LỜI CẢM ƠN 1
CHƯƠNG I: MỘT SỐ LÝ THUYẾT KINH TẾ VỀ ĐẦU TƯ CÙNG VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ 2
I. Tổng quan về đầu tư 2
1. Khái niệm: 2
2. Các loại hình đầu tư 3
3. Các lí thuyết kinh tế về đầu tư 7
II. KHÁI NIỆM TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ 17
1. Khái niệm 17
1.2 Khái niệm phát triển kinh tế 19
1.3 Mối quan hệ giữa tăng trưởng và phát triển 19
2. Một số chỉ tiêu đánh giá 21
2.1. Một số thước đo tăng trưởng 21
2.2. Các chỉ số về cơ cấu kinh tế 24
III. VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ QUA CÁC LÝ THUYẾT KINH TẾ VÀ ĐẦU TƯ 28
1. Đầu tư tác động đến tổng cung của nền kinh tế. 28
1.1. Lí thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái cổ điển. 28
1.2. Quan điểm tăng trưởng kinh tế của K.Marx 30
1.3 .Lí thuyết tân cổ điển về đầu tư. 31
1.4. Mô hình Harrod-Domar 32
1.5 Lý thuyết tăng trưởng kinh tế của trường phái kinh tế hiện đại 35
2. Mô hình của Keynes 38
3. Đầu tư tạo sự phát triển cho các ngành kinh tế mũi nhọn từ đó tạo ra sự dịch chuyển cơ cấu kinh tế. 40
3.1. Mô hình các giai đoạn phát triển của W.Rostow 40
3.2. Mô hình hai khu vực của Arthus Lewis 42
3.3. Mô hình hai khu vực của Oshima 43
3.2.2. Nội dung của mô hình 44
4. Tác động của đầu tư phát triển đến khoa học và công nghệ. 47
5. Đầu tư đúng hướng cho phép khai thác lợi, phát triển ngoại thương 49
5.1. Quan điểm của Adam Smith 49
5.2. Lí thuyết của Ricarđo và Heckscher-Ohlin. 51
I. Tổng quan về đầu tư phát triển ở Việt Nam trong các năm qua 57
1. Đầu tư trong nước: 57
2.Đầu tư nước ngoài 59
II. Tổng quan về tăng trưởng kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua 61
III.Tác động của đầu tư với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thời gian qua 70
III. Một số tồn tại trong hoạt động đầu tư ở Việt Nam đã và đang tác động đến tăng trưởng kinh tế. 78
1. Hạn chế của đầu tư. 78
2. Hạn chế trong tăng trưởng kinh tế 84
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM. 85
KẾT LUẬN 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO 87
66 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 6499 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các lý thuyết kinh tế về đầu tư, ý nghĩa của các lý thuyết kinh tế đó, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
àng. Bên cạnh đó là nguy cơ đứng bên bờ phá sản nếu nhà nước và doanh nghiệp không tìm được lối thoát để giảm áp lực này.
Chịu tỉ giá chênh lệch USD/VND cao, giao dịch ngân hàng khó khăn:Mặc dù Ngân hàng Nhà nước thông báo giá mua USD là 15.8 nhưng trong 1 USD ấy doanh nghiệp xuất khẩu lại phải trả 2% phí cho NH. Như vậy họ chỉ còn lại 15.5, 15.4 hoặc 15.3 thậm chí có ngân hàng còn không chịu mua đô. Những lúc cần USD để mua nguyên phụ liệu sản xuất thì Doanh nghiệp lại không được phép vay bằng USD (vì Ngân hàng không đảm bảo được yếu tố kinh doanh có lợi cho USD).
Thiệt hại lớn và có nguy cơ phá sản: Các DN xuất khẩu đặc biệt là các DN dệt may đã và đang chịu thiệt hại hàng tỷ đồng khi chi phí sản xuất “đội” giá gấp nhiều lần. Tiền USD thu về từ xuất khẩu bị mất giá sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới lợi nhuận, quy mô sản xuất bị thu hẹp và doanh nghiệp sẽ chuyển sang lãnh vực kinh doanh khác. Mới đây có 2 DN của ngành đã tuyên bố phá sản. Theo bà Đặng Phương Dung - GĐ điều hành Tập đoàn Vinatex, nếu Chính phủ không có biện pháp hỗ trợ thì không riêng Vinatex mà rất nhiều DN sản xuất khác sẽ gặp nạn trong Quý II năm nay
Qua đó các doanh nghiệp có thể chọn cách dùng nguồn vốn là quỹ nội bộ của các doanh nghiệp đề đầu tư nhằm duy trì sản xuất để đưa doanh nghiệp qua khỏi cơn giai đoạn này.Các DN có thể học theo cách làm của công ty bóng đèn phích nước Rạng Đông đã từng làm trong thời kỳ 1999-2000 để cứu công ty mình khỏi sự phá sản đó là :lãnh đạo công ty phát động CBNV toàn công ty tham gia ý kiến,hiến kế giải quyết khó khăn và đi đến nhất trí không vay vốn ngân hàng,đồng ý chưa lĩnh tiền thưởng của cả năm 1994 mà góp thêm một số tiền chưa dùng tới để công ty “vay” làm vốn đầu tư.Và đó là một cách huy động vốn nội bộ táo bạo của quản lý doanh nghiệp.
4.Đầu tư khu vực nhà nước còn chưa hiệu quả:
Chỉ số ICOR đo lường hiệu quả đầu tư, tính trên lượng vốn cần tăng thêm để đạt mức gia tăng một đơn vị sản lượng, chính là thông số biểu hiện cụ thể nhất của thể trạng sức khỏe nền kinh tế. Hay nói cách khác, hệ số ICOR là “giá” phải trả thêm cho việc tạo thêm một đơn vị kết quả sản xuất. Hệ số ICOR càng lớn chứng tỏ chi phí cho kết quả tăng trưởng càng cao nó phụ thuộc vào mức độ khan hiếm nguồn dự trữ và tính chất của công nghệ sản xuất.
Năng lực sản xuất của vốn đầu tư cũng đang giảm thấp đến mức báo động với chỉ số ICOR tăng mạnh trong giai đoạn 1991-2009 và thể hiện tính chu kỳ rõ rệt cùng với tăng trưởng GDP. Nếu như năm 1991, hệ số ICOR tính được là 2,9 (nghĩa là đầu tư gần 3 đồng thì GDP tăng lên 1 đồng), thì năm 2008, hệ số này là 6,66 và năm 2009 có thể lên tới 8 mức cao nhất từ trước tới nay. Đây là tín hiệu cảnh báo cho hiệu quả đầu tư sụt giảm nghiêm trọng. Trong vòng 17 năm (1991-2008), hệ số ICOR tăng 2,3 lần. Ngay cả mức phổ biến từ 4-5,3 trong giai đoạn 2000-2007 cũng cao hơn nhiều so với khuyến cáo của các định chế tài chính có uy tín như Ngân hàng Thế giới: Đối với một nước đang phát triển, ICOR ở mức 3 là đầu tư có hiệu quả và nền kinh tế phát triển theo hướng bền vững. So sánh với các nước trong khu vực, ICOR của Việt Nam gần gấp đôi, có nghĩa là hiệu suất đầu tư của nước ta chỉ bằng một nửa. Điều đáng nói ở khu vực đầu tư công, đặc biệt là các doanh nghiệp nhà nước, thành phần chủ đạo của nền kinh tế, thì hệ số ICOR lại cao vọt. Nếu hệ số ICOR chung của nền kinh tế năm 2009 là 8, thì ICOR của khu vực kinh tế Nhà nước lên tới 12.
Hình: Tốc độ tăng trưởng GDP và hệ số ICOR của Việt Nam, 1991-2009.
(Theo tạp chí kinh tế và phát triển)
ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế càng thấp. Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế.
Chỉ so với năm 2008, hệ số ICOR năm 2009 đã tăng 17,5%. “Những nỗ lực của chúng ta trong việc nâng sức cạnh tranh của nền kinh tế đã không mang lại hiệu quả như mong muốn, thậm chí còn khiến tình hình kém hơn". Và gắn với hệ số cao ấy, là nguy cơ lạm phát trở lại. Năm 2009, khi nền kinh tế Việt Nam chậm lại, nguy cơ đó chưa rõ ràng, nhưng năm tới, khi kinh tế phục hồi, nếu không có giải pháp sớm, cơ thể kinh tế Việt Nam sẽ phải đối mặt với đợt sốt mới.
Icor của mỗi nước phục thuộc nhiều yếu tố,thay đổi theo trình độ phát triển kinh tế và cơ chế chính sách trong nước.Ở các nước phát triển Icor thường cao từ 6-10 do thừa vốn,thiếu lao động,vốn được sử dụng nhiều để thay thế cho lao động,do sử dụng công nghệ hiện đại có giá cao.Trong khi đó các nước đang phát triển thì Icor thường thấp từ 3-5 do thiếu vốn,thừa lao động nên có thể sử dụng lao động thay thế cho vốn,do sử dụng công nghệ kém hiện đại,giá rẻ.Trong khi đó Việt Nam lại là một nước đang phát triển,thiếu vốn và ICOR lại cao thể hiện sự kém hiệu quả của việc sử dụng vốn mà nhất là nguồn vốn trong đầu tư khu vực nhà nước do lãng phí và quá nhiều thất thoát.
5.Thực tiễn phát triển cân đối của Việt Nam.
Hiện nay, không ít các tập đoàn kinh tế vươn xa để đầu tư dàn chải những lĩnh vực ngoài trọng tâm của mình, điều đó đã khiến cho không ít người lo lắng về tính hiệu quả trong việc xử dụng vốn nhà nước không đúng mục đích và dẫn đến hiệu quả thấp. Chiến lược phát triển ngành nghề, cơ hội sinh lời và khả năng cạnh tranh… của các tập đoàn hiện nay có thực sự mạnh và đã đi đúng hướng?
Thực tế, cả nước hiện có 8 tập đoàn kinh tế Nhà nước, nhưng có đến hàng trăm doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng gắn mác “tập đoàn” dưới dạng công ty THNN tập đoàn hay công ty cổ phần tập đoàn. Chưa bàn đến khuôn khổ pháp lý, chỉ nhìn nhận về mặt hoạt động hiện tại của các tập đoàn kinh tế Nhà nước chính danh đã thấy bộc lộ nhiều băn khoăn vướng mắc.
Theo các chuyên gia kinh tế, các tập đoàn kinh tế lớn của Nhà nước đều được hình thành từ quyết định hành chính trên cơ sở tổ chức lại tổng công ty Nhà nước, mà chưa có tập đoàn kinh tế nào được hình thành trên cơ sở các doanh nghiệp tự phát triển, tích tụ và tập trung vốn, đầu tư chi phối các doanh nghiệp bằng các biện pháp sáp nhập, mua cổ phần, góp vốn để hình thành các liên kết bền chặt và phát triển thành tập đoàn kinh tế. Hoạt động của nhiều tập đoàn kinh tế bộc lộ nhiều bất ổn.
Đến nay cũng chưa có tập đoàn kinh tế nào được thành lập do các doanh nghiệp tự nguyện liên kết nhau để tạo thành tập đoàn kinh tế có tiềm lực kinh tế, tài chính đủ mạnh, đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Sau đó mô hình này tiếp tục sử dụng tiềm lực đó để đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, lĩnh vực hoạt động và đầu tư thâm nhập, thôn tính các doanh nghiệp để phát triển thành tập đoàn. Chính vì vậy, hoạt động của nhiều tập đoàn kinh tế bộc lộ nhiều bất ổn.
Theo công bố mới đây của Kiểm toán Nhà nước, một số tập đoàn kinh tế đã bị “điểm mặt” trong nhóm doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ. Ở các tập đoàn kinh tế và tổng công ty Nhà nước còn có tình trạng đưa nguồn vốn khổng lồ của mình đầu tư dàn trải, đầu tư vào những lĩnh vực nhạy cảm, rủi ro như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng... không tập trung vào ngành kinh doanh thế mạnh của mình.
Theo số liệu tổng hợp của Bộ Tài chính, trong số 70 tổng công ty và tập đoàn kinh tế Nhà nước đã có 28 tổng công ty tham gia góp vốn thành lập công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại, công ty quản lý quỹ, công ty bảo hiểm và bất động sản với tổng số vốn lên tới 23.344 tỷ đồng, bằng 8,7% vốn chủ sở hữu. Một điều đáng lo ngại nữa, là tình hình mất cân đối nợ/vốn chủ sở hữu của một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty. Thí dụ, Vinashin có vốn nợ gấp 25 lần vốn chủ sở hữu; Tổng công ty Xây dựng công trình giao thông 5 có ốn nợ gấp 42 lần vốn chủ sở hữu...
Trong khi đó, theo Nghị định số 09/2009 của Chính phủ về Quy chế quản lý tài chính của công ty Nhà nước, tỷ lệ này chỉ được phép ở mức 3 lần. Mới đây, Đoàn Giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội đã làm việc với 5 bộ chủ quản của nhiều tập đoàn kinh tế, gồm: Tài Chính, Công thương, Giao thông- Vận tải, Xây dựng, Nông nghiệp & Phát triển nông thôn. Theo TS Vũ Viết Ngoạn, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội- Tổng thư ký Đoàn Giám sát, kết quả sơ bộ cho thấy có không ít doanh nghiệp được giám sát có “tình hình tài chính rất yếu”. Qua báo cáo của các tập đoàn, chúng tôi vẫn chưa thấy tính ưu việt của các tập đoàn so với các tổng công ty, xét về mặt bản chất”.
Và cả lĩnh vực bất động sản,TS Trần Xuân Lịch, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, nhận xét: Hiện nay, tập đoàn kinh tế Nhà nước đang chi phối thị trường điện, than- khoáng sản, dầu khí, viễn thông, cao su... nhưng việc quản lý Nhà nước đối với các tập đoàn kinh tế có nhiều hạn chế. Hiện khu vực tập đoàn kinh tế Nhà nước đang tiềm ẩn nguy cơ hạn chế cạnh tranh, độc quyền, thống lĩnh thị trường. Hiệu quả quản lý Nhà nước trong vấn đề này còn kém.
Sự sụp đổ của các tập đoàn kinh tế hàng đầu thế giới trong thời gian gần đây cho thấy mặt trái của tập đoàn là khi bành trướng rộng vào nhiều ngành nghề khác nhau, quản lý ở cấp cao của tập đoàn mất dần khả năng nắm bắt chuyên ngành sâu, tập đoàn dễ mất phương hướng, không còn mục tiêu rõ ràng và dễ mất khả năng cạnh tranh và khi một phần sụp đổ, nó có thể kéo theo sự sụp đổ của cả tập đoàn. Gần đây, những báo động về chuyện các tập đoàn kinh tế đua nhau đầu tư vào tài chính, ngân hàng, bất động sản... đã được đưa ra. Tập đoàn kinh tế không nhất thiết phải phát triển đa ngành, mà cần chuyên sâu vào ngành mũi nhọn. Bởi vì khi nguồn lực còn hạn chế, tập đoàn đầu tư dàn trải sẽ không đủ lực đầu tư phát triển ngành chủ lực.
Theo nhiều chủ đầu tư, ban QLDA trong lĩnh vực XDCB giao thông thì tình trạng vốn luôn dư thừa trong nhiều năm, nhưng lại thiếu vốn nghiêm trọng trong năm 2010, có nguyên nhân do công tác kế hoạch đầu tư thiếu nhìn xa trông rộng và dự báo kém.
Kế hoạch, dự báo kém dẫn đến tình trạng đầu tư dàn trải, phần vì nhu cầu cấp bách của cơ sở hạ tầng nhưng phần nữa là phải “lựa chiều” trước những sức ép lớn của các ngành, địa phương, công ăn việc làm của các ban quản lý dự án và nhà thầu. Chính vì vậy có nhiều dự án triển khai mang tính chất “giải toả tâm lý” hoặc “dấm” trước để chờ vốn bổ sung.
Theo báo cáo của Cục QLXD&CLCT GT, dù các địa phương chưa tổng hợp, báo cáo đầy đủ nhưng số lượng các dự án do UBND các tỉnh, thành phố quyết định đầu tư rất lớn. Số liệu của 22 sở GTVT báo cáo Bộ GTVT lên tới 270 dự án với tổng mức đầu tư gần 49.500 tỷ đồng. Nếu tổng hợp toàn bộ các tỉnh thì số lượng dự án và tổng kinh phí đầu tư còn lớn hơn rất nhiều.
Trong đó, một số Sở GTVT đã nhận làm chủ đầu tư nhiều dự án rất lớn như ở Hà Nội và TP.HCM. Ngoài ra, một số dự án lớn khác Bộ GTVT chuyển giao cho các tỉnh chủ quản đầu tư như: tuyến Tây Thanh Hóa, Tây Nghệ An, Cần Thơ- Vị Thanh, đường ven đảo Phú Quốc...
Bên cạnh các dự án do địa phương quyết định đầu tư còn một số lượng rất lớn các dự án do Bộ GTVT quyết định đầu tư và giao cho các Sở GTVT làm chủ đầu tư. Trong năm 2010, các dự án đang được triển khai trong toàn ngành GTVT khoảng 267 dự án, tiểu dự án thì Bộ GTVT đã giao cho 43 sở GTVT làm chủ đầu tư 87 dự án. Ngoài ra, theo phân cấp, các Sở GTVT còn được giao làm nhiệm vụ của chủ đầu tư các tiểu dự án thuộc dự án được đầu tư bằng nguồn vốn ODA như: nâng cấp các tuyến tỉnh lộ bằng nguồn vốn ADB, giao thông nông thôn sử dụng vốn WB...
Những dự án giao cho địa phương đã chiếm một tỷ lệ vốn rất lớn đối với công tác đầu tư hạ tầng giao thông. Tuy nhiên, trong số các dự án đó, không phải dự án nào cũng cấp bách và phải gấp rút đầu tư. Thực tế, rất ít dự án được các chủ đầu tư địa phương triển khai đúng tiến độ. Ngoại trừ một số tỉnh làm tốt như: Quảng Ninh, Hà Nam, Tuyên Quang, còn hầu hết những dự án giao cho địa phương đều không đáp ứng được yêu cầu về tiến độ, thậm chí nhiều dự án đã kéo dài nhiều năm, phải gia hạn nhiều lần nhưng vẫn chưa hoàn thành.
Việc đầu tư dàn trải ở các địa phương khiến cho trong nhiều năm qua, nhiều chủ đầu tư, ban QLDA của Bộ GTVT đối mặt với nguy cơ thiếu dự án và thiếu việc làm cho cán bộ, công nhân viên. Rất nhiều dự án đã giao cho các ban QLDA triển khai lập dự án, nhưng sau khi hoàn tất công tác chuẩn bị đầu tư, các địa phương lại tìm mọi cách “xin lại” để triển khai thực hiện. Điều này gây ra tâm lý ức chế đối với không ít cán bộ và ban QLDA thuộc Bộ GTVT.
Theo lãnh đạo một số ban QLDA, chủ đầu tư, do đầu tư quá nhiều dự án trong một thời gian ngắn nên hiện nay nguồn vốn bị hẫng hụt và cạn kiệt là tất yếu. Vốn ODA đang ở thời kỳ “cuối vụ” và ngày càng ít các dự án được sử dụng nguồn vốn này mà việc ghi vốn ODA năm 2010 cho ngành GTVT chỉ 3.000 tỷ đồng, trong khi thực tế năm 2009 đã giải ngân tới hơn 6.000 tỷ đồng là dẫn chứng điển hình.
Rất nhiều các dự án lớn, đặc biệt là các tuyến cao tốc lớn có số vốn đầu tư hàng tỷ USD đều phải sử dụng nguồn vốn ít ưu đãi hơn, hoặc vay thương mại (OCR). Trong khi đó, vốn trái phiếu Chính phủ phát hành ngày càng khó hơn trước, vốn ngân sách có hạn, các nguồn vốn ngoài ngân sách như BOT, BTO, BT và PPP (nhà nước-tư nhân) không nhiều, đang trong quá trình hoàn thiện cơ chế thu hút. Thậm chí, rất nhiều công trình đã sử dụng vốn ứng trước của kế hoạch năm 2011 với số lượng lớn.
Với các nhà thầu, trong những năm vừa qua cũng nảy sinh nhiều “căn bệnh” nguy hiểm. Đó là đầu tư nôn nóng để “đón đầu”, thi công “vượt vốn” đối với dự án vốn trong nước. Các chủ đầu tư cứ khởi công để “khều” vốn của Trung ương, còn nhà thầu hăng hái thái quá lao vào làm, chấp nhận thanh toán chậm sau vài ba năm.
Hậu quả nặng nề là hầu hết các nhà thầu mất cân đối tài chính nghiêm trọng, công trình đã hoàn thành hoặc khối lượng đã thực hiện không được thanh toán, nợ đọng vốn XDCB hàng chục nghìn tỷ đồng, trong khi bản thân mình lại nợ ngân hàng đầm đìa, nhiều công trình sử dụng vốn trong nước dở dang….
6. Lý thuyết cực tăng trưởng của kinh tế Việt Nam:
6.1.Ngành công nghiệp:
Trọng tâm Xúc tiến đầu tư quốc gia năm 2011 là kêu gọi đầu tư cho phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và các dự án cơ sở hạ tầng theo hình thức hợp tác công - tư (PPP).
Bà NGUYỄN THỊ BÍCH VÂN, Phó cục trưởng Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhấn mạnh điều này khi trao đổi về điểm khác biệt của Chương trình Xúc tiến đầu tư quốc gia năm 2011 so với các năm trước.Theo Quyết định 71/2010/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế Thí điểm đầu tư theo hình thức PPP với các dự án phát triển kết cấu hạ tầng và cung cấp dịch vụ công, có 9 nhóm lĩnh vực, dự án được đưa ra thí điểm, đó là các nhóm dự án có quy mô lớn, yêu cầu cấp thiết đối với phát triển kinh tế - xã hội.
Điều đó có nghĩa là, việc kêu gọi xúc tiến đầu tư cho các dự án trên không thể hoàn thành trong một năm, mà cần có một giai đoạn, với các lớp lang công việc rất cụ thể, từ chuẩn bị dự án, lập dự án, tổ chức giới thiệu dự án đến tìm kiếm nhà đầu tư, nhà cung cấp tài chính…
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lựa chọn các dự án phù hợp để tiến hành xúc tiến, vận động đầu tư, với các địa điểm tổ chức dự kiến là Hoa Kỳ, Đông Á (Nhật Bản, Hàn Quốc) và châu Âu.
Khó khăn trong thu hút đầu tư vào lĩnh vực này chính là vẫn chưa có chính sách, thông tin cụ thể về các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam. Bộ Công thương cũng đã có một số quy hoạch phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, nhưng chưa hội tụ đủ các điều kiện để liên kết các công đoạn của sản xuất, chưa xác định được yếu tố vùng trong phát triển ngành, sản phẩm.
Chính vì vậy, trong năm 2011, chúng ta xác định, sẽ xây dựng chương trình tổng thể dài hạn để xúc tiến đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ, bắt đầu bằng việc xây dựng chính sách, nhận diện thực trạng, xây dựng cơ sở dữ liệu về năng lực, tình trạng công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam. Đặc biệt, chúng ta đề xuất tổ chức hội thảo trong nước để xác định nhu cầu đầu tư, từ đó xây dựng chương trình xúc tiến đầu tư. Cách làm là hướng trực tiếp đến các đối tác có thế mạnh trong các ngành này, như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và hướng tới nhóm ngành cụ thể.
Mục tiêu của việc làm đó là đảm bảo công tác xúc tiến đầu tư hiệu quả hơn. Ngay cả hoạt động xúc tiến đầu tư phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, thì công việc không chỉ giới hạn ở kêu gọi từ bên ngoài, mà cần phải thực hiện chương trình tổng thể, với nhiều hoạt động liên kết, tạo cơ sở để có liên kết cuối cùng là phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, tạo điều kiện để phát triển năng lực sản xuất của doanh nghiệp Việt Nam, đủ khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu.
Hiện tại, công nghiệp hỗ trợ của VN chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Đây là một trong những yếu tố dẫn đến nhập siêu và giảm sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài.
Ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam hầu như là con số 0. Không có nguồn cung ứng tại chỗ buộc các nhà đầu tư phải nhập linh kiện, khiến giá thành cao, sức cạnh tranh giảm. Ví dụ như trong ngành lĩnh vực ô tô - xe máy, Việt Nam chỉ có 11 đơn vị hỗ trợ - cung ứng và công nghệ mới chỉ dừng lại ở khả năng lắp ráp một vài công đoạn.
Trong khi ở Thái Lan, con số này nhiều gấp 10 lần và họ chủ động đi tìm nhà đầu tư để tự tiếp thị.Nhờ đó, ở Thái Lan, các nhà đầu tư lớn như Toyota, Honda... rất hài lòng. Sản phẩm được bán với giá rẻ hơn khiến thị trường tiêu thụ bùng nổ, dòng FDI chảy vào ồ ạt.
Đã có nhiều ý kiến về nguy cơ VN rơi vào bẫy thu nhập trung bình nếu không thay đổi mô hình tăng trưởng dựa trên nhân công giá rẻ và thu hút đầu tư nước ngoài sang tăng cường năng lực sản xuất và hiệu quả của nền kinh tế. Bên cạnh đó, VN đang trên lộ trình cắt giảm thuế đến năm 2018 theo Hiệp định thương mại tự do AFTA, do đó, năng lực sản xuất nội địa cần phải được nâng cao hơn nữa.
Tại hội thảo "Chính sách công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ - Kinh nghiệm Nhật Bản và những vấn đề của Việt Nam", nguyên Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển cho rằng, ngành công nghiệp (CN) VN hiện nay chủ yếu là ngành CN lắp ráp (ôtô, xe máy, thiết bị điện - điện tử,...) và gia công (dệt may, giày dép,..). Đây là công đoạn có giá trị gia tăng thấp, năng lực cạnh tranh kém. Nguồn cung cấp linh kiện, phụ tùng chủ yếu nhập khẩu, dẫn đến nhập siêu tăng trên 20%, nếu tính riêng hàng CN còn tới 70%.
Thực trạng này còn dẫn tới nguy cơ là các doanh nghiệp (DN) lắp ráp, sản xuất sản phẩm cuối cùng có thể rút khỏi thị trường Việt Nam do không có nguồn cung linh kiện, phụ tùng tại chỗ. Điều này càng đòi hỏi ngành Công nghiệp hỗ trợ phải nhanh chóng hình thành và phát triển. Tuy nhiên, lựa chọn sản phẩm nào trong danh mục vật liệu, linh kiện... để ưu tiên phát triển thành ngành Công nghiệp hỗ trợ lại là một bài toán khó.
Theo ông Nguyễn Văn Phúc - Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội, không một quốc gia nào có thể sản xuất tất cả các chi tiết, bộ phận cho một sản phẩm hoàn chỉnh. Do đó, cần xác định chi tiết, bộ phận nào có lợi thế để tham gia hiệu quả vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu.
Các tiêu chí lựa chọn cần phù hợp với chiến lược phát triển ngành CN trong kế hoạch trung và dài hạn. Danh mục sản phẩm Công nghiệp hỗ trợ nên tập trung phát triển các chi tiết, phụ tùng cơ khí, thiết bị điện, điện tử. Cần xây dựng các cụm, khu Công nghiệp hỗ trợ như bước đầu đã có tại Bắc Ninh để đạt tới sự đồng bộ tối đa, tận dụng khả năng sử dụng chung thiết bị công nghệ, tiết kiệm chi phí vận tải,...
VN có thể phát huy được thế mạnh ở ngành CN nhựa, linh kiện điện tử, sản phẩm điện gia dụng. Khi lựa chọn DN vừa và nhỏ có sản phẩm trong danh mục Công nghiệp hỗ trợ cần có 4 yếu tố: vốn, công nghệ, nhân lực và hệ thống phân phối.
Trong quá trình phát triển CN, nhập khẩu nguyên liệu là một bất lợi rất lớn. Do đó, VN cần có những thương hiệu mạnh bởi với nguồn nhân lực dồi dào, đây là nơi các nhà đầu tư nước ngoài có thể đặt cơ sở sản xuất. Tuy nhiên, các DN cần đào tạo tại chỗ nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu công việc.
6.2 Du lịch Việt Nam
Việt Nam có đủ các yếu tố để phát triển ngành du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Với tiềm năng du lịch đa dạng và phong phú, đất nước này đang là điểm đến nổi tiếng của thế giới.
Năm 2008, Việt Nam đã đón 4,218 triệu lượt khách quốc tế, con số này năm 2009 là 3,8 triệu lượt, giảm 11% so với năm trước. Tổng cục Du lịch Việt Nam dự báo con số lượt khách du lịch quốc tế đến Việt Nam năm 2010 là 4,5-4,6 triệu lượt, số lượt khách du lịch nội địa là 28 triệu lượt năm 2010, tăng 12% so với năm 2009
Doanh thu ngành du lịch Việt Nam năm 2009 đạt từ 68.000 đến 70.000 tỷ đồng.
Theo dự báo của Tổng cục du lịch Việt Nam, năm 2015 ngành du lịch Việt Nam sẽ thu hút 7-8 triệu lượt khách quốc tế, 32-35 triệu khách nội địa, con số tương ứng năm 2020 là 11-12 triệu khách quốc tế; 45-48 triệu khách nội địa. Doanh thu từ du lịch sẽ đạt 18-19 tỷ USD năm 2020.
Du lịch là ngày càng có vai trò quan trọng tại Việt Nam. Đối với khách du lịch ba-lô, những người du lịch khám phá văn hóa và thiên nhiên, bãi biển và các cựu chiến binh Mỹ và Pháp, Việt Nam đang trở thành một địa điểm du lịch mới ở Đông Nam Á
Các dự án đầu tư vào bất động sản du lịch dọc theo bờ biển hơn 3.000 km và tại và các thành phố lớn đang gia tăng nhanh chóng. Dịch vụ du lịch ngày càng đa dạng. Công ty lữ hành địa phương và quốc tế cung cấp các tour du lịch tham quan các bản làng dân tộc thiểu số, đi bộ và tour du lịch xe đạp, đi thuyền kayak và du lịch ra nước ngoài cho du khách Việt Nam, đặc biệt là gắn kết với các quốc gia láng giềng Campuchia, Lào và Thái Lan. Ngoài ra, nhờ vào việc nới lỏng các quy định về đi lại, xuất cảnh, khách du lịch nước ngoài đã có thể đi lại tự do trong nước từ năm 1997.
Nền kinh tế Việt Nam đang chuyển đổi từ nông nghiệp sang nền kinh tế dịch vụ. Hơn một phần ba của tổng sản phẩm trong nước được tạo ra bởi các dịch vụ, trong đó bao gồm khách sạn và phục vụ công nghiệp và giao thông vận tải. Nhà sản xuất và xây dựng (28 %) nông nghiệp, và thuỷ sản (20 %) và khai thác mỏ (10 %).
Trong khi đó, du lịch đóng góp 4,5% trong tổng sản phẩm quốc nội (thời điểm 2007). Ngày càng có nhiều dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào ngành du lịch. Sau các ngành công nghiệp nặng và phát triển đô thị, đầu tư nước ngoài hầu hết đã được tập trung vào du lịch, đặc biệt là trong các dự án khách sạn.
Với tiềm năng lớn, Du lịch Việt Nam đã được chính phủ quy hoạch, định hướng để trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Bên cạnh những lợi thế thì vẫn còn tồn tại những vấn đề nan giải của ngành du lịch Việt Nam:
Du lịch Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề yếu kém như ô nhiễm môi trường tại các điểm du lịch, tình trạng chèo kéo, bắt chẹt khách, tăng giá phòng tùy tiện, trong khi đó công tác quản lý chưa đạt hiệu quả... Lãnh đạo ngành du lịch hứa hẹn, năm 2010 ngành sẽ đột phá cải thiện nhà vệ sinh, sẽ phát động chiến dịch ở đâu có du lịch ở đó có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn.
6.3 Dầu khí - ngành mũi nhọn trong nền kinh tế Việt Nam.
Ngày 27/1, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam tổ chức hội nghị tổng kết công tác năm 2010, triển khai nhiệm vụ năm 2011. Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết tới dự.
Năm 2010, Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam đạt kỷ lục mới về doanh thu với mức 478,4 nghìn tỷ đồng, tăng 59% so với năm 2009, nộp ngân sách Nhà nước 128,9 nghìn tỷ đồng, tăng 41% và chiếm 1/3 tổng thu ngân sách Nhà nước.
Trong năm, Tập đoàn có 7 phát hiện dầu khí mới, đưa 5 mỏ dầu khí mới vào khai thác (trong đó có 2 mỏ ở nước ngoài). Tổng sản lượng khai thác qui dầu đạt 24,4 triệu tấn, vượt 6% kế hoạch. Nhà máy lọc dầu Dung Quất vận hành đạt năng suất cao, sản xuất 5,7 triệu tấn xăng, dầu.
Năm 2011, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam phấn đấu đạt 486 nghìn tỷ đồng doanh thu, khai thác 23,2 triệu tấn dầu qui đổi... Để thực hiện được mục tiêu này, Tập đoàn tập trung triển khai chiến lược tăng tốc phát triển với các dự án tìm kiếm thăm dò dầu khí ở trong nước và nước ngoài theo hợp đồng đã cam kết; đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài vào tìm kiếm thăm dò dầu khí; vận hành an toàn nhà máy lọc dầu Dung Quất.
Phát biểu tại hội nghị, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhiệt liệt chúc mừng sự trưởng thành nhanh của ngành dầu khí Việt Nam, năm nào cũng đạt và vượt kế hoạch, đóng góp lớn vào ngân sách Nhà nước. Không chỉ làm tốt việc sản xuất trong lĩnh vực chính, ngành còn mở rộng hoạt động hiệu quả trong nhiều lĩnh vực khác như phân bón, điện, thăm dò, khai thác mỏ ở nước ngoài.
Chủ tịch nước cho rằng, đạt được những thành tựu to lớn như trên, bên cạnh sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước là nỗ lực không mệt mỏi, đầy sáng tạo của toàn thể cán bộ, công nhân viên ngành dầu khí.
Trong phong trào thi đua cải tiến kỹ thuật, ngành dầu khí có những sáng kiến đem lại lợi ích hàng chục triệu USD. Đặc biệt, ngành dầu khí Việt Nam phát triển như ngày hôm nay phải kể tới sự giúp đỡ của Liên Xô trước đây và Liên bang Nga.
Việc hợp tác nay đã mở rộng ra khai thác ngay trên đất nước Nga, là biểu tượng của mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp giữa hai nước.
Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết nhấn mạnh: “Dầu khí là ngành mũi nhọn trong nền kinh tế nước ta. Vì vậy, thời gian tới, Tập đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam cần tiếp tục phát huy thành tích và kinh nghiệm đã có, đóng góp mạnh mẽ hơn cho đất nước”.
Chủ tịch nước nói: “Tới đây, ngành dầu khí mở ra nhiều trung tâm lọc hoá dầu, đi khắp thế giới để khai thác dầu khí, mở thêm hoạt động trong lĩnh vực điện lực, sản xuất phân bón. Tôi tin rằng những năm tới ngành dầu khí sẽ có tốc độ phát triển bứt phá, đóng góp cho đất nứơc ngày càng nhiều hơn”.
Cũng tại Hội nghị đã công bố quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc thành lập trường Đại học Dầu khí Việt Nam, đóng tại thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đây là trường đại học công lập đặc biệt do Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam là chủ đầu tư, không sử dụng ngân sách nhà nước, đáp ứng yêu cầu nhân lực chuyên sâu cho sự tăng trưởng của ngành dầu khí trong thời gian tới.
6.4.Công nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn
Các phiên họp toàn thể sẽ thảo luận các vấn đề chiến lược, chính sách vĩ mô liên quan tới vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp và xã hội trong thúc đẩy ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, hợp tác Nhà nước – tư nhân; công nghệ thông tin phục vụ phát triển bền vững, xu hướng công nghệ tương lai và các vấn đề về bình đẳng giới. Bên cạnh các phiên họp toàn thể, các ủy ban chuyên môn sẽ đi sâu thảo luận các chuyên đề về Chính phủ điện tử, hạ tầng viễn thông, nguồn nhân lực, phần mềm mã nguồn mở, các giải pháp và bài học ứng dụng công nghệ thông tin trong nhiều lĩnh vực: y tế, nông nghiệp, môi trường, giáo dục và thúc đẩy thương mại, kinh doanh. Ngoài ra, bên lề diễn đàn còn có các sự kiện như hoạt động đối ngoại, giao lưu, xúc tiến thương mại và những hoạt động cộng đồng với mong muốn đưa công nghệ thông tin đến gần hơn với người dân… Phát biểu tại lễ khai mạc, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh, Việt Nam coi công nghệ thông tin là ngành kinh tế mũi nhọn để thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ, xây dựng xã hội thông tin, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.Thủ tướng cho biết, trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã ban hành nhiều cơ chế chính sách và tập trung nguồn lực để phát triển, công nghệ thông tin đã có bước phát triển khá mạnh, duy trì được tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2008, doanh thu của ngành công nghệ thông tin và truyền thông đạt trên 10 tỷ USD, tỷ lệ sử dụng Internet đạt khoảng 25% và phổ cập điện thoại ở mức độ cao. Theo Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Diễn đàn Công nghệ Thông tin Thế giới lần này là cơ hội để các nước thảo luận một cách toàn diện và sâu sắc về các chính sách, kinh nghiệm, cơ hội hợp tác phát triển, ứng dụng công nghệ thông tin trong việc giải quyết các thách thức đối với sự phát triển bền vững, trong đó có phát triển nông nghiệp và nông thôn, cơ sở hạ tầng truyền thông, giáo dục, y tế, bình đẳng gới, môi trường, Chính phủ điện tử, cơ hội kinh tế, mô hình hợp tác về công nghệ thông tin… Đồng thời, Chính phủ Việt Nam cũng sẽ tạo sự quan tâm đặc biệt cho các tập đoàn công nghệ thông tin đa quốc gia, xây dựng, triển khai và khuyến khích việc ứng dụng công nghệ thông tin trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội và tạo ra một thị trường công nghệ thông tin năng động, và tăng cường hợp tác giữa các doanh nghiệp công nghệ thông tin Việt Nam với các dự án, hợp tác kinh doanh, ứng dụng công nghệ thông tin với tất cả các doanh nghiệp công nghệ thông tin trên thế giới
6.5.Chú trọng xây dựng cở sở hạ tầng
Ko riêng gì nước ta, đối với bất cứ nước nào, CSHT là rất quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế, không có CSHT thì không thể có điểm tựa cho nền kinh tế được. Cũng ko riêng VN, nhiều nước trên thế giới CSHT cũng ko theo kịp nền kinh tế. Đương nhiên nó sẽ có những tác động.Giả sử khi một doanh nghiệp FDI muốn đầu tư vào một vùng hay một tỉnh thành nào đó sau khi xem xét thấy cơ sở hạ tầng kém,đường sá đi lại khó khăn và có thể ảnh hưởng do thời tiết như mưa lũ thì họ có thể quyết định không đầu tư vào đó.
Việt Nam đang trong quá trình phát triển tương đối nhanh cho nên nhiều khi CSHT ko đáp ứng đủ nhu cầu cũng là dễ hiểu. Nhưng cần phải có cân bằng động, kể cả những cái mà chúng ta dự báo nó phát triển cũng phải động. Do đó,chúng ta cần tăng cường tính dự báo hơn nữa và đặt mục tiêu phục vụ cho tính dự báo đó.
Bên cạnh đó CSHT Việt Nam còn gặp phải mấy vấn đề, trước hết là quy hoạch, quy hoạch của chúng ta chưa tốt, cho nên đầu tiên là phải vẽ cho tốt, sau đó là phải có vốn để làm và cái thứ ba là vấn đề công nghệ. Trong quá trình làm lại vướng mắc về mặt bằng và nhiều thứ khác nên đường sá của chúng ta còn chưa tốt.
Về chuyện giải phóng mặt bằng,đây là câu chuyện muôn thuở nhưng muốn làm tốt thì cần tăng cường hơn nữa công tác quản lý nhà nước. Bây giờ nhà nước đã có khung giá đất cụ thể, tôi chưa bàn là nó đã hợp lý hay chưa, tuy nhiên đã có khung giá rồi mà bây giờ giải phóng mặt bằng với khung giá đất là không giải phóng được. Vậy thì rõ ràng công tác quản lý nhà nước của chúng ta là chưa tốt.
Tuy nhiên, hiện nay rất nhiều các công trình cơ sở hạ tầng lấy đất của nông nghiệp, gây khó khăn cho dân, thậm chí nhiều công trình xây lên còn hoạt động sai mục đích dẫn đến những vụ khiếu kiện về đất đai.Để khắc phục,điều phải giải quyết trước tiên là phải công khai rành mạch với dân. Nếu lấy đất của người ta mà phục vụ cho cái chung có lợi cho đất nước thì họ cũng sẽ chấp nhận. Lâu nay người ta vẫn đấu tranh chính là do một số nơi làm không minh bạch công khai, nếu làm cho việc chung thì dân họ sẽ ủng hộ.
CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM.
1.Phân bổ và sử dụng nguồn vốn có hiệu quả.
1.1 Cơ cấu lại và nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn trong nước.
Trước thực trạng đầu tư công nhà nước không đạt hiệu quả như mong muốn cần thực hiện một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công:
Xây dựng kế hoạch đầu tư theo từng lĩnh vực trong từng thời kì cụ thể phù hợp với định hướng phát triển xã hội .
Tập trung đầu tư hiệu quả vào những lĩnh vực trọng tâm, những công trình trong điểm với việc phát triển xã hội tránh tình trạng đầu tư dàn trải như hiện nay.
Tăng cường công tác kiểm tra, quản lí,kiểm toán nguồn vốn đầu tư tránh làm thất thoát lãng phí nguồn vốn.
Kiện toàn lại bộ máy quản lí khu vực công, có các chế độ đãi ngộ hợp lí nhằm tăng hiệu quả làm việc.
Có chế tài đủ mạnh để nâng cao trách nhiệm của người có quyền nắm quyết định đầu tư.
Phân bổ hợp lí lại giữa khu vực đầu tư công và đầu tư tư nhân tránh tình trạng lấn át đầu tư của đầu tư công.
. 1.2 Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nước ngoài.
a. Nguồn vốn FDI:
Để thu hút được hiệu quả nguồn vốn FDI chúng ta cần có các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn FDI:
Tạo điều kiện thuận lợi để các dự án triển khai hoạt động mở rộng tăng công suất hiện có.
Xử lí linh hoạt hơn nữa hình thức đầu tư.
Cải tiến công tác quản lý dự án trong quá trình thực hiện dự án
Nâng cao chất lượng công tác tư vấn , khảo sát thiết kế và xây dựng dự án
Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ tham gia quá trìưnh xây dựng.
Thực hiện tốt công tác chuẩn bị đầu tư về cơ sở vật chất, mặt bằng dự án, các chính sách nhằm thúc đẩy quá trình giải ngân vốn.
b.Nguồn vốn ODA:
ỎDA là nguồn vốn hỗ trợ phát triển xã hội nên cần có biện pháp nhằm sử dụng hiệu quả nhằm đem lại kết quả tốt nhất :
Tăng cường các cơ chế chính sách nhằm tăng cường năng lực quản lí và sử dụng vốn ODA, đào tạo các cán bộ quản lí theo hướng chuyên nghiệp và bền vững.
Hoàn thiện quy trình vận động thu hút sử dụng nguồn vốn ODA
Cải tiến hài hòa hóa trong các thủ tục hành chính và công tác giải ngân cho các dự án ODA
Chuẩn bị tốt phần vốn đối ứng,các yêu cầu về pháp lí và kĩ thuật,các công tác chuẩn bị trước đầu tư đối với các dự án.
Nâng cao chất lượng mua sắm, công tác đấu thầu
Tăng cường quản lí giám sát chặt chẽ về tài chính kế toán tại các ban quản lí dự án
Giảm thiểu tối thiểu tình trạng thất thoát vốn.
2.Giải quyết căn bản mất cân đối vĩ mô Đa số ý kiến trong Ủy ban Kinh tế cho rằng, nguyên nhân chủ yếu có tính căn nguyên của những hạn chế của nền kinh tế hiện nay là xuất phát từ sự yếu kém nội tại. Đó là mô hình tăng trưởng kinh tế những năm qua dựa nhiều vào việc tăng vốn đầu tư và phát triển chiều rộng, phân bổ nguồn lực lại chưa hợp lý, tỷ trọng đầu tư công trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội cao, tình trạng đầu tư dàn trải kéo dài, hiệu quả đầu tư thấp đã tác động xấu đến các cân đối lớn của nền kinh tế như thâm hụt cán cân vãng lai kéo dài, thâm hụt ngân sách lớn, nợ công tăng nhanh, nhập siêu cao, mất cân đối ngoại tệ... Đây là những yếu tố mang tính cốt yếu, tác động xấu đến nền kinh tế không chỉ trong trước mắt mà còn cả trong trung và dài hạn, phản ảnh thực lực của nền kinh tế chưa mạnh và thiếu tính bền vững, đòi hỏi có kế hoạch, lộ trình điều chỉnh trong những năm đầu của kế hoạch 5 năm 2011-2015.
Từ những phân tích trên, các ý kiến trong Ủy ban Kinh tế đều cho rằng, để giải quyết căn bản những mất cân đối vĩ mô, cùng với thực hiện các biện pháp trước mắt, phải đồng thời thực hiện việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại nền kinh tế. Một số giải pháp cần được quan tâm, theo Ủy ban Kinh tế là cơ cấu lại việc phân bổ các nguồn lực cho các ngành, các lĩnh vực trong nền kinh tế một cách hợp lý. Cải cách doanh nghiệp theo hướng nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp và của sản phẩm. Đồng thời phải rà soát lại các quy hoạch phát triển ngành, tăng cường công tác quản lý thực hiện quy hoạch, khắc phục tình trạng tùy tiện trong bổ sung và điều chỉnh quy hoạch...
Hiện nay, các DNNN đầu tư dàn trải và được tài trợ một cách vô nguyên tắc, gây mất cân đối cho nền kinh tế.
Khi DNNN đầu tư ồ ạt vào thị trường tài chính và chứng khoán, đồng vốn bị kéo vào khu vực ấy dẫn đến trống vốn ở các khu vực sản xuất kinh doanh, do đó, khu vực sản xuất, khu vực kinh tế vừa và nhỏ, khu vực kinh tế tư nhân trở nên lép vế, gây mất cân đối tiền - hàng hai chiều. Có lẽ điều mà chính phủ cần phải làm bây giờ là lấy lại cân bằng cho nền kinh tế bằng cách siết chặt kiểm soát các tập đoàn kinh tế.
3. Đầu tư phát triển nguồn nhân lực từ đó nâng cao chất lượng tăng trưởng.
Nguồn nhân lực là nhân tố quyết định đến sự phát triển và hưng thịnh của đất nước. Đặc biệt, đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung những người tinh tú nhất của các nhóm nguồn nhân lực bao giờ cũng là hạt nhân quyết định. Mỗi quốc gia đều phải có chính sách ưu tiên trong việc xây dựng và phát triển đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, đặc biệt trong quá trình phát triển và hội nhập quốc tế sâu rộng hơn. Thực trạng hiện nay, so với yêu cầu phát triển kinh tế, xã hội và phát triển nguồn nhân lực, đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam còn ít về số lượng và chất lượng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và trong so sánh quốc tế. Vì vậy cần đặt ra giải pháp nhằm phát triển nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay. Để xây dựng và phát triển đội ngũ nguồn nhân lực chất lượng cao, cần tập trung thực hiện các nhóm giải pháp sau:
Một là, đổi mới tổ chức đào tạo nguồn nhân lực theo hướng tập trung nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu thực tiễn sử dụng và ưu tiên tập trung bồi dưỡng nhân tài.
Xây dựng hệ thống giáo dục quốc gia mới tiên tiến, hiện đại (về tổ chức, cơ sở vật chất-kỹ thuật, đội ngũ giáo viên, nội dung chương trình và phương pháp dạy, học) phù hợp với các tiêu chí, chuẩn mực quốc tế đảm bảo sự liên thông giữa giáo dục và đào tạo, giữa các cấp bậc đào tạo từ dạy nghề đến sau đại học, giữa các nhóm ngành nghề đào tạo và liên thông hệ thống giáo dục quốc gia của Việt Nam với quốc tế.
Xây dựng hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ, đa cấp, năng động, liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo trong nước và quốc tế.
Xây dựng và triển khai thực hiện chương trình bồi dưỡng và đào tạo nhân tài, đặc biệt là hình thành và phát triển đội ngũ chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực quản lý hành chính, ngoại giao và kinh tế đối ngoại, quản trị kinh doanh, giáo dục-đào tạo, hoạt động khoa học-công nghệ, tư vấn hoạch định chính sách, pháp lý, y học, văn hoá-nghệ thuật.
Đào tạo, xây dựng và phát triển các nhóm nhân lực cốt yếu trong các ngành nghề trọng điểm: công nghệ thông tin, cơ khí-tự động hoá, vật liệu mới, công nghệ biển, công nghệ sinh học, y học, năng lượng, công nghệ môi trường và công nghệ vũ trụ.
Hai là, tăng cường thể lực và nâng cao tầm vóc con người Việt Nam
Mục tiêu cơ bản là cải thiện một cách bền vững tầm vóc của người Việt Nam, thể hiện bằng việc tăng chiều cao trung bình của thanh niên trong thời kỳ trung hạn lên ngang bằng với thanh niên các nước trong khu vực Đông á (cụ thể là người Trung Quốc) và trong thời kỳ dài hạn lên ngang bằng với chuẩn quốc tế của Tổ chức y tế thế giới. Đồng thời, cải thiện thể trạng người Việt Nam để đảm bảo sự phát triển hài hoà giữa chiều cao đứng và trọng lượng cơ thể, tăng cường thể lực, đặc biệt là sự phát triển hài hoà về các tố chất thể lực cần thiết (sức bền, sức mạnh, sức nhanh, mềm dẻo, khéo léo...) đảm bảo thực hiện lao động, học tập, sáng tạo và các hoạt động bình thường khác của mỗi người.
Ba là, đổi mới chính sách sử dụng nhân lực để tạo động lực kích thích và giải phóng sức sáng tạo của con người
Đổi mới chính sách sử dụng nhân lực căn cứ vào những nguyên tắc hiệu quả của nền kinh tế thị trường, phù hợp với tiến trình hình thành và phát triển thị trường lao động. Phát triển thị trường lao động, xây dựng những cơ chế và công cụ thích hợp để sử dụng nhân lực có hiệu quả, tạo động lực cho sự phát triển của chính bản thân nguồn nhân lực.
Bốn là, tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Khuyến khích mở rộng và tăng cường các quan hệ giao lưu và hợp tác song phương và đa phương giữa các tổ chức và người dân Việt Nam với các tổ chức quốc tế và công dân nước ngoài. Tăng cường thu hút chuyên gia quốc tế giỏi và Việt Kiều giỏi vào làmviệc ở Việt Nam trong các lĩnh vực giáo dục, đào tạo, y tế, hoạt động khoa học-công nghệ, tư vấn thiết kế, quản lý và kinh doanh... để nâng cao chất lượng phát triển con người và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng để tăng thêm được nhiều người Việt Nam đi học tập và làm việc ở nước ngoài.
Việc thực hiện đồng thời, đồng bộ những nhóm giải pháp xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chắc chắn sẽ thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực nước ta lên những tầm cao mới từ đó trực tiếp nâng cao năng suất lao động và năng suất nhân tố tổng hợp, từ đó góp phần nâng cao chất lượng tăng trưởng.
4.Đầu tư phát triển công nghệ nâng cao năng suất lao động:
Công nghệ là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lao động và chất lựong cạnh tranh của sản phẩm.Do đó công nghệ là vấn đề được ưu tiên tại các doanh nghiệp sản xuất cũng như một quốc gia.Đầu tư vào công nghệ sẽ đưa các nước tiến lên một bước trong quá trình hội nhâp.Trước những thực trạng đã nêu ở trên cần có một số giải pháp về đầu tư phát triển công nghệ:
Tập trung đầu tư có trọng tâm vào các linh vực trọng điểm nhằm nâng cao trình độ công nghệ các ngành kinh tế.
Xác định đúng lĩnh vực cần nghiên cứu có tính ứng dụng cao tránh tình trạng kết quả nghiên cứu không được ứng dụng vào thực tế. Thúc đẩy phát triển ứng dụng công nghệ , nhất là công nghệ cao phục vụ cho các ngành sản xuất kinh doanh ,tham gia thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của thị trường công nghệ, phải đưa nhanh đưa mạnh các tiến bộ công nghệ vào phục vụ thiết thực , hiệu quả cho sản xuất , đời sống, quốc phòng an ninh.
Thúc đẩy đào tạo nhân lực khoa hoc công nghệ có trình độ cao.
Đây mạnh hợp tác quốc tế trong hoạt động nghiên cứu khoa học, thông qua hoạt động hợp tác quốc tế để thu hút, huy động nguồn lực quý báu cho phát triển khoa học công nghệ cho đất nước.
5.Giải pháp chuyển dịch cơ cấu kinh tế hợp lí:
5.1 Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế:
Chuyển dịch cơ cấu theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa đã được đảng và nhà nước xác định là con đường tất yếu đưa nước ta nhanh chóng thoát khỏi tình trạng lạc hậu trở thành quốc gia văn minh hiện đại.Nhưng bên cạnh đó cần có con đường đi đúng đắn tránh tình trạng ồ ạt công nghiệp hóa mà không đem lại hiêu quả cao.Cần xác định đúng các lĩnh vực có thế mạnh phát triển phù hợp với đất nước.
Về công nghiệp cần xác định các ngành có thế mạnh đối với nước ta để tập trung đầu tư phát triển.
Về nông nghiệp cần đưa các ứng dụng khoa học kĩ thuật nhằm nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm nông nghiệp tập trung cho xuất khẩu.
Về dịch vụ cần tập trung phát triển các lĩnh vực có tiềm năng như du lịch , bảo hiểm vận tải hàng không xây dựng, xuất khẩu lao động … khuyến khích phát triển các ngành dịch vụ mới có sức cạnh tranh cao.Bên cạnh đó cần nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ và khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh dịch vụ trên thị trường nội địa.
5.2 Chuyển dịch cơ cấu vùng kinh tế:
Hiện nay nước ta có 6 vùng kinh tế : vùng trung du miền núi phía Bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung, vùng Tây Nguyên, vùng Đông Nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, có 3 vùng kinh tế trọng điểm là vùng động lực cho tăng trưởng kinh tế cả nước.Do đó phương hướng đặt ra là tiếp tục phát triển mạnh các vùng kinh tế trọng điểm bên cạnh đó cần đầu tư phát triển các vùng kinh tế còn lại nhằm phát triển kinh tế xã hội một cách toàn diện.
5.3 Chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế:
Sau đổi mới kinh tế đã chuyên từ kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường nhưng kinh tế nhà nước còn chiếm nhiều lĩnh vực thế mạnh. Do đó cần mở rộng các lĩnh vực đầu tư tư nhân vào các lĩnh vực đang có thế mạnh phát triển.Tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân tham gia vào một số lĩnh vực kinh doanh co khả năng phát triển cao mà khu vực nhà nước đang nắm giữ nhằm đảm bảo tính cạnh tranh thị trường.Bên cạnh đó cần có biện pháp pháp lí hữu hiệu tăng khả năng quản lí của nhà nước đến khu vực tư nhân.
6.Biện pháp bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường:
Tài nguyên thiên nhiên có thể coi là một lợi thế của Việt Nam trong công cuộc đầu tư phát triển đất nước. Nhưng thực trạng hiện nay tai nguyên thiên nhiên đang bị khai thác một cách không hiệu quả do đó yêu cầu đặt ra là phải có những biện pháp nhất định nhằm khai được tối ưu hiệu quả tài nguyên thiên nhiên nhưng không có nghĩa là khai thác tràn lan không có kế hoạch.
Chính phủ cần có các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư khai thác một cách có hiệu quả,nghiêm túc, nhất là khai thác, sử dụng triệt để,tiết kiệm tài nguyên khoáng sản trong quá trình khai thác sử dụng tài nguyên khoáng sản, đồng thời bảo vệ môi trường môi sinh trong quá trình khai thác,đạt mục tiêu phát triển bền vững trong hoạt động khoáng sản,có chính sách cụ thể nhằm khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước đầu tư các dự án chế biến sâu khoáng sản để phục vụ cho nhu cầu sử dụng trong nước và xuất khẩu.
Bên cạnh chính sách khai thác tài nguyên một cách có hiệu quả chúng ta còn cần có các biện pháp nhằm tái tạo lại các nguồn tài nguyên.
7.Giải pháp thúc đẩy tăng trưởng nhằm cải thiện môi trường đầu tư:
Ổn định môi trường đầu tư, hoạch định các chính sách ưu tiên, định hướng phát triển đầu tư nhằm tạo ra một môi trường đầu tư phát triển bình đẳng, minh bạch, ổn định, tính cạnh tranh cao nhằm giúp các doanh nghiệp nâng cao khả năng tự chủ.
Thực hiện nhất quán các chính sách tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh và phát triển mạnh mẽ các loại hình doanh nghiệp, để cộng đồng doanh nghiệp hoạt động và phát triển theo cơ chế thị trường. Tiếp tục đổi mới chính sách đầu tư và công tác quy hoạch , khuyến khích thu hút đầu tư và nâng cao hiệu quả đầu tư. Cải thiện môi trường đầu tư, xóa bỏ phân biệt đối xử, tạo môi trường thuận lợi để thu hút mạnh đầu tư từ nước ngoài vào.
Bên cạnh đó, việc cải cách thủ tục hành chính cũng là điều kiện quan trọng để cải thiện môi trường đầu tư. Cụ thể càn giảm thiểu thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp liên quan đến hoạt động đầu tư, rút ngắn thời gian và giảm chi phí gia nhập thị trường. Ban hành và sửa đổi một số luật về đầu tư kinh doanh cũng như các nghị định hướng dẫn của chính phủ tạo ra một cơ sở pháp lí đồng bộ và minh bạch, sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, xóa bỏ rào cản đối với hoạt động đầu tư kinh doanh.
8.Giải pháp nhằm xây dựng và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng là nhân tố quyết định chi phí sản xuất, tiến độ đầu tư, hiệu quả sử dụng vốn và chất lượng sản phẩm. Điều đó tác động trực tiếp đến lợi nhuận-mục tiêu cốt lõi của nhà đầu tư. Do vậy cần đẩy nhanh tiến độ xây dựng, phê duyệt và công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển. Bên cạnh đó cần thu hút tối đa các nguồn lực đầu tư vào phát triển kết cấu hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước, ưu tiên các lĩnh vực cấp thoát nước, điện, vệ sinh môi trường, đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông, bưu chính viễn thông. Cần chủ động làm tốt công tác xây dựng cơ sở hạ tâng đồng bộ cho từng vùng tạo điều kiện đầu tư phát triển thuận lợi.
9.Nâng cao hiệu quả huy động vốn trong đầu tư phát triển kinh tế:
a/ Đối với nguồn vốn trong nước:
Hiện nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, yêu cầu về vốn là rất lớn. Đòi hỏi nhà nước cần có những chính sách cụ thể nhằm huy động một nguồn vốn lớn phục vụ cho đầu tư phát triển
Trên cơ sở các quy hoạch phát triển ngành, nghiên cứu xây dựng các cơ chế, chính sách định hướng cho nhà đầu tư, các chủ doanh nghiệp một cách hấp dẫn hơn, yên tâm hơn khi bỏ vốn ra đầu tư, hạn chế tối đa được những rủi ro, không tạo nên sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, tạo nên một sân chơi bình đẳng giữa các loại hình DN. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp hoạt động ở những địa bàn kinh tế khó khăn cần có cơ chế chính sách thật ổn định với mức độ khuyến khích cao, nhất là trong việc tiếp cận với đất đai, mặt bằng sản xuất, với các nguồn vốn.
Thực hiện nghiêm túc các quy định của Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu nhằm thực hiện đúng tiến độ và bảo đảm được hiệu quả của dự án, đặc biệt rút ngắn thời gian giải phóng mặt bằng. Đồng thời tăng cường công tác kiểm tra giám sát của chủ đầu tư, của các cơ quan quản lý nhà nước để chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm, tạo niềm tin cho nhân dân khi tham gia vốn và đầu tư
Tiếp tục hoàn thiện và phát triển các loại thị trường, trong đó có thị trường vốn và thị trường bất động sản. Nên có các quy định để các DN thuộc mọi thành phần kinh tế từng bước phải niêm yết cổ phiếu và huy động qua thị trường chứng khoán. Tăng cường hoàn thiện thị trường tiền tệ, lành mạnh hóa các dịch vụ giao dịch, tăng cường mối liên kết giữa các tổ chức tài chính với người sản xuất bằng các hoạt động đầu tư vốn. Các ngân hàng tăng cường nguồn và hình thức cho vay trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển, nhất là cho các dự án có quy mô và nhu cầu vốn lớn.
rước khi ban hành chính sách mới cần thăm dò dư luận rộng rãi xem tác động đến doanh nghiệp như thế nào; tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân có cơ hội tiếp cận, đầu tư và các lĩnh vực liên quan đến cơ sở hạ tầng mà các DNNN đang độc quyền và đầu tư không hiệu quả. Đổi mới phương thức xúc tiến thương mại, gắn XTTM, du lịch, thu hút đầu tư nước ngoài với phát triển thị trường, thu hút các nguồn lực trong nước.
b/ Đối với nguồn vốn nước ngoài:
Ngoài nguồn vốn trong nước còn có nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài vào. Tồn tại dưới nhiều hình thức nhưng chủ yếu vẫn là FDI và ODA. Một số giải pháp để thu hút nguồn vốn này là:
Tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, sửa đổi nội dung không đồng bộ, không hợp lí liên quan đến thủ tục đầu tư và kinh doanh.
Làm tốt công tác xây dựng quy hoạch và quản lí quy hoạch, đặc biệt là quy hoạch tổng thể kinh tế xã hội, quy hoạch tổng thể, quy hoạch sử dụng đất chi tiết, rà soát điều chỉnh cho phù hợp và kịp thời đối với quy hoạch đã lạc hậu.Phối hợp chặt chẽ giữa Trung ương và địa phương trong việc cấp phép và quản lí dự án đầu tư nước ngoài.
Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng cao chất lượng lao động. Đồng thời nâng cao chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút đầu tư.
Đẩy mạnh công tác xúc tiến đầu tư, cụ thế là nghiên cứu, đề xuất chính sách vận động thu hút đầu tư đối với các tạp đoàn, các đối tác lớn. Hoàn thành việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án đối với danh mục đầu tư quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài.
KẾT LUẬN
Ta có thể thấy đầu tư có tác động mạnh mẽ đế tăng trưởng của nền kinh tế.Đầu tư có ảnh hưởng rõ rệt đến tốc độ cũng như chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Xét cho cùng, mọi gia tăng về sản lượng, giá trị sản xuất đều xuất phát từ các dự án đầu tư. Chính vì vậy việc nâng cao khả năng thu hút đầu tư cũng như trình độ quản lí thẩm định, đánh giá và cấp phép đầu tư là vô cùng quan trọng nhằm tăng tốc quá trình tăng trưởng, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.Dựa vào các lý thuyết kinh tế về đầu tư và điều kiện thực tiễn của nền kinh tế để tìm ra một hướng đi đúng đắn cho đầu tư phát triển thúc đẩy nền kinh tế phát triển toàn diện hơn.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình kinh tế đầu tư 1
Giáo trình kinh tế phát triển.
Giáo trình kinh tế Vĩ mô 1;2
Trang web:
Tổng cục thống kê
Bộ Kế hoạch đầu tư
Cục đầu tư nước ngoài
Tạp chí kinh tế phát triển
Thời báo kinh tế Sài Gòn.
Và các trang báo mạng khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các lý thuyết kinh tế về đầu tư_ý nghĩa của các lý thuyết kinh tế đó.doc