Là con người ai cũng biết nghiêng mình rung cảm trước cái đẹp xuất phát từ thiên nhiên,cảnh vật,từ lòng người và trên hết có lẽ là cái đẹp bắt nguồn từ chiều sâu văn hoá.Trong văn chương có Nguyễn Tuân,Thạch Lam,trong âm nhạc có Trịnh Công Sơn là những người ưa tìm về cội nguồn truyền thống.Nói đến truyền thống có rất nhiều điều cần phải bàn luận:lễ hội, ẩm thực,nghệ thuật dân gian.Và không thể không kể đến trang phục truyền thống. Thật tự hào khi được nói về chiếc áo dài Việt Nam, đại diện cho một nét đẹp văn hóa, không chỉ đẹp về kiểu dáng và đường nét mà điều quan trọng chiếc Áo dài ấy mang nhiều ý nghĩa kết tinh những nét đẹp tinh hoa của dân tộc. Tất cả những tâm tư,suy nghĩ của con người đều được cộng đồng hoá,biểu hiện rõ nét qua trang phục. Đây chính là cốt lõi của truyền thống cốt lõi của văn hoá.
Được tìm hiểu về trang phục truyền thống cua dân tộc quả là một điều thật thú vị, được biết về nguồn gốc lịch sử cùng với sự phát triển từ xưa đến nay góp phần làm em có thêm nhiều sự hiểu biết và có thể tự hào khi được giới thiệu về tà Áo dài Việt đến với bạn bè năm châu về văn hóa trang phục truyền thống của Việt Nam. Từ đó luôn trân trọng gìn giữ và phát huy nét đẹp của trang phục tryền thống ấy để mang lại những nét đẹp tinh túy nhất trong con ngươi Việt.
34 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 53140 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Áo dài Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ay được ba cái áo vắn, nếu chỉ mặc áo vắn có thể sẻn được 200 triệu đồng/năm. Áo dài không hợp với phụ nữ Việt Nam đời sống mới. Cuộc vận động này dần đã được người dân hưởng ứng và áo dài không còn là trang phục thông dụng của phụ nữ Việt Nam trong một thời gian dài ở miền bắc vĩ tuyến 17.
I.2.5Áo dài Le Mur
"Le Mur" chính là cách dịch sang tiếng Pháp của Cát Tường, một họa sĩ vào thập niên 1930 đã thực hiện một cải cách quan trọng trên chiếc áo tứ thân để biến nó chỉ còn lại hai vạt trước và sau mà thôi. Vạt trước được họa sĩ nối dài chấm đất để tăng thêm dáng vẻ uyển chuyển trong bước đi đồng thời thân trên được may ôm sát theo những đường cong cơ thể người mặc tạo nên vẻ yêu kiều và gợi cảm rất độc đáo. Để tăng thêm vẻ nữ tính, hàng nút phía trước được dịch chuyển sang một chỗ mở áo dọc theo vai rồi chạy dọc theo một bên sườn. Tuy nhiên, áo dài Le Mur có nhiều biến cải mà nhiều người thời đó cho là "lai căng" thái quá, như áo may ráp vai, ráp tay phồng, cổ bồng hoặc cổ hở. Thêm nữa áo Le Mur mặc cho đúng mốt phải với quần xa tanh trắng, đi giày cao, một tay cắp ô và quàng vai thêm chiếc bóp đầm. Lối tân thời này đã bị một số dư luận khi đó tẩy chay và cho là "đĩ thõa" (như được phản ảnh không hề thiện cảm trong tác phẩm Số đỏ của Vũ Trọng Phụng).
Theo tài liệu thu thập được thì hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường là người đầu tiên đã cải tiến chiếc áo dài cho phụ nữ Việt Nam. Ông sinh năm 1912 tại Sơn Tây. Năm 17 tuổi, ông trúng tuyển vào trường Cao Đẳng Mỹ Thuật Hà Nội và tốt nghiệp vào năm 1934.
Ông là người đã đóng góp rất nhiều trong việc sáng chế các kiểu quần áo cho phụ nữ Việt Nam. Vào đầu thập niên 1930, chiếc áo dài thuần tuý của Việt Nam bắt đầu thay đổi, giới phụ nữ bắt đầu mặc áo mầu và năm 1934, hoạ sĩ Cát Tường đã tung ra một loạt các loại mẫu áo dài tân thời trong tập san Đẹp 1934 và báo Phong Hoá thời bấy giờ, dưới cái tên “Lemur”.
Sau đó, ông tiếp tục thiết kế nhiều mẫu áo dài cho phụ nữ, nữ sinh và áo ngắn mặc trong nhà. Ngoài chuyện cải tiến áo dài cho phụ nữ, và đóng góp vào việc thiết kế các kiểu y phục thích hợp với thân hình, lại làm tăng vẻ đẹp của phái nữ, hoạ sĩ Cát Tường còn cải tiến và mỹ thuật hoá chiếc xích lô đạp thời bấy giờ và được dân chúng ủng hộ nhiệt tình.
Tiếc thay, vào ngày 17 tháng 12 năm 1946, ông bị dân quân bắt tại Hà Nội và đưa đi biệt tích.Mặc dù họa sĩ đã ra đi một cách bất ngờ gần 75 năm trước, nhưng bóng dáng của chiếc áo dài mà hoạ sĩ tài ba Cát Tường thiết kế vẫn tiếp tục xuất hiện tại Việt Nam và nhiều nơi trên thế giới. Tà áo dài tha thướt, nhã nhặn, kín đáo và duyên dáng làm tăng thêm vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam, và là niềm hãnh diện cho người Việt.
Những chiếc áo dài đầu tiên:
Từ Los Angeles, California, nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiến, người con trai của hoạ sĩ Nguyễn Cát Tường kể về chiếc áo dài của phụ nữ ngày xưa:
Màu của nó u tối, chỉ có mầu nâu hay màu đen. Áo lùng thùng, ba bốn tà, quần thì rộng. Sự đổi mới của Việt Nam lúc đó bắt đầu có trong Nam. Ngoài Bắc thì hay mặc mầu nâu, màu đen, trong Nam thì có những lối mặc khác, áo thì màu khác, nhưng thường thường thì màu vẫn không được tươi lắm.
Khi ông Cát Tường bắt đầu vẽ y phục cho phụ nữ, thì ông nhận thấy quần là cái quan trọng nhất. Nó phải bó sát mông, xuống đùi hơi rộng và gấu quần hơi loe ra một chút để khi đi, dáng được tha thướt…
Sau đó, lưng quần dùng dây chun để cho máu được lưu thông, mình kéo lên hay kéo xuống rất tiện. Cái áo dài thì tuỳ muà, mùa đông thì cần phải che kín cổ, muà hè thì bật để cho mát. Vai áo bó chặt quá thì người đàn bà không thể giơ tay lên được, nên vai áo phải làm hơi rộng một chút, tay thì vẫn thon lại…Màu sắc thì chủ trương tùy theo màu da, màu tóc hay khung cảnh thời tiết. Thí dụ mùa hè đừng nên mặc áo chói chang quá, nên chọn màu nhẹ.
Nhân nói đến chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam ngày nay, ông Hiến cho hay là bây giờ, chiếc áo dài đã trở thành quốc phục nhưng lại không còn được xử dụng hàng ngày như trước, trừ các em nữ sinh hay trong các dịp lễ lớn mà thôi, ông nói:
Tôi đi chụp hình ở Việt Nam cũng nhiều, từ Bắc đến Nam, các em đi học mặc áo dài, cầu Trường Tiền hay tỉnh Bạc Liêu, các em mặc áo dài nhiều lắm. Bây giờ, các ngày lễ lớn, áo dài trở thành một quốc phục. Phụ nữ bây giờ độc lập lắm, họ muốn quần áo của họ phải hợp thời trang tăng vẻ đẹp, và đi dộng dễ dàng. Còn áo dài của mình tương đối còn tha thướt và yểu điệu quá…
Tết là một trong những dịp mà khách hàng đến rất nhiều. Thương hiệu của tôi là chuyên về áo dài, mỗi lần Tết hình như là mọi người muốn quay về cội nguồn, kể cả nam nữa, thế hệ trẻ bây giờ tụi nó cũng lại để mua áo dài nam nữa.
Điều đáng mừng là mọi người, nhiều lứa tuổi, mặc áo dài nhiều…Nói chung, mình thấy văn hoá của mình không bị mai một, mà gần như lớp trẻ cũng hiểu biết thêm về cội nguồn của mình và trong ngày Tết thì ưu tiên cho trang phục quốc phục của mình nhiều hơn…Trong ngày Tết thì mọi người chọn một bộ truyền thống.
Theo anh, ngày thường thì chiếc áo dài cải biên có thể mặc với quần din, nhưng đã là ngày Tết thì áo dài phải nên theo kiểu mẫu truyền thống của người Việt, anh nói:
Chung nghĩ rằng ngaỳ mồng Một, xông đất đầu năm thì mọi người nên tuân theo truyền thống nề nếp văn hoá dân tộc. Chung thấy rằng đường phố Sài Gòn mặc áo dài nhiều lắm, hiện tại bây giờ giới trẻ trở về cội nguồn, hiểu biết nhiều hơn và mọi người lại quan tâm đến áo dài nhiều hơn…Càng ngày mọi người càng chú ý đến nét truyền thống của mình nhiều lắm.
Áo dài không phù hợp khi thời tiết giá lạnh. Đó là tình hình ở Sài Gòn, thế nhưng, ở Hà Nội, năm nay thời tiết lạnh giá, nên cũng ảnh hưởng đến việc mặc áo dài trong ngày Tết. Và trên thực tế, chiếc áo dài giờ đây đa số chỉ còn được xử dụng trong các buổi lễ tôn giáo trong dịp Tết.
Cô Hường, nhân viên khách sạn Melani ở Hà Nội phát biểu:Nó lạnh quá, người ta không mặc áo dài, mà bây giờ em thấy Tết ít người mặc áo dài lắm. Hà Nội hầu như chẳng có ai mặc dài gì cả! Người lớn tuổi thì cũng mặc áo dài đi chúc Tết…Thanh niên thì chẳng mấy khi người ta mặc, chỉ có đám cưới bạn bè thì mặc, còn bình thường thì không…
ở quận 1, TPHCM để hỏi thăm về chiếc áo dài trong mấy ngày Tết, chị Hương, chủ tiệm may cho hay:”Vẫn mặc, nhưng chỉ ngày mồng Một, đi Chuà, hay Phật Tử họ đi chùa…Nếu đi thăm bà con thì không mặc đâu, chỉ có dịp quan trọng thôi, đi chúc tết, đi thăm bạn bè thì người ta không mặc đâu, ít lắm.
Nhà thiết kế thời trang nổi tiếng Võ Việt Chung, chuyên về áo dài, chủ trương cải biến áo dài mặc với quần “din” cho biết:”Em cũng thích người ta mặc áo dài, nhưng mà em không mặc vì nó vướng, chỉ có đi đám cưới bạn bè, có dịp gì thì mới mặc thôi! Em thấy mọi người rất ít mặc áo dài, chỉ trong khách sạn, nhà hàng, lễ hội…còn thì chẳng ai mặc cả!
Nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiến, con trai của họa sĩ Cát Tường năm xưa, cho rằng hiện nay, một số nhà thiết kế thời trang vì chú ý đến cái lạ của bộ y phục áo dài, nên phần nào làm mất đi nét đẹp duyên dáng của phụ nữ, ông phát biểu: Người thiết kế phải biết vẻ đẹp của phụ nữ và Mà trời lạnh như thế này thì chẳng ai mặc đâu! Em ra đường không thấy ai mặc hết, chả hiểu tại sao, có lẽ do lạnh quá hay là áo dài người ta chỉ mặc trong dịp lễ, trong những ngày đặc biệt, Tết thì chỉ bên Công Giáo, người ta mặc áo dài để đến nhà thờ. Còn thanh niên thì không ai mặc cả! Nếu mặc áo dài thì bị cho là đầu óc có vấn đề!
Cô cũng chia xẻ với Phương Anh rằng, bản thân cô thích ngắm phụ nữ mặc áo dài. Và vì nhu cầu công việc, cô phải mặc áo dài đi làm hàng ngày, thế nhưng, nhiều khi chiếc áo dài cũng làm cô vướng víu khó chịu. Cô nói:
Áo dài được hưởng ứng ở miền nam nhiều hơn
Nhân dịp Tết, Phương Anh cũng hỏi thăm nhà may Hoài Hương phải làm sao tôn được vẻ đẹp, cái nét mềm mại của phụ nữ phải được đưa lên. Thí dụ, tà áo dài khi gió phớt qua, thì người ta gọi là đón gió, tức là mình thấy tha thướt, hoặc là tia nắng chiếu vào áo lụa Hà Đông, làm cho các thi sĩ bật ra các vần thơ, tất cả những chuyện đó là chiếc áo dài đón gió, đón nắng, làm cho người phụ nữ trở thành một huyền thoại, nhập vào tim óc của người xem…tất cả biểu hiện một cách thanh tao…
Ý kiến này của ông đựơc khá nhiều người chia sẻ. Thực vậy, chắc qúi vị cũng đồng ý với Phương Anh rằng, phụ nữ Việt Nam dù ở bất cứ tuổi nào, dù ở bất cứ nơi nào, hoàn cảnh nào, khi khoác lên mình chiếc áo dài, thì vẻ đẹp luôn được tăng lên, hơn nữa, đó lại là một y phục truyền thống, nên Phương Anh tin rằng dù ít còn thấy xuất hiện trong đời sống hàng ngày, nhưng chiếc áo dài sẽ không bao giờ mất đi, như hy vọng của nhiếp ảnh gia Nguyễn Trọng Hiến:Tôi nghĩ rằng ngày nào còn người Việt Nam thì ngày đó chiếc áo dài vẫn còn.
I.2.6 Áo dài Lê Phổ
Năm 1934, một họa sĩ khác là Lê Phổ bỏ bớt những nét lai căng, cứng cỏi của áo Le Mur, đồng thời đưa thêm các yếu tố dân tộc từ áo tứ thân, ngũ thân vào, tạo ra một kiểu áo vạt dài cổ kính, ôm sát thân người, trong khi hai vạt dưới được tự do bay lượn. Sự dung hợp này quá hài hòa, vẹn vẻ giữa cái mới và cái cũ, được giới nữ thời đó hoan nghênh nhiệt liệt. Từ đây áo dài Việt Nam đã tìm được hình hài chuẩn mực của nó, và từ bấy đến nay dù trải bao thăng trầm, bao lần cách tân cách điệu, hình dạng chiếc áo dài về cơ bản vẫn giữ nguyên.
I.2.7 Áo dài với tay giác lăng
Thập niên 1960 có nhà may Dung ở Dakao, Sài Gòn đưa ra kiểu may áo dài với cách ráp tay raglan (giác lăng). Cách ráp này đã giải quyết được vấn đề khó khăn nhất khi may áo dài: những nếp nhăn thường xuất hiện hai bên nách. Cách ráp này cải biến ở chỗ hàng nút cài được bố trí chạy từ dưới cổ xéo xuống nách, rồi kế đó chạy dọc một bên hông. Với cách ráp tay raglan làn vải được bo sít sao theo thân hình người mặc từ dưới nách đến lườn eo, khiến chiếc áo dài ôm khít từng đường cong của thân hình người phụ nữ, tạo thêm tính thẩm mỹ theo đánh giá của một số nhà thiết kế.
I.2.8 Áo dài miniraglan
Nữ sinh mặc áo dài đến trường
Phiên bản này được áp dụng rộng rãi cho nữ sinh. Theo phiên bản này, áo dài tay raglan có tà chỉ dài tới gối, nhưng hai ống quần rộng lòa xòa phủ kín đôi chân. Hai đặc điểm này làm cho tà áo nữ sinh đậm chất hồn nhiên, dễ thương.
I.2.9 Áo dài cổ thuyền
Cuối năm 1958 khi bà Trần Lệ Xuân còn tại vị Đệ Nhất Phu Nhân của nước Việt Nam Cộng Hoà, bà đã thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Không chỉ lạ về mẫu áo, chiếc áo dài hở cổ còn được ‘phá cách’ với họa tiết trang trí trên áo: nhành trúc mọc ngược. Một số nhà phê bình phương tây cho rằng nó hợp lý với thời tiết nhiệt đới của miền nam Việt Nam. Nhưng kiểu áo này khiến những người theo cổ học tức giận và lên án nó không hợp với thuần phong mỹ tục. Loại áo dài không có cổ này vẫn phổ biến đến ngày nay và phần cổ được khoét sâu cho tròn chứ không ngắn như bản gốc.
I.3- Sự hình thành:
I.3.1 Một biểu tượng của Việt Nam
Áo dài nam, nữ truyền thống và khăn, trong đám cưới
Khác với kimono của Nhật Bản hay hanbok của Hàn Quốc, chiếc áo dài Việt Nam vừa truyền thống lại cũng vừa hiện đại. Trang phục dành cho nữ này không bị giới hạn chỉ mặc tại một số nơi hay dịp mà có thể mặc mọi nơi, dùng làm trang phục công sở, đồng phục đi học, mặc đi chơi hay mặc để tiếp khách một cách trang trọng ở nhà. Việc mặc loại trang phục này không hề rườm rà hay cầu kỳ, những thứ mặc kèm đơn giản: mặc với một quần lụa hay vải mềm, dưới chân đi hài, guốc, hay giày gì đều được; nếu cần trang trọng (như trang phục cô dâu) thì thêm áo choàng và chiếc khăn đóng truyền thống đội đầu, hoặc một chiếc miện Tây phương tùy thích. Đây chính là điểm đặc biệt của thứ trang phục truyền thống này.
Chiếc áo dài hình như có cách riêng để tôn đẹp mọi thân hình. Phần trên ôm sát thân nhưng hai vạt buông thật mềm mại trên đôi ống quần rộng. Hai tà xẻ chí trên vòng eo khiến cho cử chỉ người mặc thật thoải mái, lại tạo dáng thướt tha, tôn vẻ nữ tính, vừa kín kẽ vì toàn thân được bao bọc bởi lụa mềm, lại cũng vừa khiêu gợi vì chiếc áo làm lộ ra sống eo.
Chiếc áo dài vì vậy mang tính cá nhân hóa rất cao: mỗi chiếc chỉ may riêng cho một người, dành cho riêng người đó; không thể có một công nghệ "sản xuất đại trà" cho chiếc áo dài. Người đi may được lấy số đo thật kỹ. Khi may xong phải qua một lần mặc thử để sửa nhỏ nữa mới hoàn thiện.
I.3.2 - Trong thơ ca và hội họa
Áo dài màu trắng Áo dài màu
Áo dài màu đỏ (thường là áo dài dùng trong lễ cưới, lễ ăn hỏi của người Việt)Hình ảnh phụ nữ/con gái Việt Nam với chiếc áo dài truyền thống đã được nhiều nhà nghệ sĩ ghi lại, nổi bật nhất là trong thơ và nhạc. Bài thơ nổi tiếng về chiếc áo dài có thể kể là "Áo lụa Hà Đông" của Nguyên Sa, bài này được phổ nhạc thành một bài hát nổi tiếng và là cảm hứng cho một bộ phim điện ảnh cùng tên, với những câu:
Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông...
"Ngày xưa Hoàng Thị" của thi sĩ Phạm Thiên Thư kể về chuyện tình thuở học sinh với cô gái họ Hoàng, cô xuất hiện trong bài với những nét phác họa:
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài".
Nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc bài này cũng không quên làm nổi bật hình ảnh áo dài khi sửa thành:
Ôm nghiêng tập vở, tóc dài, tà áo vờn bay...
Áo dài cũng in đậm nét trong những vần thơ nghịch ngợm của Nguyễn Tất Nhiên:
Tháng giêng em bikili
Tỉnh lỵ còn nguyên nét Việt Nam
Đài các chân ngà ai bước khẽ
Nguyện theo tà lụa cả phương Đông (Tháng giêng, chim)
đưa em về dưới mưa/ áo dài sầu hai vạt/ khi chấm bùn lưa thưa... (Em hiền như Ma-soeur)
Trong thơ Bùi Giáng, màu áo dài của ký ức được nâng lên thành huyền thoại:
Biển dâu sực tỉnh giang hà
Còn sơ nguyên mộng sau tà áo xanh (Áo xanh)
Và có lẽ trong những vần thơ rất dung dị sau đây của Huy Cận cũng có hình bóng của chiếc áo dài trắng nữ sinh:
Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng).
Tranh Thiếu nữ bên hoa huệ của Tô Ngọc Vân
Bức tranh "Thiếu nữ bên hoa huệ" của họa sĩ Tô Ngọc Vân sáng tác năm 1943, là một trong những tác phẩm hội họa hiện đại Việt Nam đầu tiên và nổi tiếng bậc nhất, miêu tả một cô gái mặc áo dài trắng ngồi bên một bình hoa huệ tây(hoa loa kèn).
Chiếc áo dài cũng phảng phất hay xuất hiện nhiều trong các ca khúc Việt Nam. Trong nhạc Trịnh Công Sơn có thể nhìn thấy khá nhiều. Theo hồi ký, chính những bước chân hoàng cung của những nữ sinh áo tím Huế đã làm cho nhạc sĩ họ Trịnh viết nên bài "Diễm xưa" nổi tiếng. Hay trong bài "Hạ trắng", hình ảnh áo dài cũng chập chờn:
Gọi nắng trên vai em gầy đường xa áo bay... (Hạ trắng)
"Bé ca" của Phạm Duy viết cho con gái mới lớn, có bài "Tuổi ngọc" tả về niềm hân hoan của cô bé khi bước chân vào trung học, lần đầu khoác lên mình "một chiếc áo như mây hồng":
Xin cho em một chiếc áo dài, cho em đi mua xuân tới rồi
Mặc vào đời rồi ra, mừng lạy chào mẹ cha
Hàng lụa là thơm dáng tuổi thơ
Phạm Duy cũng không quên nhắc về chiếc áo này trong một giấc mơ hòa bình từ thập niên 1940:
Nằm mơ, mơ thấy trăm họ tốt tươi, mơ thấy bên lề cuộc đời, áo dài đùa trong nắng cười... (Quê nghèo)
Bài "Một thoáng quê hương" của Từ Huy nổi tiếng một thời với câu:
Tà áo em... bay, bay, bay, bay... trong gió nhẹ nhàng...
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó... em ơi...
Nhạc sĩ Sỹ Luân cũng có bài "Áo dài ơi" vui tươi :
Có chiếc áo dài tung tăng trên đường phố
Những lúc buồn vui vu vơ nào đó
Ánh mắt hồn nhiên vô tư dễ thương á hà…...
...Áo dài vui áo dài hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói áo dài cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Áo dài vui vui áo dài hát hát bao nắng xuân đang về khắp nơi
Áo dài nói nói áo dài cười cười mang hạnh phúc đến cho mọi người
Nhạc sĩ Huỳnh Nhật Tân với bài "Cô gái Việt Nam":
Em, cô gái kiêu sa trong tà áo dài Việt Nam
Em, duyên dáng thơ ngây trong vườn nắng đẹp bình minh
Em chân bước mượt mà, em tay trắng ngọc ngà, đẹp lộng lẫy thướt tha.
Em như đóa hoa xinh trong tà áo dài Việt Nam
Em yêu quý quê hương, yêu tà áo dài Việt Nam...
Nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng với ca khúc "Một đời áo mẹ áo em" kể lại lịch sử và sự gắn kết nhiều thế hệ của chiếc áo dài.
Nhạc sĩ Jo Marcel và ca khúc "Áo dài Việt Nam":
...Người Việt Nam trong chiếc áo dài
Người Việt Nam tha thướt bước về
Vẻ đẹp Việt Nam ngàn đời không phai
Cùng tha thướt bước trên đường của xứ khách
Cùng nắm tay nhau chia xẻ buồn vui
Cùng tiếp tay nhau duy trì nét đẹp
Vẻ đẹp của người Việt Nam
Gần đây, nhạc sĩ Nguyễn Đức Cường với ca khúc "Em trong mắt tôi":
Em đẹp không cần son phấn… xinh thật xinh… thật xinh... rất hiền...
Không quần jeans… giầy cao gót… em chọn riêng mình em áo dài… duyên dáng...
Giống như hoa kia bên thềm… ngát hương không khoe sắc màu… ngàn đóa hoa đang rực rỡ không sánh bằng...
Nhẹ nhàng tung bay tà áo dài... Em phụ nữ Việt…
Ánh lên bao rạng ngời người Phương Đông…
Các nhạc sĩ tiền chiến cũng hay ca ngợi áo dài như bài "Tà áo xanh" của Đoàn Chuẩn - Từ Linh. Và cảm xúc về chiếc áo dài cũng làm nên những câu hát nổi tiếng của Hoàng Trọng:
Ngàn thu mưa rơi trên áo em màu tím
Ngàn thu đau thương vương áo em màu tím
Nhuộm tím những chuỗi ngày vắng nhau
Tháng năm càng lướt mau
Biết bao giờ trông thấy nhau (Ngàn thu áo tím)
I.4 – Các kiểu Áo dài:
1. Áo dài nữ giới:
Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày nay chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam.
Như lịch sử còn ghi lại cuộc chiến Trịnh - Nguyễn phân tranh kéo dài gần 200 năm. Ở miền Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì, ở Miền Nam các chúa Nguyễn miệng nói thuần phục nhà Lê song thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của đằng trong để củng cố địa vị cho sự nghiệp: “ Vạn đại dung thân”. Năm 1744 trong dân gian miền Nam bỗng lưu truyền một câu sấm “ Bát đại thời hoàn trung đô” (tức là ở lại kinh đô Thăng Long ngay). Câu sấm này làm cho chúa Nguyễn Phúc Khoát giật mình. Triều thần của Nguyễn Phúc Khoát đã họp bàn để tìm ra hướng giải quyết “ hoàn” Trung Đô. Một thời gian sau các đại quan đã trình bày với chúa Nguyễn rằng “ Muốn thực sự có một vương quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi lễ nhac, thay đổi văn hoá”. Văn hoá đó là trang phục. Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và áo may sát người dài đến mắt cá chân
Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 - 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn và cũng để diện chuỗi hột trang sức nhiều vòng.
Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùng thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp. Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm.
Và kể từ đó phân biệt với phụ nữ hai miền thì phụ nữ miền Bắc mặc váy phụ nữ miền Nam mặc quần có đáy ( hai ống) như đàn ông. Với con mắt phong kiến, võ vương thấy phụ nữ mặc quần hai ống trông khêu gơi quá nên ông bèn cho triều thần nghiên cứu tham khảo áo dài của người Chăm (Giống áo ài Việt Nam ngày nay nhưng không xẻ nách) và chiếc áo dài thượng Hải ( xẻ đến đầu gối) để từ đó chế ra áo dài Việt Nam. Vì thế có thể coi chiếc áo dài của người phụ nữ đầu tiên giống như chiếc áo dài của ngừời Chàm nhưng có xẻ nách. Chiếc áo dài ngày nay hội tụ cả hai yếu tố của phương Bắc và phương Nam tạo nên sự cân đối hài hoà.
Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu. Thời kỳ này, gấu áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện, nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và một số ở khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi là Le Mur mang mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may, không nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may bồng, tay nối ở vai; khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ sỹ hay ăn chơi “thời thượng” lúc đó mới dám mặc.
Nhưng chỉ đến khoảng năm 1943 thì loại áo này đã bị lãng quên.Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết eo. Các nhà may lúc đó đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông để áo ôm theo thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao lên trong khi gấu được hạ thấp xuống. Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lượng đông đảo các nhà tạo mẫu áo dài, với đủ các loại chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo đưa ra những mẫu mốt mới...Chất liệu mới cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường nét thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa văn trên áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo “công thức” cũ, nghĩa là không khác gì nhiều với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII.
2. Áo dài nam giới:
Có lẽ sẽ thật là thiếu sót nếu không đề cập tới trang phục áo dài dành cho nam giới. Theo nhà nghiên cứu Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là một trang phục truyền thống của phái nam. Tuy nhiên theo sắc dụ ban hành từ thời chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thông thoáng hơn. "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này). Từ thập niên 1930 trở đi mới xuất hiện áo dài nữ phục hai vạt, vậy về lý, áo dài nam phục hai vạt cũng phải xuất hiện khoảng thời gian đó.
Áo dài trong Hội nghị APEC tổ chức tại Hà Nội năm 2006
Cụ già mặc áo dài the cúng Tất Niên nhân dịp Tết Nguyên Đán
Theo nhà biên khảo Trần Thị Lai Hồng thì áo ngũ thân đi đôi với quần hai ống và khăn đội đầu cũng là quốc phục của phái nam. Các bà các cô dùng mầu sắc óng ả dịu mát trong khi đàn ông con trai chỉ dùng màu đen, trắng, hoặc lam thẫm. Theo sắc dụ ban hành từ thời Chúa Nguyễn Vũ Vương thì sự quy định trang phục cho nam giới ít gò bó và thoáng hơn, "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay hoặc rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền không cho xẻ mớ. Duy đàn ông không muốn mặc áo cổ tròn và hẹp tay cho tiện làm việc thì cũng được" (trích sắc dụ này).
Một giả thuyết khác cho rằng từ khi Chúa Nguyễn Phúc Khoát ban hành sắc dụ về quốc phục đã xuất hiện lối ăn mặc theo cách Việt Nam ở phái nam cho khác biệt với lối ăn mặc của người khách trú. Cơ sở chính của cách tạo ra khác biệt là lối cài nút về bên trái thay vì bên phải giống như người Hoa kiều (theo sách Việt Nam Văn Hóa Sử, tác giả Đào Duy Anh, đã chú dẫn trên phần đầu mục Lịch Sử Áo Dài). Sự khác biệt thứ hai là trên chất liệu vải (thường bằng the mỏng, và mặc ra ngoài áo bà ba trắng, với phụ tùng lệ bộ kèm theo là khăn đóng (tức khăn vành cho nam). Có thể ngay từ đầu, "quốc phục sơ khai" của nam giới đã chỉ có hai vạt và được biến cách trên chiếc áo Tàu "nhà Thanh": dài gần tới gối và có đường xẻ hai bên từ hông trở xuống. Đến thập kỷ 1930 khi xuất hiện áo nữ với hai tà dài thì được thay đổi chút ít cho gần gũi chiếc áo dài nữ phục.
Kể từ năm 1952 thời Quốc gia Việt Nam, thủ tướng Trần Văn Hữu đã ấn định quốc phục cho các viên chức hành chánh trong chính phủ: nếu buổi lẽ mang tính cách tôn giáo hay lịch sử thì lễ phục là áo dài chẽn, khăn đen, quần lụa trắng. Vậy nếu nói đến quốc phục truyền thống thì chính chiếc áo dài nữ phục mới đậm nét hơn, được quy định bởi những văn bản pháp quy (sắc dụ chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn (chiếu chỉ quy định của vua Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh cho áo dài nữ phục).
Do đó khi nói đến áo dài Việt Nam, người trong lẫn ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ phục.Áo dài nam phục Việt Nam lại không có số phận may mắn như áo dài nữ phục. Ngày nay ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh một thanh niên, thậm chí một ông cụ già Việt Nam, vận chiếc áo dài nam phục truyền thống. Áo dài nam phục chỉ còn xuất hiện tại những lễ hội mang đậm nét truyền thống Việt Nam hay là lễ cưới, khi làm lễ ra mắt gia tộc. Đặc biệt tại tuần lễ cấp cao APEC 2006 được tổ chức tại Việt Nam, trong lễ công bố Tuyên bố chung, các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC đều mặc trang phục truyền thống của nước chủ nhà.
Ngày nay, ta ít có dịp bắt gặp hình ảnh thanh niên mặc áo dài, chỉ những người có tuổi trong trang phục áo dài truyền thống. Ta có thể đưa ra lí do giải thích cho điều này: Phải chăng áo dài nữ phục có quá trình hình thành và phát triển lâu hơn. Hơn nữa áo dài nữ được quy định bởi văn bản pháp quy ( sắc dụ của chúa Nguyễn Vũ Vương) và chuẩn mực ăn mặc rõ ràng hơn ( Chiếu quy định của Minh Mạng về trang phục hoàn chỉnh của áo dài nữ phục). Do đó khi nói tới áo dài người nước ngoài và người ngoài nước thường nghĩ đến chiếc áo dài nữ giới.
3. Áo dài trẻ em
Trẻ em Việt Nam thường mặc áo dài trong dịp lễ tết, đám cưới.Trang phục áo dài của các em thường có màu sáng như màu đỏ,màu hồng,và thường đội khăn xếp tượng trưng cho sự trong sáng,hồn nhiên.Qua đó muốn gửi gắm thông điệp về một cuộc sống hạnh phục tươi đẹp.
4. Áo dài váo ngày lễ:
a, Áo dài trong ngày cưới:
Nhân dân ta mỗi khi nói đến ngày cưới vẫn thường cho rằng : “Trăm năm mới có một lần” có lẽ do đó mà từ trước đến ngày nay những bộ trang phục trong ngày cưới bao giờ cũng hết sức đặc biệt.
Thời xưa bộ trang phục mà các co dâu mặc trong ngày cưới cũng chính là trang phục các cô mặc trong ngày lễ hội cổ truyền của dân tộc: Áo tứ thân, áo ngũ thân, áo dài.
Cho đến khi áo dài chính thức trở thành trang phục truyền thống của Việt Nam thì trong ngày cưới cô dâu thường mặc áo dài đỏ và trắng. Màu trắng biểu hiện sự tinh khiết cả về thể xác lẫn tâm hồn, còn màu đỏ thể hiện ước mơ hai vợ chồng sẽ trăm năm hạnh phúc, son sắc, thuỷ chung. Nhưng cho đến ngày nay áo dài chỉ được thấy trong các đám hỏi, nạp tài, dạm ngõ. Còn trong các ngày cưới chính thức các cô dâu thường chọn cho mình chiếc váy âu cách tân sang trọng.
b, Áo dài trong tang lễ
Đối với người Việt Nam chọn trang phục để mặc trong tang lễ là điều rất quan trọng.Vì không gian tang lễ khác hoàn toàn so với các không gian khác. Đến tang lễ không chỉ là chia buồn với gia đình người đã mất mà còn phải thể hiện sự tôn kính trân trọng đối với người đã khuất. Từ xưa đến nay trang phục trong tang lễ là bộ đồ xô gai. Tuy vậy áo dài vẫn được lựa chọn để mặc. Và một điểm đáng chú ý ở đây nữa là áo dài phải là những người thân, hàng xóm đến chia buồn cùng gia quyến.
I.5 – Sự tích về chiếc Áo dài
Từ xa xưa, phụ nữ trên đất Việt ta đều mặc váy cả, từ Bắc xuống Nam. Đến ngày nay chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng quê đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Thế thì nó đã có tự bao giờ?
Sự tích áo dài Việt Nam. Xa xưa, cách đây ba thế kỷ, người dân Việt Nam từ già đến trẻ rất quí chiếc áo dài Việt Nam. Thời nay, trên các diễn đàn quốc tế, nhất là trong các cuộc thi hoa hậu, chiếc áo dài Việt Nam mang đậm tình quê hương, vừa chân chất giản dị, vừa bác học tô điểm vẻ đẹp người con gái vùng lúa nước mênh mông sông Hồng và ruộng cò bay thẳng cánh sông Cửu Long…
Người phụ nữ xưa mặc áo dài tứ thân cùng với yếm đào, váy lụa Hà Đông, nón quay thao qua nhiều giai đoạn “cách tân” cho đến ngày nay là một quá trình chọn lọc không mấy dễ dàng. Áo dài tứ thân, ngũ thân là tiền thân của áo dài nhị thân, quí cô, quí bà rất tự hào khi trình diễn với thiên hạ. Những năm 30-40, ở thị thành xuất hiện áo dài kiểu tân thời Lơ Muya (Le Mur) biệt danh của họa sỹ Lê Cát Tường cho nữ giới: áo dài màu vàng quá gối, có cổ cao viền xanh, quần trắng, hai ống tay có viền vải xanh…(trích từ trang 45 Tự Điển Bách Khoa Việt Nam -tập 1- Hà Nội xuất bản năm 1995).
Áo tứ thân xưa có bốn vạt rộng, thường có màu thẩm, bên trong có yếm đào liền với váy thâm xuất hiện trong đời sống người dân Kinh Bắc, với giọng ca quan họ lâu đời. Yếm đào - áo cánh - váy thâm có từ thời Hậu Lê, áo cánh khoác ngoài yếm, chỉ dài ngang lưng thon. Nay ở phố Hàng Đào cổ (Hà Nội), có đình Đồng Lạc lưu giữ dòng chữ Hán Đồng Lạc quyến yếm thị (quyến yếm thị đình) là nơi bán yếm lụa với nghề dệt lụa truyền thống.
Vào thế kỷ XVIII, chiếc yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét tròn làm cổ, hai đầu của cổ yếm đính mẫu dây để cột ra sau gáy gọi là yếm cổ xây, yếm cổ xẻ có cổ hình chữ V, với ba đường chân chim gọi yếm cổ nhạn…
Đàn ông đóng khố đuôi lươn,
Đàn bà yếm thắm hở lườn mới xinh.
Áo dài từ thân ngày xưa
Nhớ thời Trịnh Nguyễn phân tranh, gây bao thảm họa nồi da xáo thịt, gần hai trăm năm, phân chia Đàng Trong và Đàng Ngoài. Khi xét thấy Đàng Trong đủ mạnh, đủ sức chống chọi với Đàng Ngoài. Chúa Nguyễn Phúc Khoát (1736-1765) ra chỉ dụ: “Phụ nữ phải ăn mặc cải cách, mặc quần thay váy, trên phần đất cai quản xứ mình có y phục giống nhau.” Cuộc cải cách bất thành, phụ nữ chống lại lệnh chúa để bảo vệ thuần phong mỹ tục, từ xưa ông bà truyền lại.
Đến đời vua Minh Mạng năm thứ 7 (1828), sai phán bộ Lễ: Dư đồ nước nhà đã hỗn hợp làm một, văn hóa phép tắc cũng giống nhau, nhưng y phục dân gian còn cách biệt, không hợp với công việc cùng quê quán. Hạ lệnh cho dinh thần Quảng Bình, truyền khắp dân gian trong châu, mặc quần áo theo đúng nghi thức…
Lệnh vua ban chẳng thiêng, dân phương bắc vẫn ung dung mặc váy cùng với áo tứ thân, yếm đào, nón quai thao..
Đến thời Pháp thuộc, ít nhiều có ảnh hưởng Tây hóa, chiếc áo tứ thân, ngũ thân còn may rộng chưa có EO, sau đó áo tứ thân chuyển thành áo nhị thân có EO, dần đến áo có hoa văn trước ngực, muôn màu muôn vẻ, nổi bật tiềm ẩn tuổi trẻ trung, khó mờ phai.
Hà nội-Thăng Long, ngàn năm văn vật, có làng Trạch Xá, huyện Ứng Hòa, quê hương “Áo lụa Hà Đông”, nay là Hà Nội, có nghề may áo từ thời nhà Đinh. Tiếng lành đồn xa, được triều đình Huế triệu về may áo cho vua. Thợ ngắm nhìn vua “từ xa,” cắt may ngay được bộ áo quần vừa ý.
Quận Hoàn Kiếm (Hà Nội), có hai phố Lương Văn Can và phố Cầu Gỗ, có thợ may gốc gác người làng Trạch Xá. Với những kỹ xảo đo rất chuẩn: đường kéo cắt cho ngang cạnh thẳng sợi, đường viền cũng phải thật phẳng, không vênh đường tà. Mũi kim chỉ khâu tròn nhỏ xíu như trứng nhện. Người khéo tay luồn tà bằng chỉ trắng vào áo đen, ít người nhìn thấy gọi là trong dán hồ, ngoài phô trứng nhện là câu nói đầu miệng của thợ may Trạch Xá.
Chiếc áo dài Trạch Xá xưa, bao giờ cũng mềm mại hơn, tha thướt hơn. Ngày nay đất nước thống nhất, đổi mới khắp mọi miền, áo dài lụa Hà Đông, áo dài tím Huế, áo dài tân thời Tp. Hồ Chí Minh hòa chung tên gọi áo dài Việt Nam với nhiều nét hoa văn lộng lẫy, uyên bác và sống động, không những chiếm được sự tin yêu của phụ nữ Việt Nam mà cả khách quốc tế.
Tháng 4-1898, Toàn quyền Paul Doumer ( Pôn Đu-me) làm lễ đặt viên đá đầu tiên xây dựng cầu lớn có chiều dài vắt qua hai bờ 1.680m, chia làm 19 nhịp cao 13,50m so với mặt nước. Ngày khánh thành chiếc cầu vĩ đại này vào năm 1902, có bốn thiếu nữ Việt Nam trong tà áo dài xinh đẹp duyên dáng đứng trên cỗ xe do hai con bò kéo, đã tham dự buổi diễu hành, đặt tên: cầu Pôn Đu-me.
(Đoạn văn này trích trong cuốn Le grands Dessier de L’illustration xuất bản tại Pháp năm 1987).Sau Cách mạng Tháng 8/1945, Bác Hồ tuyên bố Độc lập (2-9-1945), ta xóa bỏ tên cầu Pôn Đu-me, toàn quyền thực dân Pháp cũ, đặt tên mới: cầu Long Biên.
Năm 1988, báo Tiền Phong tổ chức thi Hoa hậu đầu tiên trong sự “lạ lẫm” của nhiều người Đến nay, đã qua nhiều cuộc thi hoa hậu tôn vinh phụ nữ Việt Nam, có nhiều hoa hậu áo dài đẹp nhất.Vẻ vang thay! Áo dài Việt Nam với tà áo tung bay khắp Pari, Luân Đôn với năm châu bốn biển cho trời đất hãnh diện là người Việt Nam.
CHƯƠNG II. SỰ PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG NÉT MỚI, SỰ CÁCH TÂN CỦA CHIẾC ÁO DÀI QUA TỪNG GIAI ĐOẠN
II.1 – Sự phát triển:
Cũng không ngạc nhiên khi một người Việt Nam trả lời rằng tà áo Dài là một trong những hình tượng tiêu biểu ở đất nước này. Thật khó mà dịch từ "áo Dài" sang bất cứ ngôn ngữ nào vì không ở đâu có một tà áo Dài như ở Việt Nam.
Áo Dài, trang phục truyền thống của phụ nữ Việt Nam, ôm sát cơ thể, có cổ cao và dài khoảng ngang gối. Nó được xẻ ra ở hông. Áo Dài vừa quyến rũ lại vừa gợi cảm, vừa kín đáo nhưng vẫn biểu lộ đường nét của một người thiếu nữ. Tuy nhiên, trải qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, những vùng địa lý khác nhau, trang phục áo dài đều có những nét đặc sắc riêng.
Vào khoảng từ năm 1618 đến năm 1623, một vị giáo sư người Italia có tên Cristoforo Borri, sống ở vùng Quảng Nam đã nhận xét trong một cuốn sách của ông rằng: “Người Việt Nam xưa nay thường có tính kín đáo. Tuy là một nước nhiệt đới, nhưng người Việt ăn mặc rất kín đáo, có thể là kín đáo nhất so với các dân tộc khác trong vùng”. Có lẽ người Việt xưa đã phải dành nhiều thời gian để nghiên cứu, tìm cách phối hợp những nguyên tắc thẩm mỹ với quy luật kín đáo cố hữu của dân tộc vào việc may mặc. Chẳng hạn, do đặc thù về nhân chủng học, người Việt có cái cổ thường không cao, người xưa đã biết may cổ áo thấp xuống và ôm sát cổ, trong khi tóc được vấn cao lên, để lộ gáy... Và vì thế, cái cổ của một phụ nữ Việt Nam có nhan sắc trung bình vẫn trở nên thanh tú và cao sang hơn. Phải chăng đó là tiền đề cho phần cổ của chiếc áo dài?
Áo dài của người Việt vẫn có tiếng là gợi cảm. Người Trung Quốc gọi loại áo này là “bì bào”, có nghĩa là áo mặc sát vào da. Đến nay, vẫn chưa có ai khẳng định được chiếc áo dài Việt Nam xuất hiện từ bao giờ và như thế nào? Tuy nhiên, chuyện được biết nhiều nhất là việc chúa Nguyễn Phúc Khoát ở Đàng Trong, khi xưng vương (năm 1744) đã bắt quan, dân phải mặc lễ phục lấy mẫu từ “Tam tài đồ hội” của nhà Minh, Trung Quốc. Vì thế mà có giả thuyết cho rằng, áo dài Việt Nam xuất xứ từ phương Bắc. Tuy nhiên, áo dài hay “bì bào” không phải là lễ phục. áo dài chỉ là một loại thường phục trang trọng có thể mặc để tiếp khách hay đi chơi. Loại “bì bào” độc nhất ở Trung Quốc thường được gọi là “xường xám”, có nghĩa là áo dài, chỉ xuất hiện vào những năm của thập niên 1930 tại Trùng Khánh và Thượng Hải.
Vào năm 1776, sau khi chúa Trịnh ở Đàng Ngoài chiếm được kinh đô Phú Xuân của xứ Đàng Trong, quan Hiệp Chấn Thủ Lê Quý Đôn đã ra lệnh cho dân ở đây phải ăn mặc theo lề lối của Đàng Ngoài. Theo lệnh này, về thường phục thì: “Từ nay trở đi, đàn ông và đàn bà chỉ được mặc loại áo ngắn tay có cổ đứng...”. Tức là tay áo chỉ dài đến cổ tay, thay vì dài gấp đôi chiều dài của cánh tay như trong áo lễ. Trong cuốn sách của giáo sỹ Borri (như đã nói ở trên) có tên: “Tường thuật về sứ mệnh mới của các linh mục Dòng Tên ở Nam Kỳ - năm 1631” đã miêu tả cách ăn mặc của người Việt Nam đầu thế kỷ 17 như sau:“Người ta mặc năm, sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên kia, mỗi cái một màu. Cái thứ nhất dài đến mắt cá chân, những cái áo khác ở ngoài ngắn dần...”. Đấy là vị giáo sỹ đã nói đến chiếc áo mớ ba, mớ bảy của phụ nữ Việt Nam còn thấy ở các làng Quan Họ ở Bắc Ninh hay còn lác đác ở Huế. “Đàn ông cũng mặc năm, sáu lớp áo dài lụa... Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông rất đẹp mắt... khi có gió thổi, các dải áo bay tung lên như cánh chim công thật ngoạn mục...”. Thực ra, mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng mà giáo sỹ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm có ba hoặc bốn lớp dải lụa, gọi là cánh sen may chồng lên nhau. Bức tượng Bà Ngọc Nữ được tạc từ thế kỷ XVII ở chùa Dâu, Thuận Thành, Bắc Ninh là minh chứng rõ nhất cho cả áo dài, các dải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sỹ Borri đã miêu tả. Cái áo dài đó cũng như cách vấn khăn không có nhiều khác biệt so với bây giờ.
Cho đến đầu thế kỷ XX, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay. Sở dĩ áo phải nối thân và tay như thế là vì các loại vải tốt như lụa, sa, gấm, đoạn... ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40 cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chiết eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80 cm ở gấu, cổ áo chỉ cao khoảng 2-3 cm.
Trong thập niên từ 1930 đến 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, nhưng phụ nữ thành thị bắt đầu dùng các loại vải màu tươi, sáng hơn, được nhập khẩu từ châu Âu. Thời kỳ này, gấu áo dài thường được may trên mắt cá chân khoảng 20cm. Từ đây và tiếp tục cho đến gần cuối thế kỷ XX thiếu nữ khắp nơi mặc quần trắng với áo dài. Quần đen dành cho những phụ nữ đã lập gia đình. Một vài nhà tạo mẫu áo dài đã bắt đầu xuất hiện, nhưng họ mới chỉ bỏ đi phần nối giữa sống áo vì vải của phương Tây dệt có khổ rộng hơn vải ta. Tay áo vẫn may nối. Thời đó, Hà Nội đã có các nhà may nổi tiếng như Cát Tường ở phố Hàng Da và một số ở khu vực Hàng Trống, Hàng Bông. Năm 1939, nhà tạo mẫu Cát Tường đã tung ra một kiểu áo mới có tên gọi là Le Mur mang mẫu dáng rất Âu hoá, áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may, không nối sống bên dưới, nhưng cổ áo khoét hình trái tim; có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ; vai áo may bồng, tay nối ở vai; khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Vậy là áo Le Mur được xem là táo bạo và chỉ có giới nghệ sỹ hay ăn chơi “thời thượng” lúc đó mới dám mặc. Nhưng chỉ đến khoảng năm 1943 thì loại áo dài này bị lãng quên.Đến khoảng những năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may chiết eo. Các nhà may lúc đó đã cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân trước, đặc biệt là phần mông để áo ôm theo thân dáng mà không cần chiết eo; vạt áo cắt hẹp hơn, cổ áo cao lên trong khi gấu được hạ thấp xuống.
Vào những năm 1960, áo dài được thay đổi nhiều nhất vì cái nịt ngực được sử dụng ngày càng phổ biến hơn, nên áo dài phải được may chiết eo, thậm chí người phụ nữ mặc rất chật để tôn ngực. Eo áo cắt cao lên để hở cạp quần; gấu áo cắt ngang thẳng và dài gần đến mắt cá chân. Năm 1960, vì muốn thấy có cảm giác cổ phụ nữ dài thêm, bà Trần Lệ Xuân đặt ra loại áo dài cổ thuyền, được gọi là áo bà Nhu và sau này còn có người may áo dài với cổ khoét tròn. Vào cuối những năm 1960, đầu những năm 1970, để thích ứng với thời trang váy ngắn, quần loe của thanh niên theo lối hippy, áo dài mini đã xuất hiện và ngay lập tức trở thành mốt thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng ra và không chiết eo, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể; cổ áo may thấp xuống còn 3 cm; vai áo bắt đầu được cắt lối raglan để ngực và tay áo ôm hơn; quần khi đó được may rất dài, gấu rộng đến 60 cm. Sau thời kỳ này trở về đến năm 1990, áo dài không thay đổi nhiều lắm so với truyền thống, thỉnh thoảng cũng có vài mẫu đổi mới, chẳng hạn như quần áo đồng màu nhưng không phổ biến. Ngày nay, Việt Nam đã có một lực lượng đông đảo các nhà tạo mẫu áo dài, với đủ các loại chất liệu vải, họ vẫn luôn nghiên cứu, tìm tòi sáng tạo đưa ra những mẫu mốt mới...Chất liệu mới cho áo Dài được kết hợp từ những tấm vải mẫu, thường được trang trí bằng những đường nét thủ công hoặc thêu thùa. Song, cũng chỉ dừng lại ở việc thay đổi chất vải và hoa văn trên áo dài còn về kiểu dáng vẫn phải giữ theo “công thức” cũ, nghĩa là không khác gì nhiều với cái áo dài của pho tượng Ngọc Nữ thế kỷ XVII.
II.2 – Sức hấp dẫn của chiếc Áo dài
Áo dài đại diện cho nước Việt ta đã tồn tại từ bao đời, qua những thăng trầm của lịch sử, nhưng cho đến tận ngày nay nó vẫn còn vẹn nguyên nét thuần khiết và đằm thắm của người phụ nữ Việt Nam.Quốc phục được tôn vinh với tất cả niềm kiêu hãnh từng đi vào bao áng văn chương, ẩn hiện qua nhiều câu hát và sống dậy ở đời thực vẫn chưa bị bào mòn theo thời gian. Những thế hệ con rồng cháu tiên mãi mãi tự hào với vẻ đẹp truyền thống của tà áo dài dân tộc.
Nói bao nhiêu cũng không thấy đủ, đong bao nhiêu cũng không thấy vừa bởi sức mạnh trên từng tà áo là điều đã được kiểm chứng theo suốt chiều dài lịch sử. Chiếc áo dài thời xa xưa còn khá giản đơn trong thiết kế nhưng vẫn tôn vinh nét duyên dáng của người mặc. Không bó sát vào những đường cong cơ thể, áo dài cổ xưa được may hơi rộng, phủ bên trong một lớp áo yếm lót. Giai đoạn tiền sử của áo dài cũng chỉ ra rằng có sự phân biệt đẳng cấp ở chất liệu vải dệt, màu sắc thì chủ yếu là các gam trầm, một màu không pha chế thể hiện sự kín đáo, đoan trang của người thiếu nữ.
Áo dài trải qua nhiều giai đoạn phát triển và cải biên để hiện hữu chính thức hoàn hảo vào những năm của thập niên 2000. Nhìn chung vẫn trên nền kiểu dáng cũ, tuy nhiên áo dài thời nay trông chỉn chu đến từng đường may, kỹ lưỡng đến từng tiểu tiết trang trí nhỏ làm sao để người mặc thấy hài lòng, ưng ý nhất. Cổ áo cách điệu theo nhiều dáng như cổ cao 3 phân, cổ tim, cổ thuyền tròn, cổ yếm… Vạt và đuôi áo may ngắn hoặc dài, hàng khuy lượn trước ngực cũng “lúc ẩn lúc hiện” tùy theo sở thích cũng như ý tưởng sáng tạo của các nhà thiết kế.
Chất liệu để làm áo dài ngày càng trở nên phong phú, từ các loại gấm, nhung, tơ lụa đến satin, voan… Thêu máy được phổ biến, bên cạnh đó vẫn còn cách thêu tay truyền thống, công nghệ cắt ráp tạo ra rất nhiều kiểu mẫu hoa văn độc đáo trên áo dài. Áo dài thực chất chỉ gồm hai phần chính là phần thân áo và chiếc quần dài phủ kín đôi chân. Tạo dáng áo và trang trí toàn thân áo là quan trọng nhất nhưng chính chiếc quần lại là điểm chốt quan trọng, làm cho áo dài khác biệt với bất cứ loại trang phục nào.
Không có một qui chuẩn cụ thể, áo dài phóng khoáng với nhiều dáng người. Bất cứ ai cũng đều mặc được áo dài. Áo dài Việt đẹp ở chính sự giản đơn và tinh tế. Áo dài Việt kín đáo mà đầy gợi cảm. Những đường cong quyến rũ đủ sức níu kéo mọi ánh nhìn. Khoác lên người chiếc áo dài là bạn khoác lên cả sự tinh hoa của nền văn hóa đã được gìn giữ, truyền thụ lại.Theo chân nhiều người đẹp ra nước ngoài, đến với bạn bè năm châu qua các cuộc thi hoặc gửi gắm tình cảm của những người con xa xứ, đâu đâu cũng thấp thoáng tà áo dài bay bay.
Cùng là con cháu đất tổ, cùng uống chung dòng máu nhưng suốt dọc dài đất nước, qua mỗi vùng quê áo dài lại phản ánh một cá tính riêng. Người Hà Nội mặc áo dài với đầy nét đoan trang đến yêu kiều. Hình ảnh các cô gái Huế kín đáo trong tà áo tím mộng mơ làm rung động biết bao con tim. Hay cái sự hơi phá cách nhưng không kém phần dịu dàng, đằm thắm thêu dệt nên ký ức người dân miền Nam. Áo dài chính là hiện thân của nhiều sự kết tinh để làm nên một "cái đẹp mỹ miều".
Nói đến áo dài người ta hay có một cái liên tưởng đến nét đẹp cổ kính, xa xưa còn đọng lại. Hình ảnh áo dài cũng gắn liền với quạt giấy, đài hoa sen hay chiếc nón lá. Con gái Việt mặc áo dài với vẻ đẹp trắng trong và thuần khiết. Giữa bộn bề cuộc sống lo toan và gồng gánh tuy nhiên áo dài vẫn là lễ phục quan trọng trong các đám cưới, các dịp hội hè, lễ tết. Trẻ con Việt cũng háo hức với áo dài như bao thứ đồ đắt tiền khác. Sự chuyển giao giữa các thế hệ, sự cộng hưởng ở nét đẹp ngàn đời làm cho tà áo dài Việt sống mãi với thời gian.
II.3 – Nhưng nét mới và sự cách tân
Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là nhà may Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội. Năm 1939 nhà tạo mẫu này tung ra một kiểu áo dài được ông Âu hóa. Áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình trái tim. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ. Vai áo may bồng, tay nối ở vai. Khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến khoảng năm 1943.
Đến khoảng năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may có eo. Các thợ may lúc đó đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, để áo ôm theo thân dáng mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt ngắn dần từ giai đoạn này. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống.
Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60, áo dài bắt đầu được may chít eo, eo áo cắt cao lên. Gấu áo lúc này cắt thẳng ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Nhiều người sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn. Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn 3cm. Tay áo cũng được may rộng ra. Đặc biệt trong khoảng thời gian này, vai áo dài bắt đầu được cắt lối raglan để ngực và tay áo ôm hơn, nhăn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo được nối với thân từ chéo vai. Quần may rất dài với gấu rộng đến 60cm và nhiều khi được lót hai ba lớp. Đến những năm 90, áo dài đã trở lại, cầu kỳ hơn, thanh nhã hơn và bắt đầu được bạn bè Quốc Tế nghĩ tới như là một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.
Từ đây tà áo dài hiện đại chính thức ra đời và vẫn giữ nguyên nét đẹp ấy cho đến ngày nay, dù đã trải qua bao năm tháng chiến tranh, áo dài vẫn là một biểu trưng của người phụ nữ Việt. Áo dài còn trở nên đặc biệt khi một chiếc áo chỉ may riêng cho một người và chỉ một người ấy mà thôi, không thể sản xuất đại trà, một khi đã may thì may vừa khít với số đo riêng của từng người nên tuyệt nhiên áo dài ôm sát cơ thể rất đẹp.Cho dù giờ đây người Việt không còn mặc áo dài như một loại trang phục thường ngày như trước đây, nhưng áo dài vẫn là một loại trang phục trang trọng để mặc trong những dịp quan trọng, trong những bữa tiệc hay áo dài đồng phục của một số công ty.
Đặc biệt nhất là vào dịp tết, khi mọi người tụ họp về gia đình và trở về cội nguồn, thì tà áo dài lại trở nên một loại trang phục mang nhiều nét dân tộc. Vì là trang phục đặc biệt in sâu dấu ấn vào tâm trí người Việt, áo dài ngày càng được khuyến khích mặc trong ngày tết.
Không cần quá cầu kỳ trong cách mặc áo dài, đối với phụ nữ thì có thể may áo theo kiểu truyền thống, tà áo dài thướt tha mặc với quần lụa. Ngày nay các nhà thiết kế áo dài nổi tiếng như Sĩ Hoàng, Võ Việt Chung, Việt Hùng… vẫn sáng tạo ra những mẫu áo dài cách điệu để phù hợp với giới trẻ như áo dài tay ngắn, tà ngắn và có thể mặc chung với quần jeans, quần ôm… Ngay cả nam giới cũng khuyến khích mặc áo dài trong dịp này, điều này sẽ càng tôn vinh lên nét đẹp truyền thống đáng ngưỡng mộ của người Việt.
Áo dài đang dần trở thành thời trang khi không chỉ người Việt mới mặc áo dài, mà ngay cả các nhà thiết kế nổi tiếng thế giới cũng đưa tà áo dài làm cảm hứng sáng tạo cho những bộ sưu tập trên sàn diễn quốc tế của mình.
Trong bộ sưu tập mới nhất lấy cảm hứng từ Việt Nam, nhãn hàng Emillio Pucci đã cho ra mắt những mẫu thiết kế hết sức hiện đại và sang trọng, đặc biệt là in đậm hình ảnh của hai tà áo dài. Đây là một bước tiến vô cùng quan trọng của áo dài Việt, khi được thế giới đón nhận với một cách nhìn khác, dự báo áo dài sẽ trở thành một biểu tượng của văn hóa và thời trang chứ không phải chỉ là trang phục truyền thống.
C. KẾT LUẬN
Là con người ai cũng biết nghiêng mình rung cảm trước cái đẹp xuất phát từ thiên nhiên,cảnh vật,từ lòng người và trên hết có lẽ là cái đẹp bắt nguồn từ chiều sâu văn hoá.Trong văn chương có Nguyễn Tuân,Thạch Lam,trong âm nhạc có Trịnh Công Sơn là những người ưa tìm về cội nguồn truyền thống.Nói đến truyền thống có rất nhiều điều cần phải bàn luận:lễ hội, ẩm thực,nghệ thuật dân gian.Và không thể không kể đến trang phục truyền thống. Thật tự hào khi được nói về chiếc áo dài Việt Nam, đại diện cho một nét đẹp văn hóa, không chỉ đẹp về kiểu dáng và đường nét mà điều quan trọng chiếc Áo dài ấy mang nhiều ý nghĩa kết tinh những nét đẹp tinh hoa của dân tộc. Tất cả những tâm tư,suy nghĩ của con người đều được cộng đồng hoá,biểu hiện rõ nét qua trang phục. Đây chính là cốt lõi của truyền thống cốt lõi của văn hoá.
Được tìm hiểu về trang phục truyền thống cua dân tộc quả là một điều thật thú vị, được biết về nguồn gốc lịch sử cùng với sự phát triển từ xưa đến nay góp phần làm em có thêm nhiều sự hiểu biết và có thể tự hào khi được giới thiệu về tà Áo dài Việt đến với bạn bè năm châu về văn hóa trang phục truyền thống của Việt Nam. Từ đó luôn trân trọng gìn giữ và phát huy nét đẹp của trang phục tryền thống ấy để mang lại những nét đẹp tinh túy nhất trong con ngươi Việt.
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Aó dài- wikipedia
2.Lịch sử hình thành và phát triển của áo dài
3.Sự tích áo dài
4.Áo dài Việt Nam
5.Sức hấp dẫn của Áo dài
6.Sự cách tân của Áo dài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- phuong_phap_luan_nghien_cuu_khoa_hoc_de_tai_ao_dai_viet_nam_5596.docx