Về mặt lý thuyết: người viết đã đưa ra được cái nhìn tổng quan nhất về bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu thông qua những lý thuyết chung nhất tổng hợp từ các
báo cáo của các tổ chức kinh tế trên thế giới.
Giới thiệu các khái niệm liên quan đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Giới thiệu được các điều khoản cơ bản của một đơn bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu.
So sánh bảo hiểm tín dụng xuất khẩu với một số công cụ hỗ trợ xuất
khẩu khác.
Về mặt thực tiễn: người viết đã tổng hợp kinh nghiệm bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu trên thế giới thông qua 2 mô hình tiêu biểu.
Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thông qua ngân hàng thương
mại hoạt động dưới sự chỉ đạo của chính phủ: US Eximbank của Mỹ
Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hoạt động thương qua một công
ty bảo hiểm thương mại: Coface c ủa Pháp
110 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 4405 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu – lý thuyết và ý nghĩa thực tiễn với các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dụng là rất lớn, xuất khẩu Việt Nam có
vai trò vô cùng quan trọng trong cơ cấu kinh tế quốc gia song thị trường bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam hiện nay còn phát triển rất chậm cả về số
lượng và chất lượng.
Hiện nay Việt Nam vẫn chưa có một tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
chính thức (ECA). Thời gian qua, một số hiệp hội, doanh nghiệp đã triển khai
dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu như Tập đoàn Bảo hiểm Việt Nam, Tổng
công ty Bảo hiểm Tp.HCM, Công ty Bảo hiểm Dầu khí, Hiệp hội Cao su Việt
Nam, nhưng vẫn ở quy mô nhỏ. Tổng doanh thu phí bảo hiểm xuất khẩu hiện chỉ
chiếm từ 3% - 5% tổng giá trị hàng xuất khẩu. Các sản phẩm này chủ yếu là bảo
71
lãnh các khoản tín dụng ngắn hạn trước các rủi ro thương mại và rủi ro chính trị
khi một trong các thành viên của hiệp hội hoặc tập đoàn cấp tín dụng xuất khẩu
cho bạn hàng.
Số loại dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu mà các tổ chức này đưa ra còn
hạn chế. Chủ yếu dưới các hình thức hỗ trợ tai chính, hỗ trợ từ các quĩ. Việc hỗ
trợ này được thực hiện phân tán và nhỏ lẻ, chủ yếu theo yếu tố ngành (như thuỷ
sản, cao su). Yếu tố tượng hỗ ở đây quan trọng hơn yếu tố lợi nhuận. Chính từ
cách làm trên mà các doanh nghiệp bảo hiểm không quan tâm nhiều đến bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu.
4. Các cản trở với việc phát triển Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam
4.1. Áp lực về chi phí
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là lĩnh vực bảo hiểm cho các rủi ro co yếu tố
nước ngoài, độ rủi ro rất cao. Trong ngành bảo hiểm rủi ro luôn đông thuận với
chi phí. Do đó, muốn triển khai tốt loại hình dich vụ này cần có một nguôn vốn
lớn. Trong bối cảnh ở Việt Nam hiện nay vẫn chưa có một tổ chức bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu cấp nhà nước (thiếu sự tham gia trực tiếp của chính phủ), các
công ty bảo hiểm trong nước chưa thực sự là các tập đoàn đủ mạnh về tài chính
thì vấn đề vốn thực hiện bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một vấn đề nan giải.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng chưa sẵn sàng với loại hình
dịch vụ này, họ không sẵn sàng với các chi phí bảo hiểm tín dụng xuất khẩu,
điều này làm hạn chế nguồn vốn lưu động cho các công ty bảo hiểm thực hiên
dịch vụ. Các công ty bảo hiểm cũng là các doanh nghiệp, họ tham gia kinh doanh
nhằm mục đích lợi nhuận, một khi phải bỏ chi phí cao mà hiệu quả (lợi nhuận)
mang lại tthập rõ ràng là không hấp dẫn.
72
Xét trên góc độ tương hỗ, đã có một số quĩ tương hỗ ra đời nhằm bảo vệ tài
chính cho các hội viên trước các rủi ro tín dụng khi xuất khẩu. Song các quỹ này
hoạt động theo tiêu chí phí lợi nhuận, nguồn cung lấy từ khoản đóng góp của các
hội viên, điều này có nghĩa là chỉ có thể mở rộng vốn hoạt động theo chiều rộng
(kết nạp thêm hội viên), mà không thể mở rộng theo chiều sâu (tái đầu tư từ một
phần lợi nhuận). Những quĩ này rõ ràng chỉ hoạt động theo xu hướng ngành, khó
có thể hoàn thiện hết các yêu cầu, đòi hỏi của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
4.2. Kĩ năng chuyên môn
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chịu sự điều hành
trực tiếp của một cơ quan thuộc Chính phủ quản lý và chịu sự điều chỉnh theo
các quy định pháp lý kinh doanh bảo hiểm thương mại dù hoạt động theo nguyên
tắc thị trường và quy luật cung cầu.
Vì liên quan tới hoạt động giao thương toàn cầu với giá trị giao dịch lớn nên
yêu cầu về vốn, năng lực điều hành và chuyên môn đối với tổ chức bảo hiểm tín
dụng rất cao. Quy trình đánh giá, phân tích rủi ro nhận bảo hiểm, kiểm soát quản
lý rủi ro, xử lý khiếu nại và thu hồi nợ trên phạm vi rộng.
Vì vậy, tổ chức cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phải có kỹ năng
chuyên môn cao, sử dụng công nghệ tiên tiến để tiếp cận hệ thống thông tin kinh
doanh, tài chính minh bạch và tin cậy. Ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu, các tổ chức cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cung cấp dịch vụ
gia tăng như cập nhật thông tin doanh nghiệp theo các nhóm ngành hàng của
từng quốc gia, phân tích rủi ro quốc gia...
Đối với các nước đang phát triển, hoạt động của tổ chức cung cấp bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu trong giai đoạn đầu luôn những trở ngại. Cụ thể là thiếu cơ
73
chế thông tin đầy đủ và minh bạch về tình hình kinh doanh và tài chính của
doanh nghiệp. Luật pháp về đăng ký và quản trị doanh nghiệp chưa đồng bộ,
thiếu sự giám sát theo dõi và quản lý thi hành luật tập trung.
Quá trình giải quyết tranh chấp, xử lý thi hành án chậm chạp, chưa minh
bạch, gây khó khăn trong việc thu hồi các khoản nợ. Hệ thống dịch vụ kiểm toán
chưa đủ tin cậy, việc thực thi chuyên môn chưa đáp ứng chuẩn mực kiểm toán
quốc tế nên thông tin tài chính về doanh nghiệp có thể sai lệch. Thiếu hệ thống
các công ty thu hồi nợ và hoạt động thu hồi nợ kém hiệu quả. Thiếu nguồn nhân
lực có khả năng điều hành và kinh nghiệm chuyên môn.
4.3. Nhận thức kém của doanh nghiệp xuất khẩu về vai trò của bảo hiểm
trong buôn bán quốc tế
Bản thân các doanh nghiệp chưa nhận thức được rủi ro trong giao dịch quốc
tế như khả năng tài chính của đối tác nhập khẩu, rủi ro thanh toán,... Hiện nay,
khi đàm phán xuất hàng, các doanh nghiệp trong nước còn lúng túng không biết
sản phẩm sẽ gặp bất trắc gì. Đó là rủi ro trong vận chuyển, tín dụng, nhà nhập
khẩu có khả năng thanh toán không. Ngoài ra còn có những rủi ro chính trị,
chiến tranh, đình công, bạo loạn, thay đổi tỷ giá…
Cái khó của các doanh nghiệp là không phải lúc nào cũng có khả năng tài
chính bảo đảm. Thêm vào đó, vốn kiến thức về thị trường xuất khẩu, tiêu chuẩn
về hàng hóa, lộ trình và đối tác nhập khẩu của doanh nghiệp xuất khẩu còn khá ít
ỏi, lại hoạt động theo tư duy có gì xuất nấy, khả năng tính toán rủi ro và chi phí
phát sinh còn hạn chế.
74
Do đó, các hợp đồng ngoại thương được ký kết giữa các công ty Việt Nam và
các công ty nước ngoài hiện nay, hầu hết điều kiện về giá cả của các hợp đồng
nhập khẩu là CIF (Cost - Insurance - Freight) còn đối với các hợp đồng xuất
khẩu là FOB (Free On Board).
Có tình trạng này là do các chủ hàng nội của chúng ta đã quen với tập quán
bán FOB tại Việt Nam dẫn tới người mua hàng ở nước ngoài được “mua tận
gốc”, có quyền chỉ định tàu chuyên chở và mua bảo hiểm. Mặt khác, các chủ
hàng ngoại lại chỉ thích bán CIF tức là “bán tận ngọn” và giành luôn quyền lựa
chọn tàu chuyên chở và cả phí bảo hiểm.
4.4. Hệ thống chính sách và pháp luật chưa kiện toàn
Việc thiếu thông tin, văn bản luật pháp chưa đồng bộ, sổ sách của nhiều
doanh nghiệp thiếu minh bạch, cũng là rào cản khiến chính các công ty bảo hiểm
ngại triển khai dịch vụ này. Muốn các công ty bảo hiểm tích cực tham gia bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu, nhà nước cùng với hệ thống chính sách phải cho họ
thấy được những ưu đãi khi tham gia thị trường mới đầy thách thức này. Tuy
nhiên, hiên nay các vấn đề về chính sách ưu đãi còn rất hạn chế, mới chỉ có 2
nghị định liên quan đên bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, nhưng những nghi định
nay chủ yếu qui định khái quát.
Thống thông tin doanh nghiệp Việt Nam, nhất là thông tin tài chính cỏn rất
hạn chế. Kiểm toán nhà nước chủ yếu chỉ đủ năng lực điều tra các công ty nhỏ,
còn các tập đoàn lớn thì còn là vấn đề bỏ ngỏ. Các công ty nhỏ khó có thể nói lên
được bức tranh toàn cảnh tình hình tài chính kinh tế quốc gia. Việc thiếu thông
tin này khiến các công ty bảo hiểm khó có thể xác đình cầu trong ngành bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu, từ đó rất khó phân tích tài chính.
75
Bên cạnh đó, việc bảo hiểm tỷ giá hối đoái thông qua các ngân hàng thương
mại rất khó thực hiện bởi chính các ngân hàng này cũng phụ thuộc vào việc định
tỷ giá hối đoái của Ngân hàng Nhà nước. Tính năng động của các ngân hàng
thương mại bị hạn chế và phụ thuộc vào ngân hàng nhà nước, trong khi ngân
hàng nhà nước chưa thể hiện được vai trò đầu tàu của mình.
Tổng kết chương 2:
Chương 2 đã cho độc giả thấy được tính thực tiễn, những lợi ích mà bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu mang lại cho các doanh nghiệp xuất khẩu thông qua 2
mô hình tiên tiến trên thế giới: US Eximbank của Mỹ và Coface của Pháp. Mỗi
mô hình có một đặc trưng riêng, phụ thuộc vào từng điều kiện kinh tế và chính
trị ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên có thể thấy rằng đây là 2 mô hình rất thành công
của 2 nước phát triển và để lại cho Việt Nam nhiều kinh nghiệm.
Thực tiễn cho thấy, việc phát triển bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam
còn nhiều khó khăn, cản trở. Vậy, Việt Nam phải có những giải pháp gì nhằm
tháo gỡ nhưng khó khăn trên, đưa bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát huy tối đa
tác dụng là một công cụ hiện đại hỗ trợ xuất khẩu. Vấn đề này sẽ được giải quyết
ở chương 3.
76
Chương 3:
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA
BẢO HIỂM TÍN DỤNG XUẤT KHẨU CHO CÁC
DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU VIỆT NAM
I. Giải pháp về mặt pháp lý
Một số vấn đề cần được làm rõ khi phát triển bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là
cơ cấu nguồn vốn, cơ quan chủ quản, cơ quan giám sát và luật điều chỉnh. Bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu cần hoạt động bằng nguồn vốn được phân bổ đặc biệt,
tốt nhất là nhận được sự hỗ trợ của nhà nước để có thể nâng cao giá trị các hợp
đồng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu lên gấp nhiều lần. Bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu cần một lực lượng nhân viên dồi dào, có trình độ chuyên môn cao, có khả
năng chuyên môn hóa nhiệm vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bằng cách tiếp cận
năng động trong giai đoạn sớm tiếp nhận.
1. Kiện toàn khung pháp lý về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
Một trong những lý do mà bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chưa có chỗ đứng
trong nước là do môi trường pháp lý và kinh doanh bảo hiểm chưa đáp ứng được
nhu cầu hội nhập quốc tế. Hiện nay tại Việt Nam, theo các quy định pháp luật
hiện hành thì bảo hiểm tín dụng là một trong bảy nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân
thọ.Những điều khoản riêng về bảo hiểm tín dụng trong xuất khẩu gần như chưa
có. Để tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp với những chính sách như trợ cấp xuất
77
khẩu, thưởng thành tích xuất khẩu, trợ cấp thay thế xuất khẩu hay chính sách tín
dụng ngắn hạn hỗ trợ doanh nghiệp dưới hình thức cho vay với lãi suất ưu đãi
trong tình hình mới, nhất là sau biến động về thị trường tài chính vừa qua thì nhà
nước cần phải bổ sung và hoàn chỉnh các điều khoản về luật bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu.
1.1. Cơ quan chủ quản, kiểm soát
Chính phủ cần hoàn thiện môi trường pháp lý và kinh doanh trên nguyên tắc
WTO song song với nghiên cứu hoàn thiện mô hình của tổ chức cung cấp bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu. Trong điều kiện hiện tại, cần thiết phát huy nội lực về
tổ chức quản lý điều hành và chuyên môn, quan hệ quốc tế của hệ thống doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước. Đồng thời hợp tác với các tổ chức bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu quốc tế để từ đó thiết lập cơ cấu chấp nhận và chuyển giao rủi ro
bảo hiểm tín dụng phù hợp.
Có nhiều hình thức hoạt động đối với cơ quan tín dụng xuất khẩu (ECA) có
thể được tài trợ bởi nhà nước. Cụ thể như một Bộ của Chính phủ như mô hình
của US Eximbank, một cơ quan chính phủ, hoặc một cơ quan chính phủ độc lập,
một công ty cổ phần bán công, một công ty tư nhân hoạt động theo hợp đồng với
nhà nước (như mô hình của Coface) và theo trách nhiệm của nhà nước, một cơ
quan tư nhân hoạt động theo một hợp đồng với nhà nước và được nhà nước tái
bảo hiểm toàn bộ. Với tình hình Việt Nam hiện nay , cơ quan giám hộ có thể là
bộ tài chính hoặc bộ công thương. Nếu để bộ tài chính là cơ quan giám hộ có
thẩm quyền trực tiếp sẽ có thể dễ dàng kết hợp việc hỗ trợ tài chính xuất khẩu và
bảo hiểm xuất khẩu. Còn nếu để bộ công thương có thể đảm việc hỗ trợ liên kết
gần hơn với các chính sách xuất khẩu.
78
1.2. Qui định điều chỉnh
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cần được điều chỉnh theo các quy định trong
lĩnh vực bảo hiểm biệt lập với hoạt động của ngân hàng và chứng khoán. Ngoài
các doanh nghiệp bảo hiểm, tái bảo hiểm, tổ chức ngân hàng, chứng khoán, hoạt
động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cần phải có sự hiện diện của các tổ chức tín
dụng xuất khẩu.Các tổ chức này sẽ thực hiện các công việc kiểm soát rủi ro về
hạn mức tín dụng cấp cho người mua, giám sát rủi ro, đa dạng hóa các hạng mục
tín dụng và các công cụ quản lý rủi ro khác. Đồng thời đóng vai trò cộng tác giữa
các tổ chức tín dụng xuất khẩu chính thức và các ngân hàng thương mại và trao
đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm hoặc bổ sung vào các công cụ quản lý tín
dụng.
Cần thiết phải hoàn thiện khung pháp lý về luật điều chỉnh cho lĩnh vực bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một ngành bảo hiểm
nên tất nhiên sẽ chịu sự điều chỉnh theo các qui định chung của luật bảo hiểm,
nhưng mặt khác bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một ngành bảo hiểm đặc biệt có
liên quan mật thiết đến vấn đề tín dụng xuất khẩu nên cần thiết phải có những
qui định riêng-đó chính là luật bảo hiểm xuất khẩu. Mục đích của luật này là
nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu và đóng góp vào việc nâng cao nên kinh tế
quốc gia bằng cách điều hành có hiệu quả hệ thống bảo hiểm xuất khẩu (trong đó
có bảo hiểm tín dụng xuất khẩu) bảo đảm các rủi ro phát sinh từ các giao dịch
xuất khẩu của hàng hóa và dịch vụ hoặc các giao dịch bên ngoài.
2. Đơn giản hóa các thủ tục hành chính
Một nguyên nhân nữa khiến cho bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chưa thể phát
triển nhanh và mạnh ở Việt Nam chính là sự bất hợp lý và các tiêu cực trong thủ
79
tục hành chính. Trong thời gian qua, đã có rất nhiều tranh chấp phát sinh do thủ
tục hành chính rờm rà và thái độ làm việc thiếu tính sáng tạo trong công tác hành
chính ở Việt Nam, theo thống kê của văn phòng chính phủ, những thủ tục bất
hợp lý đang gây thiệt hại lên đến hàng ngàn tỉ đồng cho xã hội mỗi năm. Đơn
giản hoá thủ tục hành chính để giải quyết tranh chấp, xử lý thi hành án một cách
nhanh chóng, tạo điều kiện thuận lợi trong việc thu hồi các khoản nợ cũng là
việc cần làm đồng thời thiết lập hệ thống các công ty thu hồi nợ giúp hoạt động
thu hồi nợ hiệu quả hơn.
Mục tiêu của đơn giản hóa thủ tục hành chính là bảo đảm sự thống nhất, đồng
bộ, đơn giản, công khai, minh bạch của các thủ tục hành chính; tạo sự thuận lợi
cho cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp trong tiếp cận và thực hiện thủ tục hành
chính; nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước và thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội, góp phần phòng chống tham nhũng, lãng phí.
Cải cách hành chính là một vấn đề đặc biệt, được mọi người rất quan tâm vì
thủ tục hành chính có ảnh hưởng bao trùm trực tiếp đến mọi hoạt động xã hội,
kinh tế, chính trị... của mọi tầng lớp xã hội.
Trong nhiều năm qua, xã hội đã bày tỏ nhiều bức xúc vì trên thực tế, đa số
người dân vẫn cảm nhận rằng "hành chính tức hành dân là chính". Nhà nước đã
có nhiều nỗ lực cụ thể và công tâm mà nói, những nỗ lực ấy đã đem đến một số
hiệu quả khá tích cực. Tuy nhiên, trước nhu cầu đổi mới và phát triển bức bách
của đất nước, tiến trình cải cách hành chính đến thời điểm này vẫn chưa thỏa
mãn sự mong đợi của xã hội. Những thủ tục hành chính bất hợp lý cần được xét
lại lên đến sáu, bảy ngàn, theo những công bố mới nhất.
80
Để một xã hội phát triển xứng với tầm mức của nó, cần hai điều kiện chính:
(1) Người dân có cơ hội và khả năng tiếp cận với những thông tin về cơ hội làm
ăn. Với phương tiện thông tin và truyền thông hiện đại của "thế giới phẳng" hôm
nay, người dân Việt hoàn toàn có khả năng dễ dàng tiếp cận thông tin họ cần để
biết mình nên làm gì, ở đâu, với ai, và làm như thế nào nhằm phát huy cơ hội
làm ăn; (2) Luật chơi trên sân nhà rõ ràng, minh bạch, dễ tuân thủ, thể hiện cụ
thể nhất qua các thủ tục hành chính, để người dân có thể dự tính cơ hội làm ăn ở
mức độ ít rủi ro nhất. Khi người dân còn cho rằng hệ thống hành chính là để
hành dân thì họ rụt rè trong đầu tư dài hạn, chỉ tính toán đầu cơ ngắn hạn để
giảm thiểu rủi ro. Đối với lĩnh vực bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng vậy, một
khi thủ tục hành chính còn chưa hợp lý, chưa thực sự là động lực thúc đẩy (mà
trái lại còn gây nhiều cản trở) thì chưa thể phát triển như kỳ vọng. Muốn bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu thực sự có điều kiện phát triển thì nhà nước ta cần chú
trọng hơn nưa đến vấn đề thủ tục hành chính trong công tác bồi thường, xác định
tổn thất- những nghiệp vụ cơ bản nhất của một lĩnh vực bảo hiểm.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu liên quan chặt chẽ đến vấn đề tài chính. Vì thế
mà thủ tục hành chính trong lĩnh vực tài chính là vấn đề vô cùng quan trọng. Cải
cách hành chính trong lĩnh vực tài chính là phải đồng bộ hoá hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật và cải cách thủ tục hành chính về tài chính; hoàn thiện chức
năng, nhiệm vụ, củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý tài chính - ngân
sách; tiêu chuẩn hoá cán bộ tài chính, xây dựng đội ngũ công chức tài chính đủ
về số lượng, có cơ cấu hợp lý và có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao. Hiện đại
hoá quản lý tài chính - ngân sách, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật để nâng
cao năng lực và hiệu quả quản lý trước hết là lĩnh vực thuế, hải quan, kho bạc;
81
tiến tới thực hiện thống nhất các quy trình nghiệp vụ quản lý, điều hành công tác
tài chính theo tiêu chuẩn quản lý chất lượng quốc tế.
Thu tục hành chính đơn giản và hợp lý sẽ tiết kiệm cho các doanh nghiệp rất
nhiều nguồn lực trong công tác khiếu nại bồi thường. Vì thế mà các doanh
nghiệp sẽ mạnh dạn hơn khi tham gia các loại hình bảo hiểm nói chung và bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu nói riêng. Hiệu quả xuất khẩu nhờ đó cũng tăng lên và
mang lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước.
3. Hoàn thiện các công cụ giám sát và hệ thống thông tin
Muốn bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát triển vấn đề thông tin là yếu tố vô
cùng quan trọng. Thông tin là cơ sở của mọi quyết định kinh tế. Chính sự thiếu
hụt hay không chính xác của thông tin gây nên các rủi ro, mà trong đó rủi ro tín
dụng xuất khẩu là rất lớn trong kinh tế thế giới hiện đại
Hệ thống thông tin quản lý là hệ thống cung cấp thông tin cho công tác quản
lý của tổ chức. Nó bao gồm con người, thiết bị và quy trình thu thập, phân tích,
đánh giá và phân phối những thông tin cần thiết, kịp thời, chính xác cho những
người soạn thảo các quyết định trong tổ chức.
Thông tin quản lý là những dữ liệu được xử lý và sẵn sàng phục vụ công tác
quản lý của tổ chức. Có 3 loại thông tin quản lý trong một tổ chức, đó là thông
tin chiến lược, thông tin chiến thuật, và thông tin điều hành.
Thông tin chiến lược: là thông tin sử dụng cho chính sách dài hạn của tổ
chức, chủ yếu phục vụ cho các nhà quản lý cao cấp khi dự đoán tương lai. Loại
thông tin này đòi hỏi tính khái quát, tổng hợp cao. Dữ liệu để xử lý ra loại thông
82
tin này thường là từ bên ngoài tổ chức. Đây là loại thông tin được cung cấp trong
những trường hợp đặc biệt.
Thông tin chiến thuật: là thông tin sử dụng cho chính sách ngắn hạn, chủ yếu
phục vụ cho các nhà quản lý phòng ban trong tổ chức. Loại thông tin này trong
khi cần mang tính tổng hợp vẫn đòi hỏi phải có mức độ chi tiết nhất định dạng
thống kê. Đây là loại thông tin cần được cung cấp định kỳ.
Thông tin điều hành: (thông tin tác nghiệp) sử dụng cho công tác điều hành tổ
chức hàng ngày và chủ yếu phục vụ cho người giám sát hoạt động tác nghiệp của
tổ chức. Loại thông tin này cần chi tiết, được rút ra từ quá trình xử lý các dữ liệu
trong tổ chức. Đây là loại thông tin cần được cung cấp thường xuyên.
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bảo hiểm cho các rủi ro tín dụng xuất khẩu.
Muốn vận hành tốt công cụ thúc đẩy xuất khẩu này thì nhà nước phải đưa ra
những công cụ giám sát nền kinh tế hiệu quả hơn. Bởi vì, khi nền kinh tế Việt
Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp nước nhà phải
cạnh tranh gay gắt với các doanh nghiệp nước ngoài thì đồng thời mức độ rủi ro
liên quan đến lĩnh vực bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng ngày càng gia tăng.
Sau những năm đổi mới, đặc biệt những năm gần đây nền kinh tế của Việt
Nam đạt mức tăng trưởng cao và được nhận định là thị trường đầy tiềm năng cho
các công ty bảo hiểm liên quan đến lĩnh vực tín dụng.Tuy nhiên, một điều mà
các nhà đầu tư còn e ngại đó là có ít thông tin đầy đủ và chính xác về các doanh
nghiệp.Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước nên xây dựng một kênh thông tin
cung cấp chi tiết về tình hình tài chính và kinh doanh của doanh nghiệp, giúp các
công ty bảo hiểm có thể tránh được những rủi ro về mặt tài chính.Hoàn thiện hệ
83
thống dịch vụ kiểm toán đủ tin cậy, thực thi chuyên môn đáp ứng chuẩn mực
kiểm toán quốc tế tránh sai lệch thông tin tài chính về doanh nghiệp.
Tăng cường tính công khai, minh bạch của thị trường; thực hiện giám sát và
cưỡng chế thực thi nghiêm ngặt; áp dụng nguyên tắc quản trị công ty theo thông
lệ quốc tế đối với các công ty niêm yết, công ty đại chúng. Từng bước mở rộng
sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt
Nam theo cam kết hội nhập; tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam, trước
mắt là các doanh nghiệp lớn, tham gia vào thị trường vốn quốc tế.
II. Giải pháp về mặt tài chính
1. Đối với doanh nghiệp xuất khẩu
1.1. Tiếp cận nguồn vốn đảm bảo bằng hợp đồng bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hỗ trợ xuất khẩu, đảm bảo rủi ro cho các doanh
nghiệp xuất khẩu khi cấp tín dụng thương mại cho các nhà nhập khẩu. Nhưng
ngược lại, bản thân thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu muốn phát triển cần
phải có lực đẩy mạnh mẽ từ phía cầu. Đó chính là sự tham gia và hưởng ứng
mạnh mẽ từ phía các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp xuất nhập khâu. Để
tạo điều kiện về mặt tài chính cho thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các
doanh nghiệp cần đẩy mạnh hỗ trợ xuất khẩu. Ví dụ có thể ưu tiên mua ngoại tệ
có nguồn gốc xuất khẩu theo tỷ giá quy định cho các doanh nghiệp, ưu tiên với
những hợp đồng xuất khẩu, tiếp tục cho vay với lãi suất hợp lý và ổn định để các
doanh nghiệp có vốn tiếp tục thực hiện các hợp đồng. Đặc biệt chú trọng xuất
khẩu những mặt hàng chủ lực, có giá trị cao thông qua việc cấp bảo hiểm tín
84
dụng xuất khẩu, đảm bảo cho rủi ro không thanh toán, đồng thời cung cấp các
dịch vụ tài chính, cung cấp thông tin và quản lý những khoản phải thu.
Doanh nghiệp xuất khẩu có thể dùng chính các hợp đồng bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu để thế chấp cho các ngân hàng hay các công ty tài chính cho các khoản
vay tiếp theo. Từ đó, doanh nghiệp có thêm nguồn vốn đầu tư cho các dự án tiếp
theo. Đồng thời, nhờ hoạt động thế chấp đảm bảo trên, số hợp đồng bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu cũng tăng lên đáng kể. Mối liên hệ tác động qua lại giữa thị
trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu và thị trường vốn, thị trường xuất khẩu hàng
hóa tạo nên một lực đẩy kinh tế tổng hợp mang lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh
tế. Thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có được nhiều hợp đồng hơn từ các
doanh nghiệp, nguồn thu từ phí bảo hiểm sẽ tăng làm tăng nguồn vốn hoạt động
cho doanh nghiệp, tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu. Các doanh nghiệp có
thêm điều kiện huy động vốn. Các ngân hàng và các công ty tài chính có thêm
lựa chọn cho việc đảm bảo tài chính của các doanh nghiệp, tăng sự hiệu quả
trong lĩnh vực vay tài chính. Nhà nước bớt đi được một khoản ngân sách giành
cho hỗ trợ trực tiếp xuất khẩu, thỏa mãn các điều kiện về hỗ trợ kinh tế trong
điều kiện hội nhập.
Với tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu đã có
những bước phát triển khá tốt ở một sộ ngành xuất khẩu. Nhiều quỹ bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu cấp ngành đã được thành lập. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu
các ngành này sẽ tạo điều kiện tốt cho thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Từ những lợi ích từ những ngành xuất khẩu này sẽ mở rộng ra các ngành khác,
tạo nên một dòng chu chuyển vốn linh hoạt giữa các ngành.
85
1.2. Thay đổi thói quen nhập CIF, bán FOB
Doanh nghiệp Việt Nam cũng nên thay đổi thói quen nhập CIF, bán FOB của
mình từ trước đến nay. Doanh nghiệp cần mạnh dạn hơn trong việc đánh giá rủi
ro của nhà nhập khẩu thông qua kênh thông tin của bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Kinh nghiệm thế giới chỉ ra rằng, kênh thông tin từ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu,
là một nguồn đáng tin cậy trong việc đánh giá khả năng tín dụng của doanh
nghiệp nhờ sự chuyên môn hóa và hệ thống thông tin toàn cầu.
Khi thay đổi thói quen sang xuất khẩu giá CIF hoặc CIP, doanh nghiệp Việt
Nam sẽ giành quyền thuê tàu và mua bảo hiểm về mình. Như vậy doanh nghiệp
xuất khẩu Việt Nam sẽ chỉ phải chi trả các khoản cước phí và phí bảo hiểm hàng
hóa bằng nội tệ và tăng được giá trị xuất khẩu hàng hóa. Doanh nghiệp Việt Nam
sẽ thu thêm được một khoản ngoại tệ khi thanh toán hợp đồng với người nhập
khẩu. Tuy nhiên, nếu cho nhà nhập khẩu hưởng tín dụng thương mại thì doanh
nghiệp Việt Nam sẽ lại chịu rủi ro lớn hơn. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một
kênh đảm bảo giúp cho doanh nghiệp xuất khẩu an tâm hơn trước rủi ro này.
Như vậy sự thay đổi thói quen trong các điều kiện xuất khẩu của doanh nghiệp
Việt Nam tạo điều kiện để thị trường bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát triển.
2. Đối với công ty, tổ chức tín dụng, bảo hiểm
2.1. Tiếp cận nguồn vốn từ phía nhà nước
Nhìn từ góc độ doanh nghiệp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, chi phí đầu tư ban
đầu và vận hành nghiệp vụ rất lớn, cùng với lo lắng về tiềm năng thị trường, mức
độ rủi ro, hiệu quả kinh doanh là những rào cản đáng kể. Vì liên quan tới hoạt
động giao thương toàn cầu với giá trị giao dịch lớn nên yêu cầu về vốn, năng lực
điều hành và chuyên môn đối với tổ chức bảo hiểm tín dụng rất cao.Quy trình
86
đánh giá, phân tích rủi ro nhận bảo hiểm, kiểm soát quản lý rủi ro, xử lý khiếu
nại và thu hồi nợ trên phạm vi rộng.Vì vậy, tổ chức cung cấp bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu phải có đội ngũ nguồn nhân lực có kỹ năng chuyên môn cao, sử dụng
công nghệ tiên tiến để tiếp cận hệ thống thông tin kinh doanh, tài chính minh
bạch và tin cậy. Ngoài cung cấp dịch vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, các tổ
chức cung cấp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cung cấp dịch vụ gia tăng như cập
nhật thông tin doanh nghiệp theo các nhóm ngành hàng của từng quốc gia, phân
tích rủi ro quốc gia... Do đó, doanh nghiệp bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cần được
hỗ trợ đặc biệt từ phía nhà nước, tạo cơ sở vốn đầu tư ban đầu cho trang bị công
nghệ và tuyển dụng nguồn nhân lực, ưu đãi về thuế (nhiều quốc gia không áp
thuế thu nhập, thuế VAT) và có chính sách bù đắp chi phí hoạt động trong 2 - 3
năm đầu tiên.
2.2. Nâng cao hiệu quả các hoạt động đầu tư
Một giải pháp khác cho nhu cầu vốn để mở rộng thị trường bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu cho các doanh nghiệp, tổ chức tín dụng và bảo hiểm là nâng cao hiệu
quả đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm. Hiện nay, hoạt động bảo hiểm đóng
vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường vốn ở nước ta
trên các giác độ: các doanh nghiệp, các tổ chức bảo hiểm vừa là nhà phát hành
chứng khoán, là định chế trung gian tài chính và vừa là nhà đầu tư trên thị trường
vốn. Hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm diễn ra khá phong phú.
Các doanh nghiệp bảo hiểm có thể sử dụng các nguồn như: vốn điều lệ, quỹ dự
trữ bắt buộc; quỹ dự trữ tự nguyện; các khoản lãi của những năm trước chưa sử
dụng và các quỹ được sử dụng để đầu tư hình thành từ lợi tức để lại doanh
nghiệp và nguồn vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm để đầu tư. Thông
qua hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp bảo hiểm đã tạo lập được nguồn tài
87
chính lớn để đầu tư trở lại nền kinh tế, thúc đẩy sự hình thành và phát triển của
thị trường vốn.
Hiện nay, tuy được phép đầu tư khá đa dạng về ngành, xong hiệu quả đầu tư
của các doanh nghiệp bảo hiểm vẫn chưa cao do các doanh nghiệp này vẫn chỉ
tập trung đầu tư vào các lĩnh vực có tính thanh khoản cao như tiền gửi và trái
phiếu chính phủ. Để tạo ra một nguồn vốn lớn hơn, các doanh nghiệp bảo hiểm
cần mở rộng mạng lưới đầu tư hơn nữa, liên kết chặt chẽ với các doanh nghiệp,
các ngân hàng, đa dạng hóa danh mục đầu tư. Đồng thời, các doanh nghiệp bảo
hiểm phải nâng cao tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư về tổ chức cũng
như trình độ của đội ngũ cán bộ; sớm xây dựng đội ngũ các chuyên gia về đầu
tư... Trước mắt, các doanh nghiệp bảo hiểm có đủ tiêu chuẩn cần sớm thành lập
quỹ đầu tư, quỹ tín thác và công ty quản lý quỹ theo quy định của pháp luật.
Trong khi hoạt động bảo hiểm của Việt Nam ngày càng phát triển, nhất là sau
khi Việt Nam đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, thì bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu sẽ trở thành một yêu cầu và đòi hỏi tất yếu của các tổ chức tín dụng,
ngân hàng và các doanh nghiệp xuất khẩu.
3. Đối với nhà nước
Thiết lập một tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu quốc gia
Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là hình thức bảo đảm tài chính cho nhà xuất
khẩu trong các hợp đồng xuất nhập khẩu có điều kiện thanh toán theo hình thức
tín dụng mở (open account) trước rủi ro nợ xấu, mất khả năng thanh toán của nhà
nhập khẩu do mất khả năng thanh toán, phá sản hoặc vì bất ổn chính trị tại quốc
gia nhập khẩu. Tùy theo tính chất, giá trị hàng hóa (hàng hóa thông thường như
nông sản, nguyên liệu, thiết bị điện tử,…; hàng hóa tư liệu sản xuất như trang
88
thiết bị, máy móc đến các dự án lớn) và phương thức thanh toán, hình thức sản
phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu có thể là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn.
Nếu như WTO hay OECD quy định các sản phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
trung hạn và dài hạn được phép có sự hỗ trợ trực tiếp của Chính phủ (được các tổ
chức tổ chức tín dụng thuộc Nhà nước trợ cấp và bảo lãnh kinh doanh) thì sản
phẩm bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ngắn hạn, về cơ bản là sản phẩm bảo hiểm
thương mại (trừ bảo hiểm cho rủi ro chính trị).
Không chỉ đóng vai trò là công cụ che chắn và giảm thiểu rủi ro cho nhà xuất
khẩu, bảo hiểm tín dụng xuất khẩu tạo ra lợi thế cạnh tranh rõ rệt cho nhà xuất
khẩu trong việc chủ động cung cấp tín dụng cho người mua (không có được ở
các phương thức thanh toán L/C, thanh toán trả trước), tự tin khi xâm nhập thị
trường xuất khẩu mới, tăng năng lực tiếp cận nguồn vốn tín dụng từ ngân hàng
và tổ chức tài chính, qua đó phát huy tối đa năng lực sản xuất và cung cấp hàng
hóa dịch vụ, mở rộng thị trường. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng xuất khẩu
(ECA) cũng là nguồn cung cấp thông tin thị trường, năng lực và tình trạng tài
chính của người mua giúp nhà xuất khẩu thực hiện các giao dịch kinh doanh an
toàn và hiệu quả. Các quốc gia xuất khẩu cũng được hưởng lợi nhờ thúc đẩy hoạt
động xuất khẩu hàng hóa, đảm bảo mục tiêu tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn
việc làm và tăng thu ngoại hối cải thiện cán cân thanh toán quốc gia. Vì những
lợi ích đó nên hầu hết các nước phát triển đều thành lập các tổ chức bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu (ECA) để tăng cường năng lực cạnh tranh cho hàng hóa xuất
khẩu.
Trong bối cảnh Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, tiềm năng xuất
khẩu sang thị trường của 150 nước thành viên là rất lớn, bên cạnh các thị trường
xuất khẩu truyền thống. Vì vậy, nghiên cứu thành lập một tổ chức bảo hiểm tín
89
dụng xuất khẩu có ý nghĩa thiết thực và cấp bách. Tổ chức tín dụng xuất khẩu
này sẽ là cơ quan chuyên môn hóa trong lĩnh vực bảo hiểm tín dụng xuất khẩu,
bao gồm cả nhiệm vụ lập kế hoạch đào tạo nhằm phát triển nguồn nhân lực phục
vụ loại hình bảo hiểm này.
Các mô hình tổ chức và lịch sử phát triển của các tổ chức bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu trên thế giới cho thấy, sự bảo trợ của nhà nước trong việc thành lập là
yếu tố quyết định. Ban đầu, tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cần được nhà
nước đầu tư về công nghệ thông tin, nguồn nhân lực và khả năng tài chính. Ngay
cả ở châu Âu, mặc dù đã có một giai đoạn phát triển vài thập kỷ, nhưng đến nay
hầu hết tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu vẫn do nhà nước sở hữu hoặc đứng
sau tài trợ/bảo lãnh với cơ chế chính sách về vốn, ưu đãi thuế, tái bảo hiểm cứu
cánh... Tuy nhiên, để bảo đảm hoạt động bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phù hợp
với nguyên tắc WTO (không được coi là trợ cấp xuất khẩu), tổ chức bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu cho dù thuộc sở hữu nhà nước (phục vụ mục tiêu thúc đẩy xuất
khẩu) thì cũng phải thực hiện kinh doanh theo nguyên tắc thị trường, bảo đảm sự
cạnh tranh lành mạnh và chịu sự điều chỉnh của luật pháp về bảo hiểm và thương
mại.
Không quốc gia nào thành lập tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu khi chưa
tính toán lợi ích kinh tế khả thi, có nghĩa là phân tích hiệu quả đẩy mạnh xuất
khẩu với chi phí đầu tư và vận hành tổ chức đó. Những câu hỏi lớn cần đặt ra là:
- Ngành hàng/thị trường/loại hình DN/ngân hàng nào thực sự có nhu cầu bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu?
- Ai sẽ đầu tư vào tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu? Quy mô vốn và bão
lãnh phù hợp? Hình thức tài trợ và ủng hộ của nhà nước sẽ thực hiện thế nào?
90
- Các hình thức hỗ trợ tài chính cho nhà xuất khẩu đang thực hiện? Kinh
nghiệm, năng lực kinh doanh của hệ thống ngân hàng, công ty thương mại và
nhà xuất khẩu ra sao?
- Năng lực của hệ thống doanh nghiệp bảo hiểm thương mại? Độ sẵn có của
nguồn nhân lực quản trị và chuyên môn của thị trường bảo hiểm, ai sẽ thực hiện
việc đào tạo?
- Sản phẩm bảo hiểm tín dụng nào sẽ triển khai trước?
Trong điều kiện thiếu nguồn vốn và nhân sự, tính chất mặt hàng xuất khẩu đa
số là hàng hóa thông dụng, nhiều chuyên gia quốc tế cho rằng, trước mắt, Việt
Nam nên lựa chọn phát triển bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ngắn hạn. Điều này
được dựa trên năng lực tổ chức quản lý điều hành và chuyên môn, quan hệ quốc
tế của hệ thống doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, đồng thời hợp tác với các tổ
chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu quốc tế để từ đó thiết lập cơ cấu chấp nhận và
chuyển giao rủi ro bảo hiểm, tái bảo hiểm tín dụng phù hợp.
Việt Nam cần xúc tiến thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu (ECA)
để tạo điều kiện cho các ngân hàng và các đơn vị xuất khẩu có thể đảm bảo tài
chính và không bị rủi ro nhiều khi xuất hàng hóa đi.
Trong điều kiện là một quốc gia đang phát triển, mô hình ECA phù hợp với
Việt Nam là công ty nhà nước hoặc công ty cổ phần nhưng nhà nước vẫn nắm
phần lớn cổ phần để đình hướng phát triển.Hiện nay, các công ty tư nhân ở Việt
Nam chưa đủ thực lực để đóng vai trò là ECA.Yêu cầu cần một nguồn vốn lớn
kết hợp định hướng xã hội chủ nghĩa là hai nhân tố chính để mô hình ECA ở
Việt Nam nên là một công ty nhà nước.
91
ECA này nên có một trụ sở chính và nhiều chi nhánh ở các tỉnh thành.Ngoài
nhiệm vụ bảo hiểm rủi ro cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, ECA còn
cần thực hiện nhiệm vụ cung cấp thông tin cho các doanh nghiệp, các công ty
bảo hiểm và các ngân hàng. ECA sẽ đóng vai trò đầu tàu hỗ trợ tài chính gián
tiếp qua các dịnh vụ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho các doanh nghiệp và lí
tưởng hơn, ECA có thể đại diện cho các doanh nghiệp khách hàng thu hồi các
khoản tín dụng xuất khẩu khi xảy ra rủi ro.
Dù cho là sản phẩm ngắn hạn hay trung, dài hạn, quy trình cung cấp bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu tương đối phức tạp do phát sinh yêu cầu đánh giá và thẩm
định năng lực trả nợ của đối tác nước ngoài cũng như các yếu tố kinh tế chính trị
xã hội của quốc gia nhập khẩu. Doanh nghiệp xuất khẩu có thể lựa chọn tham
gia bảo hiểm cho toàn bộ kim ngạch hay một nhóm người mua hoặc một hợp
đồng cụ thể (thường có giá trị lớn hơn 2 triệu USD) nhưng trong từng trường
hợp, mức độ đánh giá năng lực tài chính và khả năng trả nợ của người mua, môi
trường kinh doanh vẫn là yếu tố quyết định để ECA có nhận bảo hiểm hay
không, nếu nhận thì với hạn mức tín dụng thế nào và phí bảo hiểm bao nhiêu.
Bên cạnh phí bảo hiểm, nhà xuất khẩu cũng phải chi trả thêm khoản lệ phí đánh
giá và xác lập hạn mức tín dụng đối với nhà nhập khẩu yêu cầu (thường từ 10-
15% phí bảo hiểm).
Để có thể thực hiện các quy trình nghiệp vụ từ thẩm định rủi ro, xác lập hạn
mức tín dụng, tính phí bảo hiểm đến bồi thường, thu hồi nợ và cung cấp các dịch
vụ hỗ trợ xuất khẩu khác như tư vấn thông tin, ủy thác thu hồi nợ, bảo lãnh đầu
tư … các ECA phải xây dựng cơ sở dữ liệu thông tin về các doanh nghiệp toàn
cầu, về tình hình kinh tế chính trị xã hội của các quốc gia cùng với việc đẩy
mạnh quan hệ với các ECA và tổ chức quốc tế khác. Hiệp hội các công ty bảo
92
hiểm tín dụng và đầu tư Bern Union được thành lập năm 1934 hiện có 51 thành
viên từ 27 quốc gia (đáng chú ý là trong 5 năm vừa qua đã có thêm 15 ECA mới
gia nhập) nhằm chia sẻ thông tin tín dụng, thống nhất các chuẩn mực hoạt động
nghiệp vụ của ECA (theo chuẩn OECD) và là cầu nối cho các hoạt động chia sẻ
rủi ro tài chính thông qua tái bảo hiểm, hoán đổi danh mục rủi ro giữa các tổ
chức tín dụng thành viên. Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng xuất khẩu cũng đẩy
mạnh quan hệ đối tác chặt chẽ với các tổ chức đa phương, ngân hàng quốc tế như
IMF, World Bank, ADB, EBRD, các tổ chức xếp hạng tín dụng quốc tế như
S&P, Moody’s, AM Best,… các tổ chức nghiên cứu dự báo thị trường, các công
ty tư vấn doanh nghiệp quốc tế để mở rộng quy mô và tăng độ tin cậy của cơ sở
dữ liệu doanh nghiệp.
Các mô hình tổ chức và lịch sử phát triển của các tổ chức bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu trên thế giới cho thấy, sự bảo trợ của Nhà nước trong việc thành lập
các tổ chức tín dụng xuất khẩu là yếu tố quyết định. Lúc đầu, tổ chức bảo hiểm
tín dụng cần phải được nhà nước đầu tư về công nghệ thông tin, nguồn nhân lực
và khả năng tài chính. Sau một thời gian dài tích lũy tài chính, các tổ chức này
mới từng bước có thể tự kinh doanh. Tuy nhiên, để bảo đảm hoạt động bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu phù hợp với nguyên tắc WTO (không được coi là trợ cấp xuất
khẩu), tổ chức bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cho dù là thuộc sở hữu nhà nước
(phục vụ mục tiêu thúc đẩy xuất khẩu) thì cũng phải thực hiện kinh doanh theo
nguyên tắc thị trường, bảo đảm sự cạnh tranh lành mạnh và chịu sự điều chỉnh
của luật pháp về bảo hiểm và thương mại.
93
Tổng kết chương 3:
Trên đây là những giải pháp người viết đưa ra trên 2 khía cạnh pháp lý và tài
chính, với 3 đối tượng chính tham gia vào việc phát triển bảo hiểm tín dụng xuất
khẩu: doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp cung cấp bảo hiểm và nhà nước.
Muốn bảo hiểm tín dụng xuất khẩu phát triển được, chúng ta cần loại bỏ hết các
cản trở.
Về pháp lý: cần có hành lang pháp lý hiện đại hơn, chuyên biệt hơn. Việt
Nam cần có nguồn luật riêng điều chỉnh bảo hiểm tín dụng xuất khẩu, cần có cơ
quan chủ quản ro rang, đường lối phát triển có kế hoạch.
Về mặt tài chính: chúng ta có thể huy động tài chính phát triển bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu với sự kết hợp giữa hỗ trợ của nhà nước và sự tham gia của các
doanh nghiệp.
Song song với 2 vấn đề trên là vấn đề nguồn lực con người, chúng ta cần có
những chuyên viên về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở trình độ cao. Muốn vậy,
ngay từ bây giờ chúng ta cấn có chương trình đào tạo chuyên biệt vê bảo hiểm
tín dụng xuất khẩu, mà theo người viết thì đó là sự kết hợp hoạt động giữa nhà
nước và doanh nghiệp. Nhà nước cần sớm thiết lập tổ chức tín dụng xuất khẩu,
chuyên môn hóa lo công việc liên qua đến tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu (trong đó có bao gồm cả việc đào tạo nhân lực).
94
KẾT LUẬN
Trong khuôn khổ thời gian nghiên cưu, mục tiêu của bài khóa luận là cho
độc giả thấy được cái nhìn chung nhất về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- một lĩnh
vực còn mới mẻ so với Việt Nam và các nước đang phát triển nhưng là một công
củ hiện đại và hiệu quả đã được các nước phát triển sử dụng nhằm hỗ trợ xuất
khẩu và đã đạt nhiều thành công trong thực tế.
Với mục tiêu trên, bài khóa luận đã giải quyết được các vấn đề sau:
Về mặt lý thuyết: người viết đã đưa ra được cái nhìn tổng quan nhất về bảo
hiểm tín dụng xuất khẩu thông qua những lý thuyết chung nhất tổng hợp từ các
báo cáo của các tổ chức kinh tế trên thế giới.
Giới thiệu các khái niệm liên quan đến bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.
Giới thiệu được các điều khoản cơ bản của một đơn bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu.
So sánh bảo hiểm tín dụng xuất khẩu với một số công cụ hỗ trợ xuất
khẩu khác.
Về mặt thực tiễn: người viết đã tổng hợp kinh nghiệm bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu trên thế giới thông qua 2 mô hình tiêu biểu.
Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu thông qua ngân hàng thương
mại hoạt động dưới sự chỉ đạo của chính phủ: US Eximbank của Mỹ
Mô hình bảo hiểm tín dụng xuất khẩu hoạt động thương qua một công
ty bảo hiểm thương mại: Coface của Pháp
95
Từ kinh nghiệm hoạt động của 2 mô hình tiêu biểu trên, người viết đã rút ra
được những ý nghĩa thực tiễn cho các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam về các
lợi ích cũng như các khó khăn trong việc triển khai bảo hiểm tín dụng xuất khẩu
ở Việt Nam.
Xu hướng kinh tế thế giới ngày càng diễn biến phức tạp, các quốc gia muốn
tồn tại và phát triển cần tự bảo vệ mình trước các rủi ro. Trong buôn bán quốc tế,
rõ ràng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu là một công cụ đắc lực với những lợi ích nó
mang lại. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu bảo hiểm các rủi ro liên quan đến tín
dụng xuất khẩu, sự biến động tỉ giá hối đoái…giúp các doanh nghiệp yên tâm
hơn khi tham gia thị trường thế giới, đồng thời bảo hiểm tín dụng xuất khẩu cũng
là một công cụ quan trọng để nhà nước tăng cường xuất khẩu và giảm gánh nặng
ngân sách.
Một số hạn chế trong nghiên cứu: mặc dù đã giải quyết được một số vấn
đề về lý thyết và thực tiễn về bảo hiểm tín dụng xuất khẩu nghiên cứu này vẫn
còn nhiều hạn chế trong việc thu thập và xử lý thông tin sơ câp. Người viết rất
muốn cung cấp cho độc giả những đánh giá khách quan nhất thông qua các thống
kê về giá trị bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam. Tuy nhiên, do đây là một
lĩnh vực mới mẻ, rất ít số liệu về doanh nghiệp sử dụng loại hình bảo hiểm này,
gây khó khăn cho việc thông kê. Người viết hy vọng rằng, với những động thái
ngày một tích cực hơn của Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội do bảo hiểm tín dụng
xuất khẩu mang lại cho các doanh nghiệp xuất khẩu góp phần đưa nền kinh tế
nước nhà ngày một phát triển và trong một tương lai không xa sẽ có những báo
cáo đầy đủ hơn về tình hình sử dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu ở Việt Nam.
96
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Hệ số tính phi bảo hiểm của COFACE
Hệ số
Danh mục
phí
Người mua
Tình hình chính trị và thương mại
nước nhập khẩu
Tổ chức
công
Tư nhân Tốt Trung bình Thấp Đặc biệt
a
1
2
3
4
5
6
7
0,100
0,224
0,386
0,575
0,766
0,931
1,098
0,090
0,201
0,348
0,517
0,690
0,838
0,988
0,100
0,224
0,386
0,575
0,766
0,931
1,098
0,210
0,334
0,496
0,685
0,876
1,041
1,208
0,320
0,444
0,606
0,795
0,986
1,151
1,318
0,430
0,554
0,716
0,905
1,096
1,261
1,428
b
1
2
3
4
5
6
7
0,349
0,348
0,394
0,491
0,786
1,176
1,764
0,314
0,313
0,355
0,442
0,707
1,058
1,588
0,349
0,348
0,394
0,491
0,786
1,176
1,764
0,349
0,348
0,394
0,491
0,786
1,176
1,764
0,349
0,348
0,394
0,491
0,786
1,176
1,764
0,349
0,348
0,394
0,491
0,786
1,176
1,764
(nguồn :
uments/AssCreditExport/Calculdeprime032009.pdf ngày truy cập: 11/4/2010)
97
Phụ lục 2: Hệ thống COFCE toàn cầu
CHÂU MỸ CHÂU ÂU CHÂU Á, PHI VÀ
TRUNG ĐÔNG
Doanh thu 141 triệu
Euro
Hiện diện tại 12 quốc gia
780 nhân viên
COFACE triển khai bốn
hoạt động ngành nghề kinh
doanh của mình tại Bắc
Mỹ và hiện xếp thứ hai về
bảo đảm các khoản khoản
phải thu thương mại tại Mỹ
và đang mở rộng nhanh
chóng về tài chính các
khoản phải thu thương mại
tại Canada. COFACE dẫn
đầu thị trường trong quản
lý khoản phải thu thương
mại tại Mỹ Latin, nâng
doanh số ở đây lên 58% và
thị phần là 34%. COFACE
cũng đang triển khai dịch
vụ thông tin doanh nghiệp
tại Mexico
Doanh thu 1.449 triệu Euro
hiện diện tại 30 quốc gia
5.160 nhân viên
Tài chính các khoản phải thu
thương mại được mở rộng nhanh
chóng trong năm, đặc biệt là ở
Pháp và Đức. COFACE đang phát
triển mạnh hơn tại Scandinavia,
thông qua việc thiết lập chi nhánh
ở Thụy Điển và mua lại công ty
dẫn đầu về lĩnh vực bảo hiểm tín
dụng xuất khẩu tại Đan Mạch.
Điều này làm cho mạng lưới cung
cấp cũng được mở rộng tới các
nước Cộng hòa Séc và Slovakia.
COFACE đang thử nghiệm hệ
thống đánh giá tài chính mới tại
12 quốc gia châu Âu thông qua
mạng lưới trực tiếp của các công
ty thành viên (khác với hệ thống
@rating)
Doanh thu 92 triệu Euro
Hiện diện tại 25 quốc gia
876 nhân viên
COFACE tăng cường mạng
lưới cung cấp của mình ở
Trung Đông bằng thỏa
thuận hợp tác với tập đoàn
đầu tư và bảo lãnh tín dụng
xuất khẩu Arab (IAIGC).
COFACE cũng đã mua lại
nhà cung cấp lớn nhất của
Ai Cập về thông tin kinh
doanh.Đồng thời COFACE
cũng đang mở rộng cung
cấp dịch vụ tài chính các
khoản phải thu thương mại
Trung Quốc, Australia và
Israel.
(nguồn:
phical_presence ngày truy cập 11/4/2010)
98
Phụ lục 3: Bản đồ xếp hạng đánh giá rủi ro của Coface tháng 2/2010
(nguồn:
isks/news?news=101802-1 ngày truy cập: 21/4/2010)
99
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Tài liệu tiếng Việt
1. Herbert J. Kessler; Trần Mậu dịch (1993): “Tài chính ngoại thương”,
NXB Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội-193 trang
2. Nguyễn Be (2000): “Lý thuyết tài chính”, NXB Thống kê-199 trang
3. Dương Đăng Chính (2003): “Giáo trình lý thuyết Tài chính”, NXB Tài
chính Hà Nội-47 trang
4. Hoàng Văn Châu (2006): “Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh”, NXB
Lao động xã hội Hà Nội-251 trang
5. Hồ Ngọc Hà (2009): “Đề cương bài giảng tài chính học”, NXB Lao động
xã hội, Hà Nội-183 trang
6. Trương Mộc Lâm (2000): “Một số điều cần biết về pháp lý trong kinh
doanh bảo hiểm”, NXB Thống kê, Tp Hồ Chí Minh-272 trang
7. Nguyễn Anh Minh (2002): “Tài trợ thương mại quốc tế”, NXB Thống kê,
Hà Nội-287 trang
8. Lê Văn Tề (2006): “Nghiệp vụ tín dụng và thanh toán quốc tế”, NXB
Thống kê, Hà Nội-507 trang
9. Phạm Xuân Thọ (1999): “Hợp đồng kinh tế và giải quyết tranh chấp kinh
tế”, NXB Tp Hồ Chí Minh-846 trang
10. Bộ tài chính (2008): “Tài liệu hội thảo Bảo hiểm xuất khẩu Hàn Quốc,
một số khuyến nghị cho Việt Nam”, Hà Nội- 120 trang.
11. Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (2008A): “Quy tắc bảo hiểm tín dụng
thương mại xuất khẩu”, Hà Nội-16 trang.
12. Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (2008B): “Bản câu hỏi quản lý tín
dụng”, Hà Nội-6 trang.
100
13. Công ty bảo hiểm dầu khí Việt Nam (2008C): “Giấy yêu cầu bảo hiểm tín
dụng thương mại xuất khẩu”, Hà Nội-5 trang.
II. Tài liệu tiếng Anh
1. Nippon Export and Investment Insurance: “Outline of trade and
investment Insurance-Vietnam mission”, seminar document (2006)
2. Nippon Export and Investment Insurance: “Insured long-term project by
NEXI” for Vietnam, seminar document (2008)
3. George-MSIG: “Export credit Insurance in Japan”, (2008)
4. Korea Export Insurance Corporation: “Export credit insurance”, seminar
document (2008).
5. Pieter van Foreest: “ECA risk management” (2007), Amsterdam.
6. The Swedish export credits guarantee: “Risk management”, seminar
document (2007)
III. Các trang web
1. US Eximbank: ngày truy cập 12/4/-10/5/2010
1.1. Mission:
1.2. Small-Business Support:
1.3. Ex-Im Bank Annual Reports:
1.4. Small Business Export Credit Insurance Policy:
1.5. Multi-Buyer Export Credit Insurance:
1.6. Short-Term Single-Buyer Export Credit Insurance:
101
1.7. Bylaws of the Export-Import Bank of the United States:
1.8. Ex-Im Bank History By Month: November:
1.9. Supporting Exports, Sustaining Jobs & Strengthening Communities:
https://webappsprod01.exim.gov/apps/usmap/usmap.nsf
1.10. Transportation Security Exports Program:
2. Coface: ngày truy cập 20/4-10/5/2010
2.1. Who we are:
we_are
2.2. Trade Receivables Protection:
p
2.3. Whole turnover policies:
me/wwd/p/whole_turnover_policies&site=COM_en_EN
2.4. Trade Receivables Management:
m
2.5. Trade Receivables Finance:
f
2.6. Quel est l'intérêt de l'Assurance-crédit export :
https://webappsprod01.exim.gov/apps/usmap/usmap.nsf
102
2.7. Pour quels risques:
itexport/quels_risques
2.8. Quelle garantie choisir:
itexport/quelle_garantie
2.9. Garantie des contrats commerciaux:
itexport/quelle_garantie/contrat_commerciaux
2.10. Garantie des marchés de travaux:
itexport/quelle_garantie/marchesdetravaux
2.11. Garantie des biens immatériels:
itexport/quelle_garantie/biens_immateriels
2.12. Garantie des prestations de service:
itexport/quelle_garantie/prestations_services
2.13. Garantie des cautions:
itexport/quelle_garantie/garantie_caution
2.14. CALCUL DE PRIME:
MT/fr_FR/documents/AssCreditExport/Calculdeprime032009.pdf
ngày truy cập 22/4/2101
103
3. Bern union total data :
ngày truy cập 10/4/2010
4. Export Credit Insurance:
editins.pdf ngày truy cập 10/4/2010
5. EXPORT SAFELY WITH EXPORT CREDIT INSURANCE:
03E3717D042572FF005D76AF/$File/ExportCreditInsurance.pdf ngày
truy cập 10/4/2010
6. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu –áp dụng mô hình nào cho hiệu quả:
bao-hiem-tin-dung-xuat-khau-ap-dung-mo-hinh-nao-cho-hieu-qua.html
ngày truy cập 2/2/2010
7. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- kinh nghiệm cho Việt Nam:
khau-kinh-nghiem-cho-viet-nam.html ngày truy cập 2/2/2010
8. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
ngày truy cập 3/2/2010
9. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- công cụ hỗ trợ đắc lực cho xuất khẩu:
ngày truy cập 3/2/2010
10. Nhũng lợi ích từ bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
ngày truy cập 3/2/2010
11. Sẽ lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
ngày truy cập 7/2/2010
12. Vì sao bảo hiểm tín dụng xuất khẩu chậm phát triển:
ngày truy cập 7/2/2010
104
13. Sẽ thành lập công ty bảo hiểm tín dụng xuất khẩu:
ngày truy cập 8/2/2010
14. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- công cụ thúc đẩy xuất khẩu:
ngày truy
cập 10/2/2010
15. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- khó xơi:
ngày truy
cập 13/2/2010
16. Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu- bao giờ:
ngày truy
cập 15/2/2010
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5496_1326.pdf