Đề tài Các đặc điểm dịch vụ và thương mại dịch vụ của dịch vụ logistics ở nước ta hiện nay

Lời nói đầuChương 1: Cơ sở Lý luận về dịch vụ và thương mại dịch vụ 1.1. Các Khái niệm cơ bản 1.1.1 Khái niệm về Dịch vụ (DV) vDịch vụ là một ngành, một lĩnh vực. vDịch vụ là một sản phẩm, kết quả của một hoạt động . vDịch vụ là một hoạt động. vCác quan niệm khác: 1.1.2 Khái niệm về thương mại dịch vụ (kinh doanh dịch vụ). (TMDV) 1.2. Các đặc điểm của dịch vụ và thương mại dịch vụ. 1.2.1. Các đặc điểm của dịch vụ a. Tính không hiện hữu. Tính không tách rời.(đồng nhất) Tính không xác định( không ổn định, không đồng nhất, dị chủng). a. Tính tồn kho ( không dự trữ). 1.2.2. Đặc điểm của thương mại dịch vụ. a. Khách hàng là người cung ứng, tham gia vào tiến trình dịch vụ: thể hiện ở 4 tư cách. Sử dụng nhiều lao động trực tiếp, nhiều lao động nữ. b. Khách hàng quyết định địa điểm cung ứng dịch vụ. c. Đầu ra của kinh doanh dịch vụ khó đo lường nhưng có thể dự báo được. Chương 2: Thực trạng đặc điểm dịch vụ và thương mại dịch vụ Logistics ở nước ta hiện nay. 2.1. Khái quát chung về dịch vụ Logistics ở Việt Nam 2.1.1. Khái niệm về Logistics: v Logistics tự cung cấp: v Second Party Logistics (2PL) v Third Party Logistics (TPL) hay logistics theo hợp đồng. vFourth Party Logistics (FPL) hay Logistics chuỗi phân phối. 2.1.2. Dịch vụ Logistics Việt Nam 2.2. Đặc điểm Dịch vụ và Thương mại DV của Logistics ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Đặc điểm DV của DV Logistics a. Tính không hiện hữu b. Tính không tách rời (đồng nhất) c. Tính không xác định (không ổn định, không đồng nhất, dị chủng) d. Tính không tồn kho 2.2.2. Đặc điểm TMDV của DV Logistics a. Khách hàng là người cung ứng, tham gia vào tiến trình dịch vụ - Khách hàng là người tiêu dùng dịch vụ: - Khách hàng là một yếu tố đầu vào của doanh nghiệp: Khách hàng là người đồng sản xuất Khách hàng là người quản lý b. Sử dụng nhiều lao động trực tiếp, nhiều lao động sống: c. Khách hàng quyết định địa điểm, vị trí cung ứng dịch vụ d. Đầu ra của kinh doanh dịch vụ khó đo lường nhưng có thể dự đoán được 2.3. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân 2.3.1 Ưu điểm 2.3.2 Hạn chế 2.3.3 Nguyên nhân Chương 3. Đề xuất các biện pháp quản lý và phát triển DV Logistics ở nước ta hiện nay 3.1 Đối với các doanh ngiệp 3.2 Đối với nhà nước: Kết Luận

doc22 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 5705 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các đặc điểm dịch vụ và thương mại dịch vụ của dịch vụ logistics ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề bài: "Các đặc điểm Dịch vụ và Thương Mại Dịch Vụ của Dịch Vụ Logistics ở nước ta hiện nay " Lời nói đầu Trên thế giới ngày nay, nền kinh tế không chỉ đơn thuần với các sản phẩm vật chất cụ thể, mà bên cạnh đó còn tồn tại với các sản phẩm dịch vụ. Dịch vụ đã được coi là ngành kinh tế thứ ba và là ngành công nghiệp không khói. Ở các nước phát triển, tỷ trọng dịch vụ trong tổng sản phẩm quốc dân thường rất cao. Nhiều tổ chức cá nhân đầu tư không ít tiền của vào các hoạt động dịch vụ bởi lẽ đơn giản là nó đem lại hiệu quả kinh tế cao và đang là xu thế thời đại. Logistics là một trong số các ngành dịch vụ có thu nhập cao cho ngành dịch vụ nói riêng và nền kinh tế quốc dân nói chung. Logistics có vị trí ngày càng quan trọng trong các nền kinh tế hiện đại và có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển kinh tế của các quốc gia và toàn cầu. Dịch vụ logistics ngày nay đã trở thành ngành dịch vụ xương sống của hoạt động thương mại quốc tế. Logistics đã và đang được phát triển mạnh ở các nước có nền kinh tế phát triển. Những năm gần đây, dịch vụ logistics bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam. Ngành dịch vụ logistics tại Việt Nam đã và đang phát triển rất nhanh chóng, từ một vài doanh nghiệp giao nhận quốc doanh của đầu thập niên 90 đến nay đã có hơn 600 công ty được thành lập và hoạt động từ Nam, Trung, Bắc. Theo số liệu thống kê năm 2007, logistics đóng góp vào GDP khoảng 4,4%. Tuy nhiên, nhiều dự báo cho rằng đây sẽ trở thành ngành kinh tế quan trọng, có thể đóng góp tới 15% GDP của cả nước trong tương lai không xa. Với tầm quan trọng và nguồn lợi từ logistics, việc phát triển cần một chiến lược dài hạn những cơ chế chính sách pháp lý phù hợp nhằm tạo điều kiện và thu hút sự đầu tư phát triển cho ngành này tại Việt Nam. Chương 1: Cơ sở Lý luận về dịch vụ và thương mại dịch vụ 1.1. Các Khái niệm cơ bản 1.1.1 Khái niệm về Dịch vụ (DV) vDịch vụ là một ngành, một lĩnh vực. Dịch vụ thuộc khu vực phi sản xuất vật chất của nền linh tế quốc dân. Dịch vụ là một ngành trong nền kinh tế quốc dân, là ngành kinh tế thứ ba sau công nghiệp và nông nghiệp. vDịch vụ là một sản phẩm, kết quả của một hoạt động . Dịch vụ là con đẻ của sản xuất hàng hóa, khi kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông, thông suốt, để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao thì dịch vụ càng phát triển. Quan điểm của ISO 8402: Dịch vụ là kết quả của hoạt động sinh ra khi tương tác giữa bên cung ứng và khách hàng của hoạt động nội bộ bên cung ứng để đáp ứng nhu cầu khách hàng. Dịch vụ là sản phẩm vô hình do sự tương tác giữa các yếu tố hữu hình và vô hình mà người tiêu dùng nhận được, phù hợp với quy cách và chi phí hai bên thỏa thuận. vDịch vụ là một hoạt động. Theo Lưu Văn Nghiêm: Dịch vụ là hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu giải quyết mối quan hệ của khách hàng hoặc tài sản của khách hàng với nhà cung cấp mà không chuyển giao quyền sở hữu. Dịch vụ là hoạt động cung ứng lao động, khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật nhằm đáp ứng nhu cầu về sản xuất kinh doanh , đời sống vật chất tinh thần, các hoạt bảo hiểm, tín dụng, cầm đồ. (theo Trần Văn Bào và Nghiêm Văn Trọng). Thuật chinh phục khách hàng: Dịch vụ bao gồm toàn bộ các hỗ trợ mà khách hàng mong đợi phù hợp với giá cả ngoài dịch vụ đó. vCác quan niệm khác: Dịch vụ là hoạt động mang tính xã hội tạo ra các sản phẩm không tồn tại dưới hình thái vật chất, không dẫn tới việc chuyển quyền sở hữu nhằm thỏa mãn kịp thời và hiệu quả hơn nhu cầu sản xuất và đời sống xã hội của con người. 1.1.2 Khái niệm về thương mại dịch vụ (kinh doanh dịch vụ). (TMDV) Kinh doanh là thực hiện một số hoạt động trên thị trường với mục đích sinh lời từ khâu tổ chức đến tiêu dùng. Kinh doanh dịch vụ : + là hoạt động sản xuất và cung ứng sản phẩm dịch vụ đáp ứng nhu cầu khách hàng nhằm mục tiêu lợi nhuận. + là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn từ quá trình đầu tư từ sản xuất cung ứng đến tiêu thụ trên thị trường nhằm mục địch sinh lời. 1.2. Các đặc điểm của dịch vụ và thương mại dịch vụ. 1.2.1. Các đặc điểm của dịch vụ Tính không hiện hữu. Xem xét một cách tổng thể thì dịch vụ có tính vô hình. Tính không hiện hữu thể hiện ở chỗ, DV không thể thử trước, phải sử dụng DV thì mới cảm nhận được (thông thường). Dịch vụ có tính vô hình nên gây khó khăn cho các nhà sản xuất, khuyến khích DV trên cơ sở vật chất kĩ thuật. Khó khăn trong việc tăng năng suất DV, không sản xuất trước, chú trọng yếu tố tâm lý khách hàng, sợ rủi ro, sẵn sàng thay đổi nhu cầu chuyển sang DV khác, đặc biệt là khi khách hàng tham gia vào dịch vụ. Khó khăn trong việc có được bằng sáng chế và bảo vệ cho các sáng chế. Đối với hàng hóa là sản phẩm vật chất thì còn có thể đăng kí bản quyền. Do dịch vụ có tính vô hình, không hiện hữu của sản phẩm nên không thể mang dịch vụ đến cục sở hữu tuệ để đăng kí bản quyền. Khó khăn trong việc vật chất hóa sản phẩm DV trong quá trình kinh doanh. Cách tốt nhất để vật chất hóa là dựa vào cơ sở vật chất kĩ thuật. Nhà cung cấp dịch vụ cần quảng cáo, xúc tiến sản phẩm đến khách hàng, khẳng định chất lượng khơi gợi niềm tin cho khách hàng, giảm tính sợ rủi ro cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Tính không tách rời.(đồng nhất) Thể hiện sự đồng thời về không gian và thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ. Yêu cầu trong quá trình sản xuất kinh doanh: + sắp xếp trang thiết bị phù hợp => nhanh chóng, thuận lợi, dễ dàng, an toàn cho khách hàng. + nhân viên phải đảm bảo trình độ kĩ năng, trình độ cung ứng dịch vụ nhiệt tình chu đáo. + có sự huấn luyện và khả năng phán đoán về khách hàng tốt nhằm cung ứng đạt hiệu quả. + tiến hành phân phối ở nhiều địa điểm khác. Không thể sản xuất hàng loạt, sản xuất trước các sản phẩm dịch vụ. DV có tính thời vụ nên do đó cần dự trữ tốt nguyên liệu, cần lên kế hoạch và dự báo được nhu cầu của khách hàng. Tính không xác định( không ổn định, không đồng nhất, dị chủng). Dịch vụ không giống nhau giữa các lần phục vụ khác dù là cùng một nhân viên, cùng một nhà cung cấp hay một loại hình dịch vụ phụ thuộc vào trình độ của nhân viên, tâm lý tình cảm phụ thuộc vào tâm lý, trình độ cảm nhận của khách hàng. Dịch vụ phụ thuộc nhiều vào yếu tố tâm lý, con người. DV cần chú trọng huấn luyện tính chuyên nghiệp và việc phục vụ của nhân viên tránh phụ thuộc nhiều vào tâm lý và thái độ của họ Tính tồn kho ( không dự trữ). Dịch vụ không thể lưu trữ và lưu kho, quá trình sản xuất và tiêu dùng đồng thời. Doanh nghiệp cần tìm cách bán được nhiều nhất sản phẩm trong mỗi ngày( huấn luyện nhân viên, chính sách giảm giá, thu hút khách hàng, điều kiện kèm theo...) Dịch vụ không có khả năng lưu kho nên doanh nghiệp cần sử dụng công cụ giá một cách hợp lý để tận dụng tối đa lợi nhuận và công suất bán. Đồng thời vẫn giữ được chất lượng, uy tín của dịch vụ. 1.2.2. Đặc điểm của thương mại dịch vụ. Ngoài 4 đặc điểm kể trên của dịch vụ, thương mại dịch vụ còn có 4 đặc trưng sau: Khách hàng là người cung ứng, tham gia vào tiến trình dịch vụ: thể hiện ở 4 tư cách. Thông thường, khách hàng là người bỏ tiền ra mua dịch vụ vì họ là người tiếp nhận và sử dụng dịch vụ. Khách hàng là yếu tố đầu vào của dịch vụ, nhân viên sử dụng công cụ lao động tác động vào khách hàng tạo ra dịch vụ. Ví dụ: Trong sản xuất hàng hóa: con người sản xuất dựa vào công cụ lao động tạo nên đối tượng lao động (nguyên liệu đầu vào) => sản phẩm hàng hóa. Trong sản xuất dịch vụ: cắt tóc sử dụng dao kéo được đầu tóc khách hàng tạo ra kiểu đầu mới. Khách hàng là người đồng sản xuất với nhà cung ứng. Khách hàng là người quản lý : đồng thời thực hiện 4 chức năng: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo, kiểm soát. Hoạch định : xác định mục tiêu, tình thế, lên kế hoạch. Tổ chức: xác định cơ cấu tổ chức, bố trí và sử dụng lao động phù hợp điều chỉnh nhân viên. Lãnh đạo: chỉ đạo thực hiện công việc, kiểm soát công việc, kiểm tra có đúng yêu cầu không. Kiểm soát: xác định mức tiêu chuẩn đo lường kết quả => điều chỉnh, sử chữa sai sót. Doanh nghiệp nhận thức được vai trò quá trình cung ứng dịch vụ, chú trọng tới tâm lý khách hàng tạo nên hiệu quả kinh doanh. Sử dụng nhiều lao động trực tiếp, nhiều lao động nữ. Tỷ lệ lao động sống cao, khó có thể sử dụng máy móc để tạo ra sản phẩm dịch vụ, sử dụng lao động chân tay, lao động giản đơn, không sử dụng nhiều trình độ cao, chỉ cần khéo léo, nhẫn nại, bền bỉ phù hợp với nữ. Trả chi phí lương cao nên thay thế lao động sống bằng lao động máy móc trong phạm vi cho phép, bố trí sử dụng nhân viên phù hợp, tránh lãng phí nhân lực Khách hàng quyết định địa điểm cung ứng dịch vụ. Tùy thuộc vào từng loại hình dịch vụ khác nhau, khách hàng có vai trò nhất định trong việc quyết định địa điểm khác. Các mức độ quyết định địa điểm cung cấp của khách hàng như sau: Khách hàng có vai trò quyết định địa điểm cung cấp một số loại dịch vụ . Khách hàng có vai trò chi phối đến địa điểm cung cấp dịch vụ và nhà cung cấp có thể lựa chọn đặc điểm cung cấp dịch vụ thỏa mãn khách hàng. Khách hàng thỏa thuận với nhà cung ứng dịch vụ về đặc điểm của cung cấp dịch vụ , nhà cung cấp dịch vụ có quyền từ chối, khách hàng vẫn phải chấp nhận. Doanh nghiệp cần nghiên cứu nhu cầu khách hàng, đặc điểm cung ứng dịch vụ trên thị trường để lựa chọn các dịch vụ cung ứng phù hợp. Đầu ra của kinh doanh dịch vụ khó đo lường nhưng có thể dự báo được. Do đặc điểm của dịch vụ có tính vô hình nên không đo lường xác định đầu ra được, phải dựa vào thước đo trung gian để đo lường và quản lý dịch vụ. Doanh nghiệp cần lựa chọn các đơn vị trung gian phù hợp để có thể đo lường kết quả đầu ra của từng dịch vụ một cách chính xác. Chương 2: Thực trạng đặc điểm dịch vụ và thương mại dịch vụ Logistics ở nước ta hiện nay. 2.1. Khái quát chung về dịch vụ Logistics ở Việt Nam 2.1.1. Khái niệm về Logistics: Trước khi đi vào tìm hiểu ngành dịch vụ Logistic ở Việt Nam chúng ta sẽ tìm hiểu một chút về Các Khái Niệm của Logistics: + Logistics được hiểu là quá trình hoạch định, thực hiện và kiểm soát sự lưu thông và tích trữ một cách hiệu quả tối ưu các loại hàng hoá, nguyên vật liệu, thành phẩm và bán thành phẩm, dịch vụ và thông tin đi kèm từ điểm khởi đầu tới điểm kết thúc nhằm mụch đích tuân theo các yêu cầu của khách hàng. + Logistics có thể được định nghĩa là việc quản lý giòng chu chuyển và lưu kho nguyên vật liệu, quá trình sản xuất, thành phẩm và xử lý các thông tin liên quan.....từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ cuối cùng theo yêu cầu của khách hàng. Hiểu một cách rộng hơn nó còn bao gồm cả việc thu hồi và xử lý rác thải (Nguồn : UNESCAP..........................) + Logistics là quá trình xây dựng kế hoạch, cung cấp và quản lý việc chu chuyển và lưu kho có hiệu quả hàng hoá, dịch vụ và các thông tin liên quan từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ vì mục tiêu đáp ứng nhu cầu của khách hàng (World Marintime Unviersity‐ Đại học Hàng Hải Thế Giới, D. Lambert 1998). Thực ra Logistics được áp dụng rất rộng rãi trong nhiều ngành không chỉ trong Quân sự từ rất lâu, được hiểu là hậu cần, mà nó còn áp dụng trong sản xuất tiêu thụ, giao thông vận tải vv.. ð Vì vậy trên cơ sở Logistics tổng thể (Global Logistic) người ta chia hoạt động logistics thành Supply Chain Managment Logistics –Logistics quản lý chuỗi cung ứng. Transportation Management Logistics‐ Logistics quản lý vận chuyển hàng hóa. Warhousing/ Inventery Management Logistics –Logistics về quản lý lưu kho, kiểm kê hàng hoá, kho bãi. Như vậy quản lý Logistics là sự điều chỉnh cả một tập hợp các hoạt động của nhiều ngành cùng một lúc và chỉ khi nào người làm giao nhận có khả năng làm tất cả các công việc liên quan đến cung ứng, vận chuyển, theo dõi sản xuất, kho bãi, thủ tục hải quan, phân phối….mới được công nhận là nhà cung cấp dịch vụ logistics. Vì lĩnh vực Logistics rất đa dạng, bao gồm nhiều quy trình và công đoạn khác nhau nên hiện nay người ta chia thành 4 phương thức khai thác hoạt động Logistic như sau: v Logistics tự cung cấp: Các công ty tư thực hiện các hoạt động logistics của mình. Công ty sở hữu các phương tiện vận tải, nhà xưởng, thiết bị xếp dỡ và các nguồn lực khác bao gồm cả con người để thực hiện các hoạt động logistics. Đây là những tập đoàn Logistics lớn trên thế giới với mạng lưới logistics toàn cầu, có phương cách hoạt động phù hợp với từng địa phương. v Second Party Logistics (2PL) Là việc quản lý các hoạt động logistics truyền thống như vận tải hay kho vận. Công ty không sở hữu hoặc có đủ phương tiện và cơ sở hạ tầng thì có thể thuê ngoài các dịch vụ cung cấp logistics nhằm cung cấp phương tiện thiết bị hay dịch vụ cơ bản. Lý do của phương thức này là để cắt giảm chi phí hoặc vốn đầu tư. v Third Party Logistics (TPL) hay logistics theo hợp đồng. Phương thức này có nghĩa là sử dụng các công ty bên ngoài để thực hiện các hoạt động Logistics, có thể là toàn bộ quá trình quản lý Logistics, hoặc chỉ 1 số hoạt động chọn lọc. Cách giải thích khác theo TPL là các hoạt động do 1 công ty cung cấp dịch vụ Logistics thực hiện trên danh nghĩa khách hàng của họ, tối thiểu bao gồm việc quản lý và thực hiện các hoạt động vận tải và kho vận ít nhất 1 năm hoặc không có hợp đồng hợp tác. Đây được coi như 1 liên minh chặt chẽ giữa 1 công ty và nhà cung cấp dịch vụ Logistics, nó không chỉ thực hiện các hoạt động Logistics mà còn chia sẻ thông tin, rủi ro và các lợi thế theo 1 hợp đồng dài hạn. v Fourth Party Logistics (FPL) hay Logistics chuỗi phân phối. FPL là một khái niệm phát triển trên nền tảng của TPL nhằm tạo ra sự đáp ứng dịch vụ, hướng về khách hàng và linh hoạt hơn. FPL quản lý và thực hiện các hoạt động Logistics phức hợp như quản lý nguồn lực, trung tâm điều phối kiểm soát và các chức năng kiến trúc và tích hợp các hoạt động Logistics. FPL bao gồm lĩnh vực rộng hơn gồm cả hoạt động của TPL, các dịch vụ công nghệ thông tin và quản lý các tiến trình kinh doanh. FPL được xem là 1 điểm liên lạc duy nhất, nơi thực hiện việc quản lý, tổng hợp các nguồn lực và giám sát các chức năng TPL trong suốt chuỗi phân phối nhằm vươn tới thị trường toàn cầu, lợi thế chiến lược và các mối quan hệ lâu bền. 2.1.2. Dịch vụ Logistics Việt Nam Logistics là một hoạt động tổng hợp mang tính dây chuyền, hiệu quả của quá trình này có tầm quan trọng quyết định đến tính cạnh tranh của ngành công nghiệp và thương mại mỗi quốc gia. Đối với những nước phát triển như Nhật và Mỹ logistics đóng góp khoảng 10% GDP. Đối với những nước kém phát triển thì tỷ lệ này có thể hơn 30%. Sự phát triển dịch vụ logistics có ý nghĩa đảm bảo cho việc vận hành sản xuất, kinh doanh các dịch vụ khác được đảm bảo về thời gian và chất lượng. Logistics phát triển tốt sẽ mang lại khả năng tiết giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ Dịch vụ logistics ở Việt Nam chiếm khoảng từ 15-20% GDP. Ước tính GDP nước ta năm 2006 khoảng 57,5 tỷ USD. Như vậy, chi phí logistics chiếm khoảng 8,6-11,1 tỷ USD. Đây là một khoản tiền rất lớn. Nếu chỉ tính riêng khâu quan trọng nhất trong logistics là vận tải, chiếm từ 40-60% chi phí thì cũng đã là một thị trường dịch vụ khổng lồ. à Cơ hội lớn: Theo dự báo, trong tương lai không xa, dịch vụ giao nhận kho vận (logistics) sẽ trở thành một ngành kinh tế quan trọng tại Việt Nam, đóng góp tới 15% GDP cả nước. Đặc biệt, trong 10 năm tới, khi kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng dịch vụ logistics lại càng lớn. Dự báo, đến năm 2010, hàng container qua cảng biển Việt Nam sẽ đạt từ 3,6-4,2 triệu TEU. Con số này đến năm 2020 chắc chắn sẽ lên đến 7,7 triệu TEU. Song hành cùng sự phát triển kinh tế là tăng trưởng trong hoạt động xuất nhập khẩu, do đó, ngành logistics lại thêm nhiều cơ hội phát triển. Theo dự báo của Bộ Thương Mại, trong 10 năm tới kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước sẽ đạt tới 200 tỷ USD. Điều đó cho thấy tiềm năng phát triển dịch vụ logistics Việt Nam còn khá lớn. 2.2. Đặc điểm Dịch vụ và Thương mại DV của Logistics ở Việt Nam hiện nay 2.2.1. Đặc điểm DV của DV Logistics a. Tính không hiện hữu Khi mua một loại dịch vụ, nhiều khách hàng có cảm giác rằng họ có thể sẽ gặp phải một rủi ro nào đó. Bởi lẽ, khác với những sản phẩm mang tính vật chất, dịch vụ là một thứ sản phẩm vô hình. Khách hàng thật sự không thể biết trước mình sẽ nhận được những gì từ một dịch vụ cho đến khi họ bỏ tiền ra và thử nghiệm dịch vụ đó. Nói cách khác, bán một dịch vụ chính là bán một lời hứa rằng doanh nghiệp sẽ đem đến cho khách hàng một điều gì đó. Logistics thực hiện các công việc chu chuyển và lưu kho hàng hoá, cùng các dịch vụ và thông tin có liên quan từ địa điểm xuất phát đến nơi tiêu dùng do vậy nó không phải là một sản phẩm vật chất hay một cái gì đó hiện hữu, do vậy khách hàng không thể cầm nắm, không thể cảm nhận được Logistics là sản phẩm như thế nào, mà phải chờ đợi kết quả của quá trình vận chuyển, lưu kho… mới có thể cảm nhận được, do vậy logistics mang tính không hiện hữu. Tính không hiện hữu của dịch vụ Logistics gây ra một số khó khăn không nhỏ đối với các công ty cung cấp dịch vụ. Nó thể hiện ở chỗ khách hàng không trực tiếp tiếp cận với dịch vụ mà phải chờ đợi kết quả của quá trình vận chuyển điều này đem tới cho khách hàng tâm lý bất an vì vậy công ty cung cấp dịch vụ cần có những biện pháp cụ thể để xóa bỏ tâm lý bất an trong khách hàng, làm cho khách hàng tin tưởng hoàn toàn vào dịch vụ mà công ty đã cung cấp. b. Tính không tách rời (đồng nhất) Tính không tách rời (đồng nhất) thể hiện ở sự đồng thời về không gian và thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ. Ví dụ như: khi khách hàng thuê một công ty cung cấp dịch vụ Logistics, vận chuyển một hàng hóa nào đó từ nơi này tới nơi khác thì khi hàng hóa đang được vận chuyển thì lúc đó công ty đó đang cung cấp dịch vụ vận chuyển và khách hàng thì đang tiêu thụ dịch vụ do công ty đó cung cấp. Sự đồng nhất về không gian và thời gian cung cấp dịch vụ được thể hiện ngay từ đầu quá trình cung cấp dịch vụ: công ty cung cấp dịch vụ cho nhân viên tới tận nơi khách hàng yêu cầu và bốc xếp hàng hóa lên xe, vận chuyển tới nơi khách hàng yêu cầu và bốc dỡ hàng hóa…sự đồng nhất giữa không gian và thời gian của quá trình sản xuất sản phẩm dịch vụ và quá trình tiêu thụ dịch vụ của khách hàng luôn luôn được thể hiện. Sự đồng nhất về không gian thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ dù đem lại những thuận lợi nhất định song cũng đặt ra một số yêu cầu mà nhà cung cấp trong quá trình sản xuất kinh doanh phải lưu tâm. c. Tính không xác định (không ổn định, không đồng nhất, dị chủng) Dịch vụ Logistics có thể không giống nhau trong các lần cung cấp dịch vụ khác nhau. Có thể cùng một nhà cung ứng dịch vụ, cùng một nhân viên phục vụ, cùng một loại hình dịch vụ nhưng đối với khách hàng khác nhau sẽ có cách tiếp cận, chăm sóc, phục vụ khác nhau tùy thuộc vào tâm lý, tình cảm, thái độ, cách thức phục vụ khách hàng của từng nhân viên. Đúng như vậy, nhân viên trong một công ty cung cấp dịch vụ Logistics có thể phục vụ nhiều khách hàng khác nhau trong những lần khác nhau với thái độ chăm sóc phục vụ khách hàng khác nhau. Phụ thuộc vào vị trí mà khách hàng yêu cầu cần chuyển tới. Ví dụ một khách hàng yêu cầu vận chuyển hàng hóa từ nơi này tới nơi khác, trong thời gian bao lâu (các khách hàng khác nhau có nhưng yêu cầu khác nhau)… thì công ty cung cấp dịch vụ logistics xem xét xem lên sử dụng phương tiện nào để phù hợp với từng loại hàng hóa và thời gian cụ thể do khách hàng yêu cầu, có thể dùng các con đường vận chuyển hàng hóa như đường bộ, đường sắt, đường biển, đường hàng không, đường ống. Các loại hàng hóa với khối lượng lớn cần vận chuyển với các phương tiện như Tàu hỏa và Tàu thủy, có thể dùng tới máy bay. Những khách hàng yêu cầu công ty cung cấp dịch vụ lưu kho, với những loại hàng hóa khác nhưng thì công ty cung cấp dịch vụ cần thiết kế những kho lưu hàng với diện tích hợp lý, và cần những phương tiện kĩ thuật để lưu trữ hàng hóa hiệu quả nhất, đảm bảo giữ gìn nguyên vẹn sơ lượng và chất lượng hàng hóa. d. Tính không tồn kho Dịch vụ Logistics không thể lưu kho và dự trữ được sản phẩm của mình do dịch vụ Logistics có tính chất vô hình, sản phẩm dịch vụ của ngành không thể cầm nắm được, nhìn thấy được. Quá trình sản xuất và sử dụng dịch vụ là đồng thời do đó mà sản phẩm dịch vụ không thể sản xuất ra hàng loạt. Đúng như vậy, những công ty cung cấp dịch vụ Logistics chỉ cung cấp dịch vụ khi có khách hàng. Khi khách hàng yêu cầu vận chuyển một hàng hóa nào đó tới một nơi nào đó, công ty mới cung cấp dịch vụ vận chuyển. Không những vậy chúng ta còn thấy được rằng khi hàng hóa được vận chuyển thì lúc đó công ty đang cung cấp dịch vụ còn khách hàng thì đang tiêu thụ dịch vụ, hoạt động diễn ra đồng thời nên không gây ra sự tồn kho. 2.2.2. Đặc điểm TMDV của DV Logistics Ngoài bốn đặc điểm kể trên của DV, Thương mại dịch vụ của dịch vụ Logistics còn bốn đặc trưng sau: a. Khách hàng là người cung ứng, tham gia vào tiến trình dịch vụ Khách hàng là người tiêu dùng dịch vụ: Nhu cầu của khách hàng là nguồn gốc cho tất cả các hoạt động logistics. Khách hành là người trực tiếp mua sản phẩm từ các công ty, do đó có thể không phải là người tiêu dùng cuối cùng trong chuỗi hoạt động của ngành. Nhưng dù có phải là người tiêu dùng cuối cùng hay không thì họ vẫn chính là người trực tiếp tiêu dùng dịch vụ logistics mà doanh nghiệp cung cấp. Như vậy, đối với một nhà sản xuất thì khách hàng có thể là nhà sản xuất khác; là một đại lý bán buôn, một nhà phân phối, một đại lý bán lẻ hoặc một công ty bán hàng qua mạng, thậm chí là người tiêu dùng cuối cùng. Một nhà bán buôn hoặc một nhà phân phối có khách hàng là nhà sản xuất, người tập hợp hàng hóa từ nhà bán buôn, nhà phân phối khác, đại lý bán lẻ, hoặc công ty đặt hàng qua mạng. Đối với đại lý bán lẻ hoặc công ty bán hàng qua mạng, khách hàng hầu hết luôn là người tiêu dùng cuối cùng. Khách hàng là một yếu tố đầu vào của doanh nghiệp: Khách hàng ngày nay đã trở nên thông minh hơn nhờ vào lượng thông tin mà họ tiếp thu qua mạng internet và nhiều kênh truyền thông khác nhau. Việc đánh giá các nhà cung cấp đã được mở rộng qua nhiều yếu tố trung gian như catalog, mang internet, và phương tiện khác. Khách hàng có nhiều cơ hội so sánh, lựa chọn chính xác về giá, chất lượng , dịch vụ,… giữa nhiều nhà cung cấp khác nhau. Họ có xu hướng lựa chon những nhà cung cấp có dịch vụ hoàn hảo hơn, thúc đẩy doanh nghiệp phải chú ý đến dịch vụ cung ứng của mình. Doanh nghiệp phải sử dụng nhiều công cụ lao động khác nhau để thu hút khách hàng từ đó thúc đẩy sự phát triển của dịch vụ. Khách hàng là người đồng sản xuất: trong quá trình cung ứng dịch vụ logistics , khách hàng có thể tham gia vào quá trình vận chuyển, giao nhận hàng hóa như cùng ngồi trên xe để đi tới vị trí yêu cầu. Khách hàng là người quản lý: khách hàng là người thực hiện đồng thời bốn chức năng của quá trình sản xuất dịch vụ Chức năng hoạch định: khách hàng xác định mục tiêu, lên kế hoạch cho việc thực hiện dịch vụ logistics. Khách hàng có thể tự quyết định phương thức vận chuyển như bằng đường bộ hay đường hàng không. Chức năng tổ chức: khách hàng có thể xác định cơ cấu tổ chức, thiết lập nguyên tắc, bố trí, sử dụng lao động phù hợp, điều chỉnh hành vi nhân viên Chức năng lãnh đạo: Khách hàng có quyền hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc thực hiện hợp đồng Chức năng kiểm soát: khách hàng kiểm soát tinh thần phục vụ của nhân viên cũng như chất lượng sản phẩm, dịch vụ để đưa ra những nhận xét, điều chỉnh sao cho phù hợp b. Sử dụng nhiều lao động trực tiếp, nhiều lao động sống: Logistics là quá trình tối ưu hoá về vị trí, vận chuyển và dự trữ các nguồn tài nguyên từ điểm đầu tiên của dây chuyền cung ứng cho đến tay người tiêu dùng cuối cùng, thông qua hàng loạt các hoạt động kinh tế. Như vậy, trong dịch vụ logistics tỷ lệ lao động sống là rất cao, đòi hỏi nhiều lao động giản đơn, nhiều quy trình không đòi hỏi trình độ học vấn cao, chỉ cần nhẫn nại, khéo léo, bền bỉ. Do vậy Doanh nghiệp cung cấp dịch vụ logistics cần phải thay lao động sống bằng lao động máy móc trong phạm vi cho phép, bố trí và sử dụng nhân viên một cách phù hợp, tránh lãng phí nguồn nhân lực. c. Khách hàng quyết định địa điểm, vị trí cung ứng dịch vụ Mỗi sản phẩm được sản xuất ra luôn mang một hình thái hữu dụng và giá trị nhất định với con người. Tuy nhiên để được khách hàng tiêu thụ, hầu hết các sản phẩm này cần có nhiều hơn thế. Nó cần được đưa đến đúng vị trí, đúng thời gian và có khả năng trao đổi với khách hàng. Các giá trị này cộng thêm vào sản phẩm và vượt xa phần giá trị tạo ra trong sản xuất được gọi là lợi ích địa điểm, lợi ích thời gian, lợi ích sở hữu. Lợi ích địa điểm là giá trị cộng thêm vào sản phẩm qua việc tạo cho nó khả năng trao đổi hoặc tiêu thụ đúng vị trí. Lợi ích thời gian là giá trị được sáng tạo ra bằng việc tạo ra khả năng để sản phẩm tới đúng thời điểm mà khách hàng có nhu cầu, những lợi ích này là kết quả của hoạt động logistics. Trong dịch vụ logistics, khách hàng có quyền quyết định địa điểm, vị trí cung ứng dịch vụ. Ví dụ như: khách hàng yêu cầu công ty cung cấp Logistics tới địa điểm địa điểm A để bốc xếp hàng hóa và vận chuyển tới địa điểm B trong một thời gian cụ thể. d. Đầu ra của kinh doanh dịch vụ khó đo lường nhưng có thể dự đoán được Do dịch vụ Logistics có tính vô hình nên ta không thể đo lường trước được đầu ra của loại hình dịch vụ này. Và tùy thuộc vào từng đối tượng khác nhau mà dịch vụ Logistics của nhà cung ứng được coi là tốt hay không. Tuy vậy, vẫn có thể dự báo được đầu ra thông qua các nhà trung gian, dựa vào cách quản lý dịch vụ Logistics. 2.3. Đánh giá ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân 2.3.1 Ưu điểm Logistics là công cụ liên kết các hoạt động kinh tế trong một quốc gia và toàn cầu qua việc cung cấp nguyên liệu, sản xuất, lưu thông phân phối, mở rộng thị trường. Trong các nền kinh tế hiện đại, sự tăng trưởng về số lượng của khách hàng đã thúc đẩy sự gia tăng của các thị trường hàng hóa và dịch vụ trong nước và quốc tế. Hàng nghìn sản phẩm và dịch vụ mới đã được giới thiệu, đang được bán ra và phân phối hàng ngày đến các ngõ ngách của thế giới trong thập kỷ vừa qua. Để giải quyết các thách thức do thị trường mở rộng và sự tăng nhanh của hàng hóa và dịch vụ, các hãng kinh doanh phải mở rộng quy mô và tính phức tạp, phát triển các nhà máy liên hợp thay thế cho những nhà máy đơn. Hệ thống logistics hiện đại đã giúp các hãng làm chủ được toàn bộ năng lực cung ứng của mình qua việc liên kết các hoạt động cung cấp, sản xuất, lưu thông, phân phối kịp thời chính xác. Nhờ đó mà đáp ứng được những cơ hội kinh doanh trong phạm vi toàn cầu. Tối ưu hóa chu trình lưu chuyển của sản xuất, kinh doanh từ khâu đầu vào đến khi sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Logistics hỗ trợ sự di chuyển và dòng chảy của nhiều hoạt động quản lý hiệu quả, nó tạo thuân lợi trong việc bán hầu hết các loại hàng hóa và dịch vụ. Để hiểu hơn về hình ảnh hệ thống này, có thể thấy rằng nếu hàng hóa không đến đúng thời điểm, không đến đúng các vị trí và với các điều kiện mà khách hàng cần thì khách hàng không thể mua chúng, và việc không bán được hàng hóa sẽ làm mọi hoạt động kinh tế trong chuỗi cung cấp bị vô hiệu. Tiết kiệm và giảm chi phi phí trong lưu thông phân phối. Với tư cách là các tổ chức kinh doanh cung cấp các dịch vụ logistics chuyên nghiệp, các doanh nghiệp logistics mang lại đầy đủ các lợi ích của các third – party cho các ngành sản xuất và kinh doanh khác. Từ đó mà mang lại hiệu quả cao không chỉ ở chất lượng dịch vụ cung cấp mà còn tiết kiệm tối đa về thời gian và tiền bạc cho các quá trình lưu thông phân phối trong nền kinh tế. Mở rộng thị trường trong buôn bán quốc tế, góp phần giảm chi phí, hoàn thiện và tiêu chuẩn hóa chứng từ trong kinh doanh đặc biệt trong buôn bán và vận tải quốc tế. Trong thời đại toàn cầu hóa, thương mại quốc tế là sự lựa chọn tất yếu cho mọi quốc gia trong tiến trình phát triển đất nước. Các giao dịch quốc tế chỉ thực hiện được và mang lại hiệu quả cho quốc gia khi dựa trên một hệ thống logistics rẻ tiền và chất lượng cao. Hệ thống này giúp cho mọi dòng hàng hóa được lưu chuyển thuận lợi, suôn sẻ từ quốc gia này đến quốc gia khác nhờ việc cung ứng kịp thời, phân phối chính xác, chứng từ tiêu chuẩn, thông tin rõ ràng… Logistics nâng cao hiệu quả quản lý, giảm thiểu chi phí sản trong quá trình sản xuất, tăng cường sức cạnh tranh cho doanh nghiệp. Quan điểm marketing cho rằng, kinh doanh tồn tại dựa trên sự thỏa mãn nhu cầu khách hàng và cho thấy 3 thành phần chủ yếu của khái niệm này là sự phối hợp các nỗ lực marketing, thỏa mãn khách hàng và lợi nhuận công ty. Logistics đóng vai trò quan trọng với các thành phần này theo cách thức khác nhau. Nó giúp phối hợp các biến số marketing –mix, gia tăng sự hài lòng của khách hàng, trực tiếp làm giảm chi phí, gián tiếp làm tăng lợi nhuận trong dài hạn. - Logistics có vai trò hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là một nguồn lợi tiềm tàng cho doanh nghiệp: Một hệ thống logistics hiệu quả và kinh tế cũng tương tự như một tài sản vô hình cho công ty. Nếu một công ty có thể cung cấp sản phẩm cho khách hàng của mình một cách nhanh chóng với chi phí thấp thì có thể thu được lợi thế về thị phần so với đối thủ cạnh tranh. Điều này có thể giúp cho việc bán hàng ở mức chi phí thấp hơn nhờ vào hệ thống logistics hiệu quả hoặc cung cấp dịch vụ khách hàng với trình độ cao hơn do dó tạo ra uy tín. 2.3.2 Hạn chế - Các doanh nghiệp logistics của Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, cho nên việc tổ chức kinh doanh còn manh mún, chưa chuyên nghiệp, nguồn nhân lực cũng hạn chế. Các doanh nghiệp nhỏ thường không đáp ứng được yêu cầu của khách hàng và hệ quả là thị phần bị thu hẹp. Ðó là chưa kể đến sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, gây ra những tổn thất cho chính các doanh nghiệp - Làm logistics ở Việt Nam hạn chế nhất là giao thông đường bộ. Việc giao nhận luôn gắn liền với tốc độ thời gian và đó cũng chính là uy tín của doanh nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp không thể chủ động thời gian được vì giao thông phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng của cả xã hội. Bởi vậy, các doanh nghiệp chỉ cố làm sao hạn chế mức thấp nhất những lần giao hàng chậm. - Logistics có bốn cấp độ về dịch vụ thì các doanh nghiệp Việt Nam mới tham gia được đến cấp độ 2, nghĩa là chủ yếu mới làm đại lý, trung gian chứ chưa đáp ứng được cả chuỗi logistics bao gồm cả các nhà điều hành vận tải đa phương thức (MTO) và nhà cung cấp dịch vụ logistics (LP). Công nghệ logistics của Việt Nam còn rất thấp, hơn nữa trình độ nhân lực hạn chế, chưa được đào tạo chính quy, chủ yếu các doanh nghiệp tự học, tự làm cho nên công việc vẫn còn mang tính thụ động... Các khách hàng quốc tế đánh giá các nhà cung cấp logistics Việt Nam không có mức tín nhiệm cao, nhất là về thời gian giao hàng. "Ðây cũng là điều tất yếu vì chúng ta còn thiếu công nghệ và năng lực ở phạm vi quốc tế" 2.3.3 Nguyên nhân * Về điều kiện hạ tầng: - Hạ tầng phần cứng của chúng ta là hệ thống cảng biển còn hạn chế, chúng ta chưa có những cảng nước sâu, cảng trung chuyển quốc tế để thu hút tàu biển có trọng tải lớn và hàng hóa trung chuyển giữa các quốc gia vào cảng Việt Nam. - Chúng ta chưa phát triển vận tải hàng hóa bằng đường hàng không, thiếu đội bay để vận tải hàng hóa yêu cầu phải rất nhanh như thực phẩm tươi sống, rau quả, thủy hải sản; - Hạ tầng đường bộ cũng chưa hoàn chỉnh; hệ thống đường sắt chưa kết nối được nhiều với các cảng biển, các khu kinh tế, khu công nghiệp… => Chính vì vậy mà việc kết nối khai thác vận tải đa phương thức trong chuỗi dịch vụ logistics tại nước ta còn rất hạn chế. Còn vấn đề hạ tầng phần mềm chính là sử dụng công nghệ thông tin trong quản trị điều hành, cung cấp thông tin, giao dịch điện tử quản lý hoạt động Logistics của chúng ta chưa đáp ứng được. * Về chính sách, môi trường pháp lý: Những năm qua nước ta đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật và các bộ luật. Cho nên tính đồng bộ (còn gọi là hành lang pháp lý) để thỏa mãn yêu cầu phát triển dịch vụ Logistics theo một chuẩn mực chưa đáp ứng được. Ví dụ hệ thống Luật Thương mại, cho đến bây giờ nghị định hướng dẫn về dịch vụ logistics vẫn chưa có. Hay Luật Hàng hải, Luật đầu tư, Luật cạnh tranh… tất cả cũng đều còn thiếu nghị định hướng dẫn. Rồi các vấn đề: tài chính, thông quan, hải quan ở các cảng hàng không, cảng biển còn nhiều vấn đề chưa đồng bộ, gây trở ngại rất nhiều cho hoạt động logistics. * Về nguồn nhân lực: Chất lượng nguồn nhân lực có chuyên môn, có trình độ chuyên nghiệp cao cho hoạt động logistics ở Việt Nam hết sức bất cập, hầu hết nhân lực làm theo kinh nghiệm là chính, nên chưa đủ “võ” làm trọn vẹn cả chuỗi Logistics khép kín. Ở Việt Nam hiện chưa có trường đại học nào mở chuyên ngành, chuyên khoa đào tạo về logistics. Chương 3. Đề xuất các biện pháp quản lý và phát triển DV Logistics ở nước ta hiện nay Để dịch vụ Logistics phát triển một cách toàn diện tại Việt Nam, chúng ta cần có những biện pháp quản lý và phát triển Logistics một cách hợp lý. Sau đây là một số biện pháp và chiến lược phát triển Logistics: 3.1 Đối với các doanh ngiệp Để doanh nghiệp kinh doanh Logistics VN phát triển bắt kịp với các doanh nghiệp Logistics trên thế giới thì nhà quản trị doanh nghiệp cần đưa ra được nhưng chiến lược phát triển Logistics một cách toàn diện và sâu rộng: ● Chiến lược hình thành những tổng công ty, công ty mạnh đủ thế và lực hoạt động trong lĩnh vực Logistics toàn cầu. - Định hướng chiến lược phát triển Logistics ở những tổng công ty, công ty trong ngành vận tải giao nhận có tiềm lực kinh tế mạnh. Hiện tại trên thị trường TP.HCM có các “đại gia” trong lĩnh vực vận tải giao nhận như Vinatrans, Gemartrans, Sotrans, Vietfracht, Vosco, Vinafco, Tổng công ty hàng không, Vinaline,…. Tùy vào tình hình cụ thể của từng tổng công ty/công ty, có thể phát triển Logistics trong một công ty con/ bộ phận đang hoạt động trong ngành giao nhận hoặc thành lập một công ty con/bộ phận mới hoạt động Logistics. Với tiềm lực kinh tế sẵn có, các công ty cần đầu tư thỏa đáng để tổ chức hoạt động Logistics thật sự. Định hướng chiến lược liên doanh liên kết trong hoạt động Logistics. Đối với các công ty giao nhận VN vừa và nhỏ có kinh nghiệm trong hoạt động giao nhận nhưng chưa có đủ thế và lực hoạt động Logistics cần liên doanh liên kết với nhau, chuyên môn hoá theo mặt mạnh của mỗi công ty. Bên cạnh đó, Nhà nước còn cho phép đa dạng hóa các loại hình sở hữu trong ngành giao nhận. Chính vì vậy có thể hình thành một công ty Logistics theo dạng cổ phần hoặc công ty liên doanh mà theo đó các cổ đông/ đối tác có thể là các công ty mạnh về từng mảng trong chuỗi Logistics. Mỗi công ty sẽ đầu tư phát triển, củng cố lại thế mạnh của mình để cung cấp một chuỗi Logistics hoàn hảo. ● Chiến lược đầu tư phát triển các dịch vụ Logistics nội địa; liên doanh, liên kết với các công ty Logistics nước ngoài. Thực hiện chiến lược này với mục tiêu là dựa vào khách hàng Logistics của công ty nước ngoài, cung cấp toàn bộ dịch vụ Logistics nội địa (khắc phục được tình trạng bẻ gãy chuỗi Logistics); Tiếp thu công nghệ kỹ thuật, trình độ quản lý Logistics, kinh nghiệm,… khi đủ lớn mạnh về thế và lực có thể vươn ra cung cấp Logistics toàn cầu. Chiến lược thực hiện qua hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: Liên doanh, liên kết với các công ty Logistics nước ngoài để chuyển giao công nghệ, tích lũy kinh nghiệm, tích lũy vốn. - Giai đoạn 2: Phát triển Logistics độc lập. ● Chiến lược phát triển Logistics cho một số tuyến chính Mục tiêu là dựa vào bạn hàng lâu dài, dựa vào điều kiện thực tế, thị trường tiềm năng để thiết kế Logistics cho một vài tuyến chính. Các bước tổ chức thực hiện: - Giai đoạn 1: Xác định thị trường mục tiêu (dựa vào khách hàng hiện tại, khách hàng tiềm năng, khả năng phát triển của thị trường…); tìm kiếm đối tác và đại lý; nghiên cứu tổ chức hoạt động Logistics tại thị trường nước ngoài. - Giai đoạn 2: Mở chi nhánh/ gửi đại diện để giao dịch. Thuê nhân viên để tổ chức hoạt động giao nhận hàng hóa tại thị trường nước ngoài. - Giai đoạn 3: Xây dựng kho/ thuê kho, đầu tư cơ sở vật chất để tổ chức hoạt động Logistics tại thị trường nước ngoài ● Xây dựng chiến lược khách hàng nhằm gia tăng thị phần vận chuyển của các công ty giao nhận VN Nhằm tạo được nguồn hàng vận chuyển ổn định; xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng để có điều kiện thuận lợi trong việc thiết kế chuỗi Logistics và giảm chi phí cho khách hàng, tăng lợi nhuận cho công ty Logistics. Bước 1: Lựa chọn khách hàng mục tiêu. Bước 2: Xây dựng mối liên kết chặt chẽ giữa công ty Logistics và khách hàng. Bước 3: Thiết kế hoạt động Logistics phù hợp với yêu cầu của từng khách hàng/ nhóm khách hàng riêng biệt. ● Sau khi định hướng chiến lược hoạt động Logistics, các công ty giao nhận VN cần xác định các giải pháp cụ thể để triển khai hoạt động Logistics tại công ty mình. Như đã đề cập ở trên, Logistics đối với nước ta chỉ mới xuất hiện trong thời gian gần đây. Do đó rất nhiều công ty giao nhận vẫn còn rất bỡ ngỡ với hoạt động này, thiếu kinh nghiệm trong phương pháp tổ chức cũng như trong nghiệp vụ. Việc ứng dụng Logistics trong các công ty giao nhận VN mang tính tự phát, theo phong trào là chính, hầu như chưa có công ty nào có kế hoạch phát triển Logistics cho mình một cách rõ ràng, cụ thể và có hiệu quả. à Các giải pháp cụ thể Giải pháp 1: Phương pháp chuyên gia. - Thành lập các trung tâm tư vấn về Logistics hoạt động độc lập (tương tự như các trung tâm tư vấn về quản trị hệ thống chất lượng ISO) - Thuê các chuyên gia không chỉ trong nước mà cả chuyên gia quốc tế để cố vấn cho công ty trong việc tổ chức hoạt động Logistics. - Cần có những chương trình đào tạo, nâng cao nghiệp vụ trong hoạt động Logistics cho các nhân viên trong công ty. Để phát triển lâu dài có thể cử một vài nhân viên đi học về Logistics ở nước ngoài. Giải pháp 2: Tổ chức để thay đổi hoạt động của công ty theo yêu cầu hoạt động Logistics. - Trước tiên để thay đổi từ những hoạt động giao nhận truyền thống sang hoạt động Logistics, công ty phải có chiến lược Logistics cho riêng mình. Các công ty phải xây dựng và kết hợp các hoạt động Logistics rời rạc, phân mảnh, thành hoạt động chuỗi Logistics. - Thay đổi trong từng hoạt động của các bộ phận để tạo sự thống nhất trong hoạt động Logistics. - Chuẩn bị đầy đủ cơ sở, điều kiện phương tiện vật chất kỹ thuật cho hoạt động Logistics. - Chuẩn bị đầy đủ kỹ năng hoạt động Logistics, đào tạo chính quy bài bản về Logistics và có tư vấn của chuyên gia trong lĩnh vực này. Giải pháp 3: Áp dụng công nghệ thông tin trong hoạt động Logistics Muốn quản trị Logistics thành công thì trước hết phải quản lý được hệ thống thông tin rất phức tạp trong quá trình này. Việc nâng cấp hệ thống thông tin hiện tại trong các công ty giao nhận VN nên chia làm hai giai đoạn: - Giai đoạn 1: Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ (Intranet), hệ thống thông tin trong từng bộ phận chức năng (Logistics, kỹ thuật, kế toán, marketing,…), hệ thống thông tin ở từng khâu trong dây chuyền cung ứng (kho tàng, bến bãi, vận tải,…) và sự kết nối thông tin giữa các tổ chức, bộ phận, công đoạn nêu trên. Áp dụng tin học hoá trong các hoạt động của công ty, lắp đặt các phầm mềm phục vụ cho hoạt động của công ty, chuẩn hóa các cơ sở dữ liệu… tạo cơ sở nền tảng trong hệ thống thông tin Logistics. - Giai đoạn 2: Kết nối hệ thống thông tin nội bộ với bên ngoài theo hai phương thức: Phương thức 1: Sử dụng Internet. Phương thức này khá phù hợp trong giai đoạn hiện tại và với đa số khách hàng vừa và nhỏ của công ty giao nhận VN. Đây là một xu hướng mà các công ty Logistics trên thế giới đang hướng tới như là một công cụ không thể thiếu trong hoạt động Logistics. Phương thức 2: Hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử (Electronic data interchange – EDI). Hệ thống này cho phép trao đổi thông tin dữ liệu từ máy tính qua máy tính của các bộ phận trong hệ thống với nhau. EDI đầu tư khá tốn kém tuy nhiên rất tiện ích và đạt độ an toàn cao. EDI thực sự hữu ích cho những khách hàng lớn của công ty và trao đổi dữ liệu giữa các chi nhánh, đại lý trong hệ thống Logistics toàn cầu. Giải pháp 4: Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động Logistics. Nhất thiết cần đầu tư để đào tạo, đào tạo lại, nâng cao năng lực của nhân viên và thu hút nhân tài từ xã hội. Phát triển nguồn nhân lực có trình độ và chuyên môn cao là nhân tố quan trọng quyết định sự sống còn và thành công trong hoạt động Logistics – một hoạt động mang tính chất toàn cầu. Giải pháp 5: Mở rộng và củng cố hệ thống đại lý, xây dựng các đại lý độc quyền, tiến tới đặt văn phòng đại diện và chi nhánh ở các nước. Giải pháp 6: Xây dựng các trung tâm phân phối hiện đại. - Đa dạng các dịch vụ giá trị gia tăng trong hoạt động kho CFS và kho ngoại quan. - Xây dựng các trung tâm phân phối (DC – Distribution Center) của riêng các công ty giao nhận, hoặc những trung tâm phân phối, kho đa năng (Cross – docking) hiện đại để kinh doanh cho thuê. - Hướng tới việc xây dựng các trung tâm phân phối và kho đa năng của VN tại thị trường nước ngoài. 3.2 Đối với nhà nước: ■ Để logistics phát triển phải có sự quan tâm hỗ trợ và đầu tư của nhà nước, nếu không hiệu quả sẽ không được cao. Ví dụ ở nước ngoài, các nước và vùng lãnh thổ như Singapore, Đài Loan chi phí logistics hoạt động vào khoảng 2-3% doanh số khách hàng. Nhưng ở Việt Nam thì chi phí hoạt động vào khoảng 5% trên doanh số bán bởi những lý do như cơ sở hạ tầng còn yếu kém, các kênh bán hàng hiện đại như siêu thị chưa nhiều, chủ yếu vẫn là bán hàng sỉ và lẻ với các cửa hàng, và với khoảng 80% các DN đi giao hàng cho các cửa hàng dẫn đến việc chi phí giao hàng và lưu kho rất cao… Mỗi DN cũng cần nâng cao năng lực cạnh tranh nội tại của mình. ■ Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động logistics Theo Hiệp hội Giao nhận Việt Nam, do chưa có một cơ chế thống nhất chính thức trong quản lý các hoạt động logistics ở Việt Nam, các quy định về thuế đối với các dịch vụ giao nhận hàng chưa rõ ràng và còn phức tạp do thiếu quan điểm đồng nhất đối với ngành công nghiệp logistics. Từ đó, Hiệp hội đề xuất thành lập một Ủy ban Logistics liên bộ với các thành viên từ Bộ Giao thông vận tải, Bộ Công thương nhằm bảo đảm sự thống nhất giữa pháp luật và các quy định về lô-gi-stíc để tránh sự chồng chéo. Hiệp hội cũng kiến nghị thiết lập một diễn đàn logistics quốc gia nhằm đẩy nhanh việc trao đổi ý tưởng giữa Chính phủ, các cơ quan trong lĩnh vực logistics và khách hàng sử dụng dịch vụ. Theo Phó Tổng giám đốc Vietfracht Nguyễn Giang Tiến, việc xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động logistics rất cần thiết phải tham khảo và tuân theo quy định của từng phương thức vận tải liên quan và các luật khác ■ Cần cải thiện hạ tầng giao thông và hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các DN logistics Có thể nói cơ sở hạ tầng, đặc biệt hạ tầng giao thông là nền tảng, là trái tim, mạch máu của hoạt động logistics. Hiện phải nhìn nhận thẳng thắn rằng cơ sở hạ tầng ở Việt Nam vẫn còn chưa phát triển kịp với sự phát triển của nền kinh tế nếu không muốn nói là lạc hậu, thiếu đồng bộ. Vấn đề này đòi hỏi các nhà quy hoạch phải có một tầm nhìn, định hướng đúng đắn và đặc biệt là Chính phủ cần quan tâm đầu tư cơ sở hạ tầng để ngành logistics phát triển đúng tầm. Về phía DN, DN logistics Việt Nam sẽ phát triển mạnh theo đúng tầm của nó khi và chỉ khi: về phía DN có sự đầu tư về nhân sự, trang thiết bị hạ tầng cơ sở (công nghệ), tuân thủ ý kiến của hiệp hội, tạo thành chuỗi liên kết. Về phía Chính phủ phải đầu tư quy hoạch hạ tầng giao thông đồng bộ, hành lang pháp lý thông thoáng... Ngoài ra việc cạnh tranh không lành mạnh tại thị trường logistics Việt Nam diễn ra khá phổ biến và việc thực thi Luật Cạnh tranh đối với lĩnh vực này dường như vẫn bị bỏ trống. Chính phủ, các ban ngành chức năng, hiệp hội... cần có biện pháp thúc đẩy sự liên kết giữa các DN logistics trong nước tạo nên những DN mạnh đủ sức cạnh tranh với các đối thủ lớn đến từ nước ngoài. ■ Đào tạo nhân sự cho ngành logistics Thực trạng logistics ở Việt Nam còn nhiều điểm hạn chế. Có thể nói từ trước tới nay chúng ta chưa có một trường đào tạo riêng biệt cho ngành logistics. Mới chỉ có những lớp đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho người đã làm trong nghề và việc này nhờ sự liên kết giữa hiệp hội với các đơn vị nước ngoài phối hợp để đào tạo. Với thực trạng này, nên chăng nhà nước có động thái về việc đào tạo nhân sự cho ngành logistics. Bởi logistics là các hoạt động mang tính dây chuyền, hiệu quả của chúng có tính quyết định đến sự cạnh tranh của công nghiệp, thương mại của mỗi quốc gia. Kết Luận Sau hai mươi năm đổi mới, nền kinh tế Việt nam đã phát triển rõ rệt, có những bước tiến bộ đáng kể. Các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy Việt nam là một điểm đến lý tưởng để đầu tư kinh doanh, sản xuất. Việt nam có được lợi thế giá nhân công rẻ, chính trị ổn định, vị trị địa lý rất thuận lợi trong việc vận tải hàng hóa quốc tế vv. Tuy nhiên để ngành Logistics phát triển kịp với tốc độ phát triển kinh tế thì chúng ta còn rất nhiều điều phải làm. Chính phủ cần phải xây dựng một cơ sở hạ tầng hiện đại đủ thuận tiện cho việc vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, đường sắt cũng như đường hàng không. Khi làm được điều này thì chắc chắn Việt nam sẽ còn thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn nữa. Không phải ngẫu nhiên mà trong 10 năm trở lại đây lĩnh vực Logistics ở Việt nam lại phát triển mạnh đến như vậy. Đây là một điều tất yếu, theo quy luật cung*cầu. Khi các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt nam xuất hàng đi thì việc đầu tiên là họ nghĩ đến một công ty Logistics có khả năng cung cấp cho họ những dịch vụ tốt nhất và các hãng tàu, các công ty Logistics Việt nam thì chưa đủ sức làm những việc này một cách bài bản. Miếng fomát Logistics ngon một lần nữa lại thuộc về các công ty nước ngoài. Do đó dù muộn còn hơn không, nhất định Việt nam phải giải quyết cho bằng được những ưu tiên cấp thiết để phát triển ngành Logistics. Về vị trí địa lý Việt nam là một quốc gia có đầy đủ các điều kiện thuân lợi để trở thành trung tâm (HUB) vận chuyển hàng hoá của khu vực cũng như quốc tế. Cơ sở hạ tầng của chúng ta chưa phát triển nên chi phí vận tải luôn cao hơn so với các nước trong khu vực, một lý do đơn giản là khi hàng hóa từ Việt nam xuất đi quốc tế phải qua cảng trung chuyển và sẽ bị mất thêm nhiều chi phí khác. Một khi chúng ta có hệ thống cầu cảng bến bãi hiện đại tầm cỡ trong khu vực thì chúng ta sẽ nâng cao được khả năng cạnh tranh của mình và sẽ giảm bớt được thời gian và chi phí vận chuyển, mang lại hiệu quả kinh tế cho ngành Logistics.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docCác đặc điểm Dịch vụ và Thương Mại Dịch Vụ của Dịch Vụ Logistics ở nước ta hiện nay.doc
Luận văn liên quan