Đề tài Ảnh hưởng của nghị quyết 11 đến nền kinh tế và thị trường chứng khoán

Ngân sách hạn hẹp. Chúng ta thực hiện đồng bộ các biện pháp thắt chặt tiền tệ đồng thời là hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ bên cạnh đó vẫn phải đảm bảo chính sách an sinh xã hội. Liệu với nguồn ngân sách hiện tại chúng ta có thể thực hiện được hay không. Bội chi ngân sách của chúng ta sẽ là bao nhiêu so với con số năm 2009 . Độ trễ của chính sách.Việc thực hiện hiệu quả Nghị quyết 11 cũng sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong ngắn hạn, ADB đã giảm mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2011 xuống còn 6,1% so với mức dự báo 7,0% được đưa ra vào tháng 9/2010. ADB cũng dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ tăng trở lại lên mức 6,7% trong năm 2012. va cũng phải lường trước việc Nghị quyết 11 gặp khó khăn và không đạt được hiệu quả như mong muốn, khi đó, tỉ lệ lạm phát của Việt Nam sẽ còn tăng cao nữa. Vấn đề quan liêu. Nghị quyết là hay như vậy, là tốt như vậy, là quyết liệt như vậy nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ của chúng ta đã được đảm bảo chưa. Khi thực hiện từ trung ương tới địa phương, từ nhà nước tới các doanh nghiệp nếu không có sự liên kết, chính xác trong từng khâu thực hiện “trên nói một đường dưới làm một nẻo” thì rất có thể sẽ không thể thành công hoặc hiệu quả không cao hoặc tệ hơn nữa là thất bại mà nếu thất bại thì hậu quả khó lường. Một khi đã mất đi niềm tin của dân chúng vào chính sách của nhà nước thì nghuy cơ lạm phát, thất nghiệp thậm chí là khủng hoảng kinh tế có thể sẽ xảy ra.

doc14 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3122 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của nghị quyết 11 đến nền kinh tế và thị trường chứng khoán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI:Ảnh hưởng của NQ 11 đến nền kinh tế và thị trường chứng khoán 1.Những nội dung cơ bản về NQ 11 1.1 Nguyên nhân NQ 11 được ban hành Nền kinh tế Việt Nam và thế giới đang có những chuyển biến mạnh, giá cả hàng hóa liên tục leo thang đang gây nhiều bức xúc cho người dân. Việt Nam đồng liên tục giảm giá so với USD trong khi ở các nước khác thì tình hình hoàn toàn ngược lại, tỷ giá hối đoái giữa thị trường niêm yết và thị trường tự do chên lệch nhau tới 10%. Lạm phát có xu hướng tăng cao do nhu cầu về hàng hóa tăng cao khi thị trường đang phục hồi. Giá cả các nguyên vật liệu nhập khẩu tăng dẫn đến chi phí sản xuất hàng hóa tăng, thiếu kỷ luật tài chính trong đầu tư công và trong hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và tập đoàn lớn. Thu ngân sách nhà nước có chiều hướng tăng tuy nhiên việc chấp hành kỷ luật ngân sách không nghiêm, thất thu, gian lận, nợ đọng thuế, kể cả thuế nội địa và thuế xuất khẩu. Nợ công tăng nhanh trong khi đó thâm hụt ngân sách lớn, hiệu quả của đầu tư công thấp đặt ra sự lo ngại cho tính bền vững của nợ trong ngắn và dài hạn. Thị trường chứng khoán lâm vào cảnh chợ chiều, lạm phát tăng cao làm cho các nhà đầu tư không dám đẩy mạnh tay đầu tư. Việc quản lý của Bộ tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hay các sở giao dịch chứng khoán còn nhiều yếu kém, tạo ra các lỗ hổng lớn như chuyện thao túng giá gây ảnh hưởng quyền lợi các nhà đầu tư.( trong khoảng thời gian từ ngày 1/6/2010 đến 15/9/2010, ông Dương Đức Huấn sử dụng 01 tài khoản của mình và 12 tài khoản đứng tên người khác liên tục mua, bán cổ phiếu của CtyCP Vận tải Hà Tiên (mã chứng khoán HTV) với tần suất và khối lượng giao dịch lớn, chiếm tỷ trọng cao nhằm thao túng giá cổ phiếu HTV, vi phạm quy định tại Khoản 4 Điều 9 Luật Chứng khoán. Ông Dương Đức Huân bị phạt tiền 250 triệu đồng theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 27 Nghị định số 85/2010/NĐ-CP.) Chỉ số chứng khoán mất điểm liên tục, có lúc đã xuống tới 420 điểm, tuy nhiên đã lên lại xoay quanh mức 500 điểm. 1.2 Nội dung cơ bản Nghị quyết 11 của Chính phủ được ban hành ngày 24 tháng 2 năm 2011 nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội. Nghị quyết 11 đã đưa ra 6 nhóm giải pháp để chống lạm phát và ổn định vĩ mô: (1) Quản lý chặt thị trường tiền tệ: kìm giữ tốc độ tăng trưởng tín dụng của năm 2011 ở mức dưới 20% (chỉ số này cho năm 2010 là 25%), thực hiện kết hối bắt buộc, trước hết là với khối doanh nghiệp nhà nước (DNNN), và quản lý chặt thị trường vàng, tiến tới xóa bỏ kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do. (2) Thắt chặt đầu tư công: tăng thu ngân sách nhà nước khoảng 7% – 8% so với dự toán ngân sách 2011 đã được Quốc hội thông qua, giảm chi thường xuyên của 9 tháng còn lại xuống 10%, từ đó giảm bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 xuống dưới mức 5% GDP. (3) Tăng cường quản lý các thị trường hàng hóa: nhập siêu không quá 16% tổng kim ngạch xuất khẩu, tăng cường quản lý giá. (4) Tăng giá điện và xăng dầu, hỗ trợ các hộ nghèo sau khi điều chỉnh giá điện. (5) Bảo đảm an sinh – xã hội. (6) Đẩy mạnh thông tin – tuyên truyền Trong 6 nhóm này, việc tăng giá xăng dầu và giá điện đã được thực hiện xong. Vì thế xét vì khía cạnh ổn định vĩ mô thì chỉ có 3 nhóm giải pháp đầu tiên là đáng được quan tâm. 2. Phân tích một vài biến số vĩ mô Chính sách tiền tệ của CP được áp dụng nhằm kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá hối đoái, để tăng trưởng kinh tế và tận dụng được tối đa lao động xã hội.Chính phủ dùng 3 công cụ chính để thực hiện chính sách tiền tệ: lãi suất chiết khấu & lãi suất tái cấp vốn, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở Tại Việt Nam hai năm qua NHNN đã hai lần tăng lãi suất chiết khấu và tái cấp vốn, liên tục đưa ra các chỉ thị về kiểm soát chất lượng cho vay, và mới đây nhất là ra liên tiếp hai quyết định: khống chế mức cho vay chứng khoán của các ngân hàng thương mại dưới 3% tổng dư nợ và tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc VNĐ. Lý do mà Ngân hàng Nhà nước đưa ra chỉ thị trên là do những tháng đầu năm nay, vốn tín dụng có xu hướng tăng trưởng ở mức cao hơn so với cùng kỳ các năm trước và mục tiêu cả năm, có thể ảnh hưởng không thuận lợi đối với kiểm soát lạm phát. Vậy 3 công cụ này sẽ ảnh hưởng thế nào đối với TTCK? 1. Thay đổi lãi suất chiết khấu có ảnh hưởng nhiều và rõ nét nhất trong 3 công cụ, có thể phân tích ở 2 khía cạnh sau: Ngân hàng TW tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm -> Mức cho vay của NH hạn chế và lãi suất cho vay cao -> Người đầu tư CK sẽ hạn chế đi vay -> Giảm lượng số lượng người và lượng tiền đầu tư trên TTCK Ngân hàng TW tăng lãi suất -> Lượng tiền cơ sở giảm-> Lãi suất tiền gửi của NH cao, hấp dẫn (vì muốn thu hút thêm tiền gửi từ dân khi lượng tiền cơ sở giảm) và nếu thị trường CK không ổn định, rủi ro lớn -> Nhà đầu tư CK sẽ thích gửi tiền Ngân hàng hơn là đầu tư CK. Kết luận: Thị trường CK cũng có xu hướng giảm theo 2.Quy định mức dự trữ bắt buộc : Với hai mục này bởi vì quy định mới của NHNN về cho vay chứng khoán hạn chế ở mức 3%. Khi lượng dự trữ tiền cơ sở của các NHTM bị thay đổi vì chính sách tiền tệ thắt chặt của NN sẽ dẫn đến NHTM phải điều chỉnh tương ứng các mức hạn cho vay tương ứng trên tổng dư nợ của ngân hàng è lượng tiền cung từ NH ít đi, số tiền vay được để chơi CK ít hơn, dân tự huy động tiền nhàn rỗi của mình nhiều hơn Kết luận: TTCK có ảnh hưởng nhưng không đáng kể 3. Nghiệp vụ thị trường mở Thực chất về vĩ mô và lâu dài thì có ảnh hưởng tới sự dao động của thị trường CK về lượng tiền đầu tư chứ không ảnh hưởng đến giá cả các cổ phiếu. Vì nghiệp vụ này khi tiến hành thì hầu hết chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, nay có thêm ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, ngân hàng thương mại cổ phần và chỉ rất ít các lọai Trái Phiếu dân bỏ tiền ra mua. Mà TTCK hiện nay hầu hết khỏang 90% là các cá nhân và 10% là các tổ chức, các quỹ đầu tư nên cũng ảnh hưởng không nhiều. (Tuy nhiên tính trên tổng số vốn đầu tư thì tỷ lệ các tổ chức các quỹ năm giữ cũng khá nhiều.) 4. Tỷ giá: Việc điều chỉnh tỷ giá sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp có các khoản nợ nước ngoài khi phải thực hiện trích lập dự phòng rủi ro tỷ giá cuối năm, trong đó có các doanh nghiệp ngành dịch vụ công cộng, xi măng, vận tải biển và dầu khí. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp ngành dầu khí và vận tải biển, có nguồn thu ngoại tệ trực tiếp từ việc bán sản phẩm, cung cấp dịch vụ đầu ra thì cũng đồng thời được hưởng lợi từ việc thay đổi tỷ giá. Bên cạnh những doanh nghiệp có khoản vay ngoại tệ, các doanh nghiệp phải nhập khẩu phần lớn nguyên vật liệu từ nước ngoài và chủ yếu phục vụ nhu cầu trong nước cũng chịu tác động từ việc thay đổi tỷ giá khi chi phí đầu vào gia tăng. Các doanh nghiệp thuộc một số nhóm ngành như vật liệu cơ bản (thép, nhựa), hàng tiêu dùng (sữa, bánh kẹo), công nghiệp (hóa chất, vận tải kinh doanh xăng dầu) và dược phẩm sẽ phải giải bài toán cân đối giá bán sản phẩm đầu ra sao cho vừa bù đắp được chi phí đầu vào lại vừa đảm bảo giữ được thị phần và doanh thu. Ở chiều hướng ngược lại, các doanh nghiệp xuất khẩu có nguồn thu ngoại tệ trực tiếp và có kết hợp sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước sẽ được hưởng lợi từ việc điều chỉnh tỷ giá; trong đó các ngành thủy sản, may mặc, cao su và khoáng sản. Điều này được thể hiện trên hai phương diện: giúp tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa xuất khẩu, mở rộng thị phần và phần vượt trội thêm mà doanh nghiệp được hưởng khi các khoản thu ngoại tệ được ghi nhận bằng VND. Theo đó, về lý thuyết, các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được hưởng lợi nhưng mức độ ảnh hưởng tới từng doanh nghiệp lại khác nhau tùy vào cơ cấu doanh thu. Những ảnh hưởng tích cực ở đây không chỉ được nhìn nhận theo chiều hướng làm tăng giá giao dịch của cổ phiếu trên thị trường mà có thể chỉ là giúp giá cổ phiếu không bị điều chỉnh sâu trong một chu kỳ giảm chung của thị trường. Điều này có thể quan sát khá rõ qua cổ phiếu cao su. Ngược lại, những doanh nghiệp nhập khẩu nhìn chung sẽ chịu thiệt thòi nhưng cũng tùy vào đặc điểm từng doanh nghiệp. Những doanh nghiệp nhập khẩu để phục vụ tái xuất khẩu hoặc những doanh nghiệp có khả năng điều chỉnh giá sản phẩm đầu ra để bù cho phần trội thêm của chi phí đầu vào sẽ có thể giảm thiểu những tác động tiêu cực. Như vậy, diễn biến giá cổ phiếu của những doanh nghiệp này cũng sẽ tùy thuộc vào các đặc điểm riêng. 3.Tình hình thực hiện và ảnh hưởng của NQ 11 3.1 Cơ hội của nền kinh tế 3.1.1 Đối với nền kinh tế Khi NQ11 được ban hành thì được sự đồng tình của nhân dân và có những hiệu ứng tích cực đối với nền kinh tế vì nó thúc đẩy sản xuất công nghiệp tăng trưởng, sản xuất nông nghiệp đã vượt qua khó khăn và tiếp tục phát triển ổn định các hoạt động dịch vụ tiếp tục phát triển mạnh; đời sống nhân dân, đặc biệt là những người nghèo, người già neo đơn, người tàn tật, gia đình người có công được quan tâm...an sinh xã hội tiếp tục được đảm bảo, an ninh chính trị, trật tự xã hội được giữ vững. NQ ban hành đã giảm được tốc độ bơm tiền ra,giảm bội chi ngân sách,cắt giảm đầu tư công từ đó kiềm chế lạm phát tổng kim ngạch xuất khẩu quí I ước đạt 18,8 tỉ USD, tăng khoảng 29,7% so với cùng kỳ năm 2010, gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua. Thị trường tiền tệ tương đối ổn định, trong đó dự nợ tín dụng tăng 3,41%, lãi suất huy động VND bình quân ở mức 13,04%/năm...Sau khi Ngân hàng Nhà nước công bố những biện pháp về lãi suất, tỷ giá, kinh doanh vàng; trên thị trường, tỷ giá và giá vàng đã có xu hướng ổn định hơn, có thời điểm giảm so với trước. Về thị trường tiền tệ, giá USD tự do đã lắng dịu, không còn hoạt động công khai, rút ngắn khoảng cách chênh lệch tỷ giá giữa thị trường tự do với hệ thống ngân hàng từ 1.000 đồng/USD xuống còn 300-500 đồng/USD. Tình hình kinh doanh vàng miếng của các doanh nghiệp (DN) lớn đã giảm 30%-50%. Tuy nhiên, do nhiều cơ sở đẩy mạnh mua vàng nguyên liệu để sản xuất vàng nhẫn nên đẩy giá vàng trong nước cao hơn giá vàng quốc tế đến 1,5 triệu đồng/lượng. Về lãi suất, dù ít biến động nhưng trên thực tế, các ngân hàng sử dụng kỹ thuật hạch toán để lách quy định dẫn đến lãi suất huy động lên đến 16%/năm và lãi vay ở mức cao đến 18%-20%/năm. Đã vậy, nhiều DN còn gặp phải vấn đề là bán USD cho ngân hàng thì bán theo giá niêm yết, nhưng khi cần thanh toán thì ngân hàng không có USD để bán mà giới thiệu DN mua lại USD của DN khác với giá thỏa thuận. Do vậy, việc giải quyết các khó khăn cho DN là vấn đề bức bách hiện nay. Nếu thực hiện quyết liệt đúng như NQ 11 không kể đến những cú sốc bên ngoài thì tình hình kinh tế Việt Nam sẽ ổn định vào trên dưới 2 quý tới (cuối quý III, đầu quý IV). Dự đoán, đến 2012, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ trên 7% và lạm phát dưới 6%.Nhưng hiện tại mục tiêu này có thể không thực hiện được và theo TiếnSỹ Võ Trí Thành -Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý Trung ương thì con số tăng trưởng kỳ vong năm 2011 chỉ khoảng 6%. 3.1.2 Về TTCK Trước khi NQ11 được ban hành thì lúc này lạm phát đang cao có thể nói là đỉnh điểm và khi NQ11 ban hành thì tình hình nhập siêu được kềm chế,tỉ giá ngọai hối ổn định và đặc biệt thị trường vàng miếng sẽ được xóa bỏ.Tuy việc cho vay tín dụng đối với chứng khoán bị hạn chế và có thể ảnh hưởng xấu trong ngắn hạn nhưng có khả năng tăng trưởng tốt trong trung và dài hạn(có thể ổn định từ Quý III và Quý IV năm 2011) vì ngoài việc kiềm chế lạm phát và xóa bỏ thị trường vàng miếng đồng thời thị trường bất động sản,ngọai hối cũng bị hạn chế cho vay tín dụng thì lượng tiền có thể sẽ dồn vào thị trường chứng khoán khi mà giá cổ phiếu trên thị trường ViệtNam thấp hơn các nước trong khu vực. Sau hơn một tháng thực hiện NQ 11, chỉ số CDS (chỉ số đánh giá rủi ro trái phiếu chính phủ) lúc chưa có NQ11 là trên 300, cao hơn Philipines và Indonesia thì hiện nay đã giảm.Trong khó khăn thì mọi lĩnh vực đầu tư đều khó khăn chung nhưng lĩnh vực nào ít khó khăn hơn và thuận lợi hơn sẽ đón được dòng tiền đầu tư. Vậy nên chứng khoán sẽ là kênh đầu tư hấp dẫn nhất trong thời điểm khó khăn hiện tại. 3.2 Thách thức Sau khi nghị quyết 11 được ban hành các bộ, cơ quan và địa phương đã tập trung chỉ đạo, tích cực xây dựng chương trình hành động và triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ và đạt được những kết quả tích cực. Mặc dù việc Chính phủ cho điều chỉnh giá một số mặt hàng quan trọng như điện, xăng kéo theo tác động tăng giá chung nhưng thực tế cho thấy đây là điều cần thiết và không gây sức ép quá mức cho nền kinh tế cũng như đời sống của người dân, đồng thời đảm bảo được sự ổn định vĩ mô về lâu dài. Ngành GTVT đã giảm đầu tư xây dựng, giảm đầu tư công. Thực ra, khi chưa có NQ 11, khi Quốc hội và Chính phủ giao kế hoạch các dự án trái phiếu Chính phủ, đã thực hiện nội dung giảm đầu tư công. Năm 2011, giảm 50% vốn của các dự án trái phiếu Chính phủ. Cụ thể, ngành GTVT có thể giải ngân 20 -25 nghìn tỷ đồng thì chỉ bố trí 11 nghìn tỷ đồng. Vấn đề là Bộ GTVT triển khai thế nào cho hiệu quả. Thứ nhất là ưu tiên cho các dự án có thể hoàn thành trong năm 2011 và phát huy ngay tác dụng về kinh tế xã hội.Thứ hai là bố trí các dự án đang thực hiện mà có khả năng thuận lợi để đạt giải ngân cao.Còn lại, nếu chuẩn bị đầu tư, quyết định đầu tư và khởi công dự án mới thì hoàn toàn đình hoãn.Đây là nội dung quan trọng nhất khi triển khai NQ 11. . Vấn đề thứ hai là bên cạnh việc cắt giảm đầu tư thì vẫn duy trì các giải pháp ổn định, phát triển của các doanh nghiệp, bằng cách tổ chức có hiệu quả, rút ngắn lại thời gian chuẩn bị đầu tư và triển khai thi công các dự án để thực hiện có hiệu quả cao nhất, hỗ trợ doanh nghiệp một cách tối đa để có thể trụ vững trong bối cảnh khó khăn, tập trung vào các dự án quan trọng.Thứ ba là tập trung giảm các khoản chi tiêu thường xuyên theo NQ 11. Đầu năm, Bộ đã rà soát lại và vừa rồi lại tiếp tục rà soát, cuối cùng giảm được khoảng 10%. Bộ Công thương,có một số nhóm vấn đề đã được đặt ra : Nhóm một là thúc đẩy sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, vì có duy trì sản xuất mới duy trì được tăng trưởng kinh tế và nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, qua đó góp phần phát triển thị trường trong nước, cũng như mở rộng thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó lãi suất dù ít biến động nhưng trên thực tế, các ngân hàng sử dụng kỹ thuật hạch toán để lách quy định dẫn đến lãi suất huy động lên đến 16%/năm và lãi vay ở mức cao đến 18%-20%/năm. Đã vậy, nhiều DN còn gặp phải vấn đề là bán USD cho ngân hàng thì bán theo giá niêm yết, nhưng khi cần thanh toán thì ngân hàng không có USD để bán mà giới thiệu DN mua lại USD của DN khác với giá thỏa thuận. Do vậy, việc giải quyết các khó khăn cho DN là vấn đề bức bách hiện nay. Nếu các ngành sản xuất gặp khó khăn thì thất nghiệp là khó tránh khỏi. Quan trọng hơn nữa, nếu những ngành sản xuất mà gặp khó khăn thì sẽ tác động ngược lại thị trường chứng khoán. Lại trở thành một trong những nguyên nhân làm thị trường chứng khoán sẽ gặp khó khăn trong thời gian tới. Nhóm vấn đề thứ hai là kiểm soát nhập khẩu, đẩy mạnh xuất khẩu và kiềm chế nhập siêu. Trong năm 2011, cần đẩy mạnh hơn nữa tăng trưởng xuất khẩu, kiểm soát nhập siêu theo tinh thần những mặt hàng trong nước sản xuất được thì ưu tiên sử dụng, những mặt hàng chưa thực sự cần thiết thì hạn chế nhập khẩu. Về tình hình xuất, nhập khẩu, ước quý I-2011, tổng kim ngạch xuất đạt 18,8 tỷ USD, tăng khoảng 29,7% so với cùng kỳ năm 2010, gấp 3 lần chỉ tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua. Tổng kim ngạch nhập khẩu đạt khoảng 21,8 tỷ USD, tăng 23,9% so với cùng kỳ năm 2010. Số liệu thống kê cho biết, trong quý I-2011, kinh tế của đất nước tiếp tục tăng trưởng nhưng tốc độ giảm so với cùng kỳ và quý IV-2010. Tốc độ tăng trưởng GDP quý I-2011 ước đạt 5,4-5,6%. Các hoạt động dịch vụ tiếp tục phát triển mạnh; đời sống nhân dân, đặc biệt là những người nghèo, người già neo đơn, người tàn tật, gia đình người có công được quan tâm… Nhóm vấn đề thứ ba là bình ổn thị trường, góp phần cùng với ngành tài chính bình ổn giá, không để xảy ra sốt giá do thiếu hàng. Về phía NHNN: Kiểm soát chặt lãi suất, để kiềm chế tín dụng tăng dưới 20% nhưng vẫn đáp ứng nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh hiệu quả, đang chỉ đạo các Ngân hàng thương mại (NHTM) điều chỉnh lại kế hoạch kinh doanh về tăng trưởng tín dụng và tài sản có; đăng ký tăng trưởng tín dụng với NHNN trên cơ sở đảm bảo đúng các quy định về tỷ lệ an toàn và tăng trưởng tín dụng dưới 20% của NHNN. Đồng thời, các NHTM giảm đến mức tối đa tín dụng cho lĩnh vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. Ngân hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh linh hoạt các tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro và các tỷ lệ an toàn khác nhằm hướng các luồng vốn tín dụng phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh quan trọng và thiết yếu của nền kinh tế. Lãi suất cũng sẽ được kiểm soát ở mức hợp lý theo hướng chủ động, tích cực kiềm chế lạm phát, kiềm chế tăng trưởng tín dụng, nâng cao giá trị và mức hấp dẫn của VND so với ngoại tệ, đồng thời kiểm soát được việc chuyển dịch tín dụng VND sang ngoại tệ. Số liệu của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, đến giữa tháng 3/2011, lãi suất huy động ít biến động so với cuối tháng 1/2011, lãi suất huy động VND bình quân ở mức 13,04%/năm. Lãi suất cho vay tăng khoảng 0,5-1% so với cuối tháng 1/2011, lãi suất cho vay VND bình quân ở mức 16,23%/năm. Theo chỉ đạo của Chính phủ, gần đây những giao dịch ngoại tệ trái phép bị kiểm tra, xử lý gắt gao khiến tình hình tỉ giá dần trở nên ổn định. Dù còn sớm để khẳng định về sự "một giá" của đồng USD, nhưng có thể thấy rõ là hoạt động giao dịch USD tự do dù chưa chấm dứt hoàn toàn nhưng không còn có thể thao túng, gây ảnh hưởng đến tỉ giá chung nữa. Có thể nói, đến nay, sau chưa đầy 1 tháng từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 11/CP, thị trường vàng và ngoại tệ đã có những phản ứng tích cực rõ ràng nhất, khẳng định quyết tâm cao của Việt Nam trong kiểm soát tỷ giá. Nhiều doanh nghiệp bày tỏ sự vui mừng và tin tưởng bởi biện pháp này thực sự mang lại hiệu quả, tháo gỡ cho họ nhiều khó khăn do biến động tỷ giá và sự luôn thất thường mang lại. Tinh thần tiết giảm chi công, chi đúng nơi đã được nhắc tới thường xuyên trong các cuộc họp của thành phố, các ngành, các đơn vị, địa phương và doanh nghiệp. Tất cả đều tính toán lại phương án chi sao cho bảo đảm tiết kiệm 10% chi thường xuyên trong 9 tháng còn lại của năm 2011. Đáng chú ý nhất vẫn là chủ trương giảm đến mức tối đa tín dụng cho lĩnh vực phi sản xuất, nhất là lĩnh vực bất động sản, chứng khoán. . Thực tế, nội dung này không mới so với những tuyên bố trước đó của Chính phủ; tuy nhiên trong bối cảnh hiện tại thì đây là một vấn đề rất đáng quan tâm. Mục tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2011 đã được hạ xuống dưới 20%, thấp nhất trong nhiều năm trở lại đây. Mức tăng trưởng này thấp hơn cả năm 2008 và chỉ bằng một nửa so với năm 2009, và thấp hơn nhiều so với mức gần 30% của năm 2010. NHNN cũng nêu rõ biện pháp thực hiện là “điều chỉnh linh hoạt các tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro và các tỷ lệ an toàn khác” để nắn dòng tín dụng. . Hiện tại, hệ số rủi ro đối với các khoản cho vay bất động sản và chứng khoán đang ở mức 250%. Trong thời gian tới, NHNN có thể sử dụng biện pháp này và yêu cầu nâng hệ số rủi ro, trích lập dự phòng với tỷ lệ cao hơn và gián tiếp buộc ngân hàng giảm cho vay vào lĩnh vực bất động sản và chứng khoán. . Tất cả những đều này cho thấy dòng tiền đổ vào thị trường chứng khoán và bất động sản trong năm 2011 sẽ không thể mạnh như những năm trước đó. Dòng vốn cho bất động sản gần như tắc nghẽn sau hơn một tháng Ngân hàng Nhà nước ban hành chỉ thị số 01 về việc giảm tỷ trọng cho vay phi sản xuất, trong đó có bất động sản, xuống không quá 16% so với tổng dư nợ tối đa đến cuối năm nay. Quy trình, thủ tục và điều kiện vay khắt khe, cộng với lãi suất cao ngất ngưởng lên đến 22-24% một năm, khiến những ai có ý định đi vay kinh doanh bất động sản thời điểm này phảu chùn bước. Nhiều doanh nghiệp bất động sản tại Tp.HCM đang đứng ngồi không yên vì chính sách này Từ đầu tháng 3 đến nay, thị trường chứng khoán hầu như đi ngang khi chỉ số VN-Index chỉ xoay quanh mức 460 điểm. Giao dịch cũng đang lùi dần về mức thấp, chỉ khoảng 750 tỷ đồng/mỗi phiên, thậm chí có nhiều phiên giao dịch xuống dưới 600 tỷ đồng. Đây là mức khá thấp so với trung bình các phiên trong năm ngoái. Trong tháng 2 có nhiều phiên VN-Index đã vượt qua mức 500 điểm, điển hình là vào ngày 9/2, chỉ số này lên đến 522 điểm nhưng chứng khoán đã thực sự đi xuống ngay sau khi có thông tin tỷ giá được điều chỉnh tăng 9,3% từ ngày 11/2, cùng với thông tin tăng giá xăng, giá điện và Nghị quyết 11/NQ-CP về kiềm chế lạm phát được ban hành có ghi rõ việc siết chặt dòng vốn vào thị trường chứng khoán BIỂU ĐỒ % THAY ĐỔI VN INDEX VÀ GIÁ CỔ PHIẾU Cũng cần phải lường trước những khó khăn mà nền kinh tế có thể gặp phải. Ngân sách hạn hẹp. Chúng ta thực hiện đồng bộ các biện pháp thắt chặt tiền tệ đồng thời là hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ bên cạnh đó vẫn phải đảm bảo chính sách an sinh xã hội. Liệu với nguồn ngân sách hiện tại chúng ta có thể thực hiện được hay không. Bội chi ngân sách của chúng ta sẽ là bao nhiêu so với con số năm 2009 . Độ trễ của chính sách.Việc thực hiện hiệu quả Nghị quyết 11 cũng sẽ làm chậm lại tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong ngắn hạn, ADB đã giảm mức dự báo tăng trưởng của Việt Nam trong năm 2011 xuống còn 6,1% so với mức dự báo 7,0% được đưa ra vào tháng 9/2010. ADB cũng dự báo tốc độ tăng trưởng sẽ tăng trở lại lên mức 6,7% trong năm 2012. va cũng phải lường trước việc Nghị quyết 11 gặp khó khăn và không đạt được hiệu quả như mong muốn, khi đó, tỉ lệ lạm phát của Việt Nam sẽ còn tăng cao nữa. Vấn đề quan liêu. Nghị quyết là hay như vậy, là tốt như vậy, là quyết liệt như vậy nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ của chúng ta đã được đảm bảo chưa. Khi thực hiện từ trung ương tới địa phương, từ nhà nước tới các doanh nghiệp nếu không có sự liên kết, chính xác trong từng khâu thực hiện “trên nói một đường dưới làm một nẻo” thì rất có thể sẽ không thể thành công hoặc hiệu quả không cao hoặc tệ hơn nữa là thất bại mà nếu thất bại thì hậu quả khó lường. Một khi đã mất đi niềm tin của dân chúng vào chính sách của nhà nước thì nghuy cơ lạm phát, thất nghiệp… thậm chí là khủng hoảng kinh tế có thể sẽ xảy ra. 3. Cần thêm những giải pháp bổ sung Nghị quyết 11 về ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát là rất cần thiết và cấp bách. Những giải pháp nêu trong Nghị quyết này là tương đối đồng bộ, đúng đắn, đã chạm được tới 3 cái chốt rất quan trọng gây ra lạm phát trước mắt, đó là giảm tốc độ tăng tổng phương tiện thanh, giảm tốc độ tăng tín dụng; giảm bội chi ngân sách và cắt giảm bớt đầu tư công…. Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, đây vẫn mới là những giải pháp mang tính ngắn hạn, tình thế. Và ngay trong các giải pháp ngắn hạn này cũng mới tập trung chủ yếu vào việc giảm tốc độ bơm thêm tiền vào lưu thông. Vì vậy, nên chăng cần bổ sung thêm một số giải pháp nữa: Một, cần có thêm các giải pháp rút bớt tiền trong lưu thông về song song với các giải pháp giảm tốc độ bơm thêm tiền vào lưu thông đã nêu trong NQ 11. Hai, bên cạnh các giải pháp ngắn hạn, tình thế cần phải có ngay các giải pháp chống lạm phát cơ bản hơn. Ba, cần xem xét kỹ hơn chủ trương “xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do”, bởi lẽ nếu chỉ xuất phát từ chỗ xóa bỏ kinh doanh vàng miếng là để giảm bớt việc dùng vàng trong thanh toán thì điều đó không có nhiều ý nghĩa. Việc “cấm” là cần thiết chỉ trong những trường hợp thật cần thiết mà thôi, đừng lạm dụng nó một cách phổ biến. Việc “xóa bỏ việc kinh doanh vàng miếng trên thị trường tự do” có thể là cần thiết, nhưng không phải lúc này. Chỉ nên thực hiện việc “cấm”, “xóa” khi có ai đó thay thế để đáp ứng nhu cầu của người dân. Gói giải pháp của chính phủ là những giải pháp thắt chặt tài chính và tiền tệ, có thể xem là những giải pháp tình thế. Nhưng tình hình bất ổn kinh tế vĩ mô Việt Nam lại có căn nguyên ở mô hình tăng trưởng – tăng trưởng bằng vốn và tài nguyên là chính. Do vậy muốn xử lý cơ bản vấn đề ổn định kinh tế vĩ mô phải tính đến những giải pháp dài hạn – chuyển đổi mô hình tăng trưởng – tái cấu trúc nền kinh tế. Tình hình bất ổn vĩ mô hiện nay có nguyên nhân sâu sa từ mô hình tăng trưởng, do vậy những giải pháp tài chính và tiền tệ có thể tạm thời ổn định được tình hình. Nhưng phải áp dụng các giải pháp cơ bản theo hướng chuyển đổi mô hình tăng trưởng mới có thể tạo được cơ hội ổn định kinh tế vĩ mô tương đối bền vững và nền kinh tế có thể phát triển có hiệu quả. Tóm lại, nếu chính phủ quá chú trọng đến mục tiêu trong dài hạn mà không bỏ rơi vấn đề tác động tới thị trường trong ngắn hạn thì rất có thể sẽ rơi vào tình trạng như những công ty có nhân sự tài năng, sản phẩm chất lượng cao nhưng bị phá sản vì không có tiền thanh toán cho các khoản tiền điên, tiền nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docẢnh hưởng của NQ 11 đến nền kinh tế và thị trường chứng khoán.doc
Luận văn liên quan