LỜI MỞ ĐẦU1. Lý doViệt Nam mở cửa ra thị trường thế giới đồng nghĩa với rất nhiều cơ hội đi kèm với những khó khăn mà ta phải đối mặt. Đặc biệt trong bối cảnh thế giới ngày càng “phẳng”, việc giao thương quốc tế trở nên phổ biến và quan trọng sống còn với đời sống kinh tế của quốc gia. Trong đó, khâu quan trọng và quyết định phải kể đến đó là xuất khẩu.
Liên Xô cũ vốn là thị trường chính, có mối quan hệ thương mại lâu đời với Việt Nam. Có giai đoạn tỉ lệ buôn bán giữa ta và Liên Xô cũ đạt 70 – 80% kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. 1991, Liên Xô tan rã và liên bang Nga ra đời kế thừa tư cách pháp lý của Liên Xô cũ với những thay đổi căn bản về kinh tế chính trị gây không ít khó khăn cho việc giao thương giữa hai nước. Từ chỗ là bạn hàng thân thuộc với hơn một nửa khối lượng lưu chuyển hàng hóa, tới nay chỉ còn xấp xỉ 2%. Trong khi đó, việc mở rộng thông thương với các nước trong khu vực gặp không ít khó khăn do ta và họ đều có cùng xuất phát điểm cũng như hướng tới các mặt hàng xuất khẩu tương tự nhau. Chính vì thế, liên bang Nga trở thành thị trường rộng lớn và đầy tiềm năng cho việc xuất khẩu nói chung và xuất khẩu thủy sản, thế mạnh của chúng ta, nói riêng. Và số liệu những năm gần đây cũng chứng tỏ điều đó. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của ta vào Nga ngày càng tăng với tỉ lệ cao. Tuy nhiên, thực tế theo các nhà kinh tế thì con số đó vẫn chưa xứng với khả năng của ta.
Sở dĩ có sự bất cân xứng như vậy, thiết nghĩ một phần cũng bắt nguồn từ việc thiếu thông tin về thị trường này từ các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước, đặc biệt là nhóm thông tin về các kênh phân phối mặt hàng thủy sản nhập khẩu tại Nga. Kênh phân phối là một khái niệm quan trọng và cần thiết để có thể thành công trong việc đẩy mạnh xuất khẩu. Vì thế, yêu cầu cấp thiết là phải tìm ra nguyên nhân và hướng giải quyết cho bài toán về kênh phân phối và biện pháp xuất khẩu thủy sản sang thị trường liên bang Nga.
Với những lý do trên, nhóm chúng tôi quyết định chọn đề tài “CÁC KÊNH PHÂN PHỐI THỦY SẢN NHẬP KHẨU TẠI THỊ TRƯỜNG NGA VÀ CÁC LƯU Ý ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU VIỆT NAM”
2. Mục đíchGiúp người đọc có một cái nhìn tổng thể và chi tiết về các kênh phân phối thủy sản nhập khẩu cũng như thị trường thủy sản tại Nga.Giúp người đọc cập nhật những thông tin mới nhất về các qui định xuất nhập khẩu nói chung và những quy định dành cho mặt hàng thủy sản nói riêng.Giúp doanh nghiệp và các cơ quan quản lý có những biện pháp hợp lý để xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nga.
3. Đối tượng nghiên cứu
Bài tiểu luận nghiên cứu về các kênh phân phối thủy sản nhập khẩu tại thị trường Nga mà chủ yếu là thủy sản có nguồn gốc từ Việt Nam. Bên cạnh đó cũng tìm hiểu về thị trường thủy sản nói chung và các qui định về nhập khẩu thủy sản tại Nga. Từ đó phân tích, đánh giá, dự báo cũng như nêu lên một số lưu ý đề xuất cho doanh nghiệp và các cơ quan quản lý vấn đề thủy sản xuất khẩu.
4. Phạm vi nghiên cứu
Chủ yếu nghiên cứu các kênh phân phối và thị trường thủy sản liên bang Nga đặt trong mối quan hệ với Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Các qui định về việc nhập khẩu thủy sản vào Nga cho tới tháng 4/2010
5. Nhiệm vụTìm hiểu các kênh phân phối thủy sản nhập khẩu tại thị trường Nga và các khái niệm có liên quanTìm hiểu các qui định liên quan đến xuất khẩu thủy sản vào thị trường NgaTìm hiểu, tổng hợp và phân tích để đưa ra những nhận xét về tình hình thị trường thủy sản hiện tại tại NgaĐưa ra những lưu ý, đề xuất cho doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản lý về việc xuất khẩu thủy sản sang Nga.
6. Tổng quan tình hình nghiên cứuVấn đề nghiên cứu thị trường thủy sản tại Nga đã được không chỉ Việt Nam quan tâm. Một số các công trình nghiên cứu có thể kể đến như:
Nghiên cứu khoa học “Fish Industry in Russia” (tạm dịch: “Nền công nghiệp thủy hải sản tại Nga”) của Bộ Ngoại giao, Bộ Thủy sản và Hội đồng Thương mại Iceland tìm hiểu toàn cảnh về thị trường thủy hải sản tại Nga. Trong đề tài, ban chủ nhiệm đã nêu lên những loại thủy hải sản chính đang được mua bán tại thị trường Nga cũng như nêu lên một số triển vọng và các lưu ý cho các nhà đầu tư vào thị trường này.
Nghiên cứu khoa học “Distribution Systems Of The Food Sector In Russia: The Perspective Of Finnish Food Industry” (tạm dịch: “Hệ thống phân phối thực phẩm tại Nga: Triển vọng của ngành công nghiệp thực phẩm Hà Lan”), do Trung tâm nghiên cứu các thị trường đang chuyển đổi (Center for Markets in Transition - CEMAT) của Trường kinh tế Helsinki, Phần Lan thực hiện. đề tài nghiên cứu sự khủng hoảng trong hệ thống bán lẻ của Nga trong thời gian chuyển đổi nền kinh tế do sự sụp đổ của Liên Xô cũng như nêu lên tình hình thực tại của hệ thống bán lẻ tại Nga trong giai đoạn hiện nay.
Đề tài khoa học “Nghiên cứu thị trường liên bang Nga và quan hệ thương mại Việt Nam – liên bang Nga” của bộ Thương mại. Đề tài nêu lên tình hình phát triển kinh tế, xuất khẩu, nhập khẩu, các chính sách thương mại, những đặc điểm cơ bản cảu thị trường Nga trong mối liên quan với hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam. Từ đó đánh giá khả năng cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam, triển vọng cũng như định hướng cách hoạch định chính sách nhằm phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước.
7. Phương pháp nghiên cứu
Chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu khai thác tài liệu từ các nguồn (báo chí, mạng internet, sách, tài liệu tham khảo ) cũng như tham khảo ý kiến một số cá nhân đã nghiên cứu hoặc có kinh nghiêm trong lĩnh vực. Ngoài ra cũng sử dụng một số phương pháp khác như phân tích, so sánh và thống kê.
57 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3795 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các kênh phân phối thủy sản nhập khẩu tại thị trường Nga và các lưu ý đối với doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-ГК-4/11923 ngày 30/10/2009 và số ΦC-AC-4/13130 ngày 11/11/2009 của Cục Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga (VPSS) gởi Cục Quản lý Chất lượng Nông lâm sản và Thủy sản Việt Nam (NAFIQAD), có 15 doanh nghiệp Nga được cấp phép nhập khẩu thủy sản từ Việt Nam
1.2.2. Các doanh nghiệp bán sỉ
Cũng theo từ điển các thuật ngữ trong kinh doanh, nhà bán sỉ là một người hay một doanh nghiệp mua hàng với số lượng lớn từ nhiều nhà cung cấp khác nhau, trữ hàng trong kho rồi bán lại cho các cơ sở bán lẻ. Các đơn vị này thường ít khi tự tiến hành các hoạt động marketing hay bán lẻ. Theo Export Solutions, một công ty Hoa Kỳ chuyện cung cấp các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu, thì điểm khác biệt cơ bản giữa nhà nhập khẩu và nhà bán sỉ là các doanh nghiệp bán sỉ thường kinh doanh sản phẩm thuộc nhiều nhãn hàng khác nhau, trong khi các nhà nhập khẩu thường chỉ kinh doanh sản phẩm thuộc một số ít các nhãn hàng. Tuy nhiên đối với thị trường Nga, điều này chỉ mang tính chất tương đối, vì thực tế một số nhà nhập khẩu Nga cũng tự thực hiện việc phân phối sỉ. Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp bán sỉ hàng thủy sản ở Nga cũng tự thực hiện hoạt động đánh bắt và chế biến bên cạnh phân phối hàng nhập khẩu.
Trước những năm 1990, cấu trúc bán sỉ chung ở thị trường Nga không mấy hiệu quả, và các kỹ thuật kinh doanh rất lạc hậu. Tuy nhiên nhờ vào sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường với nhiều tiêu chuẩn mới, các nhà bán sỉ phải thay đổi phương thức kinh doanh để thích ứng với nhu cầu ngày càng tăng về chất lượng và thương hiệu của người mua. Từ giữa những năm 1990 đã có một chuyển biến lớn trong việc quản lý phân phối với các mặt hàng phong phú hơn và nhiều phương thức bán hàng mới. Nhìn chung cấu trúc bán sỉ ở Nga có thể được chia thành doanh nghiệp bán sỉ với quy mô lớn và doanh nghiệp bán sỉ với quy mô vừa và nhỏ. Như đã nói trên, có hơn 2000 doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh và phân phối hàng thủy sản tại thị trường Nga, trong đó các nhà bán sỉ lớn là Dalrybsbyt, Sevrybsbyt, Kaliningradrybsbyt, Kasrybprom, Lenryba, Novorossiyskrybprom, TPO Russia.
Cấu trúc bán sỉ cũng có thể được chia thành các doanh nghiệp chế biến thủy sản có đội tàu vận chuyển và cơ sở phân phối của riêng họ, và những công ty kinh doanh chuyên biệt. Các công ty kinh doanh chuyên biệt thường có đội tàu vận chuyển và nhà kho. Họ phân phối hàng ngàn sản phẩm bao gồm cả thịt, các sản phẩm từ sữa, vân vân. Các công ty này thường làm việc theo hợp đồng chủ yếu với các cửa hàng thực phẩm, chuỗi siêu thị, các doanh nghiệp dịch vụ ăn uống (nhà hàng, quán ăn,…), cũng như phân phối đến từng vùng/khu vực.
Danh sách các doanh nghiệp nhập khẩu, bán sỉ và tự đánh bắt, chế biến ở Nga:
Chú thích:
IM: Doanh nghiệp nhập khẩu
PR: Doanh nghiệp đánh bắt và chế biến
WH: Doanh nghiệp bán sỉ
STT
Tên công ty
Loại hình
1
Albastro Seafood Moscow
IM
PR
WH
2
Argus
PR
3
Arkhangelsk Base of Trawl Fleet
EX
4
Arsintek Ltd.
IM
WH
5
Boldinsky Fishery
EX
6
C & C
IM
WH
7
Cyros LLC
IM
8
Dais – II Ltd
EX
PR
9
DEFA Trading Group
IM
PR
WH
10
Delsy
PR
WH
11
Derzhava-Shipping, ZAO
PR
12
DOVOD ZAO, Ltd
IM
WH
13
East West Co Ltd
WH
14
Emborg AO
IM
WH
15
East West Co Ltd
WH
16
Emborg AO
IM
WH
17
EST, ZAO
PR
WH
18
Evromorprodukt
PR
WH
19
FOR Group
EX
PR
WH
20
Fisheries Committee (Karelia)
IM
EX
PR
21
Gilrostroy
PR
22
Greentrust Fish Company
PR
EX
WH
23
Hladoprodukt Import-Export
IM
PR
WH
24
Gulfish Khomyakovsky Hladokombinat. Ltd
PR
25
GUP FAPK Yakutia
PR
WH
26
Icelandic Freezing Plants Corp
EX
WH
27
Interatlantic Breeze
IM
PR
WH
28
Ice Fish
WH
29
Izobiliye TD (Skat LLC)
PR
30
Lamatin OAO
PR
31
Lenrybflot
EX
32
Linia 5
WH
33
Marina
PR
WH
34
Meridian Co
EX
PR
35
Moscow Technological Centre
PR
WH
36
NordEast Company Ltd.
EX
PR
37
Norge Fish Company
IM
38
Norge Fish Ltd
IM
WH
39
Norton Company
PR
40
Ocean Product Holding Company
EX
PR
WH
41
Orghim Ecology
EX
PR
WH
42
Osminog, ZAO
PR
WH
43
Ost-Areal Ltd
EX
44
Pischevik
PR
WH
45
Poseidon and Co
EX
PR
WH
46
Raptika Fish Processing Plant
EX
PR
WH
47
ROK 1
PR
WH
48
Russian Caviar JSC
PR
49
Russian Fish Company
PR
WH
50
Severnaya Kompaniya
PR
WH
51
Severny Mir
PR
EX
WH
52
Sevmoreproduct Ltd
EX
IM
53
Shalanda M, Ltd
EX
PR
54
SP Holod ZAO
PR
WH
EX
55
V.E.K.L.
IM
56
Vostokrybprom
PR
Nguồn: Eurofish
1.2.3. Các đơn vị bán lẻ
Nếu như các nhà nhập khẩu là đầu mối đưa thủy sản ngoại vào nước Nga, các doanh nghiệp bán sỉ có thế mạnh trong dòng lưu thông thủy sản nhập khẩu thì các kênh bán lẻ cũng giữ một vị trí quan trọng trong tiến trình đưa hàng đến tay người tiêu dùng cuối cùng.
Hệ thống bán lẻ ở Nga bắt đầu phát triển nhanh từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1998, và ngày nay đây là nước có thị trường thực phẩm bán lẻ phát triển nhanh nhất thế giới.
Theo Planetretail, một công ty phân tích về ngành bán lẻ hàng đầu thế giới, biểu đồ dưới đây minh họa cho sự phát triển của các siêu thị và cửa hàng bán lẻ, cũng như các đại siêu thị hiện đại ở Nga trong các năm từ 2003 đến 2005:
Ban đầu các nhà bán lẻ tập trung vào hai thị trường lớn nhất nước Nga – Mát-xcơ-va và Xanh Petecbua. Tuy nhiên để tăng thị phần, ngày nay họ đang dần mở rộng ra các thành phố khác có dân số hơn một triệu.
Theo báo cáo về ngành bán lẻ thực phẩm ở Nga do sở nông nghiệp Hoa Kỳ thực hiện vào năm 2004, thị trường bán lẻ thực phẩm Nga bao gồm khoảng 340 000 cửa hàng tiêu thụ. Các chợ chiếm khoảng 43% tổng doanh số, các cửa hàng bán lẻ chiếm 35%, kiosk và các cửa hàng chuyên biệt chiếm 13%, đại siêu thị, siêu thị và các cửa hàng giảm giá chiếm 9% còn lại.
Nguồn: IRG
Mặc dù vào thời điểm năm 2004, chợ vẫn là một kênh khá quan trọng trong phân phối hàng hóa thực phẩm cũng như hàng thủy sản ở Nga, và các kênh bán lẻ hiện đại chỉ chiếm khoảng hơn 10% tổng doanh số bán của nước này, nhưng chúng đã và đang phát triển nhanh và là những kênh chủ lực cho các mặt hàng thủy sản nói chung và thủy sản nhập khẩu nói riêng, đặc biệt là cá tươi và hải sản. Theo các chuyên gia thị trường, đến năm 2015, các cửa hàng bán lẻ mơi ở Nga có thể chiếm từ 35% đến 50% tổng doanh số. Riêng đối với thành phố Mat-xcơ-va, con số này có thể từ 50% đến 70%.
Các kênh bán lẻ hàng thủy sản nhập khẩu tại Nga bao gồm:
Các cửa hàng tự phục vụ: Khái niệm này bao gồm tất cả các điểm bán mà người mua có thể tự lựa chọn hàng hóa sau đó trả tiến tại quầy, gồm có các loại sau:
Siêu thị: Ở Nga, các siêu thị thường tọa lạc tại các khu dân cư, gần các trạm xe điện hay đường lớn. Các siêu thị lớn ở Nga là Perekrestok, Ramstor, Sedmoi Continent, Mega
Đại siêu thị: đại siêu thị là các cửa hàng tự phục vụ lớn, có chức năng của một siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng giảm giá, cửa hàng chuyên dụng. Các đại siêu thị ở Nga như Real, Auchan thường tọa lạc ở các vùng ngoại ô các thành phố lớn
Cửa hàng chuyên dụng: thường tọa lạc ở ngoại ô hay trung tâm thành phố, chủ yếu là trong các trung tâm mua sắm. Các cửa hàng chuyên dụng lớn ở Nga là Intersport,Sportmaster, Ikea, Shatura, Leroy Merlin, Castorama, Collins, Sela, Mexx, Arbat Prestizh, Douglas-Rivoli.
Danh sách 10 nhà bán lẻ lớn nhất ở thị trường Nga
Nhà bán lẻ
Quốc gia
Pamctop
Thổ Nhĩ Kỳ
Metro Group
Đức
Auchan
Pháp
Spar
Hà Lan
Pyaterochka
Nga
Magnit
Nga
Perekryostok
Nga
Seventh Continent Group
Nga
Kopeika
Nga
Paterson
Nga
Nguồn: Hiệp hội lương thực thế giới – Thông tin ngành của nước Nga
Các cửa hàng truyền thống
Cửa hàng giảm giá: thường tọa lạc ở các khu dân cư và chủ yếu cung cấp các sản phẩm thực phẩm. Các cửa hàng giảm giá ở Nga là Diksi, Magnit, Kopeika
Cửa hàng nhỏ trong vùng: thường tọa lạc ở các khu dân cư. Các cửa hàng này lớn là Kvartal, Pyaterochka, Kiosk.
Đây là các sạp bán hàng thường tọa lạc ở các đại lộ, gần trạm xe điện và chợ hoặc trung tâm mua sắm. Mỗi sạp thường chuyên về một mặt hàng và các sản phẩm ở đây thường có chất lượng và giá thấp.
Chợ ngoài trời: Đây là những nơi người bán có thể họp lại và mướn các sạp hàng. Các chợ bán thực phẩm thường nhỏ và có nhiều ở Nga
1.2.4. Các kênh dịch vụ ăn uống
Tại Nga, các kênh dịch vụ ăn uống ngày càng trở thành một kênh phân phối hàng thủy sản nhập khẩu quan trọng khi thu nhập của người dân tăng cao. Tuy chỉ chiếm 7% chi phí cho thực phẩm của mỗi hộ gia đình nhưng số tiền chi cho các bữa ăn bên ngoài nhà đang tăng nhanh với mức khoảng 8%/năm. Tuy nhiên số lượng nhà hàng ở Nga vẫn ở dưới mức trung bình của châu Âu, với các nhà hàng chuyên về món cá chưa nhiều.
Khoảng 20% tổng lượng thủy sản cung cấp cho các nhà hàng ở Nga là hàng thủy sản nội địa. Các nhà hàng có xu hướng dùng thủy sản ngoại hơn vì hàng nội thường không đồng nhất về chất lượng, bao bì không đạt đủ chuẩn cũng như việc giao hàng không ổn định. Đây là một tiềm năng đầy hứa hẹn cho các nhà xuất khẩu nước ngoài có chất lượng cao và phương thức hoạt động hiệu quả.
Các loại quán ăn, nhà hàng có sử dụng hàng thủy sản chính ở Nga:
Nhà hàng thức ăn nhanh: Các nhà hàng thức ăn nhanh thuộc loại phát triển nhanh nhất trong khối nhà hàng ở Nga. Chuỗi nhà hàng thành công nhất thuộc loại này là McDonald, với khoảng 100 cửa hàng ở Mat-xcơ-va và các vùng khác; tiếp đó là Rostics, với 39 cửa hàng ở các thành phố; và Sbarro với 37 cửa hàng ở Mat-xcơ-va. Tuy nhiên, thường chủng loại thủy sản dùng ở các nhà hàng loại này không mấy phong phú, họ chủ yếu dùng cá đông lạnh và các sản phẩm thủy sản đã chế biến một phần để có chất lượng đồng đều và giá thấp. Một công ty ở Nga (Ledovo) đã có ý tưởng về việc mở chuỗi cửa hàng thức ăn nhanh chuyên về cá. Cửa hàng đầu tiên, Ryba-Hit đã được mở tại trung tâm thương mại Auchan năm 2004, và từ sau đó công ty này đã có kế hoạch mở thêm 10 cửa hàng loại này nữa. Các nhà hàng loại này nhắm vào đối tượng khách có thu nhập trung bình, muốn ăn những thức ăn tốt cho sức khỏe nhưng vẫn thích thức ăn nhanh. Giá trung bình cho một bữa ăn thức ăn nhanh cá là khoảng 8 đô la, so với giá 3.3 đô la tại các cửa hàng thức ăn nhanh của McDonald’s.
Nhà hàng hạng trung: Các nhà hàng hạng trung cũng phát triển khá nhanh trong ngành này. Nhà hàng lớn nhất thuộc loại này là chuỗi nhà hàng “Sushi-Planet” thuộc tập đoàn Rosinter. Ngoài ra cũng có nhiều nhà hàng giá rẻ món Nhật như “Yakitoria” và “Gin-no-taki” của tập đoàn “Vesta-Center International”. Các nhà hàng loại này nhắm vào đối tượng khách hàng có thu nhập trung bình, thích ăn thực phẩm thủy sản có giá phải chăng.
Các nhà hàng hạng sang: Các nhà hàng hạng sang ở Nga nhắm vào đối tượng khách hàng có thu nhập cao, chuộng thực phẩm có chất lượng hàng đầu. Các nhà hàng thuộc loại này có tốc độ phát triển không cao, và thường mua thủy sản có nguồn gốc từ các nước châu Âu.
Đường đi của hàng thủy sản tại thị trường Nga và tỷ trọng của các kênh phân phối
Nhìn chung, thủy sản nhập khẩu khi vào thị trường Nga cũng đến tay người tiêu dùng thông qua các kênh phân phối như thủy sản nội địa. Các nhà nhập khẩu đóng vai trò trọng tâm trong kênh phân phối thủy sản nhập khẩu tại thị trường Nga vì chỉ một số lượng hạn chế các doanh nghiệp có giấy phép mới được nhập khẩu thủy sản vào thị trường này. Ngoài ra, nhà bán sỉ cũng đóng một vai trò khá quan trọng trong việc phân phối thủy sản nói chung và thủy sản nhập khẩu nói riêng tại thị trường Nga. Các doanh nghiệp bán sỉ thường có vốn lưu động lớn và vì vậy có thể ảnh hưởng cả việc sản xuất hàng thủy sản bẳng cách cung ứng trước vốn tiền mặt lẫn việc phân phối lẻ thông qua việc đảm bảo tín dụng.
Như đã nói trên, đối với thị trường Nga, chỉ một số lượng khá hạn chế các doanh nghiệp được phép nhập khẩu thủy sản. Vì vậy, con đường đến tay người tiêu dùng của mặt hàng này thường là từ nhà nhập khẩu đến nhà bán sỉ, sau đó được phân phối thông qua các kênh bán lẻ khác nhau.
Sự phân phối giá thủy sản tại thị trường Nga
Tại Nga, giá thủy sản tăng giảm khác nhau tùy thuộc các khu vực khác nhau. Ở các khu vực trung tâm và phía Bắc, giá cao hơn các vùng khác do ưu tiên của người dân về sức khỏe, dinh dưỡng và thức ăn ít chất béo. Mặt hàng thủy sản có chất lượng ở các phân khúc thị trường giá cao thường được người dân ưa chuộng hơn. Các số liệu về thương mại cũng chứng tỏ rằng trong khi giá bán sỉ cá hồi Na Uy đang tăng lên thì giá cá hồi nội địa lại giảm xuống.
Mức phân bố giá bình quân của cá đông lạnh tại các tỉnh của Nga, tháng 3/2010
(đơn vị: rúp/kg)
(Nguồn: tổ chức đầu tư và phân tích kinh tế Khlado Product và viện thủy sản Nga)
Tháng 4/2010, tổ chức OAA của Moscow đã thực hiện một cuộc khảo sát về giá các sản phẩm thủy sản ở phía tây Moscow tại các điểm bán lẻ và chợ trời. Các trạm thông thương theo dõi một lượng lớn sản phẩm thủy sản nội địa và nhập khẩu cao cấp. Và họ nhận thấy rằng lượng tiêu dùng đối với các mặt hàng này vẫn tăng không ngừng. Tuy vậy, các chợ trời bán hàng thủy sản nội địa là chủ yếu và thường là các mặt hàng giá thấp. Nhưng gần đây, họ cũng kinh doanh một số ít loại thủy sản cao cấp nhập từ Trung Quốc và Na Uy. Cuối năm 2008, do ảnh hưởng từ cuộc khủng khoảng kinh tế, ngu cầu tiêu dùng tăng đối với các loại thủy sản giá rẻ. Tuy nhiên, từ năm 2010, nhu cầu tiêu dùng đã khôi phục lại, đặc biệt là ở Moscow và St.Peterburg. Cuộc khảo sát cho thấy rằng kể từ 12/2009, giá bán lẻ bình quân của các mặt hàng thủy sản tăng từ 2 - 5% tùy theo chủng loại.
Giá cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa nhà bán lẻ khác và chợ trời. Giá cho 1 kg cá hồi Na Uy đông lạnh tại chuỗi bán lẻ Sed’moy Continent cao hơn khoảng 5 đô so với chợ trời Bagrationovskiy. Chuỗi cửa hàng Auchan cung cấp các mặt hàng đa dạng về thủy sản đông lạnh nội địa và nhập khẩu, cũng như các mặt hàng làm sẵn khác. Người tiêu dùng sẵn sàng bỏ qua sự chênh lệch nhỏ về giá giữa Auchan và chợ để mua sắm tại cửa hàng bán lẻ này vì có nhiều sự lựa chọn hơn, cũng như sản phẩm bắt mắt và được đóng gói tiện dụng hơn. Giá thủy sản trung bình tại các siêu thị cao cấp như “Pyaterochka” và “Sedmy Continent”, có khuynh hướng cao hơn từ 10-30% so với chợ trời. Cá hồi đông lạnh Na Uy có mức giá từ 12-16 đô/kg, từ theo mức chiếu khấu tại các chợ và cửa hàng bán lẻ có chiết khấu Auchan. Tại siêu thị Sedmoy Continent, giá của sản phẩm trên cao hơn 5 đô/kg. Nói chung, giá hàng thủy sản nhập khẩu từ Na Uy, bạn hàng lớn nhất của Nga, đã tăng 3% kể từ tháng 12/2009. Nhờ vào vụ mùa bội thu kỷ lục năm 2009, cá hồi đỏ nguyên con nội địa có giá khoảng 4.5% tại các chợ, rẻ hơn 4 đô so với cửa hàng bán lẻ cao cấp. Thậm chí, thủy sản giá thấp cũng được cho là vượt quá khả năng chi trả của người có thu nhập thấp và thích hợp với giai cấp trung lưu hơn. Để so sánh, loại cá rẻ nhất ở chợ có giá 2.8 đô/kg, gần bằng với 1 kg thịt gà đông lạnh (3 đô), thực phẩm được yêu thích thứ 2 ở Nga, sau thịt đỏ.
Cá phi lê đông lạnh chênh lệch 2-5 đô giữa cửa hàng tiện dụng, siêu thị và chợ. Trong khi đó, mức chênh lệch là khoảng 4 đô giữa hàng nội địa và nhập khẩu.
Trước thay đổi về giá, thông thường, người bán lẻ sẽ đẩy gánh nặng giá sang cho người bán sỉ chứ không phải cho người tiêu dùng. Tuy vậy, một phân tích gần đây cho thấy giá hàng thủy sản kể từ năm 2004 đã tăng trên toàn bộ chuỗi phân phối, kể cả chuỗi bán lẻ. Các con số thống kể thể hiện rằng giá bán buôn cá đông lạnh tăng 20%, cá ướp sẵn và hun khói tăng 23%, và cá đóng hộp tăng 15-20%. Giá bán lẻ đối với các mặt hàng trên tăng lần lượt là 30%, 30% và 15%. Nói chung, tỉ lệ tăng giá của khu bán lẻ cao hơn 70% so với bán sỉ, và đối với một số mặt hàng, giá bản lẻ cao hơn từ 2-2.5 lần bán sỉ.
Trên tổng thể thị trường, hệ thống bán lẻ khổng lồ ở Nga đóng vai trò tiên quyết trong việc quyết định giá. Thêm một yếu tố nữa, đó là do nhu cầu sản lượng và giá cả cố định của nhà bán lẻ, các nhà cung cấp thủy sản hy vọng họ sẽ đặt hàng với số lượng lớn và dài hạn. Trong một số trường hợp giá tăng quá cao, nhà bán lẻ có thể tìm nhà cung ứng khác thay thế. Ví dụ như giá cá hồi Na Uy tăng lên đáng kể năm 2005 đã tạo điều kiện để cá hồi đông lạnh Chi Lê du nhập vào thị trường Nga.
2. Tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam vào thị trường Nga
2.1. Khái quát thị trường thủy sản Nga đối với các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam:
Thị trường Nga là một thị trường lớn, giàu tiềm năng và được coi là tương đối “dễ tính” so với các thị trường Mỹ, EU, Nhật…
2.1.1. Thuận lợi
Với 83 bang và dân số trên 150 triệu người, Liên bang Nga là một thị trường rộng lớn và được đánh giá là thị trường quan trọng của Việt Nam ở khu vực Đông Âu. Có rất nhiều lợi thế cho các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường này, trước hết là việc hai nước đã có quan hệ truyền thống, am hiểu thị trường cũng như hàng hoá của nhau. Mặt khác, theo đánh giá của các chuyên gia thì khi đã xây dựng được uy tín với thị trường Nga, sẽ mở toang cánh cửa để các doanh nghiệp Việt Nam dễ dàng tiếp cận với các nước Đông Âu, nhất là với vùng Viễn Đông và Siberi.
Thuận lợi cơ bản là Nga không quá cầu kỳ về quy cách, mẫu mã... nên các doanh nghiệp ViệtNam dễ chế biến. Bên cạnh đó, sự ra đời của Ngân hàng Liên doanh Việt – Nga (VRB) với nhiệm vụ chính là cầu nối kinh tế, thương mại, đầu tư sẽ tạo kênh thanh toán an toàn, thuận lợi cho các doanh nghiệp. Ngân hàng cũng sẽ cung cấp các thông tin cập nhật và thiết thực cho các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời giúp các doanh nghiệp Việt Nam tạo dựng tên tuổi và uy tín trên thị trường Nga.
Mặt khác, theo thông tin từ Business Standard thì việc Nga áp đặt lệnh cấm nhập khẩu thuỷ sản với Ấn Độ từ tháng 9/2009 sẽ là một cơ hội cho thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Nga. Bởi cho đến nay, Việt Nam và Ấn Độ là hai nước có lượng xuất khẩu thuỷ sản lớn vào Nga.
Vì nhiều lý do, con người có xu hướng ăn thuỷ sản ngày một nhiều hơn. Nhất là gần đây, khi bùng nổ những nguy cơ sức khoẻ như bệnh béo phì, các vụ ngộ độc hay dịch bệnh hoành hành với hầu hết các loài gia súc, gia cầm (như bò điên, lở mồm long móng, heo tai xanh, H5N1, cúm gia cầm,...) thuỷ sản dường như đã trở thành lựa chọn an toàn nhất.
Khi nghiên cứu riêng các sản phẩm được xem là cao cấp như cá ngừ vây xanh, cá tuyết, tôm cỡ lớn,… có thể thấy nhu cầu tiêu thụ hầu như không giảm và xu hướng giảm giá cũng không rõ ràng. Tuy nhiên, khả năng cung cấp các loại thuỷ sản ấy ngày càng bấp bênh. Chỉ khi nguồn cung hạn chế, người ta buộc phải tìm đến những mặt hàng rẻ tiền hơn.
2.1.2. Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi kể trên, các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu vào thị trường Nga cũng phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Đầu năm 2009, Cục Thú y và Kiểm dịch động thực vật của Liên bang Nga (VPSS) quy định tất cả các doanh nhiệp xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Nga nhất thiết phải có giấy phép. Đây là hàng rào kỹ thuật không dễ vượt qua. Lệnh cấm này đã khiến xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Nga trong năm 2009 bị sụt giảm.
Mặt khác, Nga có nhiều quy định rất chặt chẽ cho thực phẩm nhập khẩu, cũng như đặc biệt coi trọng vấn đề uy tín và chất lượng sản phẩm, nên các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn khi làm thủ tục ban đầu. Bên cạnh đó, vấn đề kho bãi ở Nga cũng là một trở ngại lớn khi các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam thực hiện việc chuyển hàng hoá vào Nga, trong khi đó, đối với mặt hàng thủy sản, thời hạn bảo quản ngắn đã khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể đưa được hàng của mình về thị trường nông thôn.
2.1.3. Tiềm năng
Vượt qua những trở ngại đã được nhận định thì thị trường Nga sẽ là một thị trường rộng lớn, hứa hẹn với thủy sản Việt Nam. Năm 2008, xuất khẩu thuỷ sản sang Nga đạt 200 triệu USD, bằng gần 20% xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU (gồm 27 nước). Năm 2009 này, trong khi nhiều thị trường truyền thống của Việt Nam có dấu hiệu bão hòa hoặc bị sụt giảm thì thị trường Nga vẫn ổn định, thậm chí còn tăng, nhất là mặt hàng cá tra, ba sa. Thị trường Nga đóng góp một phần không nhỏ trong việc hoàn thành mục tiêu 1,3 tỷ USD xuất khẩu cá tra năm 2009.
Các con số thống kê dự kiến trên cho thấy tiềm năng của thị trường Nga trong tương lai đối với thủy sản Việt Nam. Ước tính, với đà gia tăng hiện nay, xuất khẩu thủy sản sang Nga có thể đạt mức 500 triêu USD vào cuối năm 2010.
2.2. Tình hình xuất khẩu thủy sản của các doanh nghiệp Việt Nam sang Nga:
Trong quá trình thực hiện việc nghiên cứu đề tài, nguồn tài liệu cung cấp thông tin trước năm 2007 (khi Việt Nam gia nhập WTO) khá han hẹp, nên chúng tôi xin phép giới hạn tình hình xuất nhập khẩu của thủy sản Việt Nam từ nằm 2007 trở lại đây, tuy nhiên cũng cố gắng điểm qua vài nét sơ lược về tình hình xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang thị trường Nga thời gian trước đó.
2.2.1. Tình hình xuất khẩu thủy sản sang Nga trước năm 2007:
Thời gian trước 1991, trước khi nhà nước Liên bang Nga ra đời, Việt Nam vốn đã có mối quan hệ tốt đẹp với liên bang Xô Viết cũ. Thời gian này, Việt Nam đã xuất khẩu thủy sản sang Nga, nhưng nhằm mục đích trao đổi, tăng cường mối quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam và Liên bang Xô Viết chứ không tập trung vào mục đích thương mại.
Từ năm 1995-1996, Việt Nam bắt đầu chú ý đến việc xuất khẩu thủy sản sang các nước, nhưng tập trung chủ yếu vào Nhật Bản, Mỹ và EU.
Vào khoảng từ năm 2001, xuất khẩu Việt Nam liên tục tăng và dần đạt được thứ hạng cao trong danh sách những nước xuất khẩu thủy sản trên thế giới. Vào thời gian này, đánh giá được Nga là một thị trường lớn và giàu tiềm năng, Việt Nam bắt đầu xúc tiến các kế hoạch xuất khẩu thủy sản vào Nga và đạt được những thành công nhất định.
2 năm 2005, 2006 thị trường Nga nóng lên vì sức mua hàng thuỷ hải sản tăng nhanh. Nguyên nhân là do: Dịch cúm gia cầm, dịch lở mồm long móng tại một số quốc gia cung cấp thực phẩm cho Nga, lệnh cấm nhập khẩu cá từ một số nhà máy của Nauy... Trong bối cảnh như vậy, cộng với mức độ khuyếch chương tiềm năng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam trên thị trường quốc tế, các nhà nhập khẩu Nga đã tìm đến Việt Nam. Thực tế năm 2005 và nhất là trong 5 tháng đầu năm 2006, kim ngạch xuất khẩu thuỷ hải sản của Việt Nam sang Nga đã tăng “chóng mặt”, từ chỗ chỉ chưa đầy 11 triệu USD năm 2004, năm 2005 đạt trên 33,3 triệu USD và 5 tháng đầu năm 2006 đã đạt 56,6 triệu USD.
2.2.2. Tình hình xuất khẩu thủy sản sang Nga từ năm 2007 đến nay:
Năm 2007:
Từ sau khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước đã đổi thay nhanh chóng, ngày càng phù hợp với cơ chế kinh tế thị trường. Những chính sách kiềm chế lạm phát, ổn định giá trị đồng tiền, giảm suy thoái kinh tế và thúc đẩy hồi phục đã giúp Việt Nam trở thành một trong những gương mặt sáng giá của khu vực và trên thế giới, có sức hút cao đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Về quản lý hành chính, Chính phủ đã hoàn thành giai đoạn 2 thực hiện Đề án 30 của Thủ tướng Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính, tạo điều kiện giúp DN môi trường hoạt động thông thoáng, đỡ phiền hà hơn, giảm chi phí hơn trước.
Chính phủ và Bộ NN&PTNT đã lắng nghe phản ánh của các DN thuỷ sản nhiều hơn. Các chính sách và giải pháp quản lý được đặt ra linh hoạt hơn, đáp ứng yêu cầu của sản xuất kinh doanh, chẳng hạn hỗ trợ ngư dân khai thác xa bờ và nông dân NTTS, nhanh chóng tham gia làm thành viên của Tổ chức Quản lý Nghề cá Trung Tây Thái Bình Dương, triển khai đăng ký sản phẩm khai thác biển đáp ứng yêu cầu chống sản phẩm khai thác bất hợp pháp của EU, khởi kiện ra WTO về việc Hoa Kỳ áp dụng cách tính thuế chống bán phá giá tôm bất hợp lý đối với Việt Nam, điều chỉnh chính sách thuế NK nguyên liệu thuỷ sản dành cho chế biến, v.v… Các cơ quan chức năng của Bộ NN&PTNT như Cục Thú y, Nafiqad, Cục Chế biến Thương mại Nông Lâm Thuỷ sản và Nghề Muối, … cũng tôn trọng ý kiến DN hơn khi xây dựng và thực hiện các chương trình, chính sách và văn bản quản lý mới.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cho biết, "Việt Nam đứng trong top 10 thế giới về phát triển thủy sản, với sản lượng thủy sản xuất khẩu đứng thứ 7 thế giới”.
Trong khi xuất khẩu sang thị trường Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng chậm chạp, thì thị trường Nga có bước nhảy vọt mạnh mẽ, tăng 274,6%, trong đó chủ yếu là các sản phẩm cá đông lạnh.
Sự tăng trưởng ấn tượng tại các thị trường EU và Nga, sự ổn định ở thị trường Nhật và Hoa Kỳ... đã cho thấy doanh nghiệp chế biến thủy sản VN có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng. Ở đây, cần có sự ghi nhận nỗ lực chung của ngành thủy sản, đặc biệt là các doanh nghiệp không chỉ trong việc khai thác thị trường mà cả trong tổ chức sản xuất.
Xuất khẩu cá tra, basa tuy tăng trưởng cao nhưng hiện cũng đang “mắc cạn” tại 2 thị trường lớn là Nga và Hoa Kỳ. Cả 2 thị trường này đều đang có sự thay đổi chính sách nghiêm ngặt hơn trong kiểm tra chất lượng VSATTP từ Việt Nam, nhất là cá tra, basa.
Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản từ trước tới nay, có thị trường đặt yêu cầu cao, nhưng cũng có thị trường như Liên bang Nga không định ra tiêu chuẩn cụ thể nào. Gần đây, Nga mới đặt ra qui trình rõ ràng, theo tiêu chuẩn của họ, trong đó có yêu cầu sang tận nơi kiểm tra việc nuôi trồng, chế biến thuỷ sản ở Việt Nam.
Liên bang Nga cũng yêu cầu kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm (VSATTP) đối với thủy sản Việt Nam xuất khẩu vào nước này từ ngày 15-1-2007.
Sau khi kiểm tra thực tế, Nga đã chấp thuận bước đầu 11 doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sản phẩm sang Nga. Như vậy, đây chỉ là giải quyết vướng mắc về phương pháp và thủ tục hành chính xuất nhập khẩu
Năm 2007, xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nga tăng 7,24% so với năm 2006, và đạt 113,24 triệu USD.
Năm 2008:
Hiệp Hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP) cho biết thị phần hàng thủy sản của Việt Nam tại thị trường Nga đang gia tăng và hiện Việt Nam là nhà cung cấp thủy sản lớn thứ 4 cho quốc gia này, sau Nauy, Trung Quốc và Đan Mạch.
Theo Hiệp Hội Chế biến và Xuất khẩu Thủy sản (VASEP), năm 2007 xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Nga đạt 113,8 triệu USD, chỉ thấp hơn Đan Mạch khoảng 1 triệu USD. Riêng 5 tháng đầu năm 2008, Việt Nam xuất khẩu sang Nga 37.600 tấn thủy sản, thu về gần 68 triệu USD, tăng 41% về khối lượng và 12,4% về giá trị so với cùng kỳ năm 2007.
Để đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang Nga, các doanh nghiệp Việt Nam đã tích cực cải thiện các điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nhà nhập khẩu. Đến 2008, đã có 38 doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam đủ điều kiện xuất khẩu thủy sản sang Nga.
Tại hội chợ Vietfish 2008 diễn ra ở Việt Nam hồi tháng 6, VASEP và Hiệp hội các nhà kinh doanh và Chế biến Thuỷ sản Nga đã ký thoả thuận hợp tác dựa trên nhu cầu phát triển kinh doanh giữa các doanh nghiệp thủy sản hai nước.
Thoả thuận này có hiệu lực đến hết tháng 6/2013, sẽ tạo cơ hội cho doanh nghiệp hai bên mở rộng thương mại, tăng cường hợp tác trong quản lý chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Xuất khẩu thủy sản tăng mạnh trong tháng 7/2008, Hiện thị trường Nga đang thu hút được rất nhiều doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản do nhu cầu về cá tra, cá basa tăng mạnh. Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản sang Nga trong tháng 7, tăng gấp 64 lần so với cùng kỳ năm 2007. Giá trị đạt 38 triệu USD.
Thị trường Nga xuất khẩu có chững lại, nhưng giá trị vẫn đạt 194,7 triệu USD, trong đó riêng cá tra, cá basa là 170 triệu USD. Trong năm 2008, Nga vẫn là “lực hút” lớn cho nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cá tra, basa của Việt Nam. Thị trường đơn lẻ này tiếp tục đứng đầu về nhập khẩu cá tra, basa của Việt Nam với mức tăng trên 142% về khối lượng và tăng 109% về giá trị so với năm 2007.
Cuối năm 2008 đến hết năm 2009:
Có thể nói, cùng với sự tăng đột biến của kim ngạch xuất khẩu 2008 là những bát nháo. Các doanh nghiệp (DN) cùng xuất một lượng lớn cá tra sang thị trường Nga, nhà nhập khẩu Nga cạnh tranh, giảm giá bán ra thị trường từ 60 rúp/kg xuống còn 40 rúp/kg, dẫn đến việc một số nhà nhập khẩu bị phá sản, cho đến nay còn một số nợ chưa được giải quyết.
Trong khi đó nhà xuất khẩu Việt Nam giảm giá bán từ 1,7 USD/kg (cá nguyên con) xuống 1,3 USD/kg, nhưng lại tăng tỷ lệ mạ băng từ 20% lên 30% làm chất lượng cá bị giảm xuống, mất uy tín cá tra.
Trước tình hình này, cuối năm 2008, Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Nga bị dừng lại vào cuối năm 2008 khi Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nga có quyết định tạm ngừng nhập cá tra, basa của các doanh nghiệp Việt Nam kể từ ngày 20/12/2008. . Cùng lúc với việc ra đời Ban Điều hành (BĐH) nhập khẩu Nga, BĐH xuất khẩu vào thị trường Nga từ Việt Nam cũng được thành lập và 10 công ty đã được phía Nga chấp nhận hàng xuất khẩu.
Cho tới tháng 5/2009, sau nhiều lần đàm phán, cam kết thị trường Nga đã mở cửa trở lại, cơ hội mới cho doanh nghiệp Việt. Có 39 doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào Nga trong số 606 doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản cả nước. Đây là một con số nhỏ nhưng cũng là "tín hiệu khả quan" trong bối cảnh kinh tế khó khăn.
Theo ông Dương Ngọc Minh, Trưởng Ban Điều hành xuất khẩu thủy sản vào thị trường Nga (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), mặc dù chỉ được phép xuất khẩu từ tháng 6/2009, nhưng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Nga đã gia tăng mạnh, với tổng khối lượng lên đến 36.000 tấn trong năm 2009, trị giá 70 triệu USD. Với xu thế này, dự kiến, năm 2010, kim ngạch và sản lượng xuất khẩu thủy sản vào Nga đạt mức tương đương năm 2008 (120 triệu USD), trong đó riêng cá tra là 100 triệu USD.
Xuất khẩu vào Nga tính đến ngày 15/7/2009 mới chỉ đạt 24 triệu USD, bằng 28% so với cùng kỳ năm trước. Tính riêng trong tháng 6 kim ngạch xuất khẩu vào Nga đạt 11.26 triệu USD, thấp hơn mức 17.23 triệu USD cùng kỳ năm 2008.
Tính đến ngày 15/07, Cục Hải quan cho biết mới chỉ có 22 doanh nghiệp xuất khẩu vào Nga. Doanh nghiệp đứng đầu trong danh sách công ty có giá trị xuất khẩu vào Nga là Công ty CP Việt An với 3.68 triệu USD, tiếp theo là Công ty CP Hùng Vương với 2,8 triệu USD.
Mặt hàng xuất khẩu vào Nga thì cá tra và basa vẫn là mặt hàng chủ yếu. Trong đó sản phẩm Filê đông lạnh đạt 19.75 triệu USD chiếm 82% tổng giá trị xuất khẩu,đạt hạng 5 trong các thị trường xuất khẩu cả nước. Các sản phẩm khác chế biến từ cá tra và basa là Filê tươi ướp lạnh và Filê khác cũng chiếm tỷ trọng cao so với mặt hàng thủy sản khác. Giá các sản phẩm xuất khẩu vào Nga có giá thường thấp hơn giá thị trường khác.
Hiện thủy sản Việt đang "chinh phục" lại thị trường Nga, và đất nước này chắc chắn hứa hẹn một tiềm năng tăng trưởng cao vì vậy hơn bao giờ hết, thủy sản Việt cần chú trọng đảm bảo chất lượng hàng hóa đặc biệt là mặt hàng cá tra, ba sa.
Tại buổi tổng kết tình hình xuất khẩu cá tra, basa vào thị trường Nga năm 2009 vừa được tổ chức, ông Dương Ngọc Minh, Trưởng ban điều hành cho biết, năm 2009, trong khi giá xuất khẩu vào các thị trường khác giảm từ 10%-15% thì giá xuất khẩu vào Nga tăng từ 5%-7% so với năm 2008. Theo ông Minh, qua sự hợp tác và kiểm soát chất lượng, năm 2009 không có trường hợp các lô hàng vi phạm nặng phải tạm dừng nhập khẩu vào Nga.
7 tháng đầu năm 2010
Ông Dương Ngọc Minh, Trưởng ban điều hành xuất khẩu cá tra, basa sang Nga cho biết: trong 7 tháng đầu năm 2010 xuất khẩu các mặt hàng thủy sản chế biến từ cá tra, basa vào thị trường Nga đạt hơn 20.000 tấn.
Với giá bán trung bình là 1,71 đô la Mỹ/kg, tăng 11,2 % sản lượng (hơn 2.000 tấn), giá bình quân tăng 0,09 đô la Mỹ/kg so với cùng kỳ năm 2009.
Nguyên nhân sản lượng xuất khẩu cá tra, basa vào Nga tăng một phần là nhờ các mặt hàng như thịt gà, bò, heo đang phải chịu những rào cản kỹ thuật khi xuất khẩu vào thị trường nước này nên cá là mặt hàng được tiêu thụ chủ yếu.
Ban điều hành xuất khẩu thủy sản vào Nga cũng khẳng định, mục tiêu xuất khẩu đạt 100 triệu USD trong năm 2010 nhiều khả năng sẽ đạt được. Dự kiến, một số doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản Việt Nam sẽ tham gia Hội chợ thực phẩm Thế giới Moscow 2010 diễn ra từ ngày 14/9 đến 17/9. Hội chợ thủy sản lần này sẽ là cơ hội tốt để Việt Nam quảng bá hình ảnh về nghề nuôi trồng và chế biến cá tra, basa Việt Nam qua đó tìm kiếm thêm những bạn hàng mới tại các nước trong khu vực Đông Âu.
Tuy nhiên, Ban điều hành cũng cảnh báo, từ tháng 9-2010, thời điểm của mùa vụ đánh bắt cá hồi, Nga sẽ siết chặt các mặt hàng thủy sản nhập khẩu, ít nhiều sẽ ảnh hưởng đến mặt hàng cá da trơn nhập khẩu vào thị trường này.
Ngoài ra, từ 1-10-2010 tất cả các mặt hàng thủy sản nhập khẩu vào Nga áp dụng Quy định vệ sinh dịch tễ và các tiêu chuẩn khác. Tuy nhiên, mục tiêu xuất khẩu đạt 100 triệu USD vào Nga năm 2010 nhiều khả năng đạt được.
CHƯƠNG III: LƯU Ý ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM VÀ KIẾN NGHỊ VỚI CƠ QUAN QUẢN LÝ
1. Lưu ý đối với các doanh nghiệp Việt Nam
1.1. Về chiến lược kinh doanh
Chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi tiếp cận các đối tác kinh doanh tại Nga là điều cần thiết để xuất khẩu thành công. Thu thập thông tin trên thị trường và thu hẹp những lỗ hổng thị trường làm gia tăng hiệu quả marketing. Ngoài ra, các DN nên gặp gỡ các khách hàng tiềm năng (vd: tại các hội chợ thương mại về hàng thủy sản) và thảo luận về các sản phẩm mà DN muốn chào hàng.
Các kênh cung cấp sản phẩm thủy hải sản có thể có quan hệ lâu dài với một vài công ty. Thủy hải sản tươi sống, ướp lạnh, đông lạnh đôi khi đi qua một vài nhà bán buôn trước khi chúng đến tay người tiêu dùng cuối cùng. Do đó nhà xuất khẩu cần phải tìm ra các công ty đang ở đầu của chuỗi cung ứng và đang nhập khẩu đồ thủy hải sản. Đó có thể là nhà nhập khẩu, đại lý hoặc các công ty chế biến nhập khẩu trực tiếp thủy hải sản. Nhà xuất khẩu phải quyết định xuất khẩu trực tiếp hay gián tiếp tới thị trường mục tiêu bằng cách sử dụng một chuyên gia trong kinh doanh xuất khẩu sản phẩm thủy hải sản. Xuất khẩu trực tiếp là tham vọng nhất và cũng là khó khăn nhất, vì phải tự xử lý mọi khía cạnh của quá trình xuất khẩu từ nghiên cứu thị trường và lập kế hoạch cho tới thu gom và phân phối tại nước ngoài. Đối với xuất khẩu gián tiếp, một công ty tham gia vào các dịch vụ của một công ty trung gian có khả năng tìm kiếm thị trường và khác hàng nước ngoài cho các sản phẩm của mình. Các công ty thương mại xuất khẩu, các nhà tư vấn thương mại quốc tế và các trung gian khác có thể giúp nước xuất khẩu tiếp cận chuyên môn vững vàng và các đầu mối giao dịch thương mại. Họ cập nhật thường xuyên về những phát triển trong thị trường mục tiêu. Khi quyết định lựa chọn thị trường trực tiếp hay gián tiếp, những yếu tố sau cần được xem xét: Quy mô của công ty, tính chất của các sản phẩm, kinh nghiệm và chuyên môn xuất khẩu trước đó, và các điều kiện thị trường nước ngoài.
Trước khi tiếp cận các tổ chức nước ngoài, các doanh nghiệp có thể liên lạc với các tổ chức hỗ trợ kinh doanh tại quốc gia mình (ví dụ như các tổ chắc xúc tiến thương mại hoặc Phòng Thương Mại) và các đại diện nước ngoài ở trong nước để tìm được những hỗ trợ cần thiết. Nước Nga thường có các tổ chức thúc đẩy nhập khẩu từ các nước đang phát triển thông qua các chương trình cụ thể, ví dụ như cung cấp các thông tin, số liệu thống kê, trợ giúp đặc biệt trong đào tạo và quản lý, và địa chỉ liên lạc. Ngoài ra, các nhà sản xuất, các nhà bán buôn và bán lẻ tại Nga thường được tổ chức thành các chi nhánh. Họ có thể hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu sang Nga phát triển kinh doanh của mình. Báo chí thương mại cũng có thể cung cấp những thông tin có giá trị.
1.2. Về chất lượng và khối lượng các sản phẩm thủy sản xuất khẩu
Xuất khẩu thủy sản của Việt Nam vào Nga bị dừng lại vào cuối năm 2008 khi Cục Vệ sinh an toàn thực phẩm của Nga có quyết định tạm ngừng nhập cá tra, basa của các doanh nghiệp Việt Nam kể từ ngày 20/12/2008. Lý do mà phía Nga đưa ra là do các sản phẩm cá tra và basa của Việt Nam không bảo đảm an toàn vệ sinh và bao bì sản phẩm không đảm bảo một số tiêu chuẩn kỹ thuật. Việc cấm nhập khẩu một số mặt hàng thủy sản của Nga đã ảnh hưởng nặng nề đến nhiều doanh nghiệp của Việt Nam, trong đó có một số công ty đang niêm yết trên thị trường chứng khoán. Sau thời gian gián đoạn, tháng 5/2009 thị trường Nga đã mở cửa trở lại. Theo danh sách của Hiệp hội xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) công bố có 39 doanh nghiệp được phép xuất khẩu vào Nga. Nhưng theo số liệu từ Cục Hải quan đến ngày 15/07, mới chỉ có 22 doanh nghiệp xuất khẩu vào Nga, trong số 606 doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản.
Các chuyên gia thương mại Vụ châu Âu cho rằng, hiện tượng ào ạt xuất khẩu cá tra, basa vào thị trường Nga của các DN Việt Nam đã dẫn tới tình trạng cung vượt cầu. Các DN nhập khẩu Nga phải nhanh chóng bán ra với ra với giá rất thấp để thu hồi vốn. Nhiều DN chế biến, do chạy theo lợi nhuận, đã không trung thực trong khâu sản xuất. Việc buông lỏng kiểm soát chất lượng dẫn tới tình trạng nguyên liệu bị bơm chích tạp chất quá mức cho phép nhằm tăng trọng lượng và giảm giá xuất khẩu, có khi giảm giá tới 20 cent US/kg. Đây là việc làm nguy hiểm và khó qua khỏi sự kiểm tra của các ngành hữu quan Liên bang Nga. Với mặt hàng tôm, hiện tượng gian lận thường liên quan đến trọng lượng và số lượng tôm ghi trên bao bì. Những số liệu này thường không đúng với thực tế tôm đóng gói và không đủ trọng lượng. Ví như, loại tôm trên bao bì ghi là 6-8 con/kg thì đến 9-10 con mới đủ 1 kg, hoặc bao bì ghi 1kg nhưng trên thực tế chỉ là 0,8-0,9 kg. Vụ châu Âu, Bộ Thương mại khuyến cáo về tình trạng gian lận chất lượng hàng thủy sản xuất khẩu sang Nga. Các hành vi gian lận thường gặp của các nhà chế biến thủy sản VN là cho hóa chất, nước đá vào sản phẩm để tăng trọng. Các hiện tượng gian lận này đã được cảnh báo trên Truyền hình trung ương Nga. Do vậy nếu tái diễn, nhiều khả năng mặt hàng này sẽ bị kiểm tra gắt gao về chất lượng.
Thị trường Nga đã mở song cũng ngày càng trở nên kỹ tính hơn. Để tăng kim ngạch xuất khẩu vào thị trường Nga, các cơ sở chế biến thủy sản xuất khẩu phải đáp ứng điều kiện đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong cả chuỗi sản xuất từ nguyên liệu đến thành phẩm theo quy định của Cơ quan thanh tra vệ sinh an toàn thực phẩm của Nga. Ngoài ra, đặc biệt phải chú trọng vào chất lượng sản phẩm, kiểm soát đầu vào, giảm tỷ lệ mạ băng (đá ở trong cá) từ 30% xuống còn 15%... Các doanh nghiệp còn trích 1 cent/kg cá xuất khẩu để tiến hành công tác truyền thông. Các DN xuất khẩu thủy sản Việt Nam cần đặc biệt lưu ý, tránh để xảy ra tình trạng bị kiểm tra gắt gao như với một số mặt hàng thủy sản và coi trọng chất lượng và tuân thủ luật pháp quốc tế
1.3. Về các chính sách nhập khẩu cũng như những điều kiện nhập khẩu thủy sản vào Nga
Khi Trung tâm hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam tại Nga đi vào hoạt động sẽ đóng vai trò vừa là khu công nghiệp, vừa là kho ngoại quan. Nhờ đó, hàng hóa của Việt Nam sẽ được xuất khẩu trực tiếp sang Trung tâm, được chế biến, đóng gói rồi phân phối tới các kênh tiêu thụ của thị trường Nga. Đây được xem là thông tin tốt cho các nhà xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam vào thị trường Nga.
Nga là thị trường truyền thống, sức mua mạnh song có nhiều đặc tính. Nga cũng là thị trường thường áp dụng rào cản kỹ thuật (thuế quan, phi thuế quan) để duy trì chính sách bảo hộ sản xuất trong nước. Những bất cập trong thủ tục hành chính, trong đó có cả thủ tục hải quan, cửa khẩu khiến nhiều nhà xuất khẩu Việt Nam đã e ngại khi quan hệ với thị trường này. Tuy nhiên, theo Hiệp hội Thủy sản Việt Nam (VASEP), sự bất ổn của thị trường Nga ở góc độ nào đó là “cảnh báo” về chất lượng sản phẩm thủy sản Việt Nam, sự cạnh tranh thiếu lành mạnh trong cộng đồng các doanh nghiệp xuất khẩu và cả những tác động tiêu cực của không ít doanh nghiệp thương mại. Vì vậy, có thể nói, những khó khăn này là cơ hội giúp Việt Nam tổ chức lại xuất khẩu.
Quan hệ giữa hai nhà nước Việt-Nga, về cơ bản đã thay đổi. Đặc biệt, kết quả cuộc hội đàm giữa Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Nga vào tối 15/12/2009, đã thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ kinh tế, thương mại giữa hai nước. Việt Nam và Nga sẽ nghiên cứu, chuẩn bị đàm phán một hiệp định thương mại song phương. Để nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 10 tỷ USD trong vài năm tới, Thủ tướng Nga đã hứa tạo điều kiện thuận lợi để hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này và cả Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG).
Để ngăn chặn các sản phẩm thủy hải sản không an toàn xâm nhập vào thị trường Nga, có những quy tắc nghiêm ngặt đối với việc nhập khẩu thủy hải sản. Các sản phẩm thủy hải sản, như tất cả các thực phẩm có nguồn gốc động vật, khó tránh khỏi liên quan tới pháp luật chung về an toàn thực phẩm, truy xuất nguồn gốc xuất xứ, sức khỏe động vật và sự hiện diện của các chất gây ô nhiễm. Luật pháp áp dụng cho tất cả các sản phẩm thủy hải sản (đồ tươi, ướp lạnh, đông lạnh và qua chế biến). Tuân thủ pháp luật về an toàn sức khỏe và an toàn thực phẩm là yếu tố quyết định để doanh nghiệp đạt được mục tiêu tiếp cận thị trường. Tất cả các sản phẩm thủy hải sản được nhập khẩu vào Nga phải đáp ứng các yêu cầu về y tế và thú y. Vì vậy, với mỗi lô hàng thủy hải sản phải kèm theo chứng chỉ y tế.
Từ ngày 1/1/2009, Cục Thú y và Kiểm dịch động thực vật Liên bang Nga (VPSS) sẽ áp dụng nhiều quy định mới, nhằm tăng cường kiểm soát chất lượng hàng thủy sản nhập khẩu. Theo quy định mới của Nga, chỉ có các công ty và tàu cá được VPSS công nhận mới được phép xuất khẩu thuỷ sản vào nước này. VPSS cũng là đơn vị cấp phép cho các công ty nhập khẩu thuỷ sản của Nga.
Riêng đối với thuỷ sản Việt Nam, từ năm 2006, Nga đã áp dụng các quy định nghiêm ngặt, theo đó VPSS kiểm tra trực tiếp đối với sản phẩm thuỷ sản và các doanh nghiệp (DN) chỉ được phép xuất khẩu vào thị trường này dựa trên công suất thực tế của nhà máy, tức là không được phép đưa sản phẩm làm gia công ở các cơ sở chế biến bên ngoài. Chặt chẽ hơn, trước khi hàng xuất vào thị trường Nga phải được cơ quan chuyên ngành Việt Nam cấp chứng thư điều kiện xuất khẩu, chứng thư này sau đó được VPSS kiểm định lại.
Từ ngày 1/1/2010, Cơ quan giám sát tiêu dùng Nga sẽ thực hiện yêu cầu mới đối với cá đông lạnh. Cụ thể, trong lượng tịnh chỉ tính trọng lượng cá không kể lợp mạ băng. Nếu cá được tái đông lạnh, thì người sản xuất cũng phải chỉ rõ thực tế đó và không quên gắn nhãn hiệu cá ướp gia vị, cá muối được làm lạnh như sản phẩm đông lạnh. Lượng mạ băng được xác định theo tiêu chuẩn và cho phép nhiều nhất trong các sản phẩm cá khác nhau. Ví dụ, đối với cá đông lạnh là 5% trọng lượng tịnh, các loại tôm đông lạnh là 6%, các loại thân mềm, thủy sản khác không quá 8%. Chỉ có thịt cá đã lọc khi chế biến có sử dụng chất phụ gia thực phẩm, thì được phép mạ băng nhiều hơn, nhưng không quá 14%.
Sản phẩm thủy sản xuất khẩu của một số doanh nghiệp Việt Nam vào thị trường Nga trong thực tế có lớp mạ băng vượt tiêu chuẩn cho phép khá nhiều. Phía Nga đã cảnh báo vấn đề này. Thủy sản là mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nga, các doanh nghiệp kinh doanh, xuất khẩu thủy sản, trong đó có thủy sản đông lạnh, cần lưu ý những quy định mới của thị trường Nga trong thời gian tới để giữ và phát triển tiếp thị phần.
2. Kiến nghị đối với Chính phủ:
2.1. Xây dựng và củng cố các cơ quan, tổ chức của Việt Nam ở Nga:
Doanh nghiệp Việt Nam khi hợp tác giao thương, hoạt động mua bán ở nước ngoài luôn cần có sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức của Nhà nước, chẳng hạn như hiện nay ta có Trung tâm hỗ trợ xuất khẩu của Việt Nam tại Nga. Các cơ quan, tổ chức này chịu trách nhiệm trong việc giám sát hoạt động xuất nhập khẩu, thông báo các quy định của Nga cũng như các lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời nắm rõ thị trường nhập khẩu thủy sản tại Nga nhằm nắm bắt cơ hội mở rộng xuất khẩu cho doanh nghiệp Việt Nam và theo dõi, tạo điều kiện cho tiến trình xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam diễn ra thuận lợi.
Các cơ quan, tổ chức này cũng cần có mối liên hệ hợp tác chặt chẽ với Chính phủ Nga nhằm nắm bắt kịp thời các thay đổi trong chính sách, quy định và thông báo cho doanh nghiệp. Chính phủ cần xây dựng cơ chế hợp tác giữa cơ quan thẩm quyền của Việt Nam và nước nhập khẩu để kiểm soát chất lượng, bàn bạc kế hoạch cụ thể trong xuất nhập khẩu, thống nhất khung giá hợp lý và đảm bảo vấn đề thương hiệu.
Các doanh nghiệp thật sự rất cần sự hỗ trợ từ phía các cơ quan, tổ chức này. Chính phủ nên củng cố và phát huy các cơ quan, tổ chức loại này nhằm đảm bảo chúng hoạt động hiệu quả, minh bạch, làm chỗ dựa vững chắc cho doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài.
2.2. Theo dõi hoạt động của các doanh nghiệp:
Theo các chuyên gia trong ngành thủy sản, một trong những nguyên nhân khiến tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam còn chưa đạt đến mức tối đa là do các doanh nghiệp xuất khẩu lớn chưa hợp tác với nhau, thậm chí có trường hợp còn cạnh tranh không lành mạnh. Vì vậy, Chính phủ cần theo dõi và hạn chế tối đa tình trạng này vì lợi ích quốc gia cũng như lợi ích của các doanh nghiệp. Chính phủ có thể hoàn thiện hệ thống pháp luật, bổ sung các quy định về hợp tác và cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp, cũng như đưa ra các chiến lược khuyến khích doanh nghiệp phối hợp và liên kết với nhau nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp Việt Nam cùng nhau hợp tác và đẩy mạnh sản lượng xuất khẩu lên mức tối ưu.
2.3. Hỗ trợ doanh nghiệp:
Hiện nay ở Việt Nam chỉ có khoảng 30 doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu thủy sản sang thị trường Nga. Để đẩy mạnh sản lượng xuất khẩu, Chính phủ nên hỗ trợ cho doanh nghiệp về mặt tài chính cũng như pháp lý. Cụ thể, Chính phủ cần hỗ trợ kinh phí cho việc trang bị máy móc, thiết bị và chi phí kiểm tra dư lượng kháng sinh và vệ sinh an toàn thực phẩm (kể cả khâu thu mua nguyên liệu, sơ chế, sản xuất và xuất khẩu) cho doanh nghiệp; xem xét giảm thuế nhập khẩu nguyên liệu thủy sản trên cơ sở tham khảo các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam như Trung Quốc, các nước ASEAN; đơn giản hoá các thủ tục hải quan, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xúc tiến việc nhập khẩu nguyên liệu, góp phần giảm giá thành sản xuất thuỷ sản xuất khẩu và tăng tính cạnh tranh; tăng cường việc cho vay vốn ưu đãi nuôi trồng thuỷ sản đối với người dân và doanh nghiệp. Như vậy, Chính phủ vừa hỗ trợ cho các doanh nghiệp gia tăng sản lượng xuất khẩu, vừa tạo điều kiện cho các doanh nghiệp khác muốn tham gia xuất khẩu vào thị trường Nga, đưa . các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam thâm nhập sâu hơn vào thị trường nước ngoài.
2.4. Quản lý và giám sát hàng xuất khẩu:
Vừa qua, Chính phủ Nga đã ra lệnh cấm mặt hàng cá tra của Việt Nam xuất khẩu sang Nga với lý do khối lượng mạ băng của cá vượt quá mức quy định. Chính phủ cần điều phối các cơ quan quản lý, giám sát hoạt động xuất nhập khẩu một cách chặt chẽ, cũng như đưa ra những quy định thực thi nghiêm ngặt hơn đối với mặt hàng thủy sản nói riêng và hàng hóa xuất khẩu nói chung. Các cơ quan quản lý của Chính phủ phải đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát an toàn vệ sinh chất lượng hàng thuỷ sản từ khâu nuôi trồng - nguyên liệu tới thành phẩm, đảm bảo hàng xuất khẩu của ta đáp ứng đúng quy định về chất lượng mà phía Nga đưa ra. Chính phủ phải mạnh tay trong việc giữ uy tín cho hàng thuỷ sản của Việt Nam cũng như đáp ứng được yêu cầu của thị trường nhập khẩu, nghiên cứu và lai tạo các giống mới có chất lượng cao.
2.5. Thúc đẩy và tạo động lực phát triển ngành khai thác thủy sản và xuất khẩu thủy sản:
Ngoài việc giám sát chặt chẽ chất lượng hàng xuất khẩu, Chính phủ còn cần phải đưa ra các chính sách, chương trình khuyến khích doanh nghiệp Việt Nam đảm bảo sản lượng xuất khẩu và chất lượng hàng xuất khẩu. Chẳng hạn, Chính phủ có thể đưa ra mức trợ cấp nhằm thúc đẩy các doanh nghiệp gia tăng sản lượng xuất khẩu; đưa ra các chương trình kiểm soát chất lượng hàng xuất khẩu song song với khen thưởng doanh nghiệp đáp ứng đúng tiêu chuẩn.
Bên cạnh đó, Chính phủ nên có các biện pháp duy trì tốc độ phát triển của ngành thủy sản hiện nay trên cơ sở tăng cường các yếu tố đảm bảo phát triển bền vững như: tái tạo nguồn lợi, an toàn cho ngư dân, từng bước điều chỉnh cơ cấu nghề cá, giảm khai thác ven bờ, phát triển đánh bắt xa bờ.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu các kênh phân phối thủy sản nhập khẩu tại Nga để rút ra các lưu ý cho doanh nghiệp Việt Nam hiện nay là một vấn đề cấp thiết nhằm khôi phục lại quan hệ kinh tế song phương với Liên bang Nga, thực hiện chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa thị trường mà Chính phủ đã đề ra, nâng cao hơn nữa hiệu quả của các mối quan hệ thương mại, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Mặt hàng thủy sản là mặt hàng chủ lực của Việt Nam xuất khẩu sang Nga trong những năm gần đây. Mặc dù kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này đã tăng lên đáng kể nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm lực của hai nước. Tìm hiểu về cách thức họat động của thị trường thủy sản nhập khẩu tại Nga và những hạn chế trong việc xuất khẩu của Việt Nam sẽ giúp doanh nghiệp Việt Nam tăng khả năng xâm nhập vào thị trường Nga.
Với thực trang về các kênh phân phối của thị trường Nga như đã nêu trong bài, có thể thấy rõ hệ thống phân phối ở Nga còn gặp nhiều khó khăn, môi trường kinh doanh chưa ổn định và nhất quán, cách thức thực hiện có những điểm khác với thị trường khác và khác hẳn với thị trường Việt Nam, nhưng Nga vẫn là thị trường thủy sản rộng lớn. Thị trường Nga tương đối tự do xét về các hàng rào phi thuế quan so với các nước khác trên thế giới. Các yêu cầu thủ tục nhập khẩu không quá khắt khe, tuy thuế đánh vào hàng nhập khẩu còn cao, nhất là khi Nga vẫn chưa gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Đứng trước thực trạng còn nhiều khó khăn, các doanh nghiệp cần phát huy hết nội lực, lựa chọn các giải pháp phù hợp và cấp thiết , khôi phục và tăng trưởng nhanh khả năng chiếm lĩnh thị trường thủy sản đầy tiềm năng của Nga. Song song đó, các cơ quan chức năng có thẩm quyền cũng cần quan tâm sâu sát, hỗ trợ kịp thời các doanh nghiệp và người nông dân trong việc giải quyết thủ tục, hỗ trợ vốn trong thời kì khó khăn.
Hội nhập với kinh tế thế giới, nền kinh tế Việt Nam cần tận dụng triệt để và phát huy tối đa những lợi thế để phát triển những thương hiệu hàng hóa của Việt Nam trên thế giới, gia tăng xuất khẩu nhằm cân bằng cán cân thanh toán và mặt hàng thủy sản được đánh giá là mặt hàng chủ lực trong thời gian tới cần được phát huy hết các tiềm năng và thế mạnh của mình.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các kênh phân phối thủy sản nhập khẩu tại thị trường nga và các lưu ý đối với doanh nghiệp xuất khẩu việt nam.doc