị kinh doanh trong công ty nhưng vẫn đảm bảo thỏa đáng về lợi ích tài chính của công ty. Công ty có thể sát nhập một số phòng xuất nhập khẩu có chức năng kinh doanh tương đối giống nhau để tinh giảm bộ máy, tạo điều kiện cho việc quản lý hiệu quả hơn.
Về vấn đề quản lý đội ngũ cán bộ, công ty nên có những quy định tăng cường ý thức trách nhiệm của các cán bộ trong khi làm việc, đặc biệt là khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh như:
+ Đẩy mạnh công tác tìm kiếm việc làm, tiến tới xây dựng quy chế cụ thể và chế độ đãi ngộ đối với những người tìm ra hoặc giới thiệu việc làm có hiệu quả
+ Xây dựng tiêu chuẩn viên chức chuyên môn nghiệp vụ của công ty để phục vụ cho việc nâng bậc ngạch lương. Sửa đổi, bổ xung thoả ước lao động tập thể và rà soát ký lại một số hợp đồng lao động cho phù hợp với các quy định pháp luật hiện hành và thực tế công việc của công ty nhằm nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật cũng như điều hành
+ Sửa đổi, bổ xung quy chế trả lương, lên lương dựa trên cơ sở đãi ngộ tương xứng với hiệu quả kinh doanh chung của công ty và hiệu quả kinh doanh, trách nhiệm công tác của từng đơn vị, cán bộ, công nhân viên, kiên quyết không bao cấp, xác định tỷ lệ hợp lý giữa các đơn vị trực tiếp làm ra lợi nhuận và các đơn vị tham mưu quản lý, phục vụ
+ Sửa đổi phương thức giao kế hoạch sản xuất kinh doanh nhằm mục đích gắn liền thu nhập của đơn vị, cá nhân, cán bộ công nhân viên với hiệu quả sản xuất kinh doanh, điều tiết phần thu nhập vượt trội theo tỷ lệ thích đáng nhằm khuyến khích kinh doanh có hiệu quả
Trong quá trình tổ chức quản lý, lãnh đạo công ty cũng nên đánh giá đúng năng lực của từng cá nhân để sắp xếp công việc cho phù hợp, không nên để tình trạng những người biết thì không được làm, những người không biết lại cứ phải làm.
Đối với công tác đào tạo đội ngũ cán bộ
Công ty nên tổ chức cho đội ngũ cán bộ hiện nay ở công ty trau dồi thêm các kiến thức về kỹ thuật, nghiệp vụ ngoại thương, pháp lý và đặc biệt là ngoại ngữ bằng cách cấp kinh phí, tạo điều kiện về mặt thời gian cho các cán bộ đi học. Công ty cần quan tâm nhiều hơn nữa tới việc cử các cán bộ, chuyên gia đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài. Làm được như thế không những công ty có được những cán bộ chuyên môn có năng lực để phục vụ cho hoạt động kinh doanh có hiệu quả mà còn thể hiện được sự quan tâm của công ty với tập thể lao động, có thể tạo được tinh thần làm việc tốt cho từng cá nhân và tạo được bầu không khí làm việc tốt cho cả tập thể lao động trong công ty.
Công ty nên có chính sách tuyển dụng lao động mới. Đối tượng của chính sách này có thể là những sinh viên tốt nghiệp đại học kinh tế hoặc kỹ thuật mới ra trường năng động nhạy bén và có nguyện vọng gắn bó lâu dài với công ty; cũng có thể là những cán bộ trẻ đã có kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu muốn về làm việc với công ty v.v.. Những đối tượng này trong tương lai có thể là đội ngũ kế cận cho lớp cán bộ hiện nay.
Ngoài ra, sau khi tuyển được cán bộ công nhân viên mới cần phải mở những lớp đào tạo tại công ty với mục đích đào tạo những người này để họ có thể thấm nhuần quan điểm nhập khẩu thiết bị toàn bộ của công ty đó là:
+ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ tiên tiến, hiện đại, không gây ô nhiễm môi trường.
+ Nhập khẩu thiết bị toàn bộ để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa nội địa trên thị trường trong và ngoài nước. Ưu tiên nhập khẩu công nghệ, thiết bị toàn bộ sử dụng nhiều lao động.
+ Nhập khẩu đảm bảo tối đa hóa hiệu quả sử dụng vốn.
Công tác quản lí vốn
Như đã nói ở chương trước, vốn đang là vấn đề nan giải đối với công ty.Việc tăng thêm nguồn vốn dựa vào việc cấp thêm của ngân sách Nhà nước thực sự không khả thi đối với công ty. Thực tế trong vài năm gần đây, nguồn vốn được cấp bởi ngân sách nhà nước là không thay đổi. Để khắc phục những vấn đề khó khăn về vốn hiện nay chỉ có con đường là huy động và sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn.
Công ty có thể huy động vốn cho kinh doanh bằng nhiều hình thức như: ưu tiên trích lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh bổ sung vào nguồn vốn kinh doanh; tranh thủ những nguồn vốn tín dụng ưu đãi của ngân hàng, các tổ chức tài chính trên thế giới. Công ty nên lựa chọn những đối tác trường vốn, có phương hướng kinh doanh có hiệu quả để cùng tham gia liên doanh liên kết. Ngoài ra, công ty cần đẩy mạnh xuất khẩu để tăng lượng vốn cho nhập khẩu
Bên cạnh việc tích cực huy động vốn, công ty cần có những biện pháp sử dụng vốn có hiệu quả, cụ thể là:
Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ quản lý tài chính, chế độ hạch toán kinh doanh do Nhà nước quy định
Tính toán chi tiết khả năng lỗ, lãi, thời gian thu hồi vốn cho mỗi kế hoạch kinh doanh.
Từ đó, xây dựng phương án kinh doanh hợp lí
Lập kế hoạch phân bổ vốn, tạo ra các định mức theo từng quí cho các đơn vị kinh doanh dựa trên kế hoạch kinh doanh do các đơn vị kinh doanh lập ra
Rút ngắn hợp lý quá trình thực hiện hợp đồng để tăng nhanh vòng quay vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn
Lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi an toàn, tránh tình trạng ứ đọng vốn, công nợ dây dưa.
Công ty cần thống nhất ban hành quy chế quản lý nợ, quy định trách nhiệm cá nhân, đơn vị có nợ quá hạn ,thành lập ban thu hồi công nợ
2. Về phía nhà nước
Có thể nói khi thực hiện nhập khẩu thiết bị toàn bộ, thì những vướng mắc mà Technoimport gặp phải phần nhiều là từ phía Nhà nước. Những quy định chồng chéo, những thủ tục phiền hà gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động của công ty, xin có một số ý kiến đối với Nhà nước về các chính sách, những quy định trong lĩnh vực nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Đối với chính sách thuế
Chính sách thuế xuất nhập khẩu của nhà nước cần nhất quán đối với mọi tổ chức kinh doanh không có những ưu tiên riêng biệt tạo nên sức cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.Thuế xuất nhập khẩu hợp lý một mặt tăng khả năng cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu mặt khác giảm giá đối với hàng nhập khẩu để người tiêu dùng trong nước có thể lựa chọn mua hàng hóa.
Hiện nay, hệ thống thuế của nước ta còn quá phức tạp, với nhiều mức thuế khác nhau, thuế suất thì dàn trải. Giá tối thiểu tính thuế nhập khẩu thường chậm thay đổi so với thực tế gây thiệt hại cho các doanh nghiệp Việt Nam. Nên chăng nhà nước cần nghiên cứu dỡ bỏ biểu thuế tối thiểu, cải cách cơ cấu thuế theo hướng mức thuế suất ít hơn nằm trong số lượng nhóm hàng cụ thể.
Đối với thủ tục hải quan
Các văn bản pháp quy của các cơ quan nhà nước liên quan đến ngành Hải quan phải có hiệu lực ngay sau khi ban hành chứ không phải đợi văn bản hướng dẫn của cấp trên. Hệ thống mạng thông tin của hải quan cần phải được cập nhật thường xuyên và nhanh chóng. Hải quan cần cải tiến tờ khai hàng hoá xuất nhập khẩu theo hướng tạo điều kiện thuận tiện cho việc khai báo và kiểm tra tính chính xác của việc khai báo của công ty.
Đối với chính sách tỷ giá hối đoái và quản lý ngoại tệ
Chính sách tỷ giá hối đoái:
Hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu phụ thuộc rất nhiều vào sự ổn định tỷ giá hối đoái. Nhà nước không nên áp đặt một tỷ giá cố định mà tỷ giá phải được điều tiết theo quan hệ cung cầu của thị trường dựa trên quy luật giá trị. Nếu tỷ giá có biến động lớn thì nên dùng các biện pháp can thiệp để giữ tỷ giá ổn định ở mức hợp lí. Hiện nay nhà nước đã có nhiều chính sách tích cực về tỷ giá hối đoái như: công bố tỷ giá trên phương tiện thông tin đại chúng, hỗ trợ cho các ngân hàng kinh doanh ngoại tệ, giữ cho tỷ giá hối đoái của một số ngoại tệ mạnh ( USD, DEM v.v..) ổn định.
Chính sách quản lý ngoại tệ.
Nhà nước cần có sự quản lý ngoại tệ để đảm bảo có được đầu vào bằng việc nhập khẩu ( thiết bị toàn bộ, máy móc, nguyên vật liệu v.v.. ). Nhà nước nên xem xét lại và điều chỉnh nguyên tắc cơ chế phân bổ ngoại tệ ở các doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. Nhà nước phải ưu tiên phân bổ vốn ngoại tệ thuộc các dự án lớn tốn nhiều ngoại tệ sang các việc cổ vũ, khuyến khích các mối liên kết trong nội bộ các ngành công nghiệp và cải tiến hoạt động của các doanh nghiệp theo tiêu chuẩn kinh tế.
Về việc quản lý của nhà nước trong hoạt động đấu thầu
Điều chỉnh bất hợp lý về số lượng nhà thầu tối thiểu trong qui chế đấu thầu mới ban hành để tạo điều kiện thuận lợi cho công ty trong việc lựa chọn các nhà thầu có khả năng đáp ứng tối ưu các yêu cầu của công ty.
Mở rộng đối tượng được phép áp dụng hợp đồng có điều chỉnh giá.
Thực hiện các biện pháp nhằm làm cho công tác mua sắm, đấu thầu được hiệu quả và minh bạch hơn bao gồm:
+ Ban hành pháp lệnh đấu thầu nhằm đảm bảo việc đấu thầu có tính cạnh tranh, áp dụng việc công bố bắt buộc các thông báo mời thầu trên một bản tin thầu quốc gia, sử dụng bắt buộc các tài liệu đấu thầu chuẩn, đánh giá thầu chuẩn và các hợp đồng chuẩn, xác định các hình thức vi phạm qui định và các biện pháp xử lý tương ứng.
+ Giảm các ngưỡng giá trị gói thầu được phép chỉ định thầu tự động không cần giải trình xuống những mức giá trị thường được sử dụng ở các nước khác
+ Thành lập một văn phòng quản lý mua sắm công độc lập, báo cáo trực tiếp lên cấp chính phủ cao nhất, và một hệ thống rõ ràng và tin cậy đối với khiếu nại, xử phạt trong công tác thầu
+ Xây dựng một đội ngũ chuyên gia đấu thầu thông qua đào tạo, gắn việc đào tạo và phương pháp xét thầu bằng cách cho điểm với quá trình cải cách hành chính công và qui định đấu thầu như một ngành nghề chuyên môn
+ Tách các doanh nghiệp nhà nước và các viện nghiên cứu khỏi sự quản lý trực tiếp của các bộ và các uỷ ban nhân dân như là một phần của cuộc cải cách hành chính tổng thể. Làm cho các doanh nghiệp nhà nước và các viện hoàn toàn độc lập bằng cách tách bạch chức năng quản lý nhà nước và chức năng quản lý sở hữu. Từ đó thúc đẩy chuyển đổi sở hữu các doanh nghiệp nhằm tạo điều kiện cho họ tham gia vào thị trường, mở một cách công bằng và bình đẳng với tất cả các doanh nghiệp khác.
Một số kiến nghị khác với chính phủ
Quản lý chặt chẽ trong việc quyết định tổng mức vốn đầu tư cho công trình, cùng với việc tiến hành giải ngân kịp thời cho các chủ đầu tư uỷ thác cho Technoimport trong việc nhập khẩu thiết bị toàn bộ tránh thất thoát và thiệt hại cho công ty trong việc chậm thanh toán đối với một số công trình như hiện nay.
Ngoài ra, chính phủ cần tăng cường phối kết hợp giữa các cơ quan quản lí nhà nước, áp dụng tin học vào quản lí nhằm tăng tốc độ giải quyết công việc.
Hoàn thiện và đảm bảo tính thống nhất của hệ thống văn bản pháp luật liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ. Các văn bản pháp quy có liên quan tới hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ phải được sửa chữa theo hướng chính xác, không chồng chéo và rườm rà gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của công ty.
KẾT LUẬN
Qua 45 năm lao động và sáng tạo, công ty xuất nhập khẩu thiết bị toàn bộ và kỹ thuật đã khẳng định được vị trí, uy tín và tầm vóc của mình trong hoạt động xuất nhập khẩu góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế của đất nước.
Những thành quả từ hoạt động nhập khẩu thiết bị toàn bộ của Technoimport thực sự là thành công của lãnh đạo và đội ngũ cán bộ công nhân viên trong công ty và một lần nữa cho ta thấy thế mạnh của Technoimport ở thị trường trong nước cũng như ngoài nước.
Tuy nhiên cũng giống như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu nói chung ở Việt Nam, Technoimport vẫn còn nhiều tồn tại, vướng mắc cần khắc phục trong việc thực hiện qui trình nhập khẩu.
Muốn khắc phục được những tồn tại, vướng mắc này, công ty cần phải nghiên cứu, xem xét lại chặng đường đã qua, đánh giá những tồn tại, nguyên nhân và những thành tựu đã đạt được, kết hợp với việc đúc rút kinh nghiệm để rút ra giải pháp hữu hiệu nhất. Công ty cần chú trọng đến yếu tố " con người " vì đây chính là yếu tố quyết định thành công hay thất bại trong việc nâng cao hiệu quả nhập khẩu thiết bị toàn bộ.
Với mong muốn đóng góp ý kiến của mình nhằm hoàn thiện hơn qui trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Technoimport, em đã viết bài luận văn này.
Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn Tiến Sỹ Nguyễn Quốc Thịnh và tập thể cán bộ công nhân viên trong công ty đặc biệt là các cô chú, anh chị phòng xuất nhập khẩu 5 đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành bài luận văn tốt nghiệp của mình.
Hà Nội ngày tháng năm
Sinh viên
LÊ TRUNG KIÊN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình kỹ thuật thương mại Quốc tế
Trường Đại Học Thương Mại - TS Chủ biên Đào Thị Bích Hòa
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động kinh doanh XNK
Nhà xuất bản lao động xã hội 2002
Marketing thương mại quốc tế
Trường Đại Học Thương Mại - Chủ biên PGS - TS Nguyễn Bách Khoa
Kinh doanh quốc tế
PGS. TS Phạm Vũ Luận - Hoàng Kình
100 phán quyết tranh chấp trong thương mại quốc tế
Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VCCI) xuất bản năm 2002
Incoterms 2000 và hướng dẫn sử dụng Incoterms 2000
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam
Báo cáo của Technoimport các năm 2000, 2001, 2002
Tài liệu đấu thầu dự án thoát nước của Technoimport
Báo chí, tạp chí thương mại, ngoại thương, hải quan các năm 2002 - 2003
Thông tin trên mạng Internet
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 1 số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình nhập khẩu thiết bị toàn bộ tại Công ty XNK thiết bị toàn bộ và kỹ thuật.DOC