Kinh tế Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc, sau hơn hai mươi hai năm
chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, nhất là trong
khoảng hơn mười năm trở lại đây với mức tăng trưởng bình quân 7%, năm năm gần
đây bình quân 7,5%, riêng năm 2007 là 8,5% (nguồn: gso.gov.vn), xu thế phát triển
kinh tế ngày càng mạnh mẽ đã làm sức bật cho thị trường tài chính phát triển một
cách nhanh chóng, nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu về vốn phục vụ hoạt động sản
xuất kinh doanh ngày càng tăng trong toàn nền kinh tế.
Yêu cầu về vốn thúc đẩy thị trường vốn không ngừng phát triển, từ đó dẫn đến
sự ra đời của TTCK là một tất yếu khách quan, khi mà các tổ chức tài chính trung
gian đã có trước đây, không thể đảm nhận tốt vai trò cung ứng vốn cho nền kinh tế.
Thi trường chứng khoán là một thị trường cao cấp, hoạt động của thị trường có
những yêu cầu rất khác biệt so với các thị trường truyền thống như thị trường hàng
hoá, dịch vụ, thị trường lao động , hàng hoá lưu thông, mua, bán trên thị trường
là chứng khoán, đây là các công cụ chu chuyển vốn của nền kinh tế, những hoạt
động kinh doanh trên TTCK dựa vào thông tin là chính, lấy niềm tin làm cơ sở cho
sự tồn tại và phát triển của thị trường.
Trong các loại thông tin được cung cấp trên thị trường thì TTKT được cung
cấp đưới dạng các báo cáo tài chính quý, năm là những thông tin có vai trò quan
trọng đặc biệt, nó có ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cung – cầu chứng khoán, là
động lực cho quyết định mua vào, bán ra của nhà đầu tư trên thị trường sau khi
phân tích các BCTC được công bố. Mặt khác đứng trên phương diện vĩ mô nền
kinh tế, những TTKT của các DNNY cũng phần nào nói lên tình hình chung của
toàn nền kinh tế, tình hình sức khoẻ tài chính quốc gia.
- 2 -
Chính vì những lý do trên, yêu cầu đầu tiên của thị trường là phải xây dựng
được một hệ thống đánh giá chất lượng TTKT, một mạng lưới CBTT hiện đại và
rộng khắp, nhằm ngoài việc thông tin công bố có chất lượng cao, nó còn phải được
truyền đi nhanh chóng, kịp thời, cũng như phải làm sao cho các chủ thể hoạt động
kinh doanh trên thị trường có quyền bình đẳng trong tiếp nhận thông tin.
Tuy nhiên kể từ khi TTCK Việt Nam được thành lập cho đến nay, hiện tượng
bất cân xứng trong tiếp nhận thông tin thường xuyên xảy ra, thực trạng thông tin là
báo cáo tài chính thường niên cung cấp trên thị trường còn nhiều bất cập, cần phải
được bổ khuyết cho phù hợp với xu thế phát triển chung của toàn nền kinh tế.
83 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2506 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n đến những
chuẩn mực quốc tế về công nghệ, môi trường kinh doanh, hệ thống luật pháp…,
nhằm tạo điều kiện để bổ sung các loại hàng hoá khác cho thị trường khi có điều
kiện thuận lợi.
Xây dựng từng bước chuyên môn hoá nghiệp vụ của các CTCK là những tổ
chức cung ứng dịch vụ chủ yếu trên thị trường, xây dựng đội ngũ các CTCK thành
các tổ chức tự quản chuyên nghiệp, dịch vụ cung ứng trên thị trường ngày càng đa
dạng, nhanh chóng, tiện lợi và phong phú để thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
3.1.1.3 Phù hợp với khả năng và yêu cầu sử dụng thông tin của các đối
tượng có liên quan.
Do tình hình thực tế đất nước đang trong giai đoạn chuyển đổi cả về lượng và
về chất, trình độ chung về cơ sở vất chất kỹ thuật, khả năng chuyên môn về nhiều
mặt còn hạn chế, việc tiếp cận sử dụng công nghệ thông tin, kiến thức nghiệp vụ
chuyên môn về kế toán, kiểm toán đòi hỏi cần có thời gian nhất định, vì thế trong
giai đoạn hiện nay chưa đặt nặng vấn đề thay đổi hình thức của BCTC, chủ yếu là
chú trọng đến nội dung BCTC sao cho kịp thời, trung thực, chính xác và phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Yêu cầu hội nhập cũng đặt ra vấn đề CBTT theo chiều hướng đa ngôn ngữ, phục
vụ cho khách hàng là nhà đầu tư nước ngoài, song song với việc chuẩn mực kế toán
- 56 -
Việt Nam (VAS) đã được dịch ra tiếng nước ngoài, việc xây dựng BCTC bằng
tiếng nước ngoài cũng phải tính đến ngay từ bây giờ, từng bước có kế hoạch đầu tư
đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kế toán trong các DNNY. Tuy nhiên việc thực
hiện BCTC tiếng nước ngoài trong giai đoạn hiện nay chỉ mang tính khuyến khích
chứ không bắt buộc.
3.1.2. Định hướng
3.1.2.1 Hoàn thiện các quy định pháp lý về công bố thông tin
Thị trường chứng khoán là nơi thu hút nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế,
cũng đồng thời là nơi kinh doanh của các tổ chức trong và ngoài nước, vì thế
TTCK phải được xây dựng đứng trên quan điểm đây là sân chơi quốc tế, lấy hành
lang pháp lý làm tiêu chuẩn, điều hành thị trường bằng luật pháp, bằng văn bản quy
phạm cụ thể, xây dựng cơ chế mọi thể nhân và pháp nhân đều bình đẳng trước
pháp luật, quyền lợi và trách nhiệm là ngang bằng nhau, như vậy, để nhằm từng
bước xây dựng thị trường tự do cạnh tranh, phù hợp với yêu cầu kinh doanh của tất
cả mọi thành phần trên thị trường.
Nhiệm vụ lãnh đạo, điều hành chung thị trường là vị trí hết sức quan trọng,
điều hành hiệu quả thị trường chính là động lực giúp thị trường phát triển, các cơ
quan lãnh đạo điều hành vĩ mô nên có kế hoạch phân cấp quản lý trực tiếp, gián
tiếp từ việc điều hành quản lý thị trường, cho đến ban hành các văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh thị trường, các bộ phận dịch vụ có liên quan đến thị trường
phải có sự kết hợp chặt chẽ với nhau, theo dõi việc thực hiện, giám sát, kiểm tra và
xử lý vi phạm…, nhằm tạo ra một môi trường hoạt động thông thoáng, hợp lý và có
hiệu quả cao.
Hệ thống luật pháp có liên quan đến TTCK cũng chính là hệ thống luật pháp
liên quan đến toàn bộ nền kinh tế như Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật
Chứng khoán, Luật Thuế GTGT, Luật Thuế Thu nhập doanh nghiệp, Luật Thuế
Thu nhập cá nhân…Công tác xây dựng các văn bản hướng dẫn, quy định pháp lý
- 57 -
về TTCK nói chung và về CBTT nói riêng, cần phải cụ thể, rõ ràng, nhất quán từ
trên xuống dưới, phải kịp thời sửa chữa, bổ sung cho phù hợp với yêu cầu phát
triển của thị trường, nhất là các biểu mẫu được dùng trong các báo cáo, đặc biệt là
trong BCTC, tránh trùng lắp, cũng như cung cấp thiếu thông tin, nhằm giúp nhà
đầu tư dễ dàng trong phân tích tài chính DN, và ra quyết định đầu tư.
Mặt khác các phương tiện phục vụ yêu cầu cung cấp thông tin cũng cần phải
được quy định rõ trách nhiệm giữa bên cung cấp thông tin là các DNNY và bên
chịu trách nhiệm truyền tải thông tin ra công chúng là Sở giao dịch chứng khoán và
các tổ chức có liên quan khác,
Ngoài ra quy định về thời gian công bố cũng cần phải tính toán đến độ trễ , quá
tải do thông tin cùng đưa ra trong một thời gian ngắn, khuyến khích các DNNY lựa
chọn nhiều kênh thông tin phù hợp với khả năng hiện có, xem xét việc thay đổi
niên độ kế toán đối với các DNNY cho phù hợp với ngành nghề , lĩnh vực kinh
doanh của mình, đồng thời giảm tải cho hệ thống cung cấp thông tin, và các dịch vụ
khác có liên quan đối với quy định CBTT thường niên .
3.1.2.2 Hoàn thiện các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng của thông tin
được công bố
- Chất lượng của thông tin được công bố là BCTC có liên quan đến nhiều
lĩnh vực khác nhau như: quy định của pháp luật về Kế toán, kiểm toán, công nghệ
thông tin, đạo đức và trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các đối tượng tham gia
cung cấp...Như vậy, muốn hoàn thiện các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cũng là
hoàn thiện các mặt theo quy định, vấn đề này cần phải có những chuyên gia giỏi
trong các lĩnh vực nêu trên, từng bước xây dựng các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng
công tác kế toán, kiểm toán ..., để làm tốt công tác này, việc phân cấp quản lý thị
trường khi tiến hành xây dựng mô hình, cần phải được xem xét và tổ chức lại một
cách có khoa học, bằng cách tham khảo hình thức TTCK của các nước tiên tiến trên
thế giới.
- 58 -
- Các tiêu chuẩn đánh giá chất lượng BCTC, một mặt phù hợp với tình hình
thực tế của Việt Nam, nhưng vẫn phải đảm bảo các nguyên lý chung theo thông lệ
và chuẩn mực quốc tế, song song với việc xây dựng hệ thống chuẩn mực phù hợp,
rõ ràng và nhất quán, công tác đào tạo và đào lại nguồn nhân lực có trình độ trong
chuyên môn để xây dựng và kiểm tra các tiêu chuẩn trên là hết sức quan trọng, đây
chính là nhân tố quyết định việc thực hiện, theo dõi, giám sát và kiểm tra các tiêu
chuẩn chất lượng trên thị trường.
- Việc cung cấp thông tin kịp thời ra công chúng cũng là vấn đề trọng yếu,
nhằm đảm bảo tính công bằng trong cạnh tranh trên thị trường, thực trạng bất cân
xứng trong CBTT, đã là hiện tượng rất phổ biến trên TTCK Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay, nó cũng là nguyên nhân chính của các vi phạm quy định về kinh
doanh trên thị trường như giao dịch nội gián, đầu cơ lũng đoạn thị trường, làm thiệt
hại đến lợi ích, suy giảm niềm tin của nhà đầu tư đối với thị trường.
- Trong việc đánh giá chất lượng thông tin là BCTC thì báo cáo kiểm toán
chiếm vị trí hết sức quan trọng, ý kiến của kiểm toán viên đưa ra chính là một trong
những tiêu chuấn đánh giá chất lượng BCTC, xác định mức độ trung thực trong ý
kiến kiểm toán về BCTC, cũng là tiêu chuấn để đánh giá chất lượng BCTC. Tuy
nhiên vấn đề được đặt ra ở đây là “ai kiểm toán các kiểm toán viên”, vì thế công tác
kiểm tra chất lượng kiểm toán viên và các báo cáo kiểm toán cũng cần phải được
xem xét và phải được tổ chức thực hiện các quy trình, quy chế vận hành, kiểm tra,
đánh giá đồng bộ với quy trình thực hiện BCTC của các DNNY trên TTCK.
- Trong giai đoạn hiện nay, để có thể chấn chỉnh ngay hiện tượng bất cân
xứng trong CBTT, việc các DNNY tự xây dựng và quản lý trang web của mình làm
nơi CBTT theo quy định chính là giải pháp ưu tiên hàng đầu, các cơ quan chức
năng nên lưu ý đề nghị và giám sát các DNNY thực hiện tốt điều này.
- 59 -
3.1.2.3 Hoàn thiện các nội dung thông tin được công bố.
- Các nội dung thông tin được công bố chính là điểm nhấn chất lượng của
toàn bộ quy trình CBTT trên thị trường, các nội dung thông tin phải chính xác, rõ
ràng và phải đúng quy định. Vì vậy ngoài việc phải thực hiện CBTT, các doanh
nghiệp còn phải công bố đầy đủ các nội dung thông tin cần thiết theo đúng biểu
mẫu quy định.
- Nội dung CBTT nói chung và thông tin BCTC nói riêng, phải đảm bảo đúng
theo chuẩn mực kế toán và các văn bản hướng dẫn thi hành, Các số liệu được trình
bày trên các biểu mẫu báo cáo phải có tính kế thừa và phải phản ảnh đúng bản chất
của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, nếu là số liệu tổng hợp phải được thuyết minh
chi tiết để người đọc hiểu rõ được bản chất sự việc, trung thực, minh bạch và chính
xác là các yêu cầu chính trong nội dung thông tin được công bố.
- Ngoài ra các tổ chức kiểm toán độc lập cũng có vai trò quan trọng trong việc
hoàn thiện các nội dung BCTC, các ý kiến kiểm toán đánh giá về BCTC của các
DNNY chính là công đoạn cuối cùng khẳng định nội dung của BCTC, vì thế bản
thân các công ty kiểm toán cũng phải được kiểm tra về chất lượng, tiêu chuẩn kỹ
thuật trong kiểm toán BCTC, và các công ty này cũng phải được từng bước chuyên
môn hóa trình độ nghiệp vụ chuyên môn của các kiểm toán viên cho phù hợp với
tình hình phát triển của thị trường trong giai đoạn hiện nay.
- Để có thể giảm bớt tính hình thức, tăng cường chất lượng trong các BCTC,
việc rà soát lại nội dung, thông tin thống kê trên các biểu mẫu của các văn bản
hướng dẫn thi hành sao cho thể hiện được tính liên hoàn, bổ khuyết cho nhau, làm
cho người đọc các báo cáo trên có thể dễ dàng hiểu được các hoạt động kinh tế
trong các doanh nghiệp báo cáo.
3.2 Các giải pháp hoàn thiện cụ thể
3.2.1 Giải pháp về nội dung thông tin công bố
3.2.1.1 Về trích lập dự phòng
- 60 -
Vấn đề trọng tâm có liên quan đến nội dung của BCTC của các DNNY
trong các năm vừa qua, nhất là trong năm 2008 là vấn đề trích lập dự phòng.
Các khoản trích lập dự phòng tài chính được thực hiện theo:
(1) Chuẩn mực kế toán Việt Nam(VAS), gồm:
Chuẩn mực số 06: “ thuê tài sản”
Chuẩn mực số 11: “Hợp nhất kinh doanh”
Chuẩn mực số 14: “Doanh thu và thu nhập khác”
Chuẩn mực số 17: “Thuế Thu nhập doanh nghiệp”
Chuẩn mực số 18: “Các khoản dự phòng, tài sản và nợ tiềm tàng”
(2) Quyết định 15/2006/QĐ-BTC
(3) Thông Tư 13/2006/TT-BTC
Những tài khoản trích lập dự phòng gồm 3 nhóm tài khoản:
* Tài khoản được trích lập theo kế hoạch đã định trước:
TK 335 – “Chi phí phải trả”
* Nhóm tài khoản trích lập từ đánh giá khả năng rủi ro có thể xảy ra.
TK 129 – “Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn”
TK 139 – “Dự phòng phải thu khó đòi”
TK 159 – “Dự phòng giảm giá hàng tồn kho”
TK 229 – “Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn”
TK 351 – “Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm”
TK 352 – “Dự phòng phải trả”
* Tài khoản được trích lập từ lợi nhuận sau thuế:
TK 415 – “Quỹ dự phòng tài chính”
Tuy nhiên, hầu hết sự biến động về tài chính của các DNNY tập trung vào
nhóm các tài khoản sau:
TK 129 – “Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn”
TK 139 – “Dự phòng phải thu khó đòi”
- 61 -
TK 159 – “Dự phòng giảm giá hàng tồn kho”
TK 229 – “Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn”
Nội dung chi tiết thực hiện trong các văn bản trên như sau:
Nội dung Chuẩn mực kế toánViệt Nam (VAS)
Quyết định
15/2006/QĐ-BTC
Thông tư
13/2006/TT-BTC
1. Tài khoản 129, 229
- Thời điểm
trích lập
Cuối niên độ kế toán Giữa và cuối niên độ
kế toán
Giữa và cuối niên độ
kế toán
- Bút toán ghi sổ
+ Trích lập
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
+ Xử lý
Thiếu trích thêm
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129 ( 229)
Nợ TK 635
Có TK 129( 229)
Thừa hoàn nhập Nợ 129 (229)
Có TK 635
Nợ 129(229)
Có TK 635
Nợ 129(229)
Có TK 515
2. Tài khoản 139
- Thời điểm
trích lập
Cuối kỳ kế toán năm Giữa và cuối niên độ
kế toán
Giữa và cuối niên độ
kế toán
Bút toán ghi sổ
+ Trích lập Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
+Xử lý
Thiếu trích thêm Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
Nợ TK 642
Có TK 139
Thừa hoàn nhập Nợ TK 139
Có TK 642
Nợ TK 139
Có TK 642
Nợ TK 139
Có TK 711
3. Tài khoản 159
- Thời điểm
trích lập
Cuối niên độ kế toán Giữa và cuối niên độ
kế toán
Giữa và cuối niên độ
kế toán
Bút toán ghi sổ
+Trích lập Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
+Xử lý
- 62 -
Thiếu trích thêm Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
Nợ TK 632
Có TK 159
Thừa hoàn nhập Nợ TK 159
Có TK 632
Nợ TK 159
Có TK 632
Nợ TK 159
Có TK 711
Thông tư 13/2006/TT-BTC, còn hướng dẫn phương pháp lập dự phòng nợ phải
thu khó đòi (TK 139) và dự phòng phải trả ( TK 352) như sau:
- Đối với nợ phải thu quá hạn thanh toán, mức trích lập dự phòng như sau:
30% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 3 tháng đến dưới 1 năm.
50% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 2 năm.
70% giá trị đối với khoản nợ phải thu quá hạn từ 1 năm đến dưới 3 năm.
- Đối với khoản dự phòng phải trả cho sản phẩm, hàng hoá, công trình xây lắp
đã tiêu thụ trong năm, tổng mức trích lập dự phòng không được vượt quá 5% tổng
doanh thu tiêu thụ của các loại sản phẩm, hàng hoá.
Các văn bản hướng dẫn đều có quy định cụ thể thời gian thực hiện trích lập, đối
với các DNNY, thời điểm trích lập và hoàn nhập được thực hiện đối với cả BCTC
giữa niên độ, tuy nhiên các DNNY trong quá trình thực hiện đã không thực hiện
đúng yêu cầu này, dẫn đến tình trạng cuối năm khi trích lập, con số dự phòng quá
lớn làm ảnh hưởng nhiều đến kết quả kinh doanh trong năm của doanh nghiệp. Vì
vậy, đề nghị các tổ chức điều hành TTCK khuyến cáo các DNNY thực hiện nghiêm
chỉnh công tác trích lập dự phòng theo quy định.
Ngoài ra các văn bản hướng dẫn hạch toán còn có sự khác biệt giữa trích lập và
hoàn nhập các khoản dự phòng, trong đó một số khoản hoàn nhập được đưa vào
các tài khoản thuộc nhóm doanh thu (TK: 515, 711), theo ý kiến cá nhân, hướng
dẫn hoàn nhập như vậy là chưa phù hợp với thực tế, đề nghị khi trích lập ghi tăng
tài khoản nào, thì khi hoàn nhập phải ghi giảm tài khoản đó, nhằm đảm bảo tính
trung thực của các nghiệp vụ kinh tế phát sinh.
- 63 -
Về trích lập dự phòng đối với các khoản đầu tư tài chính là chứng khoán cũng
chưa có hướng dẫn cách tính rõ ràng, cụ thể cho từng đối tượng. Chúng tôi xin đề
nghị phương án trích lập dự phòng như sau:
- Đối với chứng khoán có niêm yết giá hàng ngày, thì căn cứ vào bảng giá công
bố tại thời điểm khoá sổ kế toán, so sánh với giá mua chứng khoán, phần chênh
lệch trích lập dự phòng 100%
- Đối với chứng khoán chưa niêm yết, nhưng đã có giá mua cao hơn mệnh giá,
cách tính là so sánh với tỷ lệ suy giảm của TTCK trên cơ sở VNIndex, phần giá
mua cao hơn mệnh giá, khoản chênh lệch này cũng trích lập dự phòng 100%.
Công thức tính:
Giá trị tính VNIndex0 - VNIndex1
trích lập dự phòng VNIndex0
Với: + VNIndex0: thời điểm mua chứng khoán
+ VNIndex1: thời điểm khoá sổ kế toán
Chứng từ kế toán
Các chứng từ có liên quan dùng để tính toán trích lập dự phòng trong các trường
hợp đầu tư tài chính là các bảng kê chi tiết từng loại cổ phiếu, trái phiếu, các khoản
đầu tư tài chính khác, các bảng giá cổ phiếu giao dịch trên thị trường tại thời điểm
khoá sổ kế toán, các tài liệu khác về giá cổ phiếu niêm yết, OTC…, dùng làm cơ sở
thuyết minh cách tính toán trích lập dự phòng.
Các khoản phải thu có chứng từ là bảng kê công nợ dựa trên các đối chiếu, thư
xác nhận của các cá nhân, tổ chức có các khoản phải trả cho doanh nghiệp tính theo
thời gian nhận nợ, căn cứ vào thời gian nhận nợ đối chiếu với Thông tư
13/2006/TT-BTC để tính ra số phải trích lập dự phòng.
= (Giá mua – Mệnh giá) x ------------------------------
- 64 -
Khoản dự phòng phải trả dành cho các DN bán hàng hoá, sản phẩm, công trình
xây lắp có bảo hành, được quy định cách tính toán dựa vào hợp đồng kinh tế, hoặc
bảng kê từng loại hàng hoá, sản phẩm, công trình xây lắp…, để tính toán khoản cần
trích lập.
Trích lập dự phòng giảm giá hàng tồn kho căn cứ vào biên bản kiểm kê hàng
tồn kho cuối kỳ, số dự phòng được lập là số chênh lệch giữa giá trị sổ sách hàng
tồn kho và giá trị có thể thực hiện được tại thời điểm ước tính, các bằng chứng thu
thập để để thực hiện trích lập phải đáng tin cậy, ngoài ra việc ước tính còn phải tính
đến các sự kiện có liên quan đến hàng hoá hoá tồn kho của doanh nghiệp diễn ra
sau ngày kết thúc năm tài chính.
Dự phòng trợ cấp mất việc làm dùng để chi trợ cấp thôi việc, mất việc làm, đào
tạo lại tay nghề cho người lao động trong doanh nghiệp theo quy định của luật pháp
hiện hành. Trường hợp quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm hàng năm không chi hết
được chuyển sang năm sau, khi doanh nghiệp khoá sổ kế toán kết thúc năm tài
chính.
Ngoài các cổ phiếu niêm yết trên TTCK có báo giá trên bảng giao dịch điện
tử, các DNNY còn mua cổ phiếu trên thị trường OTC, mua đấu giá cổ phiếu IPO
lần đầu của các CTCP, đây là những cổ phiếu được tự do mua bán trên thị trường.
Vì vậy, chúng tôi đã đề nghị cách tính dự phòng như trên, do thực chất các cổ phiếu
này chỉ kém cổ phiếu niêm yết chút ít về tính thanh khoản, nhưng cũng có biến
động rất lớn về giá, sự biến động tỷ lệ thuận với giá cổ phiếu niêm yết, và mặt bằng
chung của VN Index, nếu không trích lập dự phòng những khoản đầu tư tài chính
này, sẽ làm cho BCTC không thể có đủ yếu tố trung thực và hợp lý (ví dụ như
trường hợp cổ phiếu của VCB, MB, CTCP Cao su Phước Hoà …).
Đối với các khoản phải thu, Thông tư 13/2006/TT-BTC có hướng dẫn rõ ràng
phương pháp trích lập dự phòng nợ phải thu, vì thế cần hướng dẫn các doanh
nghiệp công bố chính sách bán hàng, danh sách công nợ khách hàng theo thứ tự
- 65 -
thời gian của DN. Đây là cơ sở để tính toán khoản trích lập dự phòng các khoản
phải thu.
3.2.1.2 Về vấn đề khấu hao tài sản cố định
Đối với tài sản cố định trong các DNNY, thống kê cho thấy đa phần các doanh
nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao đường thẳng, rất ít doanh nghiệp sử dụng
phương pháp khấu hao khác, mặc dù chuẩn mực kế toán và Quyết định số
206/2003/QĐ-BTC, ngày 12-12-2003 của Bộ Tài chính, đều có quy định tất cả có 3
phương pháp khấu hao tài sản cố định, đó là:
Phương pháp khấu hao đường thằng.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có điều chỉnh.
Phương pháp khấu hao theo số lượng, khối lượng sản phẩm.
Sau khi tham khảo một số ý kiến của các DN niêm yết cho biết lý do không
được sự thống nhất của cơ quan thuế, thiết nghĩ đây cũng là vấn đề cần được các cơ
quan quản lý Nhà nước xem xét lại, vì trong giai đoạn hiện nay các loại hình tài sản
cố định trên thế giới nói chung và Việt Nam chúng ta nói riêng, có tốc độ hao mòn
vô hình tăng nhanh do sự tiến bộ của khoa học – kỹ thuật, các cơ quan quản lý nên
linh động cho từng doanh nghiệp có giải trình về thay đổi trong cách tính toán hao
mòn tài sản cố định, trước hết nhằm mục đích bảo toàn vốn và phản ảnh đúng thực
trạng tài sản cố định của doanh nghiệp, sau nữa đáp ứng tình hình chung của đất
nước trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
Tài sản cố định có khấu hao nhanh sẽ mau thu hồi vốn, tạo điều kiện cải tiến kỹ
thuật, tăng năng suất lao động và hiệu quả hoạt động kinh doanh, như thế lợi nhuận
cũng tăng lên, tức là thuế thu nhập doanh nghiệp cũng tăng theo tương ứng.
Mặt khác DN khấu hao nhanh giá trị tài sản cố định, sau khi tài sản hết khấu
hao, nếu còn tiếp tục được dùng trong sản xuất kinh doanh thì sẽ không còn khấu
hao. Như vậy, lợi nhuận thấp ở những năm đầu, sẽ tăng lên ở những năm sau, tổng
- 66 -
số cũng không có gì khác biệt, nhưng lại tạo ra thuận lợi cho doanh nghiệp trong
công tác sử dụng và quản lý tài sản cố định.
Tuy nhiên, tác động của phương pháp khấu hao là ảnh hưởng đến lợi nhuận
của doanh nghiệp, nếu khấu hao nhanh sẽ giảm lợi nhuận hiện tại từ đó:
- Khoản thu thuế bị giảm ảnh hưởng đến số thu của cơ quan thuế địa phương.
- Cổ tức của các cổ đông giảm sút, sẽ tác động tâm lý nhà đầu tư, kéo theo sự
sụt giảm giá cổ phiếu của công ty.
Như vậy các DNNY cần xem xét cách tính khấu hao như thế nào để hài hoà,
phù hợp với lợi ích của các chủ thể có liên quan, đồng thời tạo ra thuận lợi cho
doanh nghiệp trong việc quản lý tài sản cố định, và phương pháp khấu hao này phải
được thuyết minh rõ trong BCTC.
3.2.1.3 Về đánh giá tổng tài sản của doanh nghiệp
Nhằm để có thể đánh giá được khả năng bảo toàn vốn của doanh nghiệp,
trong TMBCTC phải có thông tin so sánh mức biến động giữa tài sản và nguồn vốn
cuối niên độ kế toán của DN. Tham khảo IFRS về giá trị hợp lý của tài sản tại thời
điểm lập BCTC, TMBCTC cần có một mục trình bày phần đánh giá nói trên, nội
dung đề nghị như sau:
A. Tình hình tài sản
1. Tổng giá trị tài sản tính đến 31.12.năm …. : …………………..đồng
2. Các khoản ghi giảm tài sản trong năm: …………………..đồng
2.1 Trích quỹ phúc lợi: …………………..đồng
2.2 Trích quỹ khen thưởng: …………………..đồng
2.3 Cổ tức phải trả: …………………..đồng
3. Tổng tài sản cuối kỳ: (1) – (2) …………………..đồng
4. Nợ phải trả …………………..đồng
5. Tổng tài sản thuần: (3) – (4) …………………..đồng
6. Chỉ số lạm phát (do GSO công bố): ………………….…..%
- 67 -
7. Giá trị tài sản thuần thực ước tính {(5) x (1- (6))}:…………………..đồng
B. Tình hình nguồn vốn
1. Vốn đầu tư của chủ sở hữu: …………….……..đồng
C. Chênh lệch (A.7) – (B.1): ( >0 : + ; <0 : -) ..………………… đồng
D. Phần tự đánh giá về tình hình tài sản doanh nghiệp của Ban Giám đốc:
……………………………………………………………………………..
……………………………………………………………………………..
3.2.1.4 Về tính pháp lý của báo cáo tài chính :
- BCTC trong CBTT phải là BCTC hợp pháp, tức là có đầy đủ con dấu và
chữ ký trong trường hợp là BCTC giữa niên độ.
- Nếu là BCTC năm, ngoài những yêu cầu trên BCTC còn phải được công
bố tất cả các nội dung theo quy định như : báo cáo của Ban giám đốc (Ban Tổng
giám đốc), Báo cáo kiểm toán, báo cáo tài chính đã được kiểm toán và các báo cáo
khác theo yêu cầu của UBCKNN (nếu có),
- Các chức danh trong các báo cáo phải được ký theo đúng quy định, trường
hợp không đúng phải công bố giấy ủy quyền kèm theo.
- Trong TMBCTC đề nghị có thêm một dòng:
Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp: …………………………………..
- Các BCTC có kiểm toán phải có ý kiến kiểm toán viên là chấp nhận toàn
phần, nếu có khoản ngoại trừ trọng yếu, doanh nghiệp phải công bố công văn giải
trình nội dung ngoại trừ, các phương án xử lý và phải cam kết thực hiện đúng thời
gian.
3.2.2. Giải pháp về phạm vi và hình thức công bố thông tin
- Điều kiện đầu tiên là các DNNY phải xây dựng trang web của chính mình và
quản lý tốt, đây là giải pháp mang tính cơ bản trong nội dung công bố thông tin.
Thông tin được đưa ra công chúng bằng nhiều kênh khác nhau sẽ đảm bảo yếu tố
- 68 -
kịp thời và cân xứng cho các đối tượng có nhu cầu cần thông tin, phục vụ mục đích
phân tích và ra quyết định đầu tư.
- Tài liệu được công bố trên cổng thông tin điện tử phải là các văn kiện có đầy
đủ tư cách pháp lý, tức là phải đầy đủ chữ ký đúng chức danh, con dấu, giấy ủy
quyền (nếu có) và các quy định khác của pháp luật.
- Các biểu mẫu quy định trong CBTT cần loại bớt các nội dung thừa, bổ sung
các thông tin thiếu ví dụ: mẫu CBTT-02, CBTT-03 trong Thông Tư 38/2007/TT-
BTC cần xem lại, nên chọn hình thức bổ sung các thông tin trong quy định trên vào
báo cáo của Ban Giám đốc và bản TMBCTC, cũng như cần trình bày thêm chi tiết
doanh thu so sánh giữa quý trước và quý này để nhà đầu tư đủ thông tin đánh giá.
- Báo cáo kiểm toán bắt buộc phải đăng toàn văn và phải có giải trình, các biện
pháp xử lý nếu trong báo cáo kiểm toán, kiểm toán viên có ý kiến ngoại trừ, và nếu
là các vấn đề cần phải có thời gian mới xử lý được như xác định công nợ, thẩm
định tài sản …, thì phải xác định rõ thời gian công bố xử lý, đồng thời kèm theo thư
xác nhận của kiểm toán viên phụ trách kiểm toán BCTC cho từng vấn đề cụ thể về
ý kiến ngoại trừ trong BCTC.
- Các cơ quan quản lý phải có lộ trình theo dõi, kiểm tra, giám sát và xử lý
những sai phạm định kỳ và đột xuất trong việc CBTT của các DNNY, nhằm mục
đích đưa dần việc CBTT đi vào quy củ và nề nếp, đây là yếu tố cơ bản nhằm phát
triển thị trường ổn định, bền vững.
3.2.3. Giải pháp về điều kiện và trách nhiệm công bố thông tin
- Quy định về điều kiện và trách nhiệm công bố thông tin phải cụ thể, rõ ràng
với những đối tượng có trách nhiệm phải cung cấp thông tin theo quy định, tuy
nhiên trong tình hình hiện nay, trường hợp quá tải thông tin, thường xảy ra do hiện
nay các công ty đại chúng đăng ký với UBCKNN đến thời điểm 31/12/2008 là 896
công ty, vì vậy nên chăng phải có quy định thêm thời gian cho việc công bố vì lý
do phương tiện công bố thông tin chưa đáp ứng kịp.
- 69 -
- Tổng chung các yếu tố gây trở ngại trong việc công bố BCTC, các cơ quan
quản lý nên xem xét tăng thêm thời gian cho các công ty có mức vốn lớn, số công
ty con và đơn vị trực thuộc nhiều, DN đóng trên địa bàn kinh tế có giao thông đi lại
khó khăn …, thời gian đề nghị là 1 tháng (30 ngày) cho BCTC giữa niên độ, và
trong vòng 4 tháng (tương đương 120 ngày) cho BCTC có kiểm toán cuối niên độ
cuả các DNNY.
- Ngoài ra UBCKNN cũng phải quy định cả với những cơ quan quản lý trực
tiếp như SGDCK về thời gian công bố nhằm đảm bảo thông tin có thể đến với NĐT
trong thời gian ngắn nhất, tránh tình trạng thời gian thông tin nằm chờ tại các cơ
quan trung gian khá dài, đây cũng là nguyên nhân xảy ra tình trạng rò rỉ thông tin
công bố trong những năm vừa qua (đề nghị quy định: nếu là ngày làm việc phải
công bố trong ngày, trường hợp bất khả kháng có thể chậm trễ, nhưng thời gian
chậm trễ không quá 2 ngày, kể cả trường hợp là ngày thứ bảy và chủ nhật).
3.2.4. Giải pháp đánh giá chất lượng thông tin công bố
- Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Sở Giao dịch Chứng khoán cần có văn bản
quy định về các mức độ ngoại trừ trong báo cáo kiểm toán nếu có, từ mức độ bắt
phải giải trình vấn đề ngoại trừ, các giải pháp xử lý, cho đến các trường hợp vi
phạm trọng yếu, có thể bắt buộc phải thanh tra, hoặc kiểm toán lại, đồng thời cũng
nên hướng dẫn cụ thể về trình tự thực hiện công việc kiểm toán mà DN phải thực
hiện, nhằm tránh các lỗi sai cơ bản mà các DN có thể vấp phải như không mời công
ty kiểm toán tham gia kiểm kê tài sản DN cuối kỳ, các khoản quy định trong xác
nhận công nợ phải thu, phải trả, các vấn đề có liên quan đến miễn giảm thuế thu
nhập doanh nghiệp…
- Ý kiến của kiểm toán viên trong báo cáo kiểm toán cần quy định rõ mức độ
ngoại trừ trọng yếu, nếu có ảnh hưởng đến BCTC kiểm toán viên phải nói rõ vấn đề
ngoại trừ sẽ có ảnh hưởng như thế nào, trong báo cáo kiểm toán và đồng thời phải
- 70 -
có ý kiến căn cứ vào chuẩn mực kiểm toán hiện hành, tránh trường hợp phát biểu
chung chung cho có lệ.
- Các cơ quan quản lý phải xây dựng một hệ thống thang điểm để đánh giá chất
lượng thông tin của các DNNY công bố trong năm, cuối năm có tổng kết đánh giá
việc thực hiện trách nhiệm CBTT và công bố trên phương tiện thông tin đại chúng
để các nhà đầu tư có thể so sánh, đánh giá.
- Các cơ quan điều hành vĩ mô TTCK nên tăng cường thêm một số chức năng
cho các tổ chức hiệp hội chuyên ngành, tổ chức kiểm tra chéo, đánh giá tình hình
thực hiện các công tác có liên quan đến thông tin được công bố trên TTCK.
3.2.5. Giải pháp xử lý các vi phạm – các biện pháp chế tài
Đơn vị trực tiếp theo dõi giám sát, thanh tra các tổ chức cá nhân hoạt động trên
TTCK hiện nay do Ban thanh tra UBCKNN dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Chủ tịch
UBCKNN, văn bản quy định về công tác này là Nghị định 36/2007/NĐ-CP, ngày
8-3-2007 của Chính phủ và Thông tư 97/2007/TT-BTC, ngày 8-8-2007 của BTC về
việc xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK.
Thực trạng chấp hành CBTT là BCTC thường niên đang xảy ra nhiều vấn đề như
hiện nay, nguyên do chính một phần cũng vì công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý các
vi phạm chưa được rốt ráo, đến nơi đến chốn, tình hình thực tế là các CTCP tăng
lên ngày càng nhiều, khối lượng công việc lớn, nhân sự thanh tra lại mỏng, tình
hình sai phạm diễn biến ngày một phức tạp, mặt khác hệ thống văn bản luật pháp
về chứng khoán còn chưa đồng bộ, nhất là trong lĩnh vực phát hành cổ phiếu tăng
vốn điều lệ đối với các CTCP chưa phải là công ty đại chúng.
Ngoài các lý do trên thì biện pháp chế tài hiện nay cũng chưa có tác động tích
cực, hình thức xử lý, mức chế tài là phạt tiền theo khung quy định như hiện nay là
quá nhẹ, không đủ tính răn đe. Căn cứ vào báo cáo xử phạt hành chính trong lĩnh
vực chứng khoán và TTCK năm 2008 thì mức thấp nhất là 10 triệu đồng và mức
cao nhất là 100 triệu đồng, trong đó phổ biến là mức phạt 20 đến 30 triệu đồng, so
- 71 -
với giá trị của những vụ việc vi phạm, mức phạt này là quá nhẹ, và chủ yếu là phạt
vi phạm trong lĩnh vực phát hành chứng khoán mà thôi.
Giải pháp xử lý trong công tác theo dõi, kiểm tra, giám sát cần phải được xem
là quan trọng, không thua kém việc xây dựng môi trường kinh doanh trên TTCK,
môi trường kinh doanh có được bình đẳng, minh bạch, lành mạnh hay không, ảnh
hưởng phần lớn từ chỗ pháp luật có được thực thi nghiêm minh, xử lý đúng người,
đúng tội, đồng thời các biện pháp chế tài phải có đủ tính răn đe, chế ngự các hành
vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh hay không.
Ngoài ra cách xử lý thông tin phải nhanh chóng, kịp thời, thông tin xử lý còn
phải được công bố rộng rãi trong công chúng, nếu có các biện pháp khắc phục hậu
quả thì các doanh nghiệp, cá nhân vi phạm phải cam kết, công bố kết quả việc khắc
phục hậu quả trong thời gian bao lâu và phải thực hiện đúng theo cam kết trên.
Mặt khác các biện pháp chế tài như phạt tiền, nên tính theo phần trăm (%) giá
trị của các vụ vi phạm, có quy định mức tối đa và tối thiểu, nhằm linh hoạt hoá biện
pháp chế tài phù hợp với tốc độ phát triển chung về giá trị giao dịch trên thị trường
trong giai đoạn hiện nay.
3.2.6 Giải pháp đối với công tác kiểm toán
a. Kiểm toán nội bộ:
Đây là vấn đề còn mới mẻ đối với các doanh nghiệp Việt nam nói chung, và các
DNNY nói riêng, hiện nay theo mô hình công ty cổ phần, công tác kiểm tra nội bộ
được hiểu như là công cụ phục vụ cho Ban giám đốc (Ban Tổng giám đốc) công ty,
vì thế mặc dù đã có Quyết định 12/2007/QĐ – BTC ngày 13-3-2007, của Bộ Tài
chính hướng dẫn các DNNY thực hiện xây dựng quy trình kiểm tra, kiểm soát nội
bộ, nhưng rất ít doanh nghiệp thực hiện nghiêm túc quy chế này, điều này cũng dẫn
đến khó khăn cho các kiểm toán viên độc lập khi thực hiện kiểm toán tại doanh
nghiệp.
- 72 -
Nhiệm vụ chính của kiểm toán nội bộ được tập trung vào: kiểm toán hoạt động
và kiểm toán tuân thủ, thông thường kiểm toán nội bộ được chia thành 2 bộ phận
kiểm soát về kế toán (Internal accounting controls) và kiểm soát về hành chính
(Internal administrative controls)
Về nguyên tắc Ban kiểm toán nội bộ (hay thường gọi là Ban kiểm tra nội bộ)
có tính độc lập tương đối với Ban điều hành doanh nghiệp, thì hiệu quả kiểm tra,
giám sát mới hữu hiệu, tuy nhiên với nếp suy nghĩ trên, ban kiểm tra nôi bộ thường
chỉ là kiêm nhiệm, hình thức và đối phó là chính.
Đề nghị các cấp quản lý cần hướng dẫn cụ thể hơn nữa về quy chế kiểm tra nội
bộ, tổ chức này phải có thành viên có nghiệp vụ kế toán, đồng thời ban kiểm tra nội
bộ nên trực thuộc hội đồng quản trị.
b. Kiểm toán độc lập
Kiểm toán độc lập được hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của nền
kinh tế thị trường và chính sách cổ phần hoá chuyển đổi mô hình DNNN thành
công ty cổ phần , lúc này nhu cầu về kiểm toán BCTC của các công ty cổ phần là tổ
chức phát hành, tổ chức niêm yết …tăng nhanh do ưu thế của mô hình doanh
nghiệp dạng này, vì vậy đòi hỏi kiểm toán độc lập cũng được phát triển nhằm đáp
ứng như cầu trên.
Kiểm toán độc lập ở nước ta hoạt động hoạt động dựa trên các văn bản pháp lý
sau:
Quyết định số 28/2003/QĐ-BTC ngày 28-3-2003 của Bộ Tài chính ban hành hệ
thống chuẩn mực kiểm toán Việt Nam
Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 30-3-2004 của Chính phủ về kiểm toán độc lập.
Thông tư số 64/2004/TT-BTC ngày 29-6-2004 của Bộ Tài chính hướng dẫn
đăng ký hành nghề kiểm toán và quản lý kiểm toán viên hành nghề.
Quyết định số 59/2004/QĐ-BTC ngày 9-7-2004 của Bộ Tài chính về quy chế thi
tuyển và cấp chứng chỉ kiểm toán viên.
- 73 -
Nghị định số 133/2005/NĐ-CP ngày 30-3-2005 của Chính phủ về việc sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 105/NĐ-CP ngày 30-3-2004 của Chính phủ
về kiểm toán độc lập.
Quyết định số 47/2005/QĐ-BTC ngày 14-7-2005 của Bộ Tài chính về việc
chuyển giao cho Hội Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), thực hiện
một số nội dung công việc quản lý, hành nghề kế toán, kiểm toán.
Quyết định số 89/2007/QĐ-BTC ngày 24-10-2007 của Bộ Tài chính về việc
ban hành Quy chế lựa chọn doanh nghiệp kiểm toán được chấp thuận kiểm toán
cho tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết và tổ chức kinh doanh chứng khoán.
Với yêu cầu ngày càng cao về chất lượng BCTC của các DNNY, trước hết
công tác kiểm toán phải được đặt lên hàng đầu, vì bản chất của kiểm toán là đảm
bảo an toàn lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích xã hội, làm lành mạnh hoá môi trường
đầu tư, thúc đẩy công tác kế toán phải tuân thủ luật pháp, chuẩn mực cũng như
minh bạch hoá tài chính quốc gia.
Do công việc của kiểm toán độc lập là kiểm toán BCTC các doanh nghiệp, vì
thế trước hết bản thân doanh nghiệp kiểm toán cũng phải được chứng nhận kiểm
định chất lượng doanh nghiệp, các nhân tố có thể ảnh hưởng đến chất lượng kiểm
toán là:
Môi trường pháp lý.
Yếu tố cạnh tranh.
Đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng chuyên môn của kiểm toán viên.
Trình độ quản lý, ứng dụng khoa học - kỹ thuật, chính sách đãi ngộ đối với
kiểm toán viên của doanh nghiệp kiểm toán.
Kiểm toán là một mắt xích không thể thiếu trong quy trình vận hành của
TTCK, TTCK là thị trường kinh doanh thông tin, hoạt động trên nền tảng của niềm
tin, do vậy một BCTC được kiểm toán bởi một công ty kiểm toán độc lập nghiêm
minh, chính trực, và chuyên nghiệp, sẽ làm an lòng nhà đầu tư, cho dù không đảm
- 74 -
bảo chắc chắn 100% mức độ tin cậy, nhưng một BCTC được kiểm toán sẽ đảm bảo
không có sai sót trọng yếu.
Kinh nghiệm xảy ra bê bối tài chính trên TTCK Mỹ năm 2000, 2001 với sự sụp
đổ của Công ty Enron và Worldcom, trong đó có sự liên đới trách nhiệm của công
ty kiểm toán hàng đầu tại Mỹ là Arthur Andersen, đây cũng là nguyên nhân dẫn
đến sự ra đời của đạo luật Sarbanes – Oxley năm 2002.
Thị trường chứng khoán Việt Nam với vụ rối ren tài chính của công ty cổ phần
Bông Bạch Tuyết năm 2008 (Bibica vào năm 2005), trong đó nổi lên những vấn đề
như: không tuân thủ chế độ kế toán và lập BCTC, thông tin được công bố trên
TTCK, hạn chế về trình độ của kiểm toán viên và doanh nghiệp kiểm toán trong
quá trình cung cấp dịch vụ kiểm toán cho các DNNY…, mặt khác nó cũng cho thấy
một vụ bê bối về tài chính của một DNNY có ảnh hưởng như thế nào đối với
TTCK. Những trường hợp như thế làm thiệt hại về tài chính là không nhỏ cho nhà
đầu tư là cổ đông trong công ty, nếu còn tái diễn sẽ xói mòn niềm tin của nhà đầu
tư, cũng như ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của TTCK.
Tính đến 31/12/2008 toàn quốc có 158 công ty kiểm toán trong đó năm 2008,
có 34 công ty được phép kiểm toán các DNNY và DN phát hành cổ phiếu.
Tổng số công ty đại chúng đăng ký với UBCKNN tính đến cùng kỳ là 896
công ty, tổng số công ty niêm yết trên hai sàn giao dịch là 356 công ty, chưa tính số
công ty dự tính đăng ký niêm yết trên hai sàn giao dịch và các CTCP phát hành cổ
phiếu ra công chúng…, chắc chắn áp lực thời vụ kiểm toán đè nặng lên các doanh
nghiệp kiểm toán được phép kiểm toán các tổ chức niêm yết và tổ chức phát hành,
việc này không thể tránh khỏi ảnh hưởng đến chất lượng kiểm toán BCTC của các
kiểm toán viên trong khi thực hiện kiểm toán BCTC.
Qua tình trạng ngoại trừ xuất hiện khá nhiều trong các báo cáo kiểm toán, có
những điểm ngoại trừ là trọng yếu, nhưng các DNNY thường không công bố giải
trình kèm theo. Các cơ quan quản lý TTCK cần phải có văn bản quy định rõ ràng
- 75 -
mức độ ngoại trừ trong BCTC là bao nhiêu phần trăm cho mỗi khoản mục, và tổng
các khoản mục ngoại trừ là bao nhiêu phần trăm cho tổng tài sản kỳ báo cáo, mức
tối thiểu, tối đa, tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng…, trường hợp nào giải trình, và nội
dung giải trình phải làm rõ các vấn đề có liên quan, hình thức xử lý, thời gian bao
nhiêu ngày phải công bố giải trình…Những trường hợp ngoại trừ nào phải kiểm
toán lại, thời gian tổ chức kiểm toán lại, thời gian công bố xác nhận bằng thư kiểm
toán của kiểm toán viên…
Mặt khác cũng cần quy định rõ trách nhiệm liên đới của kiểm toán viên và công
ty kiểm toán, với đánh giá của mình về BCTC đã kiểm toán của DNNY được phát
hành ra công chúng, trong trường hợp thực hiện quy trình kiểm toán có sai sót.
Các văn bản pháp luật quy định về kế toán, kiểm toán phải được xây dựng thống
nhất giữa các tổ chức: kiểm toán độc lập và kiểm toán Nhà nước trong công tác
kiểm toán BCTC của các tập đoàn, tránh để xảy ra chênh lệch số liệu trong BCTC
của các doanh nghiệp vừa là DNNY, vừa là DNNN, vừa là công ty con của các tập
đoàn.
Vấn đề kiểm toán BCTC nên đi dần đến thực hiện đối với tất cả mọi loại hình
DN trên toàn quốc, dựa trên tiêu chuẩn mức vốn kinh doanh, nhằm làm minh bạch
hoá nền kinh tế, đồng thời đây cũng là dữ liệu quan trọng nói lên thực trạng nền
kinh tế quốc gia qua từng thời kỳ, tạo điều kiện cho các cơ quan quản lý vĩ mô nền
kinh tế thực hiện các chính sách đạt hiệu quả cao.
3.3. Một số kiến nghị
- Bộ Tài Chính
Qua nội dung phân tích tình hình thực hiện công bố BCTC của các DNNY,
chúng tôi xin có một số kiến nghị như sau:
(1) Bộ Tài chính nên giao hẳn nhiệm vụ xây dựng hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan đến lĩnh vực chứng khoán cho UBCKNN(SSC), sau khi đã
trình Bộ và được duyệt y, nhằm phù hợp với tình hình phát triển cả về quy mô và
- 76 -
chất lượng của TTCK trong tương lai, cũng như tương đồng với thông lệ quốc tế về
TTCK.
(2) Công tác kế toán có vị trí quan trọng trong việc cung cấp thông tin trên
TTCK, đây cũng là cơ sở hình thành chất lượng hàng hoá trên thị trường. Hiện nay
hệ thống các văn bản kế toán được xây dựng và thực hiện theo Luật, chuẩn mực và
các văn bản hướng dẫn thi hành, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật như thế rất
phức tạp, chồng chéo cũng như gây khó khăn trong việc thực hiện, đề nghị Bộ cho
xây dựng, tu chính một bộ Luật và Chuẩn mực kế toán Việt Nam thống nhất, giảm
bớt các văn bản hướng dẫn kèm theo, làm khuôn mẫu cho các kế toán viên thực
hiện công tác kế toán.
Theo thông lệ quốc tế, công việc xây dựng chuẩn mực kế toán được thực hiện
bởi Hiệp hội kế toán. Vì thế đề nghị Bộ tăng cường thêm một số chức năng cho Hội
kế toán, kiểm toán Việt Nam (VAA) hiện nay, xây dựng Hội thành một tổ chức
chuyên môn làm tham mưu cho Bộ về các vấn đề có liên quan đến công tác kế
toán, làm công tác trực tiếp quản lý, điều hành theo dõi, kiểm tra, cũng như kiến
nghị xử lý các vi phạm trong lĩnh vực kế toán .
(3) Về công tác kiểm toán là dịch vụ có tầm ảnh hưởng quan trọng đến TTCK
và có mối liên quan chặt chẽ đến CBTT là BCTC của các CTCP nói chung và các
DNNY nói riêng, đề nghị Bộ làm tham mưu cho Chính phủ nhanh chóng hoàn
thiện bộ Luật Kiểm toán độc lập trình Quốc Hội thông qua, đồng thời giao cho Hội
đồng kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA), trực tiếp xây dựng hệ thống
chuẩn mực kiểm toán độc lập Việt Nam, cũng như quản lý, giám sát, thanh tra và
xử lý các trường hợp vi phạm trong thực hiện kiểm toán, tránh để xảy ra những
trường hợp liên đới vi phạm có ảnh hưởng đến TTCK.
Mặt khác về chuyên môn nên tách hai nhiệm vụ kế toán, kiểm toán ra thành
hai bộ phận riêng biệt, giao cho hai tổ chức thực hiện. Ví dụ chuyển VAA thành
- 77 -
Hiệp hội kế toán, VACPA thành Hiệp hội kiểm toán, để dễ dàng trong việc xây
dựng chuyên nghiệp hoá các công tác kế toán, kiểm toán.
(4) Bán bớt cổ phần Nhà nước trong các DNNY không thuộc diện Nhà nước
cần nắm giữ, đi đôi với việc mở room cho nhà đầu tư nước ngoài trong một số lĩnh
vực ngành nghề không quan trọng, nhằm khai thác nguồn vốn nước ngoài, với mục
đích : thứ nhất nhằm thay đổi nếp làm việc, quản lý theo kiểu cũ của các nhà quản
lý trong các DNNY có vốn nhà nước chiếm cổ phần chi phối, thứ hai giảm bớt thiệt
thòi quyền lợi cho cổ đông thiểu số, thứ ba tìm kiếm bổ sung các nhân tố mới trong
và ngoài nước có năng lực điều hành DN trong giai đoạn hiện nay, cũng như từng
bước nâng cao năng lực lãnh đạo điều hành chung của các DN trong toàn nền kinh
tế.
(5) Kiến nghị xem xét đưa vào TTCK một số hàng hoá tài chính khác như
thương phiếu, hối phiếu, hợp đồng giao sau…,các công cụ chứng khoán phái sinh
như nghiệp vụ mua bán khống, mua bán chứng khoán trung hạn, để xây dựng
TTCK ngày càng đa dạng, phong phú, phồn vinh.
- Ủy Ban Chứng Khoán Nhà Nước
+ Chấn chỉnh thực trạng CBTT hiện nay của các DNNY, nhất là các BCTC
thường niên, quy định lại về hình thức, phương tiện CBTT, đề nghị và giám sát các
DNNY xây dựng, quản lý tốt trang web của doanh nghiệp, giảm bớt hiện tượng quá
tải trong CBTT, dùng phương tiện thông tin trên làm cầu nối giữa nhà đầu tư và
doanh nghiệp, tạo sự an tâm cho nhà đầu tư, cũng như cho toàn thị trường.
+ Tăng cường hơn nữa công tác theo dõi, giám sát, xử lý vi phạm, xây dựng hệ
thống cổng thông tin liên lạc giữa DNNY – SGDCK – UBCKNN, nhằm đảm bảo
cho nhà đầu tư có được thông tin chính xác, kịp thời, minh bạch và đầy đủ, cũng
như từng bước xây dựng TTCK mang tính cạnh tranh hoàn hảo.
+ UBCKNN nên xem xét lại hệ thống văn bản hiện hành về CBTT, cần sửa
đổi sao cho gọn nhẹ, thông thoáng, kết hợp liên hoàn với hệ thống văn bản luật có
- 78 -
liên quan như Luật Doanh nghiệp, Luật Kế toán, Luật Đầu tư …, đồng thời đảm
bảo các biểu mẫu báo cáo có đầy đủ nội dung phục vụ cho phân tích tình hình tài
chính doanh nghiệp, để hoạt động của thị trường ngày càng hiệu quả hơn.
+ Làm tham mưu cho Bộ Tài chính sửa đổi lại quy định về xử phạt, chế tài
những vi phạm trên TTCK, sao cho có đủ tính răn đe, đồng thời lập lại kỷ cương
trong lĩnh vực CBTT, cũng như đảm bảo việc tuân thủ luật pháp trong CBTT,
nhằm xây dựng môi trường minh bạch và lành mạnh trên TTCK.
+ Tăng cường hơn nữa công tác giám sát, quản lý việc thực hiện phát hành
chứng khoán ra công chúng và phát hành riêng lẻ của các CTCP nói chung, các
DNNY nói riêng nhằm tránh tình trạng mất cân đối tiền – hàng, ối đọng hàng hoá,
làm giảm tính hấp dẫn của cổ phiếu, hiệu quả của thị trường, đó cũng là nguyên
nhân gián tiếp làm tăng cung, giảm cầu chứng khoán và là nguyên nhân dẫn đến
suy thoái thị trường.
+ Ngoài ra SSC cần đẩy mạnh hơn nữa công tác tuyên truyền giáo dục, phổ
kiến thức về chứng khoán và TTCK, hệ thống văn bản Luật có liên quan như Luật
Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Chứng khoán …, để từng bước nâng cao trình độ
hiểu biết của các chủ thể tham gia TTCK, tạo sự tự giác thực hiện nghĩa vụ cho các
chủ thể tham gia thị trường.
+ Cần có sự phối hợp cao trong mối quan hệ giữa các cơ quan điều hành và
các tổ chức cung ứng các dịch vụ CBTT trên thị trường như: Hiệp hội kế toán,
kiểm toán Việt Nam (VAA), Hội đồng kiểm toán viên hành nghề Việt Nam
(VACPA), Hiệp hội chứng khoán Việt Nam, trong việc xây dựng môi trường pháp
lý cũng như theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động CBTT trên TTCK.
+ UBCKNN xem xét lại tình hình TTCK trong giai đoạn hiện nay, nhằm tránh
gây ra tác động tâm lý xấu của nhà đầu tư trên thị trường về giao dịch cổ phiếu của
cổ đông nội bộ. Đề nghị SSC yêu cầu hạn chế chuyển nhượng cổ phần sở hữu cá
nhân (không kể số cổ phần đại diện vốn Nhà nước) trong suốt thời gian tại vị đối
- 79 -
với các thành viên Hội đồng quản trị, Ban giám đốc (Ban Tổng giám đốc), kế toán
trưởng các DNNY, nếu muốn chuyển nhượng, hoặc phải rút khỏi thành viên các tổ
chức trên, hoặc phải có sự đồng ý của Đại hội đồng cổ đông công ty.
- Sở Giao Dịch Chứng Khoán Thành Phố Hồ Chí Minh
+ Tổ chức kiểm tra, giám sát tình hình các DNNY thực hiện quy chế của Sở
về CBTT định kỳ, đảm bảo thông tin được công bố kịp thời theo đúng quy định của
luật pháp. Kiến nghị và hỗ trợ các DNNY thực hiện xây dựng trang web công ty
làm cổng thông tin điện tử, phục vụ yêu cầu CBTT.
+ Tổ chức đào tạo, tập huấn cho các nhân viên công bố thông tin trong các
DNNY, nhằm đảm bảo các doanh nghiệp này hiểu rõ tính quan trọng của việc
CBTT.
+ Khuyến cáo các DNNY thực hiện tốt công tác quản trị, điều hành công ty,
xây dựng hệ thống kiểm tra nội bộ, để đảm bảo minh bạch hoá ngay từ trong nội bộ
doanh nghiệp.
+ Xây dựng, phát triển hệ thống công nghệ thông tin nhắm đảm bảo yêu cầu
CBTT của các DNNY, mặt khác SGDCK cũng xem xét và hỗ trợ các DNNY tổ
chức thay đổi niên độ kế toán theo từng lĩnh vực ngành nghề nhằm phù hợp với
thực tế của các doanh nghiệp, đồng thời giảm tải cho hệ thống thông tin hiện nay
trong cung cấp dịch vụ, và đảm bảo tính kịp thời trong CBTT trên TTCK.
+ Tăng cường hơn nữa công tác phổ thông hoá các luật lệ hiện hành có liên
quan đến TTCK cho các chủ thể tham gia thị trường bằng nhiều hình thức khác
nhau, xem đây cũng là nguồn nhân lực tiếp tay cho công tác kiểm tra, giám sát các
hoạt động của thị trường, theo dõi, giám sát các DNNY trong việc thực hiện CBTT.
- Các công ty niêm yết
+ Để có thể chủ động trong công tác CBTT, các DNNY nên xây dựng trang
web công ty, và quản lý tốt cổng thông tin điện tử của doanh nghiệp mình, lấy đây
- 80 -
làm cầu nối giữa doanh nghiệp và nhà đầu tư, tự mình có thể đảm bảo tốt việc
CBTT theo quy định của luật pháp trên thị trường.
+ Từng bước xây dựng đội ngũ các nhà quản lý theo phong cách mới, quản lý
theo mô hình công ty cổ phần hiện đại, thực hiện việc chấp hành, tuân thủ luật pháp
là việc quan trọng hàng đầu, có chế độ đào tạo, phát triển nguồn nhân lực phù hợp
với yêu cầu trong tình hình mới.
+ Nắm vững hệ thống luật pháp, xây dựng và hoàn chỉnh quy chế về CBTT,
thực hiện quản trị doanh nghiệp theo quy định của pháp luật, xây dựng hệ thống
kiểm tra nội bộ có tính độc lập cao, tạo điều kiện nâng cao trình độ về kế toán của
các nhân viên tác nghiệp trong đơn vị, từng bước đạt yêu cầu thông tin được công
bố phải minh bạch, chính xác, đầy đủ và kịp thời.
+ Cần xem công tác CBTT là một công tác quan trọng nó phải được tuân thủ
và thực hiện nghiêm túc, các DNNY nên thành lập bộ phận chuyên trách công tác
CBTT, bộ phận này phải am hiểu về hệ thống luật pháp có liên quan đến việc
CBTT trên TTCK.
- 81 -
Kết luận chương 3
Các biện pháp nhằm hoàn thiện việc CBTT trước hết phải định hướng được
mô hình xây dựng thị trường và hệ thống CBTT như thế nào? Xu thế phát triển hệ
thống ra sao? Thông qua việc xác định quy mô tăng trưởng TTCK trong ngắn và
dài hạn.
Xây dựng TTCK phải đứng trên quan điểm:
- Hội nhập với TTCK thế giới, kế thừa kinh nghiệm các nước tiên tiến có nền
kinh tế thị trường phát triển.
- Học tập kinh nghiệm những mô hình TTCK các nước có nền kinh tế tương
tự về bản chất giống như nước ta (TTCK Trung Quốc), với mục đích xây dựng thị
trường ổn định về lượng, đảm bảo về chất và phù hợp cho sự phát triển lâu dài.
- Trình độ, kiến thức về kinh tế của các chủ thể tham gia kinh doanh trên thị
trường cũng là đặc điểm cần chú ý trong xây dựng mô hình TTCK.
- Hoàn thiện hệ thống luật pháp theo hướng mở, đồng bộ và nhất quán, đi đôi
với việc xây dựng môi trường hoạt động kinh doanh thông thoáng, phát huy tinh
thần kinh doanh lành mạnh cũng như thực hiện tuân thủ pháp luật.
- Cùng với việc xây dựng hoàn chỉnh hệ thống công bố thông tin trên
TTCK, việc tăng cường các chức năng của các tổ chức, cơ quan hữu quan hỗ trợ
TTCK (Hiệp hội kế toán, kiểm toán, chứng khoán…), các tổ chức này sẽ cùng với
Bộ Tài chính, UBCKNN, SGDCK, trực tiếp giám sát, theo dõi, kiểm tra, đánh giá
các hoạt động trên thị trường nhằm thực hiện trung thực và minh bạch hoá TTCK.
- 82 -
Kết luận chung
TTCK là sản phẩm tất yếu của nền kinh tế thị trường, đây là một kênh thu hút
vốn đầu tư rất quan trọng trong nền kinh tế, tình hình hoạt động của thị trường cũng
là cơ sở dữ liệu phục vụ công tác điều hành vĩ mô quốc gia.
Đặc trưng của TTCK là thị trường vốn cao cấp, nguồn sống của TTCK là thông
tin được công bố trên thị trường, hàng hoá chứng khoán có một giá trị nội tại khá
trừu tượng và chính thông tin là điều kiện tiên quyết tạo nên giá trị nội tại đó.
Trong các loại thông tin thì BCTC của các DNNY được công bố thường kỳ có mức
độ rất quan trọng, vì vậy yêu cầu CBTT phải được đưa lên hàng đầu, nếu muốn cho
thị trường phát triển bền vững.
Các tổ chức hội nghề nghiệp có liên quan đến CBTT trên thị trường cần phải
được xây dựng theo như thông lệ quốc tế, nhằm phối hợp với các cơ quan quản lý
làm tham mưu, hỗ trợ và giám sát TTCK, đảm bảo luật lệ được thực thi một cách
nghiêm minh, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh.
Trong công tác kế toán, kiểm toán việc xây dựng hệ thống chuẩn mực kế toán
phù hợp với luật pháp và tình hình thực tế của Việt Nam, đồng thời đảm bảo đủ
điều kiện hoà nhập với với chuẩn mực kế toán, kiểm toán quốc tế khi có điều kiện.
Tổ chức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ nhân viên làm công tác quản lý
thị trường. Tăng cường xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại, phục vụ
yêu cầu CBTT trên TTCK, đảm bảo thông tin công bố trên thị trường được thông
suốt.
Tổ chức hệ thống vận hành qua lại đối với các cơ quan quản lý trực tiếp, gián
tiếp và các cơ quan hữu quan đối với thị trường, nhằm đảm bảo các chủ trương,
chính sách của Nhà nước được thi hành đồng bộ thống nhất và hiệu quả, xây dựng
các hiệp hội chức năng giúp việc trong kiểm tra, thanh tra, giám sát, đánh giá các
mặt hoạt động trên TTCK, nhằm tạo điều kiện cho thị trường phát triển lành mạnh,
minh bạch, ổn định và bền vững.
- 83 -
NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ VỀ ĐỀ TÀI
- Đề tài được thực hiện có tính thời sự đối với chuyên ngành trong giai đoạn
hiện nay, cách trình bày và bố cục được xây dựng có phương pháp khoa học, trình
bày thứ tự và có logic, kỹ năng viết, ghi nhận và giải trình sự việc theo thứ tự hợp
lý, đơn giản, dễ hiểu và ít sai sót.
- Nội dung đề tài đã đưa ra khá nhiều ý kiến mới mẻ về cách nhìn nhận về
thông tin kế toán, báo cáo tài chính, công bố thông tin của các doanh nghiệp niêm
yết nói chung và các công ty cổ phần nói riêng. Thông qua nội dung đề tài đã phản
ánh, đánh giá, đưa ra các giải pháp và kiến nghị các vấn đề có liên quan trong lĩnh
vực kế toán trên thị trường chứng khoán như sau:
+ Nội dung công bố thông tin kế toán
+ Phạm vi và hình thức công bố thông tin
+ Điều kiện và trách nhiệm trong việc công bố thông tin
+ Đánh giá chất lượng thông tin được công bố
+ Hình thức xử lý các vi phạm – các biện pháp chế tài
+ Công tác kiểm toán và ảnh hưởng của nó đến thông tin công bố, và;
Một số kiến nghị đối với các cơ quan, tổ chức lãnh đạo, quản lý, điều hành,
cung cấp hàng hoá trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chi tiết được trình bày cụ thể từ trang 53 đến trang 80 của đề tài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các giải pháp hoàn thiện vấn đề công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên Thị trường chứng khoán Việt Nam.pdf