Đề tài Ứng dụng lý thuyết hành vi để quản trị rủi ro trên thị trường chứng khoán

TÓM TẮT ĐỀ TÀI 1. Lý do chọn đề tài: Trước đây, chỉ có các nhà đầu tư nhỏ tham gia vào thị trường chứng khoán mới được 6 năm tuổi của Việt Nam. Còn hiện nay, các công ty tài chính phố Wall đã tiến đến TP.HCM, trung tâm kinh tế của VN. Cùng với Citigroup, JPMorgan cũng đang nhảy vào thị trường tài chính của Việt Nam, điều này chứng tỏ Việt Nam đang có những bước tiến vượt bậc để hoà nhập vào nền kinh tế thế giới. Theo tờ báo The Wall Street Journal (Mỹ), chứng khoán Việt Nam đang là câu chuyện nóng nhất trên các thị trường mới nổi lên hiện nay. Tổng số vốn giao dịch tăng từ 1 tỷ lên 15 tỷ USD, một sự tăng trưởng quá nóng, đồng thời thị trường Việt Nam cũng ngầm cho thấy dấu hiệu của một thứ bong bóng cổ điển, Giá cổ phiếu đã lên gần với mức giá của các cổ phiếu Internet hồi những năm 90 thế kỷ trước. Rất nhiều lí do đưa ra để giải thích cho sự phát triển mãnh liệt này, trong đó phần lớn cho rằng một trong những nguyên nhân chính là do tâm lí bầy đàn, đầu tư theo phong trào của các nhà đầu tư trong nước. Và lâu nay vẫn có quan niệm sai lầm rằng chỉ ở Việt Nam mới có tâm lí bầy đàn. Sự thật tâm lí đám đông đã xuất hiện ở hầu hết các thị trường mới nổi, ngay cả ở các thị trường phát triển, vẫn có những giai đoạn tồn tại tâm lí đám đông. Lịch sử đã chứng kiến nhiều vụ nổ bong bong và khủng hoảng như khủng hoảng hoa tulip – Hà Lan, đại suy thoái thế giới, khủng hoảng 1987 Vì vậy, vấn đề được đặc ra là những động thái phức tạp của nhà đầu tư được giải thích như thế nào và thị trường Việt Nam còn tồn tại những ưu - nhược điểm gì cần hoàn thiện và phát triển, những giải pháp nào cần phải thực hiện để khắc phục tình trạng trong thời gian qua, và những giải pháp nào cần hướng đến trong tương lai. Có lẽ đã đến lúc dùng đến các lý thuyết cơ bản dựa trên tâm lý con người để giải thích và phòng tránh những bất thường trên thị trường chứng khoán để đóng góp vào công cuộc phát triển nền kinh tế nói chung và TTCK nói riêng. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu về cơ sở lý luận của lý thuyết hành vi và quản trị rủi ro. Nghiên cứu về thị trường chứng khoán trong năm 2006,2007. Nghiên cứu về tình trạng đầu tư theo bầy đàn trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Đề ra những giải pháp để quản trị rủi ro trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 3. Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng phương pháp so sánh, đánh giá trực tiếp trên số liệu khảo sát được. Ứng dụng lý thuyết của tài chính học hành vi để giải thích, phân tích và kết luận về số liệu và tình trạng thực tiễn. Kết hợp các kiến thức đã học và nghiên cứu diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, tìm hiểu những kinh nghiệm, những vấn đề vướng mắc của các nước tương tự nền kinh tế Việt Nam nhằm đề ra các giải pháp thích hợp trong từng giai đoạn. 4. Kết cấu của đề tài: Đề tài gồm 3 chương: Chương 1: Tài chính học hành vi và quản trị rủi ro. Chương 2: Tổng quan về thị trường chứng khoán Việt Nam và các câu chuyện của thế giới. Chương 3: Ứng dụng lý thuyết hành vi để quản trị rủi ro trên thị trường chứng khoán. MỤC LỤC TÓM TẮT ĐỀ TÀI CHƯƠNG 1 TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO Trang 1 1.1. LÝ THUYẾT HÀNH VI: 1 1.1.1. Định nghĩa: 1 1.1.2. Phương pháp luận: 1 1.1.2.1. Những nguyên lý cơ bản của tài chính hành vi: 2 - Hành vi không hợp lí: - Hành vi không hợp lí mang tính hệ thống: - Giới hạn khả năng kinh doanh chên lệch giá trên thị trường tài chính: 1.1.2.2. Các ứng dụng của lý thuyết hành vi: 6 1.2. LÝ THUYẾT HÀNH VI VÀ LÝ THUYẾT THỊ TRƯỜNG HIỆU QUẢ: 7 1.3. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA QUẢN TRỊ RỦI RO: 9 1.3.1. Các loại rủi ro trong đầu tư chứng khoán: 10 1.3.1.1. Rủi ro hệ thống: 10 1.3.1.2. Rủi ro không hệ thống: 10 1.3.2. Xác định mức bù rủi ro: 11 1.3.3. Quy trình quản trị rủi ro: 11 1.4 TÀI CHÍNH HỌC HÀNH VI VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO: 11 Kết luận chương 1 12 ***** CHƯƠNG 2 TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ CÁC CÂU CHUYỆN CỦA THẾ GIỚI 13 2.1. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM: 13 2.1.1. Tổng kết thị trường chứng khoán năm 2006: 13 2.1.2. Tổng kết thị trường chứng khoán năm 2007: 15 2.1.3. SCIC - Giải pháp kích cầu của chính phủ năm 2008: 17 2.1.3.1. Những lợi ích từ hoạt động của SCIC: 17 2.1.3.2. Những tác hại từ hoạt động của SCIC: 20 2.1.4. Chỉ số VN-Index năm 2006, 2007 và 3 tháng đầu năm 2008: 23 2.2. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VÀ TÂM LÝ BẦY ĐÀN: 23 2.3. NHÌN LẠI CÁC CUỘC SỤP ĐỔ CỦA NỀN KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI: 25 2.3.1. Cơn sốt hoa tulip thế kỉ 17: 26 2.3.2. Câu chuyện bong bóng và sự sụp đổ của thị trường chứng khoán 1987: 27 2.4. BONG BÓNG TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM: 28 Kết luận chương 2 30 ***** CHƯƠNG 3 ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT HÀNH VI ĐỂ QUẢN TRỊ RỦI RO TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. 31 3.1. GIẢI PHÁP CHUNG CHO THỊ TRƯỜNG TRONG DÀI HẠN: 31 3.1.1. Chứng khoán phái sinh - giải pháp cho tương lai: 31 3.1.1.1. Áp dụng các sản phẩm phái sinh vào thị trường chứng khoán có giải quyết được tình trạng xấu do “tâm lí bầy đàn” gây nên không? 31 3.1.1.2. Sử dụng công cụ phái sinh để quản trị rủi ro: 31 3.1.1.3. Thời điểm nào thích hợp để áp dụng chứng khoán phái sinh: 32 ● Viễn cảnh của TTCK sẽ ra sao nếu áp dụng chứng khoán phái sinh vào thời điểm hiện nay: ● Thời điểm nào là phù hợp: 3.1.1.4. Xây dựng những vấn đề cơ bản để đảm bảo việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh được bền vững: 34 3.1.2. Phát triển quỹ đầu tư chứng khoán: 36 3.1.3. Các giải pháp vi mô: 37 3.1.3.1. Cần đảm bảo tính minh bạch, công khai của thị trường: 37 3.1.3.2. Hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường: 37 - Xây dựng một phần mềm để theo dõi các tài khoản giao dịch : - Ổn định thuế đánh trên nhà đầu tư chứng khoán: - Giảm biên độ dao động giá: 3.1.3.3. Tăng chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán: 40 3.1.3.4. Nâng cao kiến thức, năng lực đầu tư chứng khoán cho công chúng và nhà đầu tư: 40 3.1.3.5.Hoàn thiện hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng cho TTCK: 41 3.1.4. Các giải pháp vĩ mô : 42 3.1.4.1. Duy trì một nền kinh tế ổn định: 42 3.1.4.2. Ổn định chính sách tiền tệ quốc gia: 43 3.1.4.3. Duy trì một chính sách tài chính phù hợp: 44 3.1.4.4. Phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ và chính sách tài chính: 44 3.2. GIẢI PHÁP CHO NHÀ ĐẦU TƯ: 44 3.2.1 Kết quả khảo sát thực trạng về nhận thức, kiến thức và hành vi đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam: 44 3.2.2. Chiến lược cho nhà đầu tư: 45 3.2.2.1. Nâng cao kiến thức cá nhân: 45 3.2.2.2. Xây dựng danh mục đầu tư: 46 3.2.2.3. Thực hiện chiến lược: 47 3.3. HƯỚNG GIẢI QUYẾT CẤP BÁCH CHO THỊ TRƯỜNG DỰA TRÊN 2 LOẠI RỦI RO CHÍNH: 47 LỜI KẾT 50 TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 - Lịch sử hình thành và phát triển của tâm lý hành vi: PHỤ LỤC 2 - Bảng 1:Các trường phái tâm lý và ứng dụng trong tài chính hành vi PHỤ LỤC 3 – Các sự kiện nổi bật trên TTCK trong năm qua theo bình chọn của Vnexpress. PHỤ LỤC 4 - Bảng 2: Phân tích báo cáo tài chính FPT so với các đại gia công nghệ của thế giới như Microsoft, Google, Yahoo, Oracle, và bình quân ngành. PHỤ LỤC 5 – Bong bóng là gì, sự hình thành bong bóng và khái niệm về sự sụp đổ. PHỤ LỤC 6 - Chứng khoán phái sinh. PHỤ LỤC 7 - Bảng Câu Hỏi khảo sát. PHỤ LỤC 8 - Giá 15 chứng khoán trong 40 tháng từ 1/2004 – 12/2007. PHỤ LỤC 9 - Cổ tức. PHỤ LỤC 10 - Dữ liệu TSSL 15 chứng khoán. PHỤ LỤC 11 - Ma trận phương sai - hiệp phương sai. PHỤ LỤC 12 - Chạy solver với hằng số c để tìm ra tỷ trọng đầu tư vào danh mục.

pdf64 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3108 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ứng dụng lý thuyết hành vi để quản trị rủi ro trên thị trường chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iao dịch trên TTCK Việt Nam vẫn theo kiểu “tiền trao, cháo múc”. Để thị trường phát triển, cần tiến tới cho phép thực hiện các nghiệp vụ mới như giao dịch quyền chọn, cho vay cầm cố, hợp tác đầu tư, mua bán kỳ hạn… Nhưng không phải là thời điểm này, vì hiện tại TTCK Việt Nam còn kém về quy mô đặc biệt là kiến thức của các nhân viên và cả nhà đầu tư, tính thanh khoản và chuyên nghiệp còn rất thấp, nếu áp dụng công cụ chứng khoán phái sinh vào thời điểm này cũng sẽ góp phần đẩy thị trường tuột dốc không hãm phanh, đồng thời hiện tại các nhà đầu tư đang mất lòng tin với thị trường, và nếu các nhà đầu tư có vốn lớn họ sẽ dựa vào công cụ này để đánh giá xuống.Tuy nhiên các công cụ option và forward rất hữu ích để tăng tính thanh khoản cho thị trường, làm cho thị trường trở nên chuyên nghiệp hơn, hạn chế một phần nào rủi ro của NĐT và đạt lợi nhuận cao hơn. Và đều này sẽ được thực hiện vào một ngày không xa sau khi TTCK và các nhà đầu tư có một hiểu biết nhất định. Lãnh đạo UBCK đã từng công bố năm 2008, khối CTCK có thể được áp dụng tài khoản ký quỹ (margin accout). Đây chính là một trong những hình thức cho phép CTCK hỗ trợ một phần vốn cho NĐT khi giao dịch và các thành viên thị trường đang rất chờ đợi công cụ này. Đây cũng là tín hiệu, một bước khởi đầu cho sự mong đợi chứng khoán phái sinh sẽ ra đời vào một ngày không xa. ● Thời điểm nào là phù hợp:“Thời điểm nào là phù hợp”, một câu hỏi khó, nhưng theo quan điểm cá nhân thì đó là khi nào các nhà đầu tư lấy lại niềm tin đối với thị trường, thị trường hồi phục lại cùng với sự hiểu biết của các nhà đầu tư và nhân viên ở một mức độ khá tốt, và công nghệ thông tin là điều ko thể thiếu, một môi trường pháp lý hoàn chỉnh cũng là một nhân tố quan trọng nhằm đảm bảo các hoạt động được công khai, minh bạch và đảm bảo. 3.1.1.4. Xây dựng những vấn đề cơ bản để đảm bảo việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh được bền vững: ● Thứ nhất: Quy định về giới hạn và giá mua: Quy định này nhằm khống chế các nhà đầu tư đưa ra những mức giá quá cao hay quá thấp làm cho thị trường bị xáo trộn hay bị bóp méo. Nói cách khác, đây là những quy định nhằm kiểm soát (không ngăn cấm) các nhà đầu cơ tác động lên giá cả. Dĩ nhiên là mặt trái của quyền chọn là đầu cơ rất cao. Các nhà đầu cơ có thể đầu cơ giá lên hoặc đầu cơ giá xuống bằng các quyền chọn mua và bán. Việc đầu cơ giá trên hợp đồng quyền chọn chứng khoán có thể làm cho cổ phiếu biến động vượt ra khỏi biên độ dự kiến và do đó làm mất niềm tin của các nhà đầu tư vào thị trường mà chúng ta đã kỳ vọng. Quyền chọn có điều kiện là một dạng quyền chọn lai tạp giữa các quyền chọn phức tạp ở các nước phát triển nhưng nó làm giảm nhẹ đi tính đầu cơ để tránh thua lỗ tối đa cho các nhà đầu tư và thậm chí các nhà đầu cơ có ham muốn dùng quyền chọn như một công cụ kiếm lời. ● Thứ hai: Yêu cầu về vốn và thế chấp trong giao dịch công cụ tài chính phái sinh. Kể từ vụ sụp đổ của công ty Enron, các nhà kinh tế đã bắt đầu thảo luận để đặt ra những qui định về thế chấp tài sản trên các hợp đồng phái sinh để chắc chắn nhà đầu tư sẽ tuân thủ hợp đồng mỗi khi có những biến động cao trong giá. Mức duy trì có thể là một khoản tối thiểu mà khi tài khoản ký quỹ giảm xuống một mức nào đó, thì cách tham gia hợp đồng bổ sung vào. Trong điều kiện Việt Nam, mức tài khoản ký quỹ và mức duy trì ắt phải là rất cao. Đối với các nhà môi giới trên các hợp đồng phái sinh yêu cầu đầu tiên là phải có đủ vốn, mặc dù họ chỉ là những ngân hàng hoặc các công ty không trực tiếp tham gia vào các giao dịch phái sinh. Yêu cầu về vốn rất quan trọng, vì chúng giúp cho hệ thống các ngân hàng Việt Nam giảm bớt những nguy cơ về động cơ sẵn sàng chấp nhận rủi ro để tránh tình trạng mất khả năng thanh toán của nhà môi giới. ● Thứ ba: Yêu cầu bắt buộc về tái phòng ngừa rủi ro trên các thị trường quốc tế. Yêu cầu này nhằm khống chế và bắt buộc hệ thống ngân hàng thương mại trong nước không được gánh chịu những rủi ro từ người mua các hợp đồng quyền chọn hoặc kỳ hạn. Các ngân hàng chỉ là trung gian, đứng ra thu phí giữa người mua trong nước và sau đó đem bán lại trên thị trường thế giới. Quy định này được áp dụng trong hầu hết các nứơc phát triển, nhưng trong điều kiện Việt Nam chúng ta bắt buộc các ngân hàng về các giao dịch này còn hạn chế nhiều, đó là chưa kể đến những yếu kém về vốn trong hệ thống ngân hàng thương mại. Ngoài ra, Việt Nam cần xem xét và khẩn trương tham gia vào các thoả thuận giao dịch hoán đổi theo quy định quốc tế thì mới có đủ điều kiện có thể tham gia ký các hợp đồng tái bảo hiểm từ các giao dịch phái sinh trong nước. ● Thứ tư : Yêu cầu mở cửa thị trường tự do cho tất cả các định chế triển khai các hợp đồng phái sinh. Mở cửa thị trường các công cụ tài chính phái sinh, để tránh tình trạng phổ biến hiện nay là chính phủ chỉ cho phép một số ngân hàng làm thí điểm. Có thể nói “thí điểm” hiện nay là một căn bệnh của các cơ quan hoạch định chính sách. Trong những trường hợp như thế, giá trị hợp lý của các hợp đồng phái sinh sẽ chỉ là độc quyền của một số ngân hàng, và chắc chắn sẽ cao hơn trên thị trường thế giới. Tất cả những bóp méo giá trị các hợp đồng phái sinh sẽ đẩy sang phía người mua gánh chịu. Tác dụng ngược của các độc quyền là hoặc sẽ không tồn tại công cụ phòng ngừa rủi ro trên thực tế, do giá phí quá cao làm nản lòng các nhà đầu tư, hoặc là các nhà đầu tư sẽ càng chấp nhận mạo hiểm cùng tham gia canh bạc với cái giá phải trả rất cao với hy vọng gỡ gặc lại bằng cách hy vọng đầu cơ trên những thị trường bất đầu cơ trên không khí bất ổn của giá cả thị trường. Chính vì thế mà cần xem xét để tạo ra một thị trường tự do, để các định chế tài chính có đủ các điều kiện có thể cung cấp các sản phẩm phái sinh. Và dĩ nhiên đi liền với đó là thiết lập khung quản lý chung cho các định chế này. ● Thứ năm: Yêu cầu về tính minh bạch. Đây là một chuẩn mực bắt buộc nhằm làm tăng tính minh bạch cho tất cả thành viên tham gia thị trường. Tất cả các thành viên tham gia thị trường phái sinh phải hiểu hết về nhau trước khi tiến hành các giao dịch với nhau để cuộc chơi tăng thêm phần minh bạch và có lợi cho thị trường giao dịch. ● Thứ 6: Hoàn thiện những quy định tài chính kế toán liên quan, nâng cao tính thanh khoản của sản phẩm phái sinh. Hiện nay, các công cụ phái sinh chưa có thị trường giao dịch chính và hiện tại chúng ta vẫn còn thiếu nhiều cơ chế tạo ra các hành lang đảm bảo các hoạt động được trôi chảy. Tuy nhiên, đi đôi với việc phát triển thị trường là việc nâng cao chất lượng hàng hoá cho thị trường. Hàng hoá ở đây chính là các công cụ tài chính phái sinh, từ các công cụ thuần nhất tới các công cụ lai tạp. Và vấn đề không chỉ nằm ở chỗ đa dạng hoá các sản phẩm, đáp ứng các nhu cầu của thị trường. Cần chú ý tới chất lượng hàng hoá. Ở đây, chính là tính hợp pháp, tính thanh khoản, khả năng thích ứng với các loại rủi ro của các công cụ tài chính phái sinh. Do vậy cần hoàn thiện các đặc trưng kỹ thuật của các công cụ tài chính phái sinh, đáp ứng nhu cầu và mức độ phát triển của thị trường. *Vì vậy, đối với các Options chứng khoán, hiện nay chưa được áp dụng triển khai thì đây là thời điểm chính muồi để triển khai Options chứng khoán vì tốc độ phát triển thời gian qua khá nhanh, giá tăng – giảm đột biến, do đó nhu cầu về Options càng trở nên cấp bách. Nếu có công cụ Options, nhà đầu tư không bị hoảng loạn vì gần như họ đã mua “bảo hiểm” về giá cho các chứng khoán của mình. Song song với việc triển khai các công cụ tài chính phái sinh thuần nhất, nên có những tiếp cận đối với các sản phẩm lai tạp. Các sản phẩm quản trị rủi ro lãi suất, tỷ giá, giá cả và cả rủi ro tín dụng đã xuất hiện trên thị trường Việt Nam. Thời gian tới sẽ vẫn tiếp tục nâng cao hơn nữa chất lượng của thị trường tài sản cơ cở . Từ đó, sẽ là cơ sở có thể định giá các sản phẩm phái sinh hiệu quả nhất. 3.1.2. Phát triển quỹ đầu tư chứng khoán: - Như chúng ta đã biết, hiện tại về kiến thức của các nhà đầu tư là có hạn vì vậy mà họ phải gánh chịu rủi ro rất cao trên thị trường chứng khoán, và đây cũng là nguyên nhân dẫn đến tâm lý bầy đàn diễn ra khá mạnh mẽ trong thời gian qua, và đã làm cho thị trường chứng khoán Việt Nam có những đợt tăng giảm khá bất thường và không ổn định. Chính vì vậy việc phát triển và mở rộng các quỹ đầu tư chứng khoán là khá cần thiết nhằm hạn chế rủi ro cho các nhà đầu tư bằng cách xây dựng và quản lý danh mục, đồng thời các quỹ đầu tư cũng góp phần tạo sự phát triển ổn định cho thị trường thông qua phương pháp đầu tư chuyên nghiệp. - Vì vậy mà chính phủ cũng nên xem xét khả năng cho phép thành lập chi nhánh, công ty quản lý quỹ 100% vốn nước ngoài ở Việt Nam để quản lý, đồng thời thu hút có hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài, tăng cường tính công khai minh bạch. Tuy nhiên để phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán thì các cơ quan quản lý cần phải quan tâm một số vấn đề như sau: Cần tạo môi trường cạnh tranh công bằng bằng cách hoàn thiện hệ thống pháp lý, nhằm đảm bảo cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp hoạt động một cách an toàn và hiệu quả. Các quy chế tổ chức và hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán cần được tiếp tục xem xét, sửa đổi, bổ sung. Đồng thời không ngừng hoàn thiện chế độ kiểm toán hiện tại và ban hành chế độ kế toán kiểm toán riêng đối với các quỹ đầu tư chứng khoán. Các công ty bảo hiểm có nguồn tài chính rất dài hạn và ổn định nên nếu các công ty bảo hiểm tăng tỷ lệ đầu tư vào cổ phiếu thì sẽ góp phần đáng kể vào việc thúc đẩy sự phát triển của thị trường cổ phiếu nên cần phải có những biện pháp thu hút các quỹ bảo hiểm xã hội và các công ty bảo hiểm tham gia đầu tư vào TTCK. Có những chính sách ưu đãi về tài chính cho các quỹ đầu tư. Vì quỹ đầu tư chứng khoán chỉ đóng vai trò là "máng dẫn" thu nhập từ các chứng khoán trong danh mục đầu tư và từ các dự án đến các cổ đông của quỹ nên cần được miễn thuế lợi tức như nhiều nước đã áp dụng. Các quỹ đầu tư cần lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp, đối với Việt Nam nên chọn mô hình CTCP,vì có thể phát huy được hiệu quả quản lý tối ưu, đồng thời huy động được nguồn vốn của các tổ chức tài chính tham gia. Cụ thể là, loại hình quỹ đầu tư mở với mục đích tạo tính thanh khoản cao, hấp dẫn nhà đầu tư. Các quỹ đầu tư cũng cần phải có mức vốn pháp định hợp lý và cần đào tạo một đội ngũ nhân sự có trình độ và kinh nghiệm quản lý đầu tư cho các công ty quản lý quỹ. 3.1.3. Các giải pháp vi mô: 3.1.3.1.Cần đảm bảo tính minh bạch, công khai của thị trường: - Chúng ta cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, thực hiện các cam kết WTO. Tổ chức và điều hành thị trường chứng khoán theo chuẩn mực quốc tế, đảm bảo tính minh bạch, công khai của thị trường nhằm mục đích TTCK có thể phát triển bền vững trong bối cảnh gia nhập WTO. Đặc biệt cần chú trọng về việc xử phạt nặng những hành vi làm nhiễu loạn thông tin, dẫn đến những đợt biến động mạnh của cổ phiếu, nhằm làm giảm thiểu rủi ro cho các nhà đầu tư. - Luật chứng khoán nghiêm cấm hành vi đưa tin không đúng sự thực, có liên quan đến những hoạt động ngành. Điều 9 luật Chứng khoán quy định cấm “Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi gian lận, lừa đảo, tạo dựng thông tin sai sự thật…”. Khoản 5, Điều 126, luật Chứng khoán nêu rõ: “Tổ chức, cá nhân tạo dựng và tuyên truyền thông tin sai sự thật gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến thị trường chứng khoán, gây lũng đoạn thị trường giao dịch chứng khoán thì bị phạt tiền hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật”. Điều 26, Nghị định 36/2007 ngày 08/3/2007 quy định, tổ chức, cá nhân tạo dựng thông tin sai sự thật có thể bị phạt từ 30 triệu đến 70 triệu đồng và tịch thu toàn bộ các khoản thu trái luật. - Điều đáng quan tâm nữa là văn hoá, thói quen của người VN lâu nay: Thông tin phi chính thức được đồn đại râm ran và lan truyền tốt hơn thông tin chính thức. Trong những điều kiện thị trường bình thường, tác hại của tin đồn thường nhỏ lẻ. Nhưng trong điều kiện kinh tế vĩ mô "có vấn đề", hệ thống tài chính đang "trái nắng trở trời" như thời gian qua, thì những lời đồn thổi như vậy vô cùng nguy hiểm, rất dễ dẫn đến những cú sốc tâm lý và khủng hoảng thị trường, trường hợp xấu, có thể gây "sốc" cho cả hệ thống... - Trước khi cần thời gian để hoàn thiện khung pháp lý về minh bạch thông tin (vốn đang nằm rải rác trong các luật: Chứng khoán, Ngân hàng thương mại, Bảo hiểm...) thì sử dụng các phương tiện truyền thông như một công cụ phòng ngừa và xử lý khủng hoảng là cần thiết. - Cũng giống như sự hình thành của các công ty kiểm toán độc lập, ta nên thành lập một tổ chức định mức tín nhiệm ( CRA_ Credit Rating Agengy), tổ chức này không chịu ảnh hưởng về chính trị, nó hoạt động một cách khách quan và độc lập nhằm đảm bảo sự công bằng và minh bạch để đem lại lòng tin cho các nhà đầu tư. Tổ chức này sẽ định giá về khả năng xảy ra rủi ro mà bản thân người đó không thực hiện được để đạt lợi nhuận kỳ vọng. 3.1.3.2.Hạn chế tình trạng đầu cơ trên thị trường: - Xây dựng một phần mềm để theo dõi các tài khoản giao dịch : Theo như kết quả khảo sát thì các nhà đầu tư trong nước thường có xu hướng mua hay bán theo nhà đầu tư nước ngoài khi thấy nhà đầu tư nước ngoài mua- bán với khối lượng khá cao. Thực tế một số nhà đầu tư nước ngoài cũng dựa vào điều này, dựa vào tâm lí đầu tư theo bầy đàn này mà đã cố tình làm thay đổi thị trường. Chẳng hạn, họ đã tung ra bán một loại cổ phiều với số lượng nhiều để đẩy giá giảm, khiến một số nhà đầu tư trong nước bán ra, sau đó họ lại mua vào để thị trường đảo chiều.và cuối cùng không ai ngoài họ là những người sở hữu cổ phiếu với giá cao. Như vậy, nhà đầu tư cá nhân nhỏ lẻ chiếm số lượng đông đảo, nhưng giá trị giao dịch lại thấp. Với khả năng tài chính có hạn, cộng với kinh nghiệm chưa nhiều, nhà đầu tư cá nhân dễ bị “cuốn theo chiều gió” theo chân nhà đầu tư ngoại. Hậu quả là họ có thể bị đẩy ra khỏi thị trường bất cứ lúc nào. Để ngăn chặn tình trạng này, thiết nghĩ chúng ta cần xây dựng một phần mềm để theo dõi các tài khoản giao dịch, nhất là các tài khoản được mở cùng một người ở nhiều nơi khác nhau, phát hiện những tài khoản nào mua bán với số lượng khá nhiều rồi sau đó có hành động giao dịch ngược lại với cùng một loại hay một số cổ phiếu. Nếu thấy có nghi ngờ đầu cơ, cần yêu cầu chủ tài khoản giải trình . - Ổn định thuế đánh trên nhà đầu tư chứng khoán: Về mặt nguyên tắc chúng ta phải để thị trường phát triển một cách lành mạnh và an toàn, đã gọi là kinh tế thị trường thì chính phủ không nên can thiệp quá sâu và can thiệp một cách hành chính vào thị trường để làm cho thị trường biến động, tuy nhiên, trước tình trạng đầu cơ như hiện nay thì thuế thu nhập chứng khoán được xem là một công cụ để kiểm soát dòng vốn vào và ra của thị trường, đảm bảo lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, kể cả nhà đầu tư nhỏ lẻ. Cũng theo thong lệ quốc tế, các nước có thị trường chứng khoán cũng đều đánh thuế vào thu nhập chứng khoán. Thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển nhượng chứng khoán giảm từ 25% xuống còn 20%. Mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế là 4 triệu đồng một tháng; cho mỗi người phụ thuộc là 1,6 triệu đồng. Theo nhóm, 20% vẫn còn khá cao so với một thị trường mới phát triển như hiện nay, như thế nhà đầu tư nhỏ lẻ sẽ rời bỏ thị trường. Chính phủ nên đánh thuế thu nhập từ chứng khoán theo lũy tiến, như vậy nhà đầu tư nhỏ lẻ có thu nhập ít sẽ đóng thuế thấp và những nhà đầu cơ chắc chắn phải chịu mức thuế khá cao. - Giảm biên độ dao động giá: Ngày 25/3, Ủy ban Chứng khoán ban hành hai công văn với nội dung chính là bắt đầu từ ngày 27/3/2008, tạm thời điều chỉnh biên độ dao động giá cổ phiếu tại hai sàn chứng khoán: sàn Tp.HCM từ 5%/ngày thành 1%/ngày; sàn Hà Nội từ 10%/ngày thành 2%/ngày. Sau khoảng thời gian có thể được coi là kỷ lục về tốc độ giảm giá của cả hai sàn, đã có rất nhiều động thái của các nhà quản lý, tuy nhiên đà giảm giá vẫn không có dấu hiệu suy giảm. Có thể thấy một trong những mục đích từ quyết định chấp thuận việc giảm biên độ dao động giá tại hai sàn của Ủy ban Chứng khoán là nhằm ổn định tâm lý nhà đầu tư - nhân tố được chỉ mặt là một trong những tác nhân chính gây nên cơn lũ giảm giá hiện nay. Hơn nữa - Với biên độ 1%/ngày thì các nhà đầu cơ sẽ không còn có cơ hội để kiếm lợi nhuận nếu tính đến: phí giao dịch (trung bình 0,4% khi mua, 0,4% khi bán); chi phí cơ hội (gửi tiết kiệm, đầu cơ vàng, đầu cơ bất động sản..); rủi ro đầu cơ... - Tuy nhiên nhiều ý kiến cho rằng: giảm biên độ dao động cũng sẽ dẫn đến những tiêu cực:  Thị trường được quyết định bởi quy luật cung - cầu, trong đó người mua - người bán được tự do quyết định: giá mua, thời điểm mua, số lượng mua... Bản thân việc quy định biên độ đã là một biện pháp phi thị trường, việc thu hẹp biên độ càng đào sâu hố ngăn cách giữa thị trường chứng khoán Việt Nam và các thị trường trên thế giới.  Với các nhà đầu tư đã mua cổ phiếu khi VN-Index trên 1.000 điểm thì thời gian chờ đợi để đạt điểm hòa vốn nay sẽ rất lâu, tạo tâm lý chán nản, buông xuôi.  Khi các nhà đầu cơ không còn đất dụng võ, họ có thể sẽ rời bỏ thị trường kéo theo lượng tiền của họ, và quan trọng hơn là dẫn đến tình trạng mất tính thanh khoản của thị trường. - Trong thời gian vừa qua, nhiều ý kiến cho rằng việc giảm giá của cổ phiếu phần nhiều do các nhà đầu cơ bán tháo cổ phiếu. Nhưng thử tưởng tượng nếu không có các nhà đầu cơ, chỉ còn toàn nhà đầu tư, những người chỉ mua mà không bán thì coi như thị trường thứ cấp không tồn tại. Khi đó thị trường chứng khoán mất hẳn vai trò dẫn vốn cho nền kinh tế, và giống như người nhảy lò cò, sẽ đi chậm và không vững. - Như vậy có thể nói đầu cơ là một hành động gây tổn hại cho nền kinh tế, ngăn chặn đầu cơ là một trong những mục đích chính để bình ổn nền kinh tế. Tuy nhiên cũng không hẳn vì những tác hại của đầu cơ mà ta kết luận rằng phải ngăn chặn đầu cơ, mà thật chất giống như tình trạng của George Soros là nhà đầu cơ ngắn hạn, hoạt động kinh doanh của ông mang tính trục lợi rất cao, đầu tư những khoản tiền lớn nhưng mang nhiều tính đánh bạc trên cơ sở những biến động của thị trường tài chính toàn cầu, với những vụ khủng hoảng tài chính George Soros được nhiều người xem là thiên tài, nhiều người lại coi ông là tội nhân gây ra các cuộc khủng hoảng, vì vậy, với tôi, việc tồn tài đầu cơ là tất yếu của thị trường, nhưng chúng ta biết cách kiểm soát và hạn chế chúng thì vẫn có thể để chúng tồn tại như một điều tất yếu, nó giống như gia vị khi niêm niếm vậy, niêm vừa thì tốt còn quá tay hay niêm ít sẽ ko ngon, thị trường cũng vậy, có những nhà đầu cơ thị trường mới sôi động, dẫn đến tính thanh khoản cao và một số lợi ít khác. 3.1.3.3. Tăng chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán: - Để từng bước thực hiện được những mục tiêu tổng quát của việc phát triển TTCK và vận hành được thị trường hoạt động theo đúng định hướng, thì một trong những nhiệm vụ trọng tâm trước mắt là phải có chiến lược phát triển hàng hoá cho TTCK, trong đó chất lượng hàng hoá của TTCK là yếu tố quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường. - Một yếu tố quan trọng góp phần tăng cung hàng hoá có chất lượng là Quyết định số 1729/QĐ-TTg ngày 29/12/2006 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt danh sách các Tập đoàn, các Tổng công ty nhà nước thực hiện CPH giai đoạn 2007-2010. Việc ban hành Quyết định này đã tạo nên hy vọng lớn cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước vào tiềm năng phát triển của TTCK Việt Nam. Vấn đề tới đây là cần có sự chỉ đạo sát sao của Chính phủ cũng như của các ngành các cấp có liên quan để kế hoạch nói trên được thực hiện đúng tiến độ và gắn kết với TTCK một cách công khai, minh bạch. Hàng hoá cung cấp cho thị trường một mặt phải dồi dào, phong phú, với số lượng đáp ứng nhu cầu của thị trường, mặt khác còn phải đáp ứng yêu cầu về chất lượng để giảm thiểu những rủi ro có thể có đối với các nhà đầu tư và đối với thị trường. Do đó, đối với việc chào bán chứng khoán ra công chúng, trong thời gian tới sẽ tiếp tục duy trì một số điều kiện tối thiểu về quy mô vốn và hiệu quả sản xuất kinh doanh nhằm một tạo ra phân khúc thị trường, đối với các doanh nghiệp quá nhỏ, chưa có hiệu quả có thể tìm đến các quỹ đầu tư, các định chế tài chính trung gian để giải quyết nhu cầu về vốn, mặt khác sẽ khuyến khích các doanh nghiệp có triển vọng chào bán chứng khoán ra công chúng. - Về lâu dài, sự tham gia của các nhà đầu tư ngày càng tăng sẽ góp phần tăng tính thanh khoản và hiệu quả của thị trường chứng khoán, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường sử dụng kênh TTCK để huy động vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Bên cạnh đó, để thu hút được dòng vốn đầu tư trong và ngoài nước vào thị trường chứng khoán Việt Nam, cần phải tạo lập môi trường đầu tư hấp dẫn như: môi trường kinh tế - xã hội ổn định, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, ổn định giá trị tiền tệ, tăng cường khả năng sinh lợi lâu bền của nền kinh tế quốc dân. - Kỷ niệm 10 năm xây dựng và phát triển UBCKNN, mục tiêu phát triển hàng hoá cho một TTCK mới mẻ như Việt Nam vẫn luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu của công chúng đầu tư, cũng như của các nhà quản lý thị trường. Đó cũng là điều kiện kiên quyết để biến TTCK Việt Nam trở thành một kênh đầu tư hấp dẫn xứng với tiềm năng của nó và để hoạt động của thị trường được diễn ra lành mạnh. 3.1.3.4. Nâng cao kiến thức, năng lực đầu tư CK cho công chúng và nhà đầu tư: - Chính phủ phải có nghĩa vụ tổ chức và tạo điều kiện để cho các nhà đầu tư tiếp cận với kiến thức và các thông tin về chứng khoán một cách dễ dàng. Cần tổ chức cho các nhà đầu tư có thể gặp gỡ và thảo luận để trao đổi kinh nghiệm với nhau và đồng thời mở rộng quy mô đào tạo cho các nhà đầu tư, đặc biệt là có thể dựa vào các phương tiện truyền thông có thể truyền bá cho công chúng và nhà đầu tư những kiến thức bổ ích. Đồng thời cần bồi dưỡng nghiệp vụ về TTCK cho cán bộ giảng dạy, đưa các kiến thức đầu tư chứng khoán vào việc giảng dạy nhằm nâng cao và phổ biến kiến thức cho thế hệ mới, trích lập các quỹ để nghiên cứu các bước tiến để ngày càng hoàn thiện TTCK. Cụ thể là: Cần mở rộng quy mô đào tạo của Trung tâm nghiên cứu và bồi dưỡng nghiệp vụ CK. Đồng thời, các trường Ðại học, Cao đẳng Kinh tế chính là nơi đào tạo những nhà kinh tế trẻ sau này, vì vậy cần đưa bộ môn TTCK trở thành môn học chính và đào tạo chuyên sâu. Đặc biệt tránh tình trạng nhà nước độc quyền cấp chứng chỉ mà cần phải có sự phối hợp giảng dạy và cấp chứng chỉ giữa trường học và UBCKNN. Một vấn đề hoàn toàn không thể thiếu đó là giáo trình có chất lượng, vì vậy cần có một đội ngũ nghiên cứu và có sự thống nhất giữa Trung tâm nghiên cứu khoa học và bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán với các trường Ðại học để ra một bộ giáo trình có chất lượng. Khuyến khích các phương tiện thông tin đại chúng đưa tin về TTCK và TTGDCK. Thực hiện công tác tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng như tổ chức các buổi giảng dạy về chứng khoán trên truyền hình, truyền hình trực tiếp các phiên giao dịch trên đài truyền hình Việt Nam. Tiến dần tới việc mở các khoá học miễn phí cho công chúng nhằm làm tăng khả năng tiếp cận thông tin và kiến thức về TTCK cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ trên thị trường. Bồi dưỡng đội ngũ giảng dạy về kiến thức TTCK như đội ngũ giảng viên, cán bộ của UBCK, Trung tâm nghiên cứu và Bồi dưỡng nghiệp vụ chứng khoán bằng cách gửi họ đi học tại các nước có TTCK phát triển. 3.1.3.5.Hoàn thiện hệ thống pháp lý và cơ sở hạ tầng cho TTCK: - Nên chuyển giao toàn bộ bộ máy quản lý thị trường chứng khoán sang thành 1 bộ máy hoàn toàn mới và có khả năng quyết định độc lập để có thể ứng phó kịp thời với thị trường chứng khoán thăng trầm và dễ biến động như hiện nay. Đồng thời nên ban hành và củng cố các văn bản, Nghị định hướng dẫn việc thi hành Luật chứng khoán. Và ngày càng hoàn thiện cơ sở hạ tầng cho TTCK, áp dụng các công nghệ thông tin tiên tiến để vận hành thị trường CK. - Năm 2008, sự cạnh tranh và phân hóa giữa các công ty chứng khoán sẽ tiếp tục diễn ra khốc liệt và mạnh mẽ hơn. Những công ty nào chú trọng đầu tư vào hạ tầng công nghệ và chất lượng dịch vụ sẽ có cơ hội thu hút được những khách hàng đang ngày càng trở nên khó tính. - Theo lộ trình của Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM, dự án cổng kết nối giao dịch điện tử sẽ tiếp tục đẩy mạnh để đến cuối quí 1-2008, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM sẽ cho phép các công ty chứng khoán đã đầu tư những giải pháp công nghệ hiện đại có thể chuyển lệnh trực tiếp vào hệ thống máy chủ giao dịch thay vì nhập lệnh thủ công tại sàn như hiện nay. Nhà đầu tư cũng sẽ được cung cấp các tiện ích như giao dịch tại nhà, qua Internet, hay từ điện thoại di động... một cách dễ dàng hơn. Đây sẽ là một trong những tiền đề quan trọng để tính xã hội hóa của thị trường chứng khoán ngày càng cao trong nền kinh tế VN. - Năm 2008 cũng sẽ là năm Sở Giao dịch chứng khoán đi đến quyết định đầu tư cho một nền tảng hạ tầng công nghệ thế hệ mới. Cùng với nỗ lực kiện toàn bộ máy tổ chức, nguồn nhân lực và hệ thống qui trình tác nghiệp, Sở Giao dịch chứng khoán đang hướng tới một sự thay đổi thật sự từ hệ thống công nghệ bên trong, thay vì chỉ dừng lại ở việc thay “áo khoác” từ Trung tâm Giao dịch chứng khoán lên thành Sở Giao dịch chứng khoán vào tháng 8-2007. 3.1.4. Các giải pháp vĩ mô : 3.1.4.1. Duy trì một nền kinh tế ổn định: - Muốn có một nền kinh tế phát triển ổn định, cần phải thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp kinh tế vĩ mô như:  Kiềm chế lạm phát, tránh thiểu phát  Giảm bội chi ngân sách  Khẳng định vai trò của NHTW và tăng cường vai trò của các Ngân Hàng Thương Mại.  Tiếp tục đổi mới khu vực kinh tế quốc doanh - Trong thời gian vừa qua vấn đề lạm phát đã làm hao tốn rất nhiều bút mực của giới báo chí, và cũng là một áp lực đối với các nhà lãnh đạo. - Theo công bố của Tổng Cục Thống kê ngày 27-2, chỉ số giá tiêu dùng CPI (thước đo lạm phát) hai tháng đầu năm đã tăng 6,02% so với tháng 12-2007. Con số này hiện chỉ còn cách mốc chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế năm 2008 (8,5% - 9%) mà Quốc hội giao chừng 1/3 chặng đường. Rõ ràng, chống lạm phát trở thành một nhiệm vụ vô cùng cấp bách. *Một vài giải pháp cơ bản: Hút bớt tiền đồng khỏi lưu thông: ví dụ như: NHNN có thể yêu cầu các NHTM tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc hay tăng lãi suất. Mục đích của việc tăng tỷ lệ dự trữ tối thiểu bắt buộc, tăng lãi suất là làm giảm tín dụng, khiến khối tiền tệ bị thu hẹp lại, để từ đó giảm áp lực lạm phát. Tuy nhiên, phải cân nhắc liều lượng để không làm ảnh hưởng đến tính thanh khoản (khả năng thanh toán) của các NHTM. Các NHTM cần có thời gian để rút vốn về, đồng thời hạn chế cho vay ra thì chuyện tăng dự trữ bắt buộc sẽ không làm ảnh hưởng đến thanh khoản của họ, chỉ có thể ảnh hưởng đến mức lợi nhuận và do đó mặt bằng lãi suất nếu có thay đổi cũng chỉ thay đổi đôi chút… Nếu chúng ta xem lại trong những năm qua thì một phần lạm phát ngày hôm nay cũng là do bội chi ngân sách, đầu tư kém hiệu quả trong ba - bốn năm trở lại đây, tuy đã được các chuyên gia ngành khuyến cáo nhưng các nhà làm chính sách lại vô tâm bỏ qua. Có lẽ, Chính phủ cần bình tâm nhìn lại kế hoạch và chương trình đầu tư của mình ( các công ty quốc doanh…). Nhằm mục đích để bình ổn lạm phát và duy trì một nền kinh tế ổn định. 3.1.4.2. Ổn định chính sách tiền tệ quốc gia: - Chính sách tiền tệ là một trong hai công cụ điều hành vĩ mô cần áp dụng để giúp nền kinh tế tăng trưởng trong ổn định. Những công cụ của chính sách tiền tệ quốc gia tác động trực tiếp đến giá cả chứng khoán, ảnh hưởng đến lợi nhuận của nhà đầu tư là:Tỷ giá hối đoái, Lãi suất. Tác động của lãi suất đến thị trường chứng khoán và hướng điều hành lãi suất: *Lãi suất thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như báo đài, ti vi, mạng internet dễ dàng được người tiêu dùng biết đến và thật sự thì nó có một tác động rộng lớn khác nhau đối với cả nền kinh tế. Khi lãi suất chiết khấu gia tăng, hiệu ứng tổng thể là nó sẽ làm giảm lượng cung tiền nhằm mục đích duy trì lạm phát ở mức thấp. Nó cũng làm cho việc vay tiền của các cá nhân và doanh nghiệp trở nên đắt hơn, nó tác động đến hành vi tiêu dùng của các cá nhân và chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, gia tăng chi phí cho các doanh nghiệp, khiến cho thu nhập thấp hơn và cuối cùng là nó có khuynh hướng làm cho thị trường chứng khoán trở nên kém hấp dẫn hơn đối với các nhà đầu tư. Tuy nhiên phải luôn nhớ rằng, mỗi sự kiện và kết quả luôn có liên hệ với nhau. Lãi suất không phải là yếu tố có tính quyết định đối với giá chứng khoán và có rất nhiều cách thức khác nhau để xem xét sự thay đổi của giá chứng khoán và khuynh hướng thị trường - một sự gia tăng trong lãi suất chiết khấu chỉ là một trong những cách đó. Do vậy, không ai có thể tự tin nói rằng một công bố gia tăng lãi suất chiết khấu của ngân hàng trung ương có thể tạo nên ảnh hưởng xấu đến toàn bộ giá chứng khoán. *Hiện tại để ổn định tình hình kinh tế với mức độ lạm phát cao thì cần thực hiện chính sách lãi suất thực dương theo cơ chế thị trường; điều hành linh hoạt chính sách tiền tệ, sử dụng có hiệu quả các công cụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cơ bản, bảo đảm quan hệ hợp lý giữa các loại lãi suất trái phiếu, tín phiếu Kho bạc, tín phiếu Ngân hàng Nhà nước. Điều hành tỷ giá hối đoái: *Nghiên cứu triển khai phát hành trái phiếu chính phủ trong nước bằng đồng tiền Việt Nam, trái phiếu chính phủ bằng ngoại tệ để hạn chế tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế, hút bớt tiền nhàn rỗi về, giảm áp lực lạm phát và tăng dự trữ quốc gia hoặc đầu tư ra nước ngoài. *Tiếp tục điều hành tỷ giá giữa đồng tiền Việt Nam với đồng USD nói riêng và các loại ngoại tệ nói chung theo hướng căn cứ vào cung cầu trên thị trường, với biên độ dao động ± 2%. Điều hành hoạt động tín dụng ngân hàng ở mức tăng trưởng tín dụng tối đa 30% nhưng phải đáp ứng được yêu cầu vốn cho tăng trưởng kinh tế và khuyến khích phát triển nông nghiệp, nông thôn. 3.1.4.3. Duy trì một chính sách tài chính phù hợp: - Nhà nước cũng cần có chính sách sàng lọc những đầu tư nước ngoài và chỉ chấp nhận những đầu tư có hiệu suất tăng trưởng cao và phù hợp với mục tiêu tăng trưởng của đất nước. Điều hành chính sách tài khóa theo hướng thắt chặt chi tiêu, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách, hạn chế bội chi ngân sách, đi đôi với triển khai thực hiện tốt chính sách tiền lương, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu... bảo đảm sự phối hợp đồng bộ, hỗ trợ, thúc đẩy lẫn nhau để đạt hiệu quả cao nhất. - Trước mắt trong điều kiện hiện nay, để tập trung thu hút nguồn ngoại tệ đang có ở trong nước, tạm thời chưa phát hành trái phiếu chính phủ ra nước ngoài. Tập trung khai thác và mở rộng thị trường xuất khẩu, phấn đấu đạt được mục tiêu tăng trưởng xuất khẩu cả năm trên 25%… 3.1.4.4. Phối hợp chặt chẽ chính sách tiền tệ và chính sách tài chính: - Nhà nước cần sử dụng cả giải pháp tiền tệ (thu bớt lượng tiền đang lưu hành) lẫn chính sách tài khóa bằng cách giới hạn đầu tư để giảm “sốt”, đặc biệt ở lĩnh vực công nơi mà hiệu quả đầu tư rất thấp và độ thất thoát cao. - Cuối cùng các cơ quan quản lý kinh tế Nhà nước cần phối hợp xuyên suốt và nhuần nhuyễn hơn để tránh tình trạng “vừa đạp thắng vừa nhấn ga” như đã thường thấy. 3.2. GIẢI PHÁP CHO NHÀ ĐẦU TƯ: 3.2.1 Kết quả khảo sát thực trạng về nhận thức, kiến thức và hành vi đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam: (Số liệu khảo sát từ 100 nhà đầu tư) - (bảng câu hỏi - phụ lục 7 ) - Có hơn 50% kết quả khảo sát cho thấy các nhà đầu tư trong nước thường có xu hướng mua hay bán theo nhà đầu tư nước ngoài khi thấy nhà đầu tư nước ngoài mua hoặc bán với khối lượng khá lớn. Lí giải điều này một số nhà đầu tư cho rằng giả sử khi nhà đầu tư nước ngoài bán ra với số lượng lớn 1 cổ phiếu thì lượng cung đồ sộ đó của họ cũng đủ để chi phối giá cả của thị trường, nghĩa là giá cổ phiếu đó có thể giảm, vì vậy nếu nhà đầu tư trong nước vẫn giữ trong tay cổ phiếu trên thì có khả năng phải chịu lỗ. - Có thể thấy trong thời gian quan, mặc dù kiến thức về chứng khoán đã được phổ cập rộng rãi qua các kênh truyền thông, báo chí, báo đài, internet…cũng như nhiều trung tâm đã tổ chức những khóa đào tạo ngắn hạn về chứng khoán nhưng không phải nhà đầu tư nào cũng có điều kiện để tìm hiểu và không phải ai cũng có thể hiểu rõ về chuyên môn này. Hơn nữa nhiều nhà đầu tư trong nước đã bị ảnh hưởng bởi hành vi mua bán của các nhà đầu tư nước ngoài do quy mô của thị trường chứng khoán nước ta là khá nhỏ mà tiềm lực của nhà đầu tư nước ngoài thì khá lớn, họ lo sợ lượng giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài có thể chi phối giá cả của cổ phiếu. Đồng thời một loại rủi ro quan trọng bậc nhất trên thị trường, có tính chất nhạy cảm và tác động rất lớn đến thị trường đó là rủi ro thông tin. Rủi ro thông tin - Ở Việt Nam, thị trường ở dạng kém hiệu quả, thế nên rủi ro thông tin ảnh hưởng khá lớn đến biến động giá chứng khoán. - Theo kết quả cho thấy là khoảng trên 50% các nhà đầu tư mua bán chu yếu dựa vào các thông tin trên thị trường nhiều hơn là dựa vào khả năng tự phân tích một cách bài bản. Điển hình là trong tháng 3/2008 vừa qua trên thị trường đã xuất hiện tin đồn. Tổng giám đốc công ty chứng khoán Sài Gòn Nguyễn Duy Hưng bị bắt vì những vi phạm trong hoạt động chứng khoán, tin đồn thất thiệt về SSI đã ảnh hưởng rất xấu đến tâm lý của nhà đầu tư, cổ đông công ty. Hiện SSI là cổ phiếu có khối lượng niêm yết và giao dịch rất lớn tại Sở Giao dịch chứng khoán TP HCM (HOSE). Mức vốn hóa thị trường của SSI lên đến 2,53% tổng giá trị vốn hóa thị trường, đứng trong nhóm 15 doanh nghiệp có mức vốn hóa thị trường lớn nhất tại HOSE. Tỷ trọng giao dịch của cổ phiếu SSI tính theo giá trị cũng rất lớn. Theo thống kê của HOSE ngày 11/3, tỷ trọng giao dịch SSI lên đến 13,53%, chỉ sau cổ phiếu STB. Do đó giao dịch cổ phiếu SSI có ảnh hưởng nhất định đến xu hướng giao dịch của các mã khác. Sau khi đích thân Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) Nguyễn Duy Hưng lên tiếng bác bỏ tin đồn thất thiệt về việc ông bị bắt thì SSI tăng 3500 đồng/cổ phiếu, đồng thời trở thành cổ phiếu có khối lượng giao dịch lớn nhất thị trường. - Rõ ràng đã đến lúc cần phải sử dụng biện pháp mạnh đối với các công ty hay cá nhân không thực hiện đúng và đủ nghĩa vụ công bố thông tin, đặc biệt là những tin đồn đưa ra gây nhiễu thị trường với chủ đích đẩy giá lên hay kéo giá xuống. =>Nhìn chung từ cuộc khảo sát cho ta thấy: các nhà đầu tư vẫn còn hạn chế về kiến thức nên đã dẫn đến tình trạng đầu tư bầy đàn như vừa qua, họ chấp nhận rủi ro cao để có tỷ suất sinh lợi cao vì chưa nghĩ đến việc mua 1 hợp đồng bảo hiểm cho việc đầu tư của mình. 3.2.2. Chiến lược cho nhà đầu tư: 3.2.2.1. Nâng cao kiến thức cá nhân: - Theo tổng kết của Khoa Tài chính Ngân Hàng, Đại học Ngoại Thương thì đầu tư theo đám đông và đầu tư theo tâm lý bầy đàn là nguyên nhân khiến 90% các nhà đầu tư mới phải chịu thua lỗ, và rút khỏi cuộc chơi trong một thời gian ngắn. Chỉ có 10% các nhà đầu tư có kiến thức, chuyên tâm và kiên định với chiến lược đầu tư của mình là có thể thành công và đồng hành với những phút thăng trầm của thị trường chứng khoán. Như vậy cái gốc của vấn đề đâu phải là bầy đàn hay không bầy đàn mà lại là nhà đầu tư đã đủ tri thức để tự lựa chọn hay định giá cổ phiếu hay chưa? - Chính vì vậy mà các nhà đâu cần phải nâng cao kiến thức của bản thân để tránh tình trạng gặp rủi ro cao vì những đợt biến động mạnh của thị trường. 3.2.2.2. Xây dựng danh mục đầu tư: - Như số liệu nhóm nghiên cứu đã khảo sát, phần lớn các nhà đầu tư trên thị trường đều không được đào tạo bài bảng, chính vì vậy mà không ít nhà đầu tư chỉ đầu tư theo cảm tính hay chạy theo hành vi đầu tư của những nhà đầu tư lớn khác. Nhất là nhà đầu tư nước ngoài. Điều này rất bất lợi cho những nhà đầu tư còn lại vì chỉ cần một thông tin trên thị trường, cũng có thể thay đổi động thái của những nhà đầu tư theo đám đông này, làm cho lượng cung cầu bị biến động dẫn đến giá chứng khoán biến động, cho nên để tránh rủi ro do biến động giá chứng khoán, nhà đầu tư cần định đúng giá trị của chứng khoán và xây dựng cho mình một danh mục đầu tư hiệu quả để không bị cuốn theo những cơn bão giá của thị trường. - Khi muốn đầu tư vào TTCK, các nhà đầu tư phải chuẩn bị cho mình một danh mục đầu tư, danh mục này phải được xem xét và đánh giá kỹ lưỡng để đưa ra những tỷ trọng hợp lý trong thời điểm nhà đầu tư tham gia vào thị trường. Muốn có được một danh mục tốt thì dĩ nhiên các nhà đầu tư phải có một kiến thức sâu và rộng để có thể tiến hành kiểm tra và kết hợp từng cổ phiếu riêng lẻ thành một danh mục đầu tư hiệu quả. Chúng ta có thể sơ lược quá trình hình thành danh mục của nhà đầu tư như sau:  Lựa chọn chứng khoán  Lập mô hình tính toán tỷ suất sinh lợi kỳ vọng và phương sai của danh mục.  Tìm kiếm danh mục đầu tư hiệu quả. Ta có thể tiến hành tìm kiếm danh mục đầu tư hiệu quả bằng cách lập mô hình như sau: Bước 1: Lựa chọn cổ phiếu: Với bài ví dụ này, chúng tôi lựa cổ phiếu theo tiêu chí là nhanh và thuận tiện cho việc triển khai mô hình, còn đối với nhà đầu tư, chúng tôi khuyên rằng các nhà đầu tư nên tìm hiểu kỹ lương về cổ phiếu mà mình chọn lựa theo sự hiểu biết và khả năng nắm bắt thông tin của nhà đầu tư theo các tiêu chí như các chỉ số tài chính, ngành nghề kinh doanh …. Và điển hình là chúng tôi đã lựa được 15 cổ phiếu và theo dõi trong 40 tháng quan sát (bảng phụ lục 8) Bước 2: Lập mô hình tính toán tỷ suất sinh lợi kỳ vọng và phương sai của danh mục: Bảng tỷ suất sinh lợi sau khi được điều chỉnh theo cổ tức (bảng phụ lục 10) Với cổ tức (bảng phụ lục 9) được tính toán theo cách: *Đối với tiền mặt: (giá mới+ cổ tức - giá cũ)/giá cũ *Cổ tức bằng cổ phiếu: (giá trên thị trường – giá cổ đông cũ được mua)* tỷ lệ được mua. Tính ma trận phương sai – hiệp phương sai: Dùng hàm COVAR(OFFSET( )) để tính ma trận phương sai và hiệp phương sai (bảng phụ lục 11) Những giả định: Lãi suất phi rủi ro được tính theo tháng vì số kỳ quan sát theo tháng Rf= lãi suất phi rủi ro thị trường theo năm /12 = 8.5%/12 Bước 3: Tìm kiếm danh mục đầu tư hiệu quả: Trong quá trình tính toán và lập mô hình, để tìm kiếm danh mục đầu tư hiệu quả ta sẽ chạy cho hằng số c thay đổi. Tức dùng solver để tìm tỷ trọng đầu tư vào danh mục sao cho Theta tiến đến max với mỗi trường hợp của c (xem bảng phụ lục 12). - Như vậy ta có thể tìm ra được tỷ trọng đầu tư vào từng chứng khoán để tập hợp thành một danh mục đầu tư hiệu quả. - Nhưng thật chất, mô hình chỉ có thể giải quyết các vấn đề, các dữ liệu một cách máy móc, chính vì vậy đòi hỏi nhà đầu tư cần có kiến thức để có thể hiểu và vận dụng một cách có hiệu quả từ thông điệp của mô hình trình bày. 3.2.2.3. Thực hiện chiến lược: - Khi thực hiện chiến lược đầu tư, dĩ nhiên sẽ có một số thay đổi vì TTCK là luôn biến động nhưng mỗi khi có sự biến động thì ta nghĩ đến việc sẽ thay đổi tỷ trọng của các cổ phiếu trong danh mục hay bán cổ phiếu nào đó và thay vào đó một loại cổ phiếu khác để danh mục hiệu quả hơn, thế nhưng những việc làm này luôn đem đến chi phí rất cao vì vậy một cách khác mà các nhà đầu tư có thể vận dụng để một mặt là hạn chế rủi ro, mặt khác vẫn có thể giữ được các cổ phiếu mà mình đã chọn mà không cần phải bán bất kỳ cổ phiếu nào đó là việc vận dụng chứng khoán phái sinh trong chiến lược đầu tư. Trên đây, tất cả cũng chỉ là những cách nói đơn giản về mặt lý thuyết nhưng khi thực tế thì sẽ có những trường hợp khá đặc biệt đòi hỏi nhà đầu tư phải nhạy bén. Đồng thời trước khi xây dựng danh mục và đưa ra quyết định đầu tư thì nhà đầu tư phải xác định rõ mục đích đầu tư và thời gian đầu tư là ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn để có thể ứng phó kịp thời với những biến động của thị trường bằng các hợp đồng phái sinh. 3.3. HƯỚNG GIẢI QUYẾT CẤP BÁCH CHO THỊ TRƯỜNG DỰA TRÊN 2 LOẠI RỦI RO CHÍNH: - Chúng ta đã từng biết đến 2 loại rủi ro chính, đó là rủi ro có hệ thống và rủi ro không có hệ thống, với rủi ro không hệ thống thì ta có thể đa dạng hoá đầu tư để giảm thiểu rủi ro (xem phần giải pháp cho nhà đầu tư), nhưng với rủi ro hệ thống thì sao? Toàn thị trường đang gặp phải vấn đề này, rủi ro có hệ thống, có một cách khá tốt để giảm thiểu rủi ro có hệ thống bằng cách quản trị rủi ro thông qua các hợp đồng chứng khoán phái sinh, thế nhưng thời điểm hiện nay chúng ta chưa có công cụ này và cũng chưa thể triển khai công cụ này vì những lý do riêng của nó mà ta đã phân tích ở trên, vì vậy mà chúng ta cần xem xét việc quản trị rủi ro theo một khía cạnh khác đó là rủi ro hệ thống do nhân tố nào gây nên, và với trách nhiệm là các nhà lãnh đạo cần phải làm gì để quản trị rủi ro trên TTCK hiện nay. Và những vấn đề cần giải quyết đó là rủi ro thị trường, rủi ro lãi suất và rủi ro sức mua ( tức lạm phát ). - Rủi ro thị trường: Với rủi ro này, hiện tại các nhà đầu tư đang mất lòng tin với thị trường khi thị trường xuất hiện những tin không chính xác vì vậy cần khôi phục niềm tin bằng cách trực tiếp xử lý ngay các tình huống vi phạm trên thị trường, đặc biệt phải xử lý thật nặng để làm gương và răng đe những âm mưu khác trên thị trường. Đồng thời củng cố lòng tin của các nhà đầu tư đối với các nhà lãnh đạo, vì hiện nay, các nhà lãnh đạo đưa ra rất nhiều biện pháp để cứu vãn thị trường nhưng thị trường vẫn tiếp tục đà đi xuống, điển hình là việc cắt giảm biên độ, làm đóng băng thị trường mà không cho biết thời gian kết thúc. Điều này đã làm cho ảnh hưởng đến lợi ích của các chủ thể tham gia trên thị trường chứng khoán: Nhóm thứ nhất gồm những nhà đầu tư thấy rằng đây là cơ hội tốt nếu giá giảm thêm chút nữa, thì nay đã mất cơ hội mua. Nhóm thứ hai gồm những người đang thực sự cần chuyển từ cổ phiếu sang các hình thức đầu tư khác, nay bị vỡ kế hoạch tiết kiệm hay đầu tư của mình. (Trong hoàn cảnh chính sách tín dụng thay đổi đột ngột như hai tháng vừa qua, chắc chắn có rất nhiều nhà đầu tư phải sắp xếp lại danh mục như thế). Trong nhóm này có cả các ngân hàng thương mại đã trót cho cầm cố chứng khoán, nay muốn giải ngân để tăng thêm thanh khoản và vốn khả dụng, cũng sẽ bị vỡ kế hoạch. Nếu thời kì đóng băng kéo dài, nợ xấu của ngân hàng sẽ tăng lên do không bán được chứng khoán cầm cố kịp thời. Và đặc biệt là quyết định đóng băng này sẽ hạ thấp kì vọng về khả năng điều hành thị trường chứng khoán của Việt Nam. Các nhà đầu tư không thể không đặt câu hỏi, liệu trong tương lai, UBCKNN có còn ra các quyết định sai lầm ảnh hưởng đến quyền lợi của họ nữa không. Điều này có nghĩa là kì vọng về rủi ro từ chính sách VN tăng vọt trong mắt nhà đầu tư. Chính những động thái nhất thời của các nhà lãnh đạo đã tạo nên sức ì về tâm lý, vấn đề này không phải một sớm một chiều có thể thay đổi được mà cần phải có thời gian để có thể cho các nhà đầu tư thấy rằng nhà nước đang dần cố gắng hoàn thiện các cơ sở pháp lý và tạo dựng một nơi đầu tư minh bạch và an toàn với hệ thống công nghệ thông tin tiên tiến, cùng với đội ngũ nhân viên có chuyên môn cao. Điều này thể hiện qua việc cố gắng hoàn thiện các cơ sở pháp lý và tạo điều kiện cho nhân viên và nhà đầu tư nâng cao kiến thức bằng các biện pháp trích các quỹ để nghiên cứu và hỗ trợ cho việc phát triển thị trường chứng khoán, hoạch định ngay những chiến lược những dự định sẽ làm trong tương lai và công khai quá trình cải cách và phát triển để nhà đầu tư có thể thấy được một con đường mới đầy vẻ lạc quan, thay vì sử dụng SCIC để tung tiền cứu chứng khoán, có vẻ như không lạc quan lắm, cũng như câu: “một cây làm chẳng nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, ở đây ý ám chỉ là hãy để cho các nhà đầu tư và các doanh nghiệp tự cứu lấy mình, khi họ đã lấy lại niềm tin vào thị trường thì vấn đề TTCK hồi phục là vấn đề sớm muộn, hãy để cho TTCK tồn tại đúng nghĩa với quy luật cung cầu, quy luật lên xuống của thị trường, và sức mạnh của họ là vô hạn, có lẽ nó sẽ hữu ích hơn là sự xuất hiện của SCIC, dù khó khăn nhưng điều này chứng tỏ nhà nước ta luôn thể hiện sự quyết tâm phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng và phát triển nền kinh tế nói chung, theo đúng luật chơi của thế giới. - Rủi ro lãi suất và rủi ro sức mua có mối quan hệ chặc chẽ với nhau: Tất cả thị trường chứng khoán thế giới, nhất là các thị trường mới nổi, đều đang bị tác động ở mức độ khác nhau từ “căn bệnh lây nhiễm tài chính” do cuộc khủng hoảng tín dụng dưới chuẩn ở Mỹ gây nên. Nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam bị tác động mạnh hơn còn do ảnh hưởng của việc thắt chặt tiền tệ chống lạm phát (với mức sụt giảm 37% kể từ đầu năm đến nay, chứng khoán Việt Nam đang trở thành thị trường có mức sụt giảm mạnh nhất ở châu Á - NV). - Tuy nhiên, đã rõ ràng là năm ngoái chứng khoán Việt Nam được định giá quá cao và đầu cơ là đáng kể. Lạm phát cao hơn cũng ảnh hưởng tiêu cực đến giá cổ phiếu vì chi phí giá thành sản xuất cao hơn đối với các công ty niêm yết, và vì chính sách thắt chặt tiền tệ chống lạm phát sẽ làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế. - Hiện nay việc định giá chứng khoán đã gần với giá trị thực nên các tổ chức đầu tư nước ngoài trở nên quan tâm hơn đến thị trường Việt Nam . Bằng chứng là giá trị mua vào ròng của nhà đầu tư nước ngoài gần đây tăng lên. Nếu các quy định đối với nhà đầu tư nước ngoài cởi mở hơn như thuận lợi hóa việc mở tài khoản hay kiểm soát tiền tệ, thì chắc chắn việc mua cổ phiếu của họ sẽ tăng đáng kể. - “Thực hiện chính sách siết chặt tiền tệ là công cụ phổ biến để chống lạm phát và tất yếu làm tăng trưởng chậm lại. Điều này giải thích tại sao chứng khoán thường phải “chịu đau đớn” khi lạm phát tăng lên. Tôi cho rằng đó là kết cục mà Chính phủ cần phải chấp nhận. Lạm phát càng nhanh chóng bị dập tắt từ trong trứng nước bao nhiêu, thì thời kỳ chịu đựng “đau đớn” cho tất cả mọi đối tượng càng ngắn bấy nhiêu! Khi lạm phát đã bén rễ thì chính sách tiền tệ thắt chặt sẽ phải kéo dài” - Ông Judd C. Kinne - Với cách giải quyết này trong thời gian qua đã làm cho lãi suất tăng cao, và vật giá cũng đã tăng chóng mặt. Hiện tại lạm phát vẫn còn đe doạ nền kinh tế của ta và rất khó có thể nói rằng giải pháp nào là phù hợp cho tình cảnh hiện nay, nhưng theo nhận định của Ông Judd C. Kinne thì chính sách thắt chặc tiền tệ sẽ đem lại ảnh hưởng trực tiếp đến chứng khoán mặc dù nó là rất hiệu quả, thế nhưng cái gốc vấn đề là tham nhũng và lãng phí đã gây nên lạm phát: Có những tỉnh còn nghèo, thu ngân sách chưa đến 100 tỷ đồng nhưng làm hội trường mất đến 200 tỷ. Đường vành đai chỗ nhà tôi ở làm 20 năm rồi, qua 3 nhiệm kỳ Thủ tướng rồi vẫn chưa xong, gây lãng phí vô cùng. - Vì vậy mà một cách khác ít ảnh hưởng đến TTCK đó là nhà nước có thể cắt giảm các khoản chi tiêu hành chính để dành cho an sinh xã hội như y tế, giáo dục, hỗ trợ người nghèo. Cần quyết liệt siết chặt kỷ luật hành chính từ trên xuống dưới, ai làm không đúng chỉ đạo của Chính phủ thì phải kỷ luật nghiêm khắc, chứ "ông chẳng bà chuộc" thì dù giải pháp đúng đến đâu cũng không thể có kết quả", ông Đạt nói. Đồng thời Chính phủ phải kỷ luật về hành chính những ai tăng giá các mặt hành thiết yếu. - Lập tức tiến hành những vấn đề trên 1 cách triệt để kết hợp với việc hạn chế tham nhũng, ở đây tôi chỉ dùng 2 từ “hạn chế” chứ không dùng từ “triệt để chống tham nhũng” vì vấn đề chống tham nhũng là vấn đề lâu dài vì vậy mà để giải quyết vấn đề hiện tại ta có thể bắt đầu bằng sự răng đe, để tạm thời hạn chế và củng cố nền kinh tế. - Trên đây là một số nhận định cá nhân để có thể lý giải những bất thường của thị trường nhằm đưa ra những biện pháp thiết thực trong lúc cấp bách này, vì vậy mà chúng ta sau khi ổn định được nền kinh tế thì ta cần tiến hành ngay những giải pháp chung cho thị trường trong dài hạn mà ta đã đề cập nhằm tạo một môi trường phát triển bền vững. LỜI KẾT Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đang rất cần những biện pháp mạnh mẽ và khôn khéo để có thể chấn chỉnh lại những thiếu sót của thị trường, thế nhưng để làm được điều đó là không dễ dàng. Trong thời gian vừa qua Khi cơ quan nhà nước dùng nhiều biện pháp để cứu nguy thì thị trường đã có những hiệu ứng tích cực. Tuy nhiên, diễn biến những phiên giao dịch gần đây cho thấy tính thanh khoản của chứng khoán đã gần như tê liệt. Một trong những vấn đề cần giải quyết cấp bách hiện nay vẫn là sự củng cố niềm tin và bồi dưỡng kiến thức cho nhà đầu tư, đồng thời phải hoàn thiện hệ thống pháp lý để tạo sự vững chắc cho thị trường khôi phục và phát triển bền vững. Đồng thời tại Việt Nam, nhiều nhà đầu tư và công ty chứng khoán mong muốn được thực hiện nghiệp vụ mua khống, bán khống nhằm gia tăng tính thanh khoản cũng như tận dụng được cơ hội tốt trong đầu tư, đây cũng là một trong những công cụ khá tốt để nhà đầu tư có thể quản lý rủi ro của mình ở mức độ chấp nhận được, thế nhưng vào thời điểm nào thì đó vẫn cần có sự tính toán và cân nhắc kỹ để có thể hoàn thiện thị trường và giúp thị trường phát triển bền vững. TÀI LIỆU THAM KHẢO  Sách quản trị rủi ro ( Trường ĐH KINH TẾ TPHCM).  Sách TCDN hiện đại ( Trường ĐH KINH TẾ TPHCM).  Sách mô hình tài chính ( Trường ĐH KINH TẾ TPHCM).  Sách phân tích tài chính ( Trường ĐH KINH TẾ TPHCM).  Giải nobel kinh tế năm 2002.  Behavioral Finance-Theory and Practical Application (Hubert Fromlet).                      

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
  • rarphuc luc.rar
  • pdfTom tat.pdf
Luận văn liên quan