MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 1
PHẦN 1: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU TẠI CÔNG TY VẬT LIỆU ĐIỆN VÀ DỤNG CỤ CƠ KHÍ (ELMACO ) 2
1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty: 2
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty. 2
1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ, lĩnh vực kinh doanh 5
1.2. Một số đặc điểm kinh tế, kỹ thuật đặt trong mối quan hệ tác động tới hoạt động xuất khẩu 6
1.2.1. Xét trong nội bộ Doanh nghiệp 6
1.2.2. Tác động từ bên ngoài 13
1.3. Phân tích thực trạng hoạt động xuất khẩu ở Elmaco 17
1.3.1. Kết quả xuất khẩu một số năm vừa qua 17
1.3.2. Tổ chức hoạt động xuất khẩu 22
1.3.3. Phân tích một số nội dung trong hoạt động xuất khẩu 28
1.3.4. Đánh giá khái quát 35
PHẦN 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU Ở ELMACO 40
2.1. Chủ trương của nhà nước giai đoạn tới 40
2.2. Định hướng phát triển Công ty trong giai đoạn tới. 41
2.2.1. Định hướng phát triển chung 41
2.2.2. Các định hướng cơ bản trước mắt 41
2.3. Một số biện pháp nhằm tăng cường hoạt động xuất khẩu ở Elmaco 42
2.3.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp 42
2.3.2. Một số biện pháp 43
KẾT LUẬN 53
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Công ty Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí:
1. Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Elmaco các năm 2000, 2001,2002, 2003
2. Báo cáo tài chính Công ty Elmaco các năm 2001, 2002, 2003
3. Kế hoạch công tác năm 2004 của Công ty Elmaco
4. Tài liệu tổng hợp lưu phòng kế hoạch và đầu tư
5. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001- 2010
II. Báo, tạp chí thư viện Trường ĐHKTQD:
1. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực- Tạp chí Kinh tế phát triển- Số 56/ 02
2. Chỉ thị của thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh và nâng cao hoạt động xuất nhập khẩu năm 2002- Tạp chí Thương mại- Số 1/ 02
3. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu- Tạp chí Thương mại- Số 8/ 02
4. Nâng cao vị thế trong hoạt động xuất khẩu cvà hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ- Tạp chí Công nghiệp- Số 2+3/ 02
5. Nâng cao sức cạhh tranh trong xuất nhập khẩu- Thị trường tiền tệ Việt nam- Số 4/ 02
6. Luận văn các khoá K40, K41
57 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2434 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Biện pháp tăng cường hoạt động xuất khẩu ở Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam”... ).
- Công ty tiến hành gặp gỡ đại diện của bạn hàng tại Việt Nam hoặc thông qua các trung tâm xúc tiến thương mại... để quảng cáo, giới thiệu về công ty (lợi thế của công ty, mặt hàng công ty cần xuất khẩu... ).
Về phương pháp nghiên cứu thị trường, công ty chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu tại văn phòng thông qua các sách báo trong và ngoài nước: Tạp chí thương mại, Bản tin kinh tế... để nắm bắt được nhu cầu. Từ đó Công ty tiến hành gặp gỡ, đàm phán và thương lượng.
Sau khi nghiên cứu thị trường nước ngoài, ELMACO phải trả lời được các vấn đề sau:
+ Mặt hàng cụ thể nào có thể xuất khẩu ở nước nào ?
+ Mặt hàng xuất khẩu phải được ưu tiên đầu tư, đổi mới công nghệ, trước hết trọng tâm là đầu tư, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm.
+ Phát triển quan hệ ổn định lâu dài trong mua bán, trao đổi tiến tới phát triển quan hệ liên kết, liên doanh trong sản xuất kinh doanh.
+ Tạo lập, giữ vững và nâng cao uy tín của ELMACO trong hoạt động xuất khẩu.
Công tác điều tra, nghiên cứu thị trường nước ngoài sẽ giúp ELMACO hiểu biết qui luật hoạt động của từng thị trường trên các mặt: Loại sản phẩm họ đang cần, yêu cầu đặt ra đối với sản phẩm về chất lượng, bao bì, mẫu mã, dung lượng thị trường, điều kiện chính trị, tập quán buôn bán, hệ thống pháp luật... Trên cơ sở đó thị trường xuất khẩu của công ty ELMACO chủ yếu tập trung ở các nước Châu Á: Trung Quốc, Thái Lan, Bangladest, Hàn Quốc, Nhật, Ấn Độ, Đài Loan... Nhưng ta cũng thấy rằng do điều kiện chưa cho phép, công tác nghiên cứu thị trường của ELMACO mới chỉ dừng lại ở phương pháp “ gián tiếp”. Vì vậy độ chính xác hiệu quả chưa cao. Chẳng hạn, do thiếu thông tin về cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ xảy ra năm 1997 ở Inđônêxia mà ELMACO đã bị mất thị trường Diezen ở Hồng Kông năm đó.
Sau khi tìm được khách hàng hoặc tạo được mối quan hệ với khách hàng và nhận được đơn hàng, Công ty tiến hành kí kết các hợp đồng xuất khẩu.
1.3.2.2. Kí kết hợp đồng xuất khẩu
Thông thường bạn hàng của Công ty là nước ngoài nên việc đàm phán trực tiếp trước khi kí kết hợp đồng ít khi diễn ra. Công ty thường phát hành các hợp đồng xuất khẩu dưới hình thức “Hợp đồng mua bán hàng hoá” (Sale Contract), “Bản chào hàng kiêm hoá đơn chiếu lệ” (Offer Proforma Invoice) qua fax.
Hằng năm, Công ty thường kí kết hợp đồng theo mọi mức giá nhưng thông thường là theo giá CIF.
1.3.2.3. Tổ chức thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu
Nguồn hàng xuất khẩu của công ty ELMACO do hai nguồn sau đảm nhận:
Nguồn 1: Công ty tiến hành sản xuất để xuất khẩu: Khi có bạn hàng, Nhà máy sản xuất dây và cáp điện ELMACO và xí nghiệp sản xuất thiết bị điện sẽ sản xuất theo đơn đặt hàng.
Nguồn 2: Công ty tiến hành thu mua ở bên ngoài.
Công tác thu mua được Công ty thực hiện như sau:
- Khi tìm được bạn hàng Công ty sẽ có đơn đặt hàng với các nhà cung cấp trong nước. Trong quá trình thu mua vấn đề chất lượng được đặt lên hàng đầu để đảm bảo chất lượng. Đối với sản phẩm thông thường cán bộ thu mua tự kiểm tra chất lượng, còn một số sản phẩm đòi hỏi tính kĩ thuật cao nên phải đưa về công ty để kiểm tra chất lượng bằng máy móc hiện đại hoặc qua các đơn vị như “ Vina Control”, “ Omic”...
Một số mặt hàng sau khi được đưa về công ty sẽ được sản xuất, chế biến lại theo đúng yêu cầu kĩ thuật, chất lượng và yêu cầu của bạn hàng.
Trước 1991, hàng thu mua chiếm một tỷ trọng lớn trong hàng xuất khẩu của ELMACO (khoảng 70-80%).
Sau 1991, hàng xuất khẩu của ELMACO hoàn toàn là hàng thu mua. Do đó, ELMACO rất chú trọng công tác thu mua từ bên ngoài.
1.3.2.4. Thực hiện hợp đồng mua bán
Sau khi hợp đồng được kí kết, Công ty với tư cách là một bên kí kết phải tổ chức thực hiện hợp đồng đó. Đây là một công việc rất phức tạp, nó đòi hỏi phải tuân thủ luật quốc gia và quốc tế, đồng thời bảo đảm được quyền lợi quốc gia và bảo đảm uy tín kinh doanh của đơn vị. Nội dung của công việc này bao gồm những bước sau:
+ Công ty yêu cầu bạn hàng mở L/C và tiến hành kiểm tra L/C (vì hầu hết các hợp đồng xuất khẩu của ELMACO đều sử dụng phương thức tín dụng chứng từ).
+ Xin giấy phép xuất khẩu:
Trước 6/1997, ELMACO phải xin giấy phép xuất khẩu của từng bộ cho từng lô hàng. Chẳng hạn như, lô hàng trực thuộc Bộ Thương mại thì công ty xin giấy phép của Bộ Thương mại. Nếu lô hàng trực thuộc Bộ Công Nghiệp thì công ty xin giấy phép của Bộ Công nghiệp... Sau 6/1997, thủ tục xuất khẩu được đơn giản hoá giấy phép xuất khẩu được thay bằng “Giấy đăng kí kinh doanh” - Công ty được sử dụng nó như một giấy phép xuất khẩu.
+ Chuẩn bị hàng xuất khẩu:
Thu gom tập trung làm thành lô hàng xuất khẩu
Đóng gói bao bì hàng xuất khẩu:
Các mặt hàng xuất khẩu của ELMACO được đóng gói theo yêu cầu của bạn hàng. Việc đóng gói bao bì không do Công ty đảm nhận mà do nhà cung cấp nguồn hàng làm.
+ Kiểm tra chất lượng: Mặt hàng xuất khẩu của ELMACO đều được kiểm nghiệm chất lượng ở các đơn vị có kinh nghiệm như “Vina Control”, “Omic”...
+ Thuê tàu: Đối với hợp đồng kí kết theo giá CIF Công ty phải đứng ra thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Còn đối với hợp đồng kí theo giá FOB Công ty sẽ đứng ra thuê tàu khi có yêu cầu của khách hàng, ở trường hợp này cước phí vận chuyển do bên khách hàng trả, Công ty chỉ đứng ra thuê hộ và nhận tiền hoa hồng.
+ Mua bảo hiểm: Đối với hợp đồng kí theo giá giá CIF công ty phải mua bảo hiểm theo điều kiện C (tức là bảo hiểm tổn thất riêng).
Ngoài ra với hợp đồng kí theo giá CFR hoặc FOB phí bảo hiểm do người mua chịu.
+ Làm thủ tục hải quan: Công ty khai báo các chi tiết về hàng hoá lên tờ khai để cơ quan hải quan kiểm tra giấy tờ. Nội dung của tờ khai bao gồm những mục như: Loại hàng, tên hàng, số lượng, tên công cụ vận tải, xuất khẩu với nước nào... tờ khai hải quan được xuất trình kèm theo một số chứng từ khác mà chủ yếu là: giấy phép xuất khẩu, hoá đơn, phiếu, đóng gói, bảng kê chi tiết.
+ Xuất trình hàng hoá: Hàng hoá xuất khẩu được sắp xếp trật tự, thuận tiện cho việc kiểm soát. ELMACO phải chịu chi phí và nhân công về việc mở, đóng các kiện hàng.
+ Thực hiện các quyết định của hải quan:
Sau khi kiểm soát giấy tờ và hàng hoá, hải quan sẽ ra những quyết định như: cho hàng được phép qua biên giới, cho hàng đi qua một cách có điều kiện (ví dụ như sửa chữa bao bì lại... ) cho hàng đi qua sau khi chủ hàng đã nộp thuế, hàng không được phép xuất khẩu... Nghĩa vụ của ELMACO là nghiêm túc thực hiện các quyết định đó vì việc vi phạm các quyết định đó thuộc tội hình sự.
+ Giao nhận hàng với tàu:
Với ELMACO, hàng hoá chủ yếu được giao bằng đường biển. Khi giao hàng Công ty đã thực hiện các công việc sau:
- Căn cứ vào các chi tiết hàng xuất khẩu, lập bảng đăng kí hàng chuyên chở cho người vận tải để đổi lấy sơ đồ xếp hàng.
- Trao đổi với cơ quan điều độ cảng để nắm vững ngày, giờ làm hàng.
- Bố trí phương tiện đem hàng vào cảng, xếp hàng lên tàu.
- Lấy biên lai thuyền phó và đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển.
Nếu hàng được giao bằng Container khi chiếm đủ một Container (FCL), chủ hàng phải đăng ký thuê Container, đóng hàng vào Container và lập bảng kê hàng trong Container. Khi hàng giao không chiếm hết một Container (LCL) chủ hàng phải lập “Bản đăng ký hàng chuyên chở” (Cargo Lest). Sau khi đăng ký được chấp nhận chủ hàng giao hàng đến ga Container cho người vận tải.
+ Làm thủ tục thanh toán: ELMACO thường áp dụng phương thức thanh toán tín dụng chứng từ. Công ty đôn đốc người mua ở nước ngoài mở tín dụng thư (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu bằng L/C đó. Nếu L/C không đáp ứng được yêu cầu này, ELMACO yêu cầu người mua sửa đổi lại rồi mới giao hàng.
+ Khiếu nại và giải quyết khiếu nại:
Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu nếu chủ hàng xuất nhập khẩu bị khiếu nại đòi bồi thường, cần phải có thái độ nghiêm túc, thận trọng trong việc xem xét yêu cầu của khách hàng (người nhập khẩu). Việc giải quyết phải khẩn trương, kịp thời và có tình có lý.
Nếu khiếu nại của khách hàng là có cơ sở, công ty có thể giải quyết bằng một trong các phương pháp sau:
- Giao hàng tốt thay thế hàng kém chất lượng.
- Sửa chữa hàng hỏng.
- Giảm giá hàng mà số tiền giảm giá được trang trải bằng hàng hoá giao vào thời điểm sau đó.
Nếu việc khiếu nại không được giải quyết thoả đáng hai bên có thể kiện nhau tại hội đồng trọng tài (nếu có thoả thuận trọng tài) hay toà án.
1.3.3. Phân tích một số nội dung trong hoạt động xuất khẩu
1.3.3.1. Một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu
Bảng 6: Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu (2000- 2003)
Mặt hàng
2000
2001
2002
2003
SL
(tấn)
GT (USD)
T.trọng (%)
SL
(tấn)
GT
(USD)
T.trọng (%)
SL
(tấn)
GT (USD)
T.trọng (%)
SL
(tấn)
GT (USD)
T.trọng (%)
1.. Quặng Cromit
3000
150000
45,45
2000
100000
58,82
2000
90000
44,33
2000
90000
23,45
2.. Quặng Rutile
100
30000
9,1
100
25000
14,71
100
25000
12,32
100
25000
6,51
3. Quạt điện
150000
45,45
4. Tùng hương
60
45000
26,47
50
25000
12,32
100
50000
13,03
Nguồn: Lưu phòng kế hoạch và đầu tư
1.3.3.1.1. Cáp điện
Đây là mặt hàng chiến lược quan trọng mang thương hiệu Elmaco trên thị trường quốc tế. Thực tế đây là sản phẩm chỉ mới được triển khai kinh doanh xuất khẩu trong năm 2003 và Công ty chủ yếu xuất khẩu vào thị trường Myanmar. Tính đến tháng 12 năm 2003 tổng số cáp đã kí theo hợp đồng là 173T cáp AC doanh số đạt 250.235 USD. Thuận lợi cho Elmaco trong việc kinh doanh sản phẩm cáp điện là đối tác có uy tín và tương đối thế lực ở Myanmar nên có khả năng nhập khẩu lớn để cung cấp trong nước, hơn nữa mặt hàng AC đơn giản, dễ cung cấp và đáp ứng được yêu cầu kĩ thuật cho khách hàng. Sự khác biệt lớn nhất của sản phẩm Cáp điện so với những mặt hàng xuất khẩu khác là ở chỗ hàng do Elmaco tự sản xuất nên có thể hoàn toàn chủ động cung cấp về tiến độ và thời gian giao hàng,…
Song, do là mặt hàng mới và lần đầu tiên Elmaco thực hiện theo phương thức tự sản xuất và kinh doanh nên đã gặp phải những khó khăn nhất định: Trước hết là chưa có quy chế rõ rệt và hợp lý giữa hai đơn vị, hai bên thực hiện hoạt động xuất nhập khẩu trong khi phía đối tác gặp khó khăn khi xin giấy phép nhập khẩu làm cho tiến độ giao hàng chậmảnh hưởng đến số lượng cung cấp và tiến độ giao hàng.
1.3.3.1.2. Quạt điện
Đây là mặt hàng kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả nhất từ trước đến nay, trung bình hàng năm lợi nhuận đạt gần 3% doanh số xuất khẩu tuy nhiên chỉ mới triển khai thành công tại Bangladest. Kết quả năm 2003 như sau: Doanh số đạt 50.000 USD tương ứng với số lượng là 6700 chiếc. Thuận lợi của việc kinh doanh sản phẩm này trước hết đến từ phía nhà cung cấp, họ chấp nhận để Elmaco là xuất khẩu sản phẩm của họ sang thị trường khu vực Châu á đồng thời hỗ trợ tối đa cho Elmaco xuất khẩu đặc biệt về giá. Trong điều kiện đó Công ty lại có được một đối tác có khả năng phân phối tương đối rộng, thị trường gần giống với thị trường của Việt nam.
Khó khăn thường xảy ra với sản phẩm Quạt điện là mặt hàng mang tính thời vụ, chỉ có thể xuất khẩu từ tháng 11 đến tháng 4 nên hiện tại Công ty đang cố gắng khắc phục bằng cách tích cực mở rộng thị trường nhằm tăng số lượng xuất khẩu.
Mục tiêu của Công ty trong hai tháng đầu năm 2004 phải xuất được 4 cont sang Bangladest đạt 60.000 USD và lợi nhuận tương ứng là 40 triệu đồng. Đồng thời phải cố gắngchiếm lĩnh thị trường Myanmar và srilanka và xuất ít nhất 1 cont (2000 chiếc tương ứng 15.000 USD) sang hai thị trường này.
1.3.3.1.3. Tùng hương
Là một trong những mặt hàng xuất khẩu truyền thống của Elmaco, Tùng hương luôn mang lại nguồn lợi về doanh thu lớn hơn bất cứ mặt hàng tham gia vào cơ cấu các hàng hoá xuất khẩu của Công ty. Chỉ tính riêng sáu tháng đầu năm 2003, Công ty đã xuất trên 800T đạt trên 300.000 USD, các thị trường nhập khẩu chủ yếu là Hàn quốc, Thái lan, Bangladest, Pakistan. Thành công của sản phẩm này trong năm 2003 được lý giải bởi hai nguyên nhân cơ bản sau: Thứ nhất, Elmaco có lượng dự trữ tương đối vào năm 2002 nên cứ có hợp đồng là Công ty có thể xuất bán được ngay. Thứ hai là do tính thời vụ trong điều kiện cung ít cầu nhiều, hàng bán được giá nên thị trường được mở rộng, doanh số tăng và có lợi nhuận cao.
Để giữ vững và khai thác thêm những thị trường mới Công ty quyết tâm tìm kiếm thêm các nhà cung cấp mới trong nước để giới thiệu sản phẩm Tùng hương ra thị trường quốc tế với mục đích gia tăng nguồn dự trữ, ổn định và chủ động trong nghiệp vụ xuất bán.
Từ tháng 7 đến tháng 10 là giai đoạn giữa vụ Tùng hương, nguồn cung bắt đầu nhiều dần, giá hạ có lúc thấp đến mức kỷ lục là 360- 370 USD/ T FOB (thấp hơn so với mức dự trữ là 410 USD/ T) nên chủ trương của Công ty là chấp nhận bán hoà vốn để giữ khách hàng là chính và chờ đợi giá Tùng hương phục hồi trở lại sẽ xuất khẩu bình thường với mức giá thấp nhất cũng là 415 USD/ T.
1.3.3.1.4. Quặng và một số mặt hàng mới
Trái lại với các mặt hàng trên, Quặng đã gây thất vọng do không thể đạt được mục tiêu về doanh số, lợi nhuận trong khi đó công nợ với nước ngoài còn dây dưa và những tồn tại cũ chưa được giải quyêt một cách dứt điểm. Mục tiêu của Công ty đối với sản phẩm này là cố gắng giải quyết mọi công nợ và tồn đọng cũ, phấn đấu đạt doanh thu 3 tháng cuối năm 2003 là 500 triệu, lợi nhuận tương ứng là 10 triệu VNĐ.
Đối với các mặt hàng mới thì Elmaco chủ trương tập trung vào các mặt hàng công nghiệp có lợi nhuận tương đối và coi đây là bước đi tương đối có tính chiến lược khi Công ty đang từng bước chuyển sang mô hình công ty cổ phần. Những mặt hàng mới có thể triển khai là:
- Ti vi màu.
- Cáp điều khiển sang Myanmar.
- Ống gang cầu các loại phục vụ hệ thống dẫn nước khu vực Đông nam á và Trung đông.
- Một số phụ tùng máy xay xát, vòng bi, que hàn, đá mài sang Bangladest.
Để thực hiện được các mục tiêu chiến lược trên, Elmaco đề ra các giải pháp như thuyết phục với các nhà cung cấp đồng ý để Công ty là nhà xuất khẩu duy nhất sản phẩm của họ đồng thời phối hợp cùng đối tác để sớm có cửa hàng giới thiệu sản phẩm xuất khẩu của Elmaco tại trung tâm kinh doanh các nước nhập khẩu.
1.3.3.2. Thị trường tiêu thụ
Bảng 7: Xuất khẩu trực tiếp theo khu vực thị trường
ĐVT: USD
Thị trường
Năm 2002
Năm 2003
So sánh
Tuyệt đối
Tương đối(%)
Myanmar
100.397
560.400
460.003
558,18
Thái lan
82.363
114.654
32.291
139,21
Bangladest
330.744
650.960
320.216
195,47
Trung quốc
33.435
197.940
164.505
592,01
Nguồn: Báo cáo nội bộ của xí nghiệp kinh doanh xuất khẩu
Như vậy nhìn chung doanh thu các sản phẩm theo khu vực thị trường năm sau đều cao hơn năm trước. Một số thị trường, doanh thu có sự thay đổi rất rõ nét như Myanmar hay Trung quốc. Nguyên nhân cũng rất dễ hiểu: Chẳng hạn như đối với thị trường Myanmar năm 2002 chỉ đạt doanh số là 10.397.500 USD, sang năm 2003 con số đó đã là 56.400.000 USD. Sở dĩ có sự thay đổi tích cực đó là do năm 2002 Công ty chỉ xuất khẩu được mặt hàng Tùng hương sang Myanmar với một số lượng rất khiêm tốn, bắt đầu vào năm 2003 cùng với sự chuyển đổi trong chiến lược kinh doanh xuất khẩu là đầu tư tự sản xuất để có thể xuất khẩu chủ động, Công ty đã tìm được đối tác làm ăn lớn tại đất nước này, tiến tới kí kết hợp đồng cung cấp sản phẩm Cáp điện do chính tay Công ty sản xuất. Và thực tế cùng với sự chuyển hướng trong xuất khẩu là doanh thu tại thị trường tiêu thụ Myanmar tăng mạnh, chỉ riêng một mình sản phẩm Cáp điện đã đạt doanh số hơn một nửa tổng giá trị xuất khẩu của tất cả các mặt hàng mà Công ty đang kinh doanh tại Myanmar. Thị trường Bangladest cũng rất đáng tự hào, doanh thu tại đây lúc nào cũng đạt một con số rất cao và là nơi tiêu thụ hàng hoá dồi dào. Bangladest là một thị trường có nhiều nét tương đồng với thị trường của Việt nam nên rất dễ cho Công ty khai thác và giữ vững được sự ổn định lâu dài. Còn đối với Trung quốc, thì Elmaco vẫn giữ được mối quan hệ bạn hàng truyền thống, doanh thu Xuất khẩu hàng năm đều tăng và có một số mặt hàng mới xâm nhập vào thị trường này như balast đIện tử…. Tuy nhiên, Trung quốc từ lâu được dự báo là một thị trường phức tạp và rủi ro cao do có quá nhiều nhà sản xuất cung cấp các sản phẩm tương tự và lợi thế hơn Elmaco ở chỗ họ không tốn chi phí xuất khẩu và vận chuyển đường dài. Đó thực sự là một thách thức khó khăn cho Công ty khi quyết định gia nhập vào thị trường này.
Nhìn chung thị trường buôn bán của ELMACO trong những năm qua thay đổi rất cơ bản. Các nước thuộc Châu Á tăng dần trong xuất khẩu của công ty. Châu Á chiếm 22,6% tổng trị giá xuất khẩu của ELMACO trong năm 1986 thì năm 1999 tỷ lệ này là 94,78%. Ngược lại buôn bán với Châu Âu, đặc biệt với Nga và Đông Âu giảm dần. Năm 2002, Châu Âu chỉ chiếm 3,52% tổng trị giá xuất khẩu của ELMACO
1.3.3.3. Vốn cho hoạt động Xuất khẩu
Đối với Elmaco, chưa khi nào nguồn vốn do ngân sách nhà nước cấp và vốn tự bổ xung có thể đủ để đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Nhất là trong đIêù kiện hiện nay, khi mà quy mô hoạt động cảu Cồng ty tăng trưởng không ngừng và đang quyết tâm thực hiên mô hình kinh doanh “Lợi nhuận chuyên doanh theo hướng đa dạng hoá mặt hàng”, đồng thời đẩy mạnh việc thay đổi cơ cấu kinh doanh từ kinh doanh thương mại thuần tuý sang sản xuất và kinh doanh thương mại, cảI tiến phương thức kinh doanh đồng thời mở rộng mạng lưới tiêu thụ, đặc biệt phát triển hoạt động Xuất khẩu nhằm đáp ứng những đòi hỏi của thị trường và nhu cầu xã hội.
Hoạt động Xuất khẩu phải giải quyết được hai nhu cầu chủ yếu là thu ngoại tệ thực hiện đóng góp vào ngân quỹ Công ty và quan trọng là chi trả cho hoạt động nhập khẩu hàng năm. Tuy nhiên, trước hết cần có đầu vào đầu tư cho Xuất khẩu: Đó là vốn nói chung. Vốn ở đây là tất cả các chi phí giao dịch, chi phí nghiên cứu thị trường, chi phí mua, sản xuất hàng Xuất khẩu, chi phí làm thủ tục,…. Nguồn vốn này hàng năm được Công ty trích lập từ tổng nguồn vốn cho hoạt động sản xuất và kinh doanh trên cơ sở tỷ lệ giữa doanh thu Xuất khẩu so với tổng doanh thu và phụ thuộc vào nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho riêng hoạt động Xuất khẩu để Công ty có sự đIều chỉnh phù hợp.
Bình thường, nguồn vốn này chiếm khoảng 25- 30% so với tổng nguồn vốn. Nhưng vào 6 tháng cuối năm 2003 và 3 tháng đầu năm 2004 thì lượng vốn rót vào cho hoạt động xuất khẩu cao hơn nhiều do hiện tại Công ty đang triển khai đầu tư hai dự án chủ yếu phục vụ cho xuất khẩu là dự án xây dựng nhà máy tinh bột sắn xuất khẩu, nâng cấp mở rộng nhà máy sản xuất dây cáp điện, ….
1.3.3.4. Tình hình thanh toán và thu hồi vốn ngoại tệ
Trước năm 2003, Công ty vẫn thực hiện hai hình thức thanh toán trong hoạt động xuất khẩu như sau:
- Thứ nhất, mở L/ C: Hai bên, cả bán và mua đều phảI mở tàI khoản tại một ngân hàng bất kỳ có nghiệp vụ thanh toán quốc tế. Mọi thủ tục hầu hết đều phảI qua ngân hàng kiểm tra tính chính xác và hai bên thực hiện thanh toán thông qua ngân hàng này. Với hình thức này Công ty yên tâm trong việc thu hồi vốn ngoại tệ: Tiền chuyển từ tay người mua qua ngân hàng đến người bán đồng thời hàng hoá xuất bán được ngân hàng bên kia công nhận có sự hiện diện.
- Thứ hai, thực hiên thanh toán theo hình thức TTR: Phía bạn hàng thực hiện nhận hàng kỳ này thanh toán tiền hàng kỳ trước tạo thành công nợ luân chuyển. Thực tế, nếu là bạn hàng truyền thống có quan hệ làm ăn lâu dàI thì rõ ràng việc thực hiện theo hình thức này sẽ không ảnh hưởng lắm làm gia tăng công nợ phải thu. Tuy nhiên, trên thực tế số nợ phải thu ở cả hoạt động trong và ngoài nước tăng lên mạnh theo từng năm một: Năm 2000 con số đó là 37.052 trđ, năm 2001 đã là 48.157trđ, đến năm 2002 tăng lên thành 79.035 trđ. Nhưng cũng cần phải thấy rằng, nếu như đem toàn bộ số công nợ trên tính cho mỗi đầu đơn vị thì con số đó không cao (có cả thảy 26 đơn vị nằm tại các tỉnh và thành phố lớn) và hầu hết đều được đảm bảo bằng tài sản hoặc hợp đồng kinh tế nên không thuộc dạng nợ phải thu khó đòi hay không thể đòi được. Song, quyết tâm của Công ty trong năm 2004 là chấm dứt hình thức xuất khẩu này để tránh tình trạng nợ dây dưa, ảnh hưởng đến nguồn ngoại tệ cung cấp cho hoạt động nhập khẩu diễn ra thường xuyên với khối lượng công việc cao.
1.3.4. Đánh giá khái quát
1.3.4.1. Những thành công
Thứ nhất, Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng năm của ELMACO có xu hướng tăng lên, góp phần thực hiện mục tiêu trong chiến lược kinh doanh của công ty: cân bằng cán cân thương mại, đảm bảo an toàn cho quá trình tăng trưởng kinh tế trong tương lai. Đồng thời làm tăng lợi nhuận góp phần nâng cao đời sống cả về mặt vật chất và tinh thần cho cán bộ công nhân viên trong toàn công ty.
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu của công ty giai đoạn 2000- 2003
ĐVT: Trđ
Năm
Tổng kim ngạch xuất khẩu
Kế hoạch
Thực hiện
2000
5.897
6.121
2001
14.213
15.690
2002
31.313
33.285
2003
79.100
79.222
Nguồn: Phòng kinh doanh xuất nhập khẩu
Thứ hai, về duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu.
Trong bốn năm qua, ELMACO đã bảo vệ được thị trường mục tiêu của mình: Trung Quốc, Thái Lan... Đồng thời ELMACO cũng mở rộng thị trường sang các nước Châu Á, Châu Âu: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Ba Lan, Myanmar,…
Thứ ba, về chất lượng và cơ cấu mặt hàng xuất khẩu.
Mặt hàng xuất khẩu của công ty ngày càng đa dạng và phong phú, chất lượng đáp ứng theo nhu cầu của khách hàng. Vì vậy uy tín của ELMACO trên thương trường ngày càng cao.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu hiện nay đã có thay đổi đáng kể. Trong nhóm các mặt hàng xuất khẩu có thêm mặt hàng Cáp điện do Công ty tự sản xuất đang được triển khai tại thị trường Myanmar và có khả năng thành công lớn. Trong một vài năm tới, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sẽ có sự chuyển dịch theo xu hướng này.
Có những nguyên nhân chủ yếu sau đây cho thấy được những thành quả mà Elmaco có được ngày hôm nay là:
- Công ty Vật liệu điện và Dụng cụ cơ khí là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương Mại nên được Bộ hỗ trợ về thông tin kịp thời, lại ưu tiên giải quyết các thủ tục nhanh chóng, trực tiếp giúp đỡ Công ty trong việc khai thác và mở rộng thị trường, ….
- Do lợi thế về mặt hàng có thế mạnh xuất khẩu, thị trường quốc tế có nhu cầu rất lớn về mặt hàng này. Quốc gia nào có nền công nghiệp càng phát triển thì nhu cầu về vật tư lại càng cao. Hàng năm trên thế giới tiêu thụ hàng vạn tấn vật tư- nguyên liệu, hơn nữa Công ty lại có lới thế do nguồn cung cấp nguyên liệu rất phong phú ở trong nước.
- Đội ngũ cán bộ khai thác, thu mua nguồn hàng đông đảo và đáp ứng kịp thời công tác thu mua sản phẩm, nguyên liệu cho công ty.
- Trang thiết bị về cơ bản đã trợ giúp rất nhiều, tạo điều để cán bộ kinh doanh xuất khẩu làm tốt hơn nhiệm vụ của mình.
- Trong khi đó, Xuất khẩu đã được thừa nhận là hoạt động rất cơ bản của hoạt động kinh tế đối ngoại, là phương tiện thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Và Nhà nước đã và đang thực hiện các biện pháp, chính sách nhằm đẩy mạnh và hỗ trợ các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu.
1.3.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
Hoạt động Xuất khẩu ở Công ty Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí có chung một tình trạng như hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nội địa khác là khả năng cạnh tranh không đủ tầm để có thể xuất khẩu một cách ồ ạt. Thực tế một số doanh nghiệp đã phải chào thua, không dám chấp nhận một cuộc phiêu lưu có thể phải trả giá đắt là hướng ra xuất khẩu đành quay lại sống chết với thị trường trong nước vốn đỗi quen thuộc. Thực tế là Elmaco đã tạo ra được một vị trí trên thị trường quốc tế, nhưng vẫn còn đó vô số khó khăn và thách thức đang còn chờ đón. Muốn thế cần phải phòng hơn là chữa, bắt đầu từ việc thấy được những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến các hạn chế đó:
- Mặc dù tốc độ xuất khẩu tăng nhanh trong vài năm gần đây nhưng quy mô còn rất bé, chưa đáp ứng được nguồn ngoại tệ cung cấp cho nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế.
- Cơ cấu xuất khẩu thay đổi rất chậm chạp, xuất khẩu đại bộ phận là hàng hoá ở dạng sơ chế của các nhà sản xuất trong nước có giá xuất khẩu thấp trong khi khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu nước ta nói chung là rất yếu.
- Hàng xuất khẩu còn manh mún, mặt hàng xuất khẩu chủ lực còn quá ít. Và vì chủ yếu là hàng thu mua trong nước nên sức ép từ phía các nhà cung ứng rất lớn.
- Kim ngạch xuất khẩu nhỏ, nhưng lại có quá nhiều doanh nghiệp xuất khẩu dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước.
- Chất lượng sản phẩm chưa cao nên chỉ mới xuất bán ở các thị trường đông dân có mức thu nhập vừa phải, chưa đòi hỏi khắt khe về chất lượng, mẫu mã. Trong lúc đó thì nhu cầu về vật liệu điện ở các nước có nền công nghiệp phát triển rất cao, có khả năng thanh toán nhanh và mua với khối lượng lớn thì về cơ bản Công ty chưa khai thác được.
Những nguyên nhân lý giải cho các vấn đề trên là:
Thứ nhất, những nguyên nhân khách quan.
+ Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang xảy ra giữa các nước trong khu vực và xa hơn nữa là ở các nước Bắc Á như Nhật Bản, Hàn Quốc.… Đặc biệt, trong năm 2003 trên thế giới xảy ra quá nhiều biến động bất lợi như bệnh dịch Sars, chiến tranh Irăc, dịch cúm gà trên diện rộng,… Tất cả tình trạng đó kéo theo các phản ứng dây chuyền trong thông thương quốc tế và làm tắc nghẽn các dao dịch đem lại lợi ích cho các chủ thể kinh doanh.
+ Tính đồng nhất của sản phẩm cũng là một vấn đề ảnh hưởng tới kim ngạch xuất khẩu của Công ty. Do ít có sự khác biệt về công nghệ sản xuất và công dụng của sản phẩm nên vấn đề mà người tiêu dùng quan tâm lúc này là giá cả. Thế là có các cuộc chạy đua về giá và những nhà sản xuất không sao có thể tránh khỏi cạnh tranh gay gắt hòng chiếm lĩnh thị trường trong khi hàng rào gia nhập và rút lui là tương đối dễ dàng. Khó khăn cho Elmaco trong cuộc chạy đua về giá là họ phải mất một khoản chi phí xuất nhập khẩu trong tình trạng mang chuông đi đánh xứ người.
+ Người tiêu dùng vật tư trên thế giới ngày càng khó tính. Họ đòi hỏi hàng hoá chất lượng cao, giá cả hợp lý. Điều đó bắt buộc các nước nhập khẩu khắt khe trong việc kiểm tra chất lượng và yêu cầu chất lượng tốt hơn.
+ Trụ sở chính của ELMACO đặt tại 240-242 Tôn Đức Thắng - Hà Nội nhưng nguồn thu mua lại ở vùng miền Trung và miền Nam. Vì vậy chi phí thu mua rất cao, dẫn đến giá thành cao.
Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan.
+ Phòng kinh doanh xuất khẩu tổng hợp có quá ít người, kinh doanh ngoại thương hầu như còn mới mẻ đối với ELMACO, kinh nghiệm chưa nhiều và năng lực trình độ còn hạn chế.
+ Do bị hạn chế về tài chính, phương tiện, thông tin nên khâu nghiên cứu thị trường xuất khẩu còn yếu kém. Vì vậy hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu chưa cao do thiếu thông tin khi ra quyết định xuất khẩu.
+ Một nguyên nhân không kém phần quan trọng đã ảnh hưởng và làm giảm việc mở rộng thị trường xuất khẩu là ELMACO chưa phát triển đa dạng các hình thức môi giới thương mại quốc tế để xuất khẩu được khối lượng nhiều và với chi phí thấp.
+ Đối thủ cạnh tranh của công ty ở trong nước: Trong khi tiến hành hoạt động kinh doanh xuất khẩu, công ty đã vấp phải sự cạnh trạnh lớn ở thị trường trong nước: cạnh tranh mua, cạnh tranh bán và đương nhiên có cả cạnh tranh không lành mạnh làm cho hoạt động xuất khẩu có những trở ngại đáng kể.
PHẦN 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP TĂNG CƯỜNG HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU Ở ELMACO
2.1. Chủ trương của nhà nước giai đoạn tới
Bộ Thương mại là cơ quan chủ quản của Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí, từ lâu đã luôn có những chính sách ưu đãi, hỗ trợ kịp thời trong sản xuất cũng như trong kinh doanh. Giai đoạn tới đây, Bộ sẽ có những chủ trương cơ bản sau đây:
Thứ nhất, tiếp tục khuyến khích và hỗ trợ Elmaco trong sản xuất và kinh doanh xuất nhập khẩu.
Thứ hai, Thay đổi dần chính sách quản lý, không can thiệp quá sâu và hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty
Thứ ba, Bộ Thương mại nước tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu của Công ty bằng việc tiếp tục áp dụng các biện pháp thâm nhập thị trường và tạo điều kiện thuận lợi trong việc tiêu thụ hàng hoá ở nước ngoài. Điều này thường được biểu hiện như sau:
- Lập các viện nghiên cứu cung cấp cung cấp thông tin cho các nhà xuất khẩu.
- Đào tạo cán bộ, chuyên gia giúp các nhà xuất khẩu.
- Lập các cơ quan nhà nước ở nước ngoài (Các Tham tán thương mại,…) để nghiên cứu tại chỗ tình hình thị trường hàng hoá, thương nhân và chính sách của chính phủ nước sở tại.
- Nhà nước đứng ra kí kết các Hiệp định thương mại, Hiệp định hợp tác kỹ thuật, vay nợ, viện trợ...
- Hỗ trợ 30% về kinh phí để tổ chức cho cán bộ chuyên môn tham gia tất cả các hội chợ triển lãm, hội chợ hàng tiêu dùng,… để học hỏi kinh nghiệm, tiếp xúc và ký kết các hợp đồng….
2.2. Định hướng phát triển Công ty trong giai đoạn tới.
2.2.1. Định hướng phát triển chung
+ Khai thác, phát huy tới mức cao nhất khả năng có thể của ngành vật liệu điện và dụng cụ cơ khí. Coi đây là mặt hàng chính trong tất cả các mặt hàng kinh doanh.
+ Mở rộng và phát triển nhiều mặt hàng có tính đồng bộ với vật liệu điện và dụng cụ cơ khí trong một sản phẩm.
+ Mở rộng kinh doanh không chỉ trong lĩnh vực vật tư mà cả trong lĩnh vực hàng tiêu dùng nhằm tạo nên một thị trường tổng hợp, phong phú về chủng loại, quy cách để người tiêu dùng thuận tiện trong việc lựa chọn, tiêu dùng hàng hoá, từ đó kích thích tiêu dùng của khách hàng.
+ Mở rộng địa bàn và mạng lưới kinh doanh xuất khẩu.
+ Ngoài mối quan hệ với quốc doanh, tập thể còn mở rộng mối quan hệ với tất cả các loại hình kinh tế.
+ Mở rộng phương thức kinh doanh và hoạt động kinh doanh, không chỉ đơn thuần mua bán mà còn tham gia liên kết sản xuất đầu tư vào sản xuất để tăng nhanh khối lượng kim ngạch xuất khẩu
2.2.2. Các định hướng cơ bản trước mắt
Trên cơ sở định hướng phát triển chung, Công ty đã đề ra mục tiêu kế hoạch năm 2004 – 2005 như sau:
+ Kinh doanh thương mại ổn định và tăng trưởng vững chắc, cũng cố và phát triển các mặt hàng chủ lực, phấn đấu tăng doanh thu 12% so với thực hiện năm 2003.
+ Đẩy mạnh và tập trung cho xuất khẩu
+Tập trung và ưu tiên tối đa cho đầu tư sản xuất- chế biến, khẩn trương triển khai các dự án đã có kế hoạch và tiếp tục nghiên cứu các dự án đầu tư sản xuất mới phù hợp với tiềm năng của Công ty.
Chỉ tiêu kế hoạch cụ thể như sau:
Doanh thu : 405 tỷ VNĐ
Trong đó: Kim ngạch xuất khẩu : 18 tỷ VNĐ
Doanh thu nội địa : 387 tỷ VNĐ
2. Nộp ngân sách nhà nước : 16,45 tỷ VNĐ
Trong 18 tỷ VNĐ tổng kim ngạch xuất khẩu dự kiến, Công ty có kế hoạch tập trung vào các mặt hàng sau đây:
- Cáp điện : 400.000 USD
- Quạt điện : 200.000 USD
- Tùng hương : 400.000 USD
- Các loại khác : 162.000 USD
2.3. Một số biện pháp nhằm tăng cường hoạt động xuất khẩu ở Elmaco
2.3.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp
Việc mở rộng và phát triển thị trường nước ngoài là một tất yếu khách quan của các quốc gia và của các doanh nghiệp. Xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ đem lại cho dn những lợi ích chính sau đây:
- Thông thường xuất khẩu là mang hàng hoá bán ra nước ngoài nên hợp đồng thường lớn, do đó sản xuất của doanh nghiệp thu hút nhiều lao động, tạo ra thu nhập ổn định, mang lại ngoại tệ để nhập khẩu tư liệu sản xuất và tái sản xuất mở rộng.
- Xuất khẩu buộc cácdoanh nghiệp luôn luôn chú trọng đến vấn đề đổi mới, đầu tư và hoàn thiện công tác quản lý về hoạt động xuất nhập khẩu, hoạt động bán hàng, dịch vụ sau bán hàng, thiết lập các kênh phân phối. Thông qua xuất khẩu mà trình độ kinh doanh quốc tế được nâng lên.
- Doanh nghiệp khi tiến hành các hoạt động xuất khẩu có cơ hội mở rộng quan hệ buôn bán kinh doanh với nhiều đối tác nước ngoài trên cơ sở các bên cùng có lợi, đồng thời các doanh nghiệp cũng nhanh chóng nhận được các thông tin phản hồi để có thể điều chỉnh chiến lược sản phẩm cho phù hợp.
- Qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào các cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế về giá cả và chất lượng. Điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải thường xuyên đổi mới công nghệ, phát huy được lợi thế cạnh tranh.
- Hiện nay, khi mà vấn nạn hàng lậu, hàng giả tràn vào khó kiểm soát gây ảnh hưởng tiêu cực cho thị trường nội địa thì xuất khẩu là con đường để doanh nghiệp tiếp tục sản xuất thu lợi nhuận.
Tóm lại, thông qua hoạt động xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã hội trong việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, các tiềm năng và cơ hội của đất nước. Nước ta đang thực hiện chính sách mở cửa giao lưu kinh tế với nước ngoài, thúc đẩy xuất khẩu và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Để tăng cường hơn nữa hoạt động xuất khẩu, từng bước hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, nhiệm vụ lớn lao không dành cho ai khác ngoài các doanh nghiệp.
2.3.2. Một số biện pháp
2.3.2.1. Xây dựng mặt hàng chủ lực
Mặc dù có chính sách đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nghĩa là Công ty không chỉ chuyên vào xuất khẩu một vài sản phẩm, nhưng Công ty nên có chính sách xây dựng những mặt hàng chủ lực- những con chủ bài trong hoạt động buôn bán ngoại thương.
Trong nền thương mại của một nước nói chung và trong nền kinh doanh xuất khẩu của công ty nói riêng, người ta thường chia thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực, hàng xuất khẩu quan trọng và hàng xuất khẩu thứ yếu.
Hàng chủ lực là loại hàng chiếm vị trí quyết định trong kim ngạch xuất khẩu do có thị trường ngoài nước và điều kiện sản xuất trong nước thuận lợi.
Hàng quan trọng là hàng không chiếm tỉ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu, nhưng đối với từng thị trường, từng địa phương lại có vị trí quan trọng.
Hàng thứ yếu gồm nhiều loại, kim ngạch của chúng thường nhỏ.
Vấn đề xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã được nhà nước ta đề ra từ cuối những năm 1960. Tuy nhiên, chỉ mới gần đây khi chúng ta tiếp xúc mạnh mẽ với nền kinh tế thị trường của thế giới, chúng ta mới cảm nhận được tầm ảnh hưởng của những mặt hàng chủ lực một cách nghiêm túc.
Một mặt hàng chủ lực ra đời ít nhất cần có 3 yếu tố cơ bản:
1. Có thị trường tương đối ổn định và luôn cạnh tranh được trên thị trường đó.
2. Có nguồn lực để tổ chức sản xuất và sản xuất với chi phí thấp để thu lợi nhuận trong buôn bán.
3. Có khối lượng kim ngạch lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty.
Vị trí của một mặt hàng xuất khẩu chủ lực không phải là vĩnh viễn. Một mặt hàng ở thời điểm này có thể được coi là hàng xuất khẩu chủ lực nhưng ở thời điểm khác thì không. Dù thế nào đi chăng nữa thì mức độ đóng góp cũng nmang ý nghĩa vô cùng lớn:
- Tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu.
- Tạo điều kiện giữ vững, ổn định và mở rộng thị trường xuất khẩu.
- Tạo cơ sở vật chất để mở rộng các quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật với nước ngoài.
Để hình thành được những mặt hàng xuất khẩu chủ lực, Công ty cần có những biện pháp, chính sách ưu tiên hỗ trợ cho việc nhanh chóng có được những mặt hàng, nhóm hàng xuất khẩu chủ lực. Các biện pháp và chính sách ưu tiên đó là thu hút vốn đầu tư trong và ngoài Công ty và các chính sách tài chính... cho việc xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực.
2.3.2.2. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phấn đấu giảm chi phí kinh doanh xuất khẩu
Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh là yếu tố số 1 mà các doanh nghiệp phải thích nghi. Các doanh nghiệp thường cạnh tranh trên ba phương diện: giá cả, chất lượng và thời điểm tung sản phẩm vào thị trường. Chất lượng hàng hoá giữ vai trò rất quan trọng trong việc củng cố và mở rộng thị trường tiêu thụ. Nâng cao chất lượng tức là nâng cao được năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Bởi vì, trong giai đoạn khoa học kỹ thuật phát triển như hiện nay, sự cạnh tranh về giá sẽ không còn là yếu tố quyết định trong kinh doanh.
Muốn bảo đảm và không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, công ty cần áp dụng một số biện pháp như sau:
a/ Với sản phẩm sản xuất để xuất khẩu:
- Nâng cao chất lượng của các yếu tố đầu vào cho sản xuất. Cụ thể là nguyên vật liệu.
- Đổi mới và cải tiến qui trình công nghệ chế tạo sản phẩm.
- Nâng cao năng lực, trình độ, tinh thần tự giác của công nhân sản xuất.
- Nâng cao trình độ quản lý tổ chức sản xuất của bộ máy quản trị.
- Áp dụng biện pháp kiểm tra, giám sát chặt chẽ theo đúng qui trình công nghệ sản xuất.
b/ Với sản phẩm thu mua:
- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng hàng xuất khẩu. Kiểm tra các thông số về chỉ tiêu hàm lượng kỹ thuật...
- Vấn đề bảo quản hàng hoá trong kho bãi: tránh hiện tượng hư hỏng và thất thoát.
- Đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất cho nhà cung cấp. Cử nhân viên khoa học kỹ thuật xuống tận nơi sản xuất để hướng dẫn, kiểm tra, giám sát qui trình sản xuất. Đồng thời thiết lập mối quan hệ làm ăn lâu dài trên cơ sở tin tưởng lẫn nhau, tạo điều kiện cho cả hai bên tiến hành công việc thuận lợi, dễ dàng.
Qua phần thực trạng kinh doanh xuất khẩu của công ty ELMACO ta thấy rằng chi phí sản xuất kinh doanh mặt hàng xuất khẩu của công ty rất cao dẫn đến lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty rất thấp, chỉ khoảng 1%¸1,5% doanh thu xuất khẩu.
Chi phí cao sẽ đẩy giá cao và sức cạnh tranh thấp, sản lượng tiêu thụ cũng thấp. Chi phí cao là do các nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, khâu tổ chức thu mua nhiên liệu không có sự quản lý chặt chẽ và không có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu nên nhiều khi gây ra sự rườm rà, lãng phí không cần thiết.
Thứ hai, quá trình vận chuyển từ các nơi cung cấp như Thừa Thiên Huế, Miền nam... về công ty nhiều khi cũng gây ra một chi phí lớn làm tăng chi phí sản xuất của công ty.
Thứ ba, là lý do về phía thủ tục hải quan của Việt Nam trong việc xuất hàng hoá khá phức tạp nên thời gian lưu kho bãi lâu. Ngoài ra, có rất nhiều phụ phí khác nên chi phí cho việc xuất hàng tăng, dẫn đến việc giá xuất tăng.
Vì vậy, công ty ELMACO phải có các biện pháp giảm chi phí để hạ giá xuất sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh với các công ty xuất khẩu trong và ngoài nước.
Cụ thể là:
- Với những sản phẩm xuất khẩu có thể tinh chế tại chỗ mà đảm bảo chất lượng, công ty có thể đóng gói vận chuyển trực tiếp từ chỗ sản xuất ra cảng xuất mà không phải qua công ty. Vì như thế sẽ tiết kiệm được chi phí vận chuyển, bốc dỡ.
- Tiến hành thực hiện các thủ tục hải quan trước khi đưa hàng vào kho, bãi. Thực hiện việc chuyên chở thu mua và xuất hợp lý, giảm thời gian lưu kho tối thiểu.
- Gặp gỡ trực tiếp nhà sản xuất, cử cán bộ kỹ thuật xuống giúp đỡ người sản xuất cách khai thác và chế biến các sản phẩm xuất khẩu. Nên kế hoạch khai thác và kí kết hợp đồng với nhà sản xuất để họ yên tâm sản xuất.
Ngoài ra, công ty còn phải lập kế hoạch đề ra các mục tiêu cụ thể cho việc xuất khẩu tới từng thị trường. Từ đó có các biện pháp và các chính sách giá tăng hay giảm hợp lí. Chính sách giá mềm dẻo, linh hoạt là một công cụ cạnh tranh rất có hiệu quả.
2.3.2.3. Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm
Mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm có thể được thực hiện theo những hình thức sau:
- Đa dạng hoá cơ cấu sản phẩm thuộc nhóm hàng kinh doanh của Công ty
- Đa dạng hoá quan hệ kinh doanh cả về số lượng, phạm vi, không gian và địa điểm, phát triển cả khách hàng bán buôn và bán lẻ, cả người tiêu thụ cuối cùng và người tiêu thụ trung gian, cả khách hàng mới và khách hàng truyền thống. Chìa khoá để thu hút khách hàng là thoả mãn theo chuỗi nhu cầu, thoả mãn nhu cầu toàn bộ và làm cho khách hàng hài lòng hơn.
- Phát triển và mở rộng thị trường bằng việc thực hiện đa dạng hoá kinh doanh. Đa dạng hoá kinh doanh là hình thức năng động, hiệu quả hiện nay. Với hình thức đa dạng hoá này, Công ty không chỉ kinh doanh các sản phẩm hiện có mà còn tham gia vào các lĩnh vực kinh doanh khác như tham gia liên doanh, liên kết, kêu gọi đầu tư, mở rộng sản xuất, không nhất thiết chú trọng vào sản xuất kinh doanh ngành hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí mà còn tham gia vào một số ngành khác như xây dựng cơ bản, khai thác khoáng sản…là những ngành có liên quan trực tiếp đến thị trường đầu vào của toàn Công ty.
Trong việc mở rộng và phát triển thị trường có một bước đi rất quan trọng là nghiên cứu môi trường kinh doanh quốc tế. Từ trước đến nay ELMACO rất ít thực hiện hoạt động nghiên cứu thị trường đối với mặt hàng vật liệu điện và dụng cụ cơ khí. Hoạt động của Công ty là tìm kiếm bạn hàng thông qua các cuộc hội thảo, hội nghị trong ngành và một phần là các khách hàng có nhu cầu tự tìm đến công ty. Công ty có rất ít thông tin về các công ty khác cùng có hoạt động xuất khẩu vật liệu điện và dụng cụ cơ khí trên thế giới. Các thông tin mà Công ty thu được chỉ là những con số mơ hồ như khả năng sản xuất của một số công ty chủ yếu, lượng tiêu thụ hàng năm bình quân trên thế giới, nhưng số liệu đó không có tính cập nhật. Đặc biệt với tâm lý "đánh quả" nên công ty chưa có sự đi sâu tìm hiểu thị trường nước ngoài cũng như thị trường sản xuất kinh doanh trong nước.
Vì vậy, công ty nên tiến hành hoạt động nghiên cứu thị trường một cách kỹ lưỡng, phải cập nhật các thông tin về thị trường một cách thường xuyên và chính xác.
Hoạt động nghiên cứu thị trường gồm những công việc chủ yếu sau đây:
+ Tìm kiếm những thị trường mới có nhu cầu về sản phẩm. Đánh giá các thị trường cũ và mới về tất cả các mặt: môi trường kinh tế, môi trường chính trị, luật pháp, môi trường văn hóa, các đối thủ cạnh tranh đang và sẽ có trên thị trường đó. Thu thập các thông tin về dung lượng thị trường, độ rộng của thị trường và sự biến động của thị trường đó. Cụ thể là doanh nghiệp cần nghiên cứu nền kinh tế của nước mà mình cần quan tâm trên hai phương diện: Thứ nhất, là cơ cấu kinh tế vì nó quyết định nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ. Thứ hai, là tính chất phân phối thu nhập trong nước bạn hàng vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng, chất lượng và cơ cấu hàng mua. Đồng thời doanh nghiệp cần chú ý tới môi trường chính trị qua các nhân tố:
1/ Thái độ của chính phủ với việc mua hàng ngoại. Ví dụ: Một số nước có thái độ rất thiện cảm, thậm chí còn khuyến khích mua hàng ngoại, một số nước thì rất không ưa. Chẳng hạn, nước có thiện cảm là Mêhicô, còn Ấn Độ thì lại đòi hỏi người xuất khẩu phải tôn trọng những hạn ngạch nhập khẩu, phong toả một số ngoại tệ…
2/ Sự ổn định chính trị: Sự ổn định chính trị là rất cần thiết cho kinh doanh, kinh doanh ở một đất nước mà đường lối căn bản của chính phủ không thay đổi đột ngột, luật lệ rõ ràng giúp cho doanh nghiệp tính toán được tương đối chính xác lợi ích tài chính của họ, đặc biệt là lợi ích khi đầu tư lâu dài. Các doanh nghiệp khôn khéo vẫn có lợi khi kinh doanh ở những nơi bất ổn định chính trị. Tuy nhiên, không nên mạo hiểm.
3/ Chính sách tiền tệ, quản lý ngoại tệ: Vấn đề hạn chế và chuyển đổi ngoại tệ của nước bạn hàng, sự biến động tỷ giá hối đoái.
4/ Bộ máy nhà nước: Cần phải biết bộ máy nhà nước tại thị trường buôn bán có thái độ như thế nào khi giải quyết các thủ tục xuất nhập khẩu. Tức là có tổ chức hải quan làm việc có hiệu quả, có đầy đủ thông tin thị trường và những yếu tố khác tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Nếu ở một nơi nào đó, mọi trở ngại cho hoạt động buôn bán nhanh chóng biến mất khi những quan chức ở nước sở tại nhận được một khoản tiền lót tay tương xứng thì đó là một tai hoạ.
+ Tiến hành phân tích, đánh giá các thị trường để tìm ra các đoạn thị trường hoặc thị trường mà công ty có khả năng thâm nhập hoặc giữ vững và mở rộng thị phần của công ty. Không nên quá phân tán nỗ lực của mình ra nhiều thị trường khi khả năng cung ứng của doanh nghiệp còn nhỏ bé.
+ Thông qua việc đánh giá cơ hội thị trường để thực hiện việc hoạch định phương thức tốt nhất thâm nhập hoặc giữ vững đoạn thị trường, thị trường đã xác định. Cụ thể:
1/ Qua nhà xuất khẩu trong nước.
2/ Qua đại lý, công ty con của các hãng ngoại quốc đóng tại nước mình.
3/ Qua phòng tiêu thụ hay chi nhánh tại nước ngoài.
4/ Trực tiếp...
Hoạt động nghiên cứu thị trường là hoạt động quan trọng hàng đầu nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty.
Công tác điều tra, nghiên cứu thị trường nước ngoài trả lời được các vấn đề sau:
+ Mặt hàng nào có thể xuất khẩu ở nước nào? Số lượng, giá trị là bao nhiêu?
+ Chú trọng đầu tư đổi mới công nghệ. Mặt hàng xuất khẩu phải được ưu tiên đầu tư, đổi mới công nghệ, trước hết và trọng tâm là đầu tư, đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm.
+ Phát triển quan hệ ổn định, lâu dài trong mua bán - trao đổi tiến tới phát triển quan hệ liên kết, liên doanh trong sản xuất, kinh doanh.
+ Tạo lập, giữ vững và nâng cao uy tín của ELMACO trong hoạt động xuất khẩu…
2.3.2.4. Tăng cường đào tạo, nâng cao nghiệp vụ xuất khẩu cho cán bộ xuất khẩu
Chiến lược con người là trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội, phát triển nguồn nhân lực tương xứng với nền kinh tế là yếu tố quyết định sự thành công của chiến lược định hướng về xuất khẩu, đẩy nhanh tốc độ và quy mô xuất khẩu, làm cho sản phẩm xuất khẩu Việt Nam ngày càng có tính cạnh tranh cao trên thương trường quốc tế.
Một trong những vấn đề làm cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu của ELMACO gặp rất nhiều khó khăn trong thời gian qua là năng lực, trình độ của cán bộ xuất nhập khẩu, nghĩa là đã ít về số lượng lại còn hạn chế về nghiệp vụ. Chính vì thế việc khẩn trương đào tạo, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ xuất khẩu để đáp ứng với chiến lược của Công ty trong giai đoạn tới, nhằm thích ứng với biến động liên tục của thị trường quốc tế là vấn đề mà Công ty nên xem xét và có chính sách cụ thể. Để có các nhà kinh doanh giỏi, ELMACO cần:
+ Khẩn trương đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có.
+ Đào tạo mới một đội ngũ đông đảo các nhà kinh doanh để bổ xung vào phòng kinh doanh xuất khẩu tổng hợp.
+ Khuyến khích và coi trọng sáng kiến kinh doanh của các cán bộ công nhân viên trong công ty.
+ Mở rộng sự tiếp xúc làm ăn với các nhà doanh nghiệp nước ngoài.
+ Có chính sách khuyến khích về vật chất đối với các doanh nhân làm ăn giỏi.
Thực hiện biện pháp này, ELMACO sẽ tạo ra một đội ngũ các nhà kinh doanh có các phẩm chất sau đây:
- Am hiểu sâu sắc tình hình thị trường trong và ngoài nước.
- Có kiến thức về kinh doanh quốc tế, luật pháp, tập quán buôn bán.
- Giỏi ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh.
- Biết cách đàm phán, thương thuyết, có tinh thần hợp tác.
- Có đầu óc thực tiễn, biết tính toán đến không chỉ lợi ích của doanh nghiệp mà còn lợi ích chung của nền kinh tế.
Kinh doanh trên thị trường nước ngoài đầy bất trắc phức tạp, nhưng nếu biết kinh doanh thì lợi nhuận thu về không nhỏ. Vì vậy, trước khi vươn ra hoạt động ở thị trường nước ngoài nếu doanh nghiệp có một đội ngũ cán bộ có các phẩm chất trên, doanh nghiệp sẽ biết được những thông tin cơ bản sau:
- Luật lệ và chính sách của nước bạn hàng, đặc biệt của nước đó đối với Việt Nam.
- Tình hình tiêu thụ, giá cả và tính chất cạnh tranh đối với hàng hoá ta muốn bán.
- Phương thức thâm nhập thị trường có hiệu quả nhất.
- Tìm hiểu khả năng kinh doanh của bên đối tác để biết được ai là bạn hàng đáng tin cậy, muốn cùng ta làm ăn lâu dài, biết chăm lo đến lợi ích của cả hai bên.
Trên cơ sở những thông tin đó, doanh nghiệp khi ra quyết định kinh doanh xuất khẩu sẽ hạn chế được các rủi ro đồng thời làm tăng hiệu quả kinh doanh góp phần tăng thu ngoại tệ, khẳng định vị thế của Công ty trên thị trường quốc tế.
KẾT LUẬN
Từ lâu, chiến lược hướng vào xuất khẩu đã được nhà nước ta đặt ra và tạo hành lang pháp lý trao quyền và nhiệm vụ vào tay các doanh nghiệp. Một nhiệm vụ mang ý nghĩa lớn lao về nhiều mặt, góp phần đưa nước ta hội nhập nhanh hơn với nền kinh tế khu vực và thế giới, thực hiện mục tiêu tăng trưởng và ổn định lâu dài.
Kinh doanh quốc tế đem lại nhiều lợi ích to lớn cho các doanh nghiệp: Đó là lợi nhuận, là kinh nghiệm, là cách thức tổ chức sản xuất kinh doanh một cách chuyên nghiệp, là công nghệ,….Nhưng mặt trái của nó cũng ghê gớm không kém. Chấp nhận tham gia vào thương mại quốc tế cũng đồng nghĩa với việc tự chuốc thêm rủi ro ở mức độ khó lường hơn cho doanh nghiệp.
Thực tiễn nghiên cứu hoạt động xuất khẩu ở Elmaco đã giúp tôi có một cách nhìn khái quát hơn phạm trù kinh doanh quốc tế. Những ưu nhược điểm của riêng Elmaco hầu hết có thể khái quát lên tình trạng chung tại các doanh nghiệp chuyên hay không chuyên về kinh doanh xuất nhập khẩu. Tất nhiên, đó chỉ là tương đối, bởi vì quy mô, lợi thế của các doanh nghiệp là khác nhau.
Đối với Elmaco, xuất khẩu không phải là hoạt động chủ yếu mà thậm chí nguồn lợi mang lại từ nó còn chiếm một tỷ trọng nhỏ trong cơ cấu doanh thu. Nhưng họ có lợi thế là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Thương mại nên được ưu tiên hỗ trợ trong hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và xuất khẩu nói riêng. Đó chính là tiền đề đầu tiên tạo nên những thành công không thể phủ nhận trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu của Công ty. Lợi thế của Elmaco còn đến từ cơ cấu mặt hàng kinh doanh, từ vấn đề thu mua tạo nguồn hàng, từ cách thức quản lý và các quan hệ bạn hàng,…
Tuy nhiên, đằng sau những thành công ẩn chứa rất nhiều hạn chế mang tính nguyên tắc cần được nhìn nhận và khắc phục. Nguyên nhân của những hạn chế trên ngoài vấn đề năng lực của doanh nghiệp, còn đặt ra những hạn chế ở tầm vĩ mô cần được làm rõ vì mục tiêu chung của đất nước.
Đề tài “Một số biện pháp tăng cường hoạt động xuất khẩu ở Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí” mang một nội dung quá nhỏ so với những phức tạp mà hoạt động xuất khẩu đặt ra. Tuy nhiên, người viết vẫn hy vọng sẽ đóng góp một phần trí tuệ để hoạt động xuất khẩu tại Elmaco ngày càng có hiệu quả hơn, thực hiện mục tiêu trước mắt của Công ty là tăng thu ngoại tệ hỗ trợ cho hoạt động nhập khẩu và đóng một phần vào ngân sách quốc gia.
MỤC LỤC
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. Công ty Vật liệu điện và dụng cụ cơ khí:
1. Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Elmaco các năm 2000, 2001,2002, 2003
2. Báo cáo tài chính Công ty Elmaco các năm 2001, 2002, 2003
3. Kế hoạch công tác năm 2004 của Công ty Elmaco
4. Tài liệu tổng hợp lưu phòng kế hoạch và đầu tư
5. Chiến lược xuất khẩu của Việt Nam giai đoạn 2001- 2010
II. Báo, tạp chí thư viện Trường ĐHKTQD:
1. Hoạt động xuất khẩu của Việt Nam khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực- Tạp chí Kinh tế phát triển- Số 56/ 02
2. Chỉ thị của thủ tướng chính phủ về việc đẩy mạnh và nâng cao hoạt động xuất nhập khẩu năm 2002- Tạp chí Thương mại- Số 1/ 02
3. Để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu- Tạp chí Thương mại- Số 8/ 02
4. Nâng cao vị thế trong hoạt động xuất khẩu cvà hội nhập quốc tế của các doanh nghiệp vừa và nhỏ- Tạp chí Công nghiệp- Số 2+3/ 02
5. Nâng cao sức cạhh tranh trong xuất nhập khẩu- Thị trường tiền tệ Việt nam- Số 4/ 02
6. Luận văn các khoá K40, K41
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Biện pháp tăng cường hoạt động xuất khẩu ở Công ty vật liệu điện và dụng cụ cơ khí.DOC