Đề tài 8: Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán

Cổ phần hóa DNNN nói chung, và NHTM NN nói riêng là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập. Theo cách này sẽ làm giảm bớt gánh năng cho Chính phủ về vốn, tăng thêm được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho lãnh đạo NH trong các quyết định kinh doanh, đặt NH vào vị trí cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên về phương thực hiện, cổ phần hóa NHTM đang đứng trước một đòi hỏi của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu phải được bán ra trên thị trướng chứng khoán.Thông qua thị trường chứng khoán với tính minh bạch, công khai sẽ cũng cố niềm tin cho họ khi đầu tư.

pdf25 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2256 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài 8: Cổ phần hóa các ngân hàng thương mại nhà nước và ảnh hưởng của nó đến thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM KHOA ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC ------------ ĐỀ TÀI 8: CỔ PHẦN HÓA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN GVHD : TS NGUYỄN ĐĂNG DỜN LỚP : NH ĐÊM 2 KHÓA 16- Nhóm 5 MÔN : THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH NHÓM SV THỰC HIỆN : ĐÀO THỊ MỸ LINH PHAN DUY THƯỢNG ĐOÀN HOÀNG VIỆT VŨ MẠNH TÙNG ĐINH QUỐC TUẦN 12/2007 2 LỜI MỞ ĐẦU Trong xu hướng hội nhập, súc ép về nâng cao sức cạnh tranh của các DNNN trong nền kinh tế là rất lớn và cổ phần hóa các DNN là một trong các giải pháp cơ bản và cấp thiết nhất.Hoạt động hiệu quả của lĩnh vực tài chính –ngân hàng là điều kiện tiên quyết để tăng trưởng kinh tế bền vững vì tính năng động và rất dễ tổn thương của lĩnh vực này. Các NHTM là các trung gian tài chính thực hiện việc huy động, cung ứng tín dụng và các dịch vụ trung gian thanh toán trong nền kinh tế, nên đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của nền kinh tế. Theo hiệp định Thương mại Việt Nam Hoa Kỳ, cho đến trước năm 2010, các nhà cung cấp dịch vụ Hoa Kỳ chỉ được hoạt động dưới hình thức liên doanh với đối tácViệt Nam theo tỷ lệ góp vốn 30-49% vốn điều lệ. Từ năm 2010, các ngân hàng Hoa Kỳ được phép thành lập ngân hàng con 100% vốn Hoa Kỳ tại Việt Nam và hoạt động gần như không hạn chế so với các ngân hàng Việt Nam. Đây sẽ không chỉ là thách thức lớn đối với riêng các NHTM NN mà là cả đối với hệ thống các NHTM. Thực tế khà năng cạnh tranh của các NHTM Việt Nam vẫn còn yếu nếu so sánh với các NHTM khu vực và thế giới. Trong quá trình hội nhập các ngân hàng Việt Nam chưa chú trọng đến các sản phẩm dịch vụ mới, công nghệ chưa được coi là giải pháp hàng đầu để nâng cao sức cạnh tranh, dịch vụ cung cấp còn nghèo nàn và thiếu an toàn. Điều này đòi hỏi phải cải cách trong mọi lĩnh vực, nhất là lĩnh vực tài chính – tiền tệ, nhằm đáp ứng những thách thức của nến kinh tế khi thực hiện mở của thị trường ra bên ngoài. Tuy nhiên vấn đề đặt ra là năng lực tài chính của các ngân hàng còn rất yếu.Tỷ lệ an toàn vốn (vốn tự có so với tổng nguồn vốn) thấp xa so với tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu theo tiêu chuẩn quốc tế (8%).Để tăng vốn tự có cho các NHTM NN ,cổ phần hoá là một giải pháp cần thiết. Việc cổ phần hoá cho phép ngân hàng huy động một khối lượng vốn rất lớn trong và ngoài nước để tăng vốn điều lệ, ngoài ra đó cũng là biện pháp nhằm đa dạng hoá các loại hình sở hữu thông qua phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, tạo nên hệ thống các NHTM cổ phần hoạt động năng động hơn, bình đẳng hơ 3 CHƯƠNG I: NHỰNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước là một trong những vấn đề đang được đẩy mạnh ở nước ta, nhưng việc thực hiện một cách có hiệu quả không đơn giản. Vì vậy, sau 15 năm thực hiện cổ phần hóa, rất cần có sự nhìn lại thực trạng, đánh giá triển vọng và các giải pháp nâng cao hiệu quả quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở nước ta trong những năm tới. Sau đây là những vấn đề chung nhất về cổ phần hóa DNNN đã và đang diễn ra ở nước ta: I. Khái niệm Thực chất cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước là chuyển hình thức sở hữu nhà nước thành hình thức đa sở hữu thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp nhà nước cho nhiều chủ thể khác. II. Sự cần thiết phải cổ phần hóa  Hiệu quả hoạt động, sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước giảm: trong những năm 80, đối với các nước có nền kinh tế phát triển cũng như đang phát triển, thì vai trò của doanh nghiệp nhà nước đã được khẳng định và giữ vị trí chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân. Nhìn về tổng thể thì có những doanh nghiệp nhà nước hoạt động tốt, hiệu quả kinh tế cao, nhưng có không ít các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả. Nhà nước phải dùng chính sách kinh tế vĩ mô để bảo hộ, như: Miễn giảm thuế, cấp vốn ưu đãi đầu tư, bù lỗ... Theo Thông báo Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX đã nhận định: Doanh nghiệp nhà nước còn những mặt hạn chế, yếu kém, hiệu quả kinh doanh nhìn chung còn thấp, chưa tương xứng với nguồn lực đã có và sự trợ giúp của Nhà nước; công nợ còn nhiều, chậm đổi mới công nghệ, lao động còn dôi dư lớn, chưa thực sự tự chủ trong kinh doanh, trình độ quản lý còn yếu kém, cơ cấu doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất hợp lý. Nhiều doanh nghiệp nhà nước đều có năng suất lao động thấp, chỉ đạt khoảng 38% so với doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vòng quay vốn trung bình trong giai đoạn 1985-1991 chỉ đạt 60% so với doanh nghiệp ngoài quốc 4 doanh. Một thực tế đáng lo ngại khác là sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước rất yếu. Trong khối ASEAN, Việt Nam thuộc nhóm nước có sức cạnh tranh kém phát triển. Thủ tướng lấy ví dụ: Chi phí vận chuyển công ten nơ từ khu công nghiệp Bình Dương đến cảng Vũng Tàu còn cao hơn cả từ Vũng Tàu đi Singapore.  Nhà nước giảm dần sự bảo hộ đối với doanh nghiệp nhà nước: trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá về thị trường sản phẩm và thị trường vốn, hàng loạt các ngành công nghiệp đã trở nên càng ngày càng khó khăn hơn và không còn giải pháp nào khác là hợp tác quốc tế để giải quyết những khó khăn đó. Đồng thời, việc phát triển các ngành công nghiệp, phát triển sản xuất và những vấn đề liên quan đến sản xuất của các doanh nghiệp nhà nước đều do Nhà nước quyết định hoặc lãnh đạo doanh nghiệp nhà nước quyết định đã phần nào gặp trở ngại trong môi trường mới đòi hỏi phải có các quyết định nhanh và kịp thời trong nền kinh tế thị trường.  Nhà nước giảm dần chức năng làm kinh tế: nhà nước không có tham vọng hành chính hoá nền kinh tế, cũng như không thể thay thế được vai trò của thị trường và các doanh nghiệp. Tuy nhiên, xét trên nhiều phương diện, sự quản lý, tác động của Nhà nước là điều kiện không thể thiếu được cho sự vận hành hiệu quả của nền kinh tế thị trường. Cho dù luật chơi của thị trường có hiệu quả đến đâu thì cũng không thể thả nổi hoàn toàn nền kinh tế cho quy luật tự điều chỉnh của thị trường. Sẽ là ảo tưởng nếu cho rằng thị trường tự nó sẽ tự điều chỉnh, tự nó có đủ cơ chế để vận hành hiệu quả. Nhà nước điều tiết thị trường thông qua các quy phạm pháp luật và cơ chế chính sách. Nhà nước cũng có thể can thiệp, điều tiết thị trường bằng việc thành lập các cơ quan được giao đặc trách việc điều tiết, quản lý kinh tế, với qui chế độc lập. Việc Nhà nước hạn chế, giảm thiểu các biện pháp can thiệp trực tiếp vào nền kinh tế và làm thay các doanh nghiệp nhà nước dẫn đến hai thay đổi đáng kể: Thứ nhất, tăng cường vai trò quản lý của các cơ quan nhà nước thông qua việc ban hành các quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý chặt chẽ hơn cho sự vận hành của thị trường; thứ hai, tăng cường tính chủ động, trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh trước thị trường. Hiện nay, các khoản nợ, việc chiếm dụng vốn giữa các doanh nghiệp với nhau rất lớn, Nhà nước lại phải đứng ra lo trả nợ để đảm bảo cho sự hoạt động bình thường mặc dù không thu về được vốn. Điều đó đã khiến các doanh nghiệp nhà nước đã trở thành gánh nặng cho ngân sách nhà 5 nước. Mức độ tổn thất do khu vực doanh nghiệp nhà nước gây ra cho ngân sách nhà nước đã làm ảnh hưởng, thiếu lòng tin về khả năng, lợi ích của khu vực kinh tế này đối với sự phát triển cân đối của nền kinh tế, đồng thời để lại những hậu quả nghiêm trọng về mặt xã hội như: Tệ tham nhũng, quan liêu, cửa quyền, ỷ lại vào nhà nước, thất nghiệp tăng... Để giảm bớt những gánh nặng này, Nhà nước đã từng bước tiến hành cổ phần hoá các doanh nghiệp của mình. Trong bối cảnh này, vị trí, vai trò của các doanh nghiệp nhà nước cũng cần thay đổi cho phù hợp. Các doanh nghiệp nhà nước muốn giải quyết vấn đề này không thể tự mình quyết định mà phải qua nhiều thủ tục hành chính của các cấp có thẩm quyền để chớp lấy thời cơ hội nhập và hợp tác quốc tế. Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang các loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu là một giải pháp hữu hiệu. III. Mục tiêu cổ phần hóa DNNN Theo Nghị Định số 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 thì mục tiêu của cổ phần hóa DNNN nhằm:  Chuyển đổi những doanh nghiệp mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài để nâng cao năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.  Đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp.  Thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. IV. Đối tượng cổ phần hóa  Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.  Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).  Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.  Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập. 6  Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.  Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. V. Điều kiện cổ phần hóa  Các doanh nghiệp quy định tại Điều 2 Nghị định này thực hiện cổ phần hóa khi đảm bảo đủ 02 điều kiện:  Không thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ. Danh mục doanh nghiệp thuộc diện Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ do Thủ tướng Chính phủ quyết định trong từng thời kỳ;  Còn vốn nhà nước sau khi đã được xử lý tài chính và đánh giá lại giá trị doanh nghiệp.  Đối với đơn vị hạch toán phụ thuộc, ngoài điều kiện quy định tại khoản 1 Điều này còn phải đảm bảo các điều kiện sau:  Có đủ điều kiện hạch toán độc lập;  Việc cổ phần hóa đơn vị hạch toán phụ thuộc không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các bộ phận còn lại của doanh nghiệp;  Đã xác định trong Phương án tổng thể sắp xếp doanh nghiệp được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.  Trường hợp sau khi đã được xử lý tài chính và xác định lại giá trị doanh nghiệp theo quy định tại Chương II và Chương III Nghị định này mà giá trị thực tế doanh nghiệp thấp hơn các khoản phải trả thì chuyển sang thực hiện bán hoặc giải thể, phá sản. VI. Hình thức cổ phần hóa  Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.  Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.  Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. 7 VII. Thực trạng cổ phần hóa DNNN 15 năm qua 1. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hóa: toàn bộ tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước (CPH) được chia làm 3 thời kỳ: Thời kỳ thí điểm (5 năm, từ năm 1992- 1996), chỉ cổ phần hoá được có 5 doanh nghiệp (DN); Thời kỳ mở rộng CPH tính từ năm 1997-2000, tiến trình diễn ra vẫn chậm, chủ yếu là các DN nhỏ. Cả 5 năm (từ năm 1996-2000) cũng chỉ CPH được 573 DN; Thời kỳ đẩy mạnh CPH từ 2001 đến nay, chỉ tính đến hết năm 2005 đã CPH được 2.347 DN, tăng lên nhiều so với các thời kỳ trước với quy mô lớn hơn. Tại Hội nghị về sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp Nhà nước giai đoạn 2006 - 2010 được tổ chức ngày 7/10/2007, báo cáo về kết quả sắp xếp, đổi mới, phát triển doanh nghiệp Nhà nước trong thời gian qua, ông Phạm Viết Muôn, Phó Ban chỉ đạo đổi mới và phát triển doanh nghiệp cho biết, tính đến hết tháng 8/2006, cả nước đã sắp xếp được 4.447 doanh nghiệp, trong đó, cổ phần hóa 3.060 DNNN. Riêng từ năm 2001 đến nay đã sắp xếp được 3.830 DNNN, bằng gần 68% tổng số doanh nghiệp. 2. Hiệu quả và lợi ích của các Doanh nghiệp sau cổ phần hóa:  Đóng góp cho ngân sách nhà nước: sau quá trình thực hiện sắp xếp, số lượng doanh nghiệp Nhà nước giảm nhưng vẫn tiếp tục giữ vai trò chi phối những ngành, lĩnh vực then chốt. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng góp gần 40% GDP và 50% tổng thu ngân sách Nhà nước.  Hiệu quả hoạt động: nhìn chung, các doanh nghiệp sau cổ phần hóa đều nâng cao được hiệu quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp với các mức độ khác nhau. Dựa trên báo cáo của các bộ, ngành, địa phương về kết quả hoạt động của 850 doanh nghiệp cổ phần hóa đã hoạt động trên 1 năm cho thấy, vốn điều lệ bình quân tăng 44%, doanh thu bình quân tăng 23,6%, lợi nhuận thực hiện bình quân tăng 139,76%. Đặc biệt, có tới trên 90% số doanh nghiệp sau cổ phần hóa hoạt động kinh doanh có lãi, nộp ngân sách bình quân tăng 24,9%, thu nhập bình quân của người lao động tăng 12%, số lao động tăng bình quân 6,6% cổ tức bình quân đạt 17,11%. Bên cạnh đó, những chỉ số như năng suất lao động tăng 18,3%, đầu tư tài sản cố định tăng 11,5%, lương bình quân doanh nghiệp tăng 11,4%... khẳng định hiệu quả của việc chuyển đổi sang mô hình cổ phần hóa của các doanh nghiệp Nhà nước. Tiêu biểu như Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk), doanh nghiệp đã niêm yết tại Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM; hay một 8 đại diện mới cổ phần hóa và chuẩn bị lên sàn như Công ty Cổ phần Phân đạm và Hóa chất dầu khí (Đạm Phú Mỹ). Theo số liệu từ HSSC, năm 2003, Vinamilk được đánh giá ở mức 100 triệu USD; một năm sau thực hiện cổ phần hóa, theo đánh giá của thị trường là 150 triệu USD và đến năm nay, phần vốn và lãi của Nhà nước đã tăng vọt lên 970 triệu USD (gần 16.000 tỷ đồng).Với Đạm Phú Mỹ, vào thời điểm cổ phần hóa, giá trị doanh nghiệp này được xác định ở mức 3.800 tỷ đồng, tăng 800 tỷ so với vốn đầu tư. Khi tiến hành đấu giá vào cuối tháng 4/2007, Nhà nước thu về gần 7.000 tỷ đồng, gấp 2,3 lần số vốn đầu tư ban đầu và vẫn giữ cổ phần chi phối ở công ty. Nếu bán toàn bộ vốn Nhà nước, Nhà nước có thể thu về 20.520 tỷ đồng, cao hơn giá trị được xác định ban đầu 16.720 tỷ đồng.  Tinh giản, xắp xếp các doanh nghiệp: cùng với việc sắp xếp, cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, từ năm 2001 đến nay, trên địa bàn cả nước đã tiến hành giải thể 5 tổng công ty không giữ được vai trò chi phối, đồng thời hỗ trợ các công ty thành viên sát nhập, hợp nhất 7 tổng công ty; tổ chức lại tổng công ty rượu - bia - nước giải khát thành 2 tổng công ty; thành lập thêm 17 tổng công ty Nhà nước, tổ chức lại 7 tổng công ty thành tập đoàn, đưa 1 tổng công ty 90 vào cơ cấu của tập đoàn.  Thay đổi cung cách quản lý: phân tích về nguyên nhân tăng trưởng cho thấy, việc thay đổi về mô hình hoạt động của cán bộ quản lý và người lao động đã có tác động tích cực đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bằng kết quả thực tế, 96% doanh nghiệp đã khẳng định cán bộ quản lý đã quan tâm nhiều hơn đến kết quả sản xuất và hiệu quả kinh doanh; trong khi đó 88% doanh nghiệp cho biết kết quả sản xuất của người lao động đã tăng lên khi tiền lương được tính toán trên cơ sở hiệu quả sản xuất. Đặc biệt, sau cổ phần hóa, sự can thiệp trực tiếp của các tổ chức, cá nhân ngoài bộ máy quản lý điều hành doanh nghiệp như chính quyền, cơ quan chủ quản, các tổ chức khác đã giảm sút rõ rệt. Sự chuyển biến tích cực này đã giúp cho doanh nghiệp chủ động trong các quyết định điều hành và tập trung vào mục tiêu cơ bản là sản xuất kinh doanh.  Nâng cao trách nhiệm của người lao động: quyền lợi và trách nhiệm của cán bộ quản lý và người lao động gắn chặt hơn với doanh nghiệp đã tạo điều kiện để tận dụng tốt hơn cơ sở vật chất và nguồn lực của doanh nghiệp. Điều này được thể hiện khi có tới 9 85% doanh nghiệp cho rằng đã sử dụng tốt hơn năng lực sản xuất so với trước khi cổ phần hóa. 3. Những khó khăn, vướng mắc tồn tại  Đối tượng cổ phần hóa: nói đến đối tượng cổ phần hóa là nói đến việc lựa chọn doanh nghiệp nhà nước nào để thực hiện cổ phần hóa. So với quy định ban đầu, chúng ta đã bổ sung đối tượng cổ phần hóa là các doanh nghiệp có quy mô lớn, các tổng công ty nhà nước. Tuy vậy cho đến nay, 77% số doanh nghiệp đã cổ phần hóa chỉ có quy mô vốn dưới 10 tỉ đồng. Riêng đối với loại doanh nghiệp cổ phần hóa mà Nhà nước không giữ tỷ lệ nào trong vốn điều lệ thì đều là doanh nghiệp nhỏ có vốn nhà nước dưới 1 tỉ đồng và kinh doanh kém hiệu quả. Loại doanh nghiệp nhỏ này chiếm gần 30% số doanh nghiệp mà Nhà nước thực hiện cổ phần hóa. Sự lựa chọn các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa như vậy đã làm chậm tiến độ thực hiện chủ trương cổ phần hóa; các doanh nghiệp nhà nước chưa thể hiện được rõ những ưu thế của doanh nghiệp đã cổ phần hóa với những doanh nghiệp chưa cổ phần hóa, chưa thực hiện được các mục tiêu cổ phần hóa đề ra. Đối tượng cổ phần hóa ở nước ta khác hẳn với các doanh nghiệp thực hiện cổ phần hóa trong nền kinh tế thị trường phát triển cao. Ở nước ta, một bộ phận doanh nghiệp nhà nước sau khi được cổ phần hóa vẫn chưa thoát khỏi cơ chế tập trung quan liêu cả về tài chính, tổ chức bộ máy và cơ chế quản lý, tức là, chưa hẳn là một tổ chức hoạt động tuân theo quy luật khách quan của kinh tế thị trường.  Cơ cấu vốn điều lệ: Tỷ lệ cổ phần Nhà nước giữ Số lượng doanh nghiệp 51% 33% 49% 37% 0% 30% Xem xét cụ thể hơn có thể thấy: số vốn nhà nước đã được cổ phần hóa chỉ mới chiếm 12%, và ngay trong số vốn này, Nhà nước vẫn nắm khoảng 40%, vì thế số vốn mà Nhà nước cổ phần hóa được bán ra ngoài mới chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (khoảng 3,6%). Với cơ cấu vốn nhà nước đã cổ phần hóa như trên có thể thấy bức tranh cổ phần hóa doanh 10 nghiệp nhà nước ở nước ta hiện nay và hiểu rõ hơn khái niệm cổ phần “chi phối” của nhà nước.  Cơ cấu cổ đông: cổ đông trong các doanh nghiệp đã cổ phần hóa là cán bộ, công nhân viên nắm 29,6% cổ phần; cổ đông là người ngoài doanh nghiệp nắm 24,1% cổ phần; cổ đông là Nhà nước nắm 46,3% cổ phần. Nét đáng chú ý về cơ cấu cổ đông là các nhà đầu tư chiến lược trong nước khó mua được lượng cổ phần đủ lớn để có thể tham gia quản lý, điều hành doanh nghiệp, còn nhà đầu tư nước ngoài có tiềm năng về vốn, công nghệ, có năng lực quản lý kinh doanh cũng chỉ được mua số lượng cổ phần hạn chế. Điều này làm cho các doanh nghiệp đã cổ phần hóa rất khó hoạt động có hiệu quả, nhất là trước sức ép cạnh tranh ở cấp độ quốc tế, khi nước ta đã chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO).  Tình trạng bình mới rượu cũ: như đã phân tích ở trên, mặc dù có sự tham gia của các thành phần kinh tế bao gồm các nhà đầu tư chiến lược, tuy nhiên, ở các Doanh nghiệp mà nhà nước nắm quyền chi phối bộ máy lãnh đạo vẫn của Nhà nước dẫn đến cung cách làm ăn, quản lý như cũ.  Xác định giá trị doanh nghiệp để cổ phần hóa chưa đúng, gây nên thất thoát và lãng phí tài sản nhà nước trong và sau quá trình cổ phần hóa. Việc xác định giá trị doanh nghiệp trải qua hai giai đoạn khác nhau. Trong giai đoạn chưa có Nghị định 187: việc xác định giá trị doanh nghiệp do một Hội đồng hoặc doanh nghiệp tự đảm nhận. Điều đó dẫn đến việc xác định thấp hoặc quá thấp giá trị doanh nghiệp, do đó, phần lớn cổ phần rơi vào tay một nhóm người. Trong giai đoạn sau khi có Nghị định 187: sự thất thoát tài sản nhà nước đã được hạn chế, nhưng lại nảy sinh tình trạng liên kết, gian lận trong đấu thầu.  Việc xử lý các khoản nợ tồn đọng gây nhiều khó khăn: tính đến ngày 31-12- 2005, dư nợ cho vay đối với các công ty cổ phần vào khoảng 51.603 tỉ đồng. Đặc biệt, việc xử lý nợ xấu đã mất rất nhiều thời gian do thiếu sự phối hợp chặt chẽ, đồng bộ giữa các ngành ngân hàng, thuế, tài chính.  Chất lượng định giá doanh nghiệp của nhiều tổ chức cung ứng dịch vụ thẩm định giá trị có độ tin cậy thấp. Mặt khác, quy chế lựa chọn, giám sát hoạt động tư vấn và xác định giá trị doanh nghiệp chưa được quy định rõ, chưa gắn trách nhiệm của tổ chức tư vấn, định giá với việc bán cổ phần. 11  Quy trình cổ phần hóa (từ xây dựng đề án đến thực hiện đề án) chưa sát thực tế, còn rườm rà, phức tạp nên đã kéo dài thời gian cổ phần hóa. Bình quân thời gian để thực hiện cổ phần hóa một doanh nghiệp mất 437 ngày, tổng công ty mất 554 ngày. Sau khi cổ phần hóa, rất nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động như cũ; quản lý nhà nước vẫn chi phối mọi hoạt động, kể cả trong các doanh nghiệp mà vốn nhà nước chưa tới 30% vốn điều lệ doanh nghiệp; bộ máy quản lý cũ trong nhiều doanh nghiệp vẫn chiếm giữ đến 80%.  Phân biệt đối xử sau khi cổ phần hóa: một thay đổi lớn gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động các doanh nghiệp sau cổ phần hóa là tỷ trọng vay vốn từ ngân hàng thương mại Nhà nước đã giảm đi đáng kể thay vào đó là các nguồn tín dụng khác kể cả tín dụng phi chính thức và tín dụng người lao động, cổ động hoặc gia đình, bạn bè. Bên cạnh đó, theo các doanh nghiệp, những điều kiện về tín dụng, thế chấp, cầm cố tài sản và lòng tin khi cho vay của ngân hàng có sự thay đổi đáng kể đối với doanh nghiệp trước và sau khi chuyển đổi. Đây là những trở ngại phát sinh gây hạn chế đối với các doanh nghiệp chuyển đổi, trong khi vẫn còn có khoảng cách khá xa giữa quy định và thực tế thực hiện các chính sách tín dụng ngân hàng, chưa tạo được môi trường bình đẳng cho doanh nghiệp sau chuyển đổi. Mặt khác, sự hỗ trợ tài chính thông qua vốn vay ưu đãi và các biện pháp tài chính như khoanh nợ, dãn nợ, xoá nợ, chuyển vốn vay thành vốn Nhà nước đầu tư... sau cổ phần hóa đã không còn. Theo phản ánh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, khi có nhu cầu, doanh nghiệp thường huy động vốn nội bộ nhưng nguồn vốn này thường hạn chế nên rất nhiều doanh nghiệp phải tự huy động vốn từ bên ngoài và đây đang là nguồn vốn quan trọng đối với nhiều doanh nghiệp. VIII. Kinh nghiệm cổ phần hóa ở các nước trong vài thập kỷ qua  Thứ nhất, phải xem xét nghiêm túc đến lợi ích của người lao động. Tình trạng người lao động bị mất việc là một điều quan ngại, thường gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ từ người lao động, các chính trị gia và những ngành khác trong xã hội.  Thứ hai, CPH cũng phải đi kèm cải cách thị trường liên quan, cho phép người chủ sở hữu mới vận hành có lãi, đồng thời, đảm bảo lợi ích công chúng được bảo vệ. Ví dụ CPH ngành điện, cơ cấu điều tiết bao gồm phương pháp định giá cũng phải rõ ràng nhằm bảo vệ công chúng và nhà đầu tư mới. 12  Thứ ba, tính minh bạch, rõ ràng và dự đoán được rất quan trọng để thu hút những nhà đầu tư nghiêm túc và tối đa hóa giá trị.  Thứ tư, một cơ quan Chính phủ duy nhất với quyền hạn và quyền lực dẫn dắt chương trình để đem lại tính nhất quán và hiệu quả trong quá trình thực thi chính sách.  Thứ năm, CPH làm thay đổi đáng kể hình thái của môi trường kinh tế một quốc gia. Vì thế rất cần chú ý có kế hoạch thông tin đến tất cả những bên liên quan bao gồm người dân nói chung, người lao động bị ảnh hưởng, chính trị gia, những nhà đầu tư tiềm năng, các cơ quan điều tiết, cơ quan quốc tế...  Thứ sáu, điều rất quan trọng là cần nhận thức rằng để thành công một chính sách CPH phải là một cấu phần của chương trình cải cách theo định hướng thị trường. Để có thể hấp dẫn các nhà đầu tư và tối đa hóa nguồn thu, nhà nước phải bảo đảm môi trường kinh doanh đủ hấp dẫn bằng các cải cách liên quan và chính sách kinh tế lành mạnh.  Thứ bảy, cần khôn ngoan nhận thức rằng kết quả CPH là một hàm số của các điều kiện thị trường tại thời điểm thực hiện. Rất dễ khi chỉ trích quá trình CPH khi giá trị các “viên đá quí quốc gia” gia tăng sau đó khi nền kinh tế và thị trường cải thiện và chính quá trình chuyển đổi sở hữu dẫn đến sự gia tăng giá trị đó. CPH ngoài nguồn vốn nó đem lại còn có sự cải thiện trong dịch vụ, cung cấp nguồn vốn mới và bí quyết trong quản lý, mở rộng doanh nghiệp cũng như nhiều lợi ích gián tiếp khác góp phần dẫn đến phát triển kinh tế nhanh hơn.  Cuối cùng do nhiều thách thức, trở ngại và những quan ngại đi kèm theo chính sách CPH nên ý chí chính trị và khả năng Chính phủ tập hợp được sự đồng thuần mạnh mẽ giữa những bên liên quan là thiết yếu đối với thành công. Đã có nhiều nỗ lực thiện chí trong nhiều nền kinh tế nhằm thúc đẩy chính sách như thế nhưng cũng có rất nhiều nỗ lực đã thất bại khi thực thi do thiếu ý chí chính trị và sức thuyết phục của các thủ lĩnh chính trị hay việc họ không dành được đủ sự ủng hộ cần thiết. 13 CHƯƠNG II: QUY TRÌNH CỔ PHẦN HÓA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI NHÀ NƯỚC Chủ trương tiến hành cổ phần hóa (CPH) các DNNN nói chung và NHTMNN nói riêng thể hiện rõ đường lối, quan điểm nhất quán của Đảng và Chính phủ đã được xác định gần 15 năm qua. Nhiều cuộc hội nghị, hội thảo, tọa đàm tham luận đề cập đến vấn đề này. Mục đích của CPH NHTMNN là đổi mới phương thức tạo vốn; nâng cao hiệu quả hoạt động NH; thay đổi phương thức quản lý điều hành; áp dụng các công nghệ hiện đại của thế giới; ứng dụng phong phú các sản phẩm dịch vụ ngân hàng của các nước tiên tiến; góp phần lành mạnh hóa và minh bạch hóa tình hình tài chính của các DN; thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và cải thiện cuộc sống của nhân dân. Với tính chất phức tạp, độ nhạy cảm cao và phản ứng tiêu cực thường theo dây chuyền hệ thống NHTM, nên để đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, việc cổ phần hóa NHTMNN cần phải thực hiện một cách thận trọng, qua nhiều bước khác nhau: I. Xác định mục tiêu cổ phần hóa Các nội dung khác của tiến trình CPH mặc dù được chuẩn bị tốt đến đâu nhưng không xác định được mục tiêu, chiến lược phát triển kinh doanh của ngân hàng thì cũng không thể đánh giá được tầm quan trọng của ngân hàng được CPH cũng như không thể làm cơ sở xác định được hiện giá ròng trong tương lai của ngân hàng. Vì vậy, NHTM CPH phải xây dựng được chiến lược kinh doanh mới theo thông lệ quốc tế và là một ngân hàng đa năng với các sản phẩm dịch vụ NH hiện đại như thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, đầu tư tài chính, thị trường bất động sản, thị trường chứng khoán, thị trường mua bán nợ… Đảm bảo được hoạt động kinh doanh của ngân hàng được CPH theo nguyên tắc thị trường, đáp ứng được các chuẩn mực quốc tế. Việc CPH NHTM nhà nước phải gắn liền với việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng và phát triển mạng lưới hoạt động ra các nước trên thế giới đặc biệt là các nước có cổ đông góp vốn (đây sẽ là một ưu thế của ngân hàng CPH ). Mục tiêu cổ phần hóa NHTM thể hiện ở những điểm sau: 14  CPH ngân hàng thương mại nhà nước với mục đích sẽ tăng quy mô năng lực vốn trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu vốn (nhà nước, tổ chức kinh tế, cá nhân trong ngoài nước) để tăng năng lực cạnh tranh, vì vậy ngân hàng được CPH không phải như là một dạng của NHTM cổ phần và cũng không phải là một dạng của ngân hàng liên doanh (góp vốn của hai phía VN và nước ngoài). Vì vậy, đòi hỏi phải có một cơ chế quản lý từ phía nhà nước ở tầm vĩ mô làm cơ sở cho Hội đồng quản trị điều hành ngân hàng một cách hiệu quả, linh hoạt.  Tạo ra những NHTM lớn có khả năng phục vụ phát triển kinh tế xã hội và truyền tải các chính sách của nhà nước.  Nâng cao hiệu quả trong hoạt động kinh doanh, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế . II. Đối tượng và điều kiện cổ phần hóa Xác định xem NH có nằm trong danh sách các doanh nghiệp được phép cổ phần hóa phù hợp với quy định của pháp luật hay không. III. Lựa chọn hình thức cổ phần hóa Việc lựa chọn hình thức cổ phần hóa NHTMNN có thể được thực hiện thông qua một trong các hình thức sau:  Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại các NHTMNN, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.  Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại các NHTMNN hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.  Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại các NHTMNN hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ. IV. Xác định đối tượng và điều kiện mua cổ phần Bao gồm:  Nhà đầu tư trong nước.  Nhà đầu tư nước ngòai.  Nhà đầu tư chiến lược. 15 V. Lựa chọn đơn vị tư vấn Cũng như bất kỳ một Doanh nghiệp cổ phần khác trong nền kinh tế, trước khi tiến hành cổ phần hóa NH ra bên ngoài, NHTMNN cần tiến hành lựa chọn nhà tư vấn quốc tế có uy tín để giúp cho NH thực hiện cổ phần thành công. Việc lựa chọn nhà tư vấn có năng lực sẽ giúp xác định chính xác giá trị tổng tài sản của NH và mức giá khởi điểm cho cổ phiếu phù hợp. Ngoài ra, vai trò của công ty tư vấn cũng rất quan trong trong việc xác định thời điểm thực hiện IPO ra thị trường. VI. Xác định giá trị tài sản Trong quá trình thực hiện CPH điều quan trọng là xác định giá trị thực tế ngân hàng để đưa giá bán cổ phần cho phù hợp, người mua và người bán có thể chấp nhận được. Tiến hành thí điểm và mở rộng bán đấu giá cổ phần lần đầu thông qua thị trường chứng khoán. Trong giai đoạn đầu, có thể nghiên cứu bán cổ phần không chi phối cho các nước có thực lực kinh tế phát triển mạnh để thu hút nhanh vốn. VII. Lựa chọn hình thức huy động vốn và bán cổ phần lần đầu 1. Tăng năng lực tài chính cho NHTMNN: Thông qua việc phát hành Trái phiếu chuyển đổi, cổ phần hóa bộ phận NHTMNN. Trái phiếu chuyển đổi này vừa tăng vốn cho NHTMNN, vừa nhằm tăng “vốn tự có” của NHTMNN với tư cách là “vốn cấp 2” theo thông lệ quốc tế. Trái phiếu chuyển đổi với đặc điểm:  Vô thời hạn. Ngân hàng không thanh tóan tiền cho người đã mua trái phiếu chuyển đổi. Trường hợp cần tiền hoặc chuyển hướng đầu tư thì chủ sở hữu trái phiếu chuyển đổi có thể chuyển nhượng trên thị trường để thu hồi vốn;  Được NHNN xác định là lọai “tài sản nợ” được tính vào “vốn tự có” khi tính các chỉ tiêu an tòan, phù hợp với luật các TCTD.  Khi CPH chính thức NHTM NN thì trái phiếu chuyển đổi sẽ đương nhiên được chuyển đổi thành cổ phiếu;  Lãi suất trái phiếu có thể theo cơ chế như trái phiếu thông thường hiện nay hoặc thêm điều kiện để tăng tính hấp dẫn như NH kinh doanh có lãi hơn dự kiến thì chủ sở hữu trái phiếu được xem xét tăng phần lãi được hưởng trong năm… 16 Trong bước này, các NHTMNN sẽ tiến hành CPH một số đơn vị thành viên là các công ty trực thuộc hoặc chi nhánh của mình. Việc CPH các Cty trực thuộc hoặc chi nhánh đơn giản hơn nhiều so với CPH tòan bộ ngân hàng. 2. Tạm thời thay đổi cơ cấu vốn chủ sở hữu: Thay đổi cơ cấu vốn chủ sở hữu nhưng chưa thay đổi tính chất về tổ chức và họat động của NHTMNN. Thông qua phát hành cổ phiếu ưu đãi:qua việc phát hành cổ phiếu ưu đãi, NHTMNN chính thức tăng vốn chủ sở hữu (vốn cấp 1). Với hình thức này, cồ phiếu ưu đãi có các đặc điểm:  Người nắm giữ cổ phiếu sẽ được hưởng cổ tức hàng năm với mức cao hơn trái phiếu hoặc dựa vào kết quả kinh doanh hàng năm;  Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi không có quyền biểu quyết nhưng có thể tạo một cơ chế giám sát họat động của đại diện cổ đông.  Khi tiến hành CPH tòan bộ đối với NHTMNN thì cổ phiếu ưu đãi được lựa chọn để trở thành cổ phiếu phổ thông hoặc các loại hình cổ phiếu ưu đãi. 3. Cổ phần hóa tòan bộ NHTMNN: Sau khi đã hòan chỉnh được đề án CPH tông thể NHTMNN, có phương án khả thi xác định giá trị doanh nghiệp, đánh giá cụ thể những kết quả đã đạt được thông qua 2 bước trên, sẽ tiến hành CPH tòan bộ đối với NHTMNN. Đây là bước thay đổi cả về tính chất sở hữu cũng như cơ chế tổ chức và họat động theo hướng NHTMCP hoàn tòan. VIII. THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG (VIETCOMBANK) Theo tinh thần nghị quyết Hội nghị Đảng lần thứ 9,nước ta sẽ tiến hàng mạnh mẽ việc cổ phần hóa các Doanh nghiệp nhà nước, kể cả các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực bưu chính viễn thông , bảo hiểm, ngân hàng….Theo đó, sẽ tiến hành cổ phần hoá các ngân hàng thương mại(NHTM) nhà nước.Vhủ trương này chính thức được công bố trong giới ngân hàng hồi giữa tháng 01/2004 Nước ta có 5 ngân hàng thương mại nhà nước, đó là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHNN&PTNT), Ngân hàng Công Thương Việt Nam(NHCT), Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (NHNT), Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam (NHĐT-PT), Ngân hàng Phát triển Nhà Đồng Bằng sông Cửu 17 Long.5 Ngân hàng TMNN nhưng chí6m 80% tổng nguồn vốn huy động của hệ thống ngân hàng Trong đó tổng dư nợ vốn và cho vay vốn nền kinh tế chiếm khoảng 77,3% tổng dư nợ của hệ thống ngân hàng.Như vậy việc cổ phần hóa sẽ hướng vào 5 NHTM nhà nước.  Ngày 21/09/2005, theo Quyết định của thủ tướng Chính phủ số 230/2005/QDD- TTg Vietcombank sẽ được cổ phần hóa. Lộ trình cổ phần hóa Vietcombank theo ấn định của Ngân hàng Nhà nước sẽ gồm hai giai đoạn:  Giai đoạn 1: xây dựng đề án tăng vốn tự có thông qua phát hành cổ phiếu ưu đãi (không có quyền biểu quyết và quyền tham gia điều hành nhưng sẽ được ưu đãi chuyển thành cổ phiếu phổ thông), đây là bước đệm cho cổ phần cơ bản sau này. Phương án phát hành cổ phiếu ưu đãi sẽ làm ngay trong tháng 8/2004.  Giai đoạn 2 (gồm hai bước): bước 1 là khẩn trương trình Chính phủ xin chủ trương về những vấn đề lớn mang tính nguyên tắc để cổ phần hóa (pháp lý, cổ phần nắm giữ của Nhà nước và các đối tác, cổ phần hóa các công ty trực thuộc, xác định nợ xấu…); bước 2 là xây dựng đề án công phu, chi tiết trình Chính phủ phương án cuối cùng vào cuối quí III/2005 (Tuy nhiên trên thực tế tiến trình cổ phần hóa đã bị chậm lại 15 tháng và đến tháng 12/2007 Vietcombank IPO mới hoàn tất) .  Trong khoảng thời gian từ năm 2005 kéo dài đến năm 2007, Vietcombank tiến hành thuê tổ chức nước ngoài định giá giá trị ngân hàng. Sau khi xác định giá trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế, Vietcombank sẽ không điều chỉnh lại các chỉ số sổ sách. Giá trị ngân hàng sẽ được lấy làm cơ sở tham khảo để xác định phần vốn nhà nước và phần vốn dự kiến sẽ huy động thêm. Phương thức cổ phần hóa của Vietcombank là giữ nguyên phần vốn nhà nước, phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn.  Vốn điều lệ của ngân hàng trước khi cổ phần hóa vẫn là hơn 4.300 tỉ đồng (Báo cáo tài chính đã kiểm toán năm 2006). Vietcombank chỉ đăng ký vốn điều lệ mới sau khi toàn bộ số cổ phiếu phát hành ra công chúng, kể cả dành cho các đối tác chiến lược, thực hiện xong.  Ngày 29/08/2007, Thủ tướng và Thường trực Chính phủ đã họp bàn về Phương án cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank). Nội dung Phương án cổ 18 phần hoá Vietcombank về cơ bản đã được thông qua. Chính phủ cũng chấp thuận các kiến nghị của tư vấn và kiểm toán quốc tế liên quan tới việc định giá doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều đó có nghĩa, quá trình định giá Vietcombank sẽ nhanh gọn hơn so với các doanh nghiệp nhà nước khác, được phép bỏ qua một số khâu như kiểm kê, đánh giá lại tài sản, hạch toán lại giá trị sổ sách sau định giá.  Ngày 26/09/2007, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành quyết định phê duyệt phương án cổ phần hóa Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (VCB). Theo đó, hình thức cổ phần hóa của VCB giữ nguyên vốn nhà nước hiện có, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn theo nguyên tắc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối của Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam. Trong quyết định phê duyệt đề án cổ phần hóa VCB, Chính phủ đồng ý giá trị phần vốn góp của Nhà nước vào ngân hàng là 11.127 tỷ đồng, đúng bằng giá trị sổ sách đã được kiểm toán. Vốn điều lệ của VCB đến ngày 31-12-2006 là 4.356 tỷ đồng, phần còn lại là các quỹ dự trữ, vốn khác, chênh lệch tỷ giá do chuyển đổi báo cáo tài chính, lợi nhuận để lại, quỹ đánh giá lại tài sản. Tỷ lệ vốn nhà nước sẽ giảm dần qua nhiều giai đoạn, nhưng không thấp hơn 51/% vốn điều lệ. o Cơ quan đại diện chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam là Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước. Vốn điều lệ của Ngân hàng là 15.000 tỷ đồng Việt Nam.  Cơ cấu cổ phần phát hành của ngân hàng được chia làm 2 giai đoạn. Giai đoạn 1, tổng khối lượng cổ phần phát hành là 30% vốn điều lệ, trong đó cổ phần bán cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài tối đa không quá 20%. Giai đoạn 2, phát hành và niêm yết quốc tế không vượt quá 15% vốn điều lệ. Theo kế hoạch vào ngày 26/12/2007, 97,5 triệu cổ phần của Vietcombank (6,5% vốn điều lệ) sẽ được đưa ra đấu giá, với giá khởi điểm 100.000 đồng/cổ phần. Mức giá khởi điểm 100.000 đồng/cổ phần được xác định trên ba yếu tố: thứ nhất là dựa trên định giá của các tổ chức tư vấn trong, ngoài nước; thứ hai, tình hình cung cầu thị trường và thứ ba dựa vào thực tiễn các đợt đấu giá cổ phiếu gần đây, trên cơ sở của tổ chức được lựa chọn tư vấn cổ phần hoá cho Vietcombank. Tổng số cổ phần dự kiến bán cho cán bộ công nhân viên Vietcombank cộng với cổ phiếu chuyển đổi từ trái phiếu sẽ chiếm khoảng 3,5% vốn điều lệ. Cán bộ ngân hàng sẽ mua 19 theo cơ chế một năm làm việc ở Vietcombank được mua 1 triệu đồng với mức giá giảm 40% so với mức giá đấu thành công. Trái chủ được chuyển đổi sẽ được chốt vào ngày 25/12, một ngày trước thời điểm IPO và thực hiện chuyển đổi theo mức đấu giá bình quân thực tế (có sau khi IPO khoảng 1 tháng). VCB được thực hiện việc lựa chọn tối đa là 2 nhà đầu tư chiến lược nước ngoài - sở hữu từ 15% đến 20%, các đối tác chiến lược sẽ không tham gia đấu giá và việc này phải thực hiện trước khi bán đấu giá cổ phần lần đầu (IPO). Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài phải mua theo giá IPO trong nước và cam kết đầu tư dài hạn, không được chuyển nhượng cổ phần trong thời gian ít nhất là 5 năm, kể từ ngày ngân hàng thương mại cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.  Chiều 21/12/2007, Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM chính thức thông báo về thông tin đăng ký tham gia đấu giá cổ phần Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank).  Buổi đấu giá của IPO Vietcombank diễn ra vào ngày 26/12/2007 với 9.473 nhà đầu tư đăng ký tham gia trong đó có 9.068 nhà đầu tư là cá nhân trong nước, 207 nhà đầu tư là cá nhân nước ngoài, 153 nhà đầu tư là tổ chức trong nước và 45 tổ chức nước ngoài.  Theo công bố chính thức từ Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM ngày 27/12/2007, về kết quả đấu giá Vietcombank, mức giá thành công bình quân là 107.860 VND. 20 CHƯƠNG III: TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC CỔ PHẦN HÓA NHTM ĐẾN TTCK Nền kinh tế Việt Nam còn non trẻ, những doanh nghiệp có những đặc điểm thích hợp cho thị trường chứng khoán như có quy mô lớn, được thành lập dưới dạng công ty cổ phần, có quá trình kinh doanh lâu dài, có cơ chế quản trị minh bạch ... còn rất ít. Nhưng do đặc thù của ngành, các ngân hàng thương mại cổ phần và sắp tới đây là các ngân hàng quốc doanh được cổ phần hoá có đủ những yếu tố đó và là những doanh nghiệp lý tưởng nhất cho thị trường chứng khoán hiện tại cũng như tương lai những năm sắp đến. Theo một ước tính của Công ty Tư vấn Chứng khoán Quốc tế (ISC), vào năm 2010 giá trị thị trường của các chứng khoán niêm yết ước tính từ 60 đến 120 ngàn tỉ đồng, tăng gấp 5-10 lần hiện nay, trong đó 4 ngân hàng quốc doanh cổ phần hoá chiếm khoản 50 ngàn tỉ, các ngân hàng cổ phần chiếm 20 ngàn tỉ. Tức là cổ phiếu ngân hàng sẽ góp phần đến 60% giá trị thị trường chứng khoán. Là một cấu thành của thị trường tài chính, sự phát triển của thị trường chứng khoán sẽ kém bền vững nếu thiếu sự gắn kết với hệ thống ngân hàng. Từ kinh nghiệm của nhiều nước đã cho thấy rằng, “nếu thị trường chứng khoán là một cạnh cắt của thị trường tài chính, thì các ngân hàng vừa là nền móng vừa là xi măng”1. Như vậy có thể thấy hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, kết hợp và tác động với nhau cùng phát triển. Vai trò của việc cổ phần hóa hệ thống ngân hàng trong sự phát triển thị trường chứng khoán được thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau: I. Tác động tích cực  Thứ nhất, chọn đối tác chiến lược nước ngoài thành công sẽ thúc đẩy nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào VN, làm tăng mối quan tâm tới ngành NH. Sự tham gia nhiệt tình của đối tác ngoại cũng sẽ góp phần thu hút được một nguồn vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào TTCK trong thời gian tới, đó là chưa kể một lượng vốn lớn sẽ được giải ngân trong các đợt bán đấu giá cổ phần của các NHTMNN ra công chúng. 21  Thứ hai, việc IPO thành công của một NHTMNN sẽ có tác dụng thúc đẩy các NĐT đến với TTCK, qua đó làm tăng quy mô khối lượng giao dịch và thu hút thêm hàng chục ngàn tỉ đồng vào TTCK. Cổ phiếu của các NHTMNN sẽ là nguồn hàng đầy hấp dẫn cho thị trường trong thời gian tới với khả năng thanh khoản cao, thúc đẩy giao dịch, tạo đà đi lên cho CP khối NH nói riêng và toàn thị trường nói chung, góp phần gia tăng quy mô và các đối tượng tham gia trên thị trường chứng khoán: Hiện nay các NNHTM đang quản lý và nắm giữ khối lượng tài sản không lồ trên 70% /GDP. Cổ phần hóa NHTMNN không chỉ làm gia tăng quy mô vốn trên thị trường còn lôi kéo được một khối lượng khách hàng lớn của NH đến với thị trường chứng khoán. Động thái mới nhất được đưa ra trong ngày 20/4, khi Chính phủ ban hành Nghị định quy định tỉ lệ sở hữu cổ phần (room) của nhà đầu tư nước ngoài (ĐTNN) tại các ngân hàng thương mại (NHTM) của VN. Theo đó, nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan được sở hữu không quá 15% vốn điều lệ tại NHTM (quy định cũ là 10%), trong trường hợp đặc biệt Thủ tướng có thể quyết định nâng lên tới 20%. Tuy nhiên, tổng mức sở hữu cổ phần của các nhà ĐTNN trong NHTM của VN thì vẫn giữ mức khống chế 30% như cũ. Động thái này, theo các chuyên gia ngân hàng, sẽ làm thay đổi giá cổ phiếu ngân hàng trên thị trường, do khi room thay đổi, đối tác nước ngoài vì muốn trở thành đối tác chiến lược để mua một lúc được nhiều cổ phần có thể mạnh dạn đưa ra các điều kiện tốt hơn để cạnh tranh với đối thủ khác nhằm mục đích giành quyền ưu tiên. Vì vậy giá cổ phiếu bán cho đối tác chiến lược nước ngoài sẽ được đẩy lên cao hơn trước, mang lại lợi ích lớn cho bản thân các NHTM nói chung và các ngân hàng thương mại quốc doanh nói riêng và cổ đông của các ngân hàng đó. Như vậy, thị trường cổ phiếu ngân hàng trong thời gian tới khi cổ phần hóa các ngân hàng thương mại quốc doanh sẽ có nhiều thay đổi về số lượng cũng như chất lượng của các mặt hàng. Với sự điều chỉnh thích hợp từ phía các cơ quan, ban ngành hữu quan, có thể hy vọng, những thay đổi này sẽ đồng nghĩa với những chuyển biến tích cực, góp phần hoàn thiện thị trường cũng như tạo dựng tâm lý an toàn cho nhà đầu tư.  Việc cổ phần hóa các NHTMNN thể hiện sự quyết tâm cải cách kinh tế, hội nhập kinh tế của Đảng và nhà nước tạo tâm lý an tâm và hứng khởi cho các nhà đầu tư 22 trong và ngòai nước. Sự hứng khởi này sẽ có tác động rất lớn tới TTCK Việtnam giai đoạn hiện nay.  Đa dạng hóa các các dịch vụ tài chính trên thị trường chứng khoán: chính sự nối kết ngày càng chặt chẽ, không thể tách rời nhau giữa NHTM và thị trường chứng khoán đã làm cho số lượng hàng hóa ngày càng gia tăng. NHTM là đối tượng trực tiếp tham gia trên thị trường thì sự liên kết giữa các nghiệp vụ của NHTM với các định chế tài chính khác như: công ty tài chính, công ty bảo hiểm , quỹ đầu tư ...trên thị trường chứng khoán đã góp phần phong phú hơn và đa dạng hơn các dịch vụ tài chính cung ứng cho các nhà đầu tư trên thị trường.  Tăng hàng hóa trên thị trường chứng khoán: Cổ phần hóa các NHTM sẽ làm gia tăng đáng kể số lượng cổ phiếu trên thị trường, cung ứng hàng hóa có chất lượng cao và dễ dàng chuyển nhượng sẽ hấp dẫn các nhà đầu tư. Bên cạnh đó tác động kích thích các NHTM cổ phần nhanh chóng niêm yết cổ phiếu của mình trên thị trường, cho phép các DN và các nhà đầu tư có thể dể dàng chủ dộng khai thác vốn trên thị trường theo yêu cầu riêng của mình . II. Tác động tiêu cực Tuy nhiên, việc cổ phần hóa các NHTMNN không phải lúc nào cũng suôn sẻ và cũng không phải lúc nào cũng tạo hiệu ứng tốt cho TTCK. Nó được thể hiện qua những điểm sau:  Việc định giá không chính xác giá trị NH sẽ không chỉ gây thất thoát tài sản của nhà nước mà còn làm giảm giá trị của cổ phiếu của NH đó trên TTCK. Điều này dễ dấn tới hiện tượng đầu cơ, làm giá trên TTCK đặc biệt là những quan chức trong nội bộ NH đó.  Việc lựa chọn đối tác chiến lược nước ngoài không phù hợp có thể gây nản lòng các nhà đầu tư trong và ngoài nước.  Việc phát hành cổ phiếu một lần với số lượng lớn có thể gây loãng trên TTCK khi mà lượng cầu không thể hấp thu ngay một lúc với số lượng lớn cổ phiếu của ngân hàng được cổ phần hóa. Khi đó, một lượng lớn tiền của các nhà đầu tư tập trung vào cổ phiếu NH mới phát hành cổ phiếu sẽ gây biến động lớn đến quan hệ cung cầu trên TTCK và hệ quả là TTCK sẽ bị suy giảm. 23 KẾT LUẬN Cổ phần hóa DNNN nói chung, và NHTM NN nói riêng là xu thế tất yếu của quá trình phát triển kinh tế thị trường và hội nhập. Theo cách này sẽ làm giảm bớt gánh năng cho Chính phủ về vốn, tăng thêm được tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho lãnh đạo NH trong các quyết định kinh doanh, đặt NH vào vị trí cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Tuy nhiên về phương thực hiện, cổ phần hóa NHTM đang đứng trước một đòi hỏi của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cần tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu phải được bán ra trên thị trướng chứng khoán.Thông qua thị trường chứng khoán với tính minh bạch, công khai sẽ cũng cố niềm tin cho họ khi đầu tư. 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các tạp chí chuyên ngành như Tạp chí tài chính, Tạp chí tài chính doanh nghiệp. 2. Thời báo kinh tế Việt Nam. 3. Các trang web www.mof.gov.vn, www.sbv.gov.vn, www.vneconomy.com.vn, www.saigontimes.com.vn MỤC LỤC 25 Trang Chương 1:Những vấn đề chung về cổ phần hóa DNNN 6 I. Khái niệm 4 II.Sự cần thiết phải cổ phần hóa 4 III. Mục tiêu cổ phần hoá DNNN 6 IV. Đốùi tượng cổ phần hóa 6 V. Điều kiện cổ phần hóa 7 VI. Hình thức cổ phần hóa 7 VII.Thực trạnh cổ phần hóa DNNN 15 năm qua 8 VIII. Kinh nghiệm cổ phần hóa các nước 12 Chương II: Quy trình cổ phần hóa NHTM NN 14 I. Xác định mục tiêu cổ phần hoá 14 II. Đối tượng điều kiện cổ phần hóa 15 III. Lực họn hình thức cổ phần hóa 15 IV. Xác định đối tượng và điều kiện mua cổ phần 15 V. Lựa chọn đơn vị tư vấn 16 VI. Xác định giá trị tài sản 16 VII. Lục chọn hình thức huy động vốn và bán cổ phần lần đầu 16 VIII.Thực trạng cổ phần hóa tại ngân hàng ngoại thương 17 Chương III: Tác động của cổ phần hoá NHTM đến TTCK 21 I. Tác động tích cực 21 II. tác động tiêu cực 23 Chương IV Kết luận 24

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftttc_nhom5_4414.pdf
Luận văn liên quan