LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh thương mại điện tử toàn cầu đang phát triển mạnh mẽ, giao
kết hợp đồng truyền thống đang dần được thay thế bởi một phương thức mới - giao
kết hợp đồng điện tử. Giao kết hợp đồng điện tử giúp các doanh nghiệp giảm được
chi phí giao dịch, tiết kiệm được thời gian giao dịch, dễ dàng tiếp xúc được với các
khách hàng và thị trường trong nước và nước ngoàimột cách nhanh chóng và hiệu
quả Vấn đề khoảng cách địa lý vốn là trở ngại lớn trong giao kết hợp đồng truyền
thống thì với giao kết điện tử đã bị xóa bỏ hoàn toàn.
Đặc biệt trong giai đoạn hội nhập và mở cửa hiện nay, giao kết hợp đồng
điện tử không chỉ giúp các doanh nghiệp Việt Nam có thể vươn ra thị trường thế
giới mà còn tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể thực hiện
được những hợp đồng có yếu tố nước ngoài.
Giao kết hợp đồng điện tử với khách hang trong nước đòi hỏi các doanh
nghiệp phải am hiểu về pháp luật, về nghiệp vụ, về kỹ thuật công nghệ khác xa với
giao kết hợp đồng truyền thống. Giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài
còn khó khăn hơn nhiều.
Trong các khó khăn liên quan đến giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước
ngoài, có khó khăn về cơ sở pháp lý. Những quy định của pháp luật về giao kết hợp
đồng điện tử có yếu tố nước ngoài có khác gì với các quy định về giao kết hợp
đồng truyền thống? Pháp luật Việt Nam quy định về vấn đề này như thế nào? Có
những bất cập nào và giải pháp nào để loại bỏ những bất cập đó? Những câu hỏi
này đã khiến chúng tôi - những sinh viên ngành Quản trị kinh doanh, chuyên ngành
Luật Kinh doanh quốc tế - quan tâm và quyết định tìm hiểu. Đây cũng chính là lý
do để nhóm nghiên cứu chọn vấn đề: “Các quy định của pháp luật Việt Nam về
giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài. Những bất cập và giải pháp
hoàn thiện” làm đề tài cho công trình nghiên cứu khoa học của mình.
MỤC LỤC i
MỤC LỤC BẢNG BIỂU iii
DANH MỤC VIẾT TẮT .iv
LỜI MỞ ĐẦU - 1 -
CHƯƠNG 1: HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ VÀ HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI . 3
I. Hợp đồng điện tử . 3
1.1. Khái niệm về hợp đồng điện tử . 3
1.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử 3
1.3. Những khác biệt về Giao kết hợp đồng điện tử và Giao kết hợp đồng
truyền thống . 7
II. Hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài . 12
2.1. Khái niệm về hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài . 12
2.2. Đặc điểm của hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài . 17
2.3. Chữ ký và bằng chứng về hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài nước
ngoài 26
III.Tìm hiểu các quy định pháp luật của Hoa Kỳ về hợp đồng điện tử có yếu tố
3.1 Hoa Kỳ chưa có đạo luật riêng về Hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài 26
3.2. Luật giao dịch điện tử đã thừa nhận giá trị pháp lý của hợp đồng điện tử
như hợp đồng truyền thống . 27
3.3. UETA đưa ra quy định về trình tự giao kết hợp đồng điện tử . 28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI . -29-
I. Nhận xét chung 30
1.1. Những thuận lợi và kết quả 30
1.2. Những bất cập và nguyên nhân 32
II. Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đồng điện tử có yếu
tố nước ngoài ở VN . 35
2.1. Những quy dịnh liên quan đến khái niệm hợp đồng điện tử có yếu tố nước
ngoài 35
2.2. Thực trạng những quy định về thủ tục giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố
nước ngoài . 37
2.3. Những quy định về nội dung của hợp đồng điện tử . 47
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 50
I. Dự báo xu hướng phát triển giao kết hợp đồng thương mại điện tử có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam . 50
1.1. Cơ sở để dự báo 50
1.2. Số liệu để dự báo 58
II. Phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng điện tử có
yếu tố nước ngoài 72
2.1. Phương hướng chung . 72
III. Các giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về giao kết
hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài 77
3.1. Nhóm giải pháp sửa đổi các quy định của pháp luật VN về giao kết hợp
đồng điện tử có yếu tố nước ngoài . 77
3.2. Nhóm giải pháp mới ban hành văn bản dẫn luật để hướng dẫn thực hiện
giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài . 81
3.3. Nhóm giải pháp khác 84
LỜI KẾT
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 1
PHỤ LỤC 2
105 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2738 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Các quy định của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài, những bất cập và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ển kinh tế. Quá trình hội nhập
KTQT đã làm bộc lộ thực trạng chính sách thƣơng mại của các nƣớc đang phát
triển là có mức bảo hộ cao, thiếu sự nhất quán giữa chính sách thƣơng mại với các
chính sách kinh tế vĩ mô và còn nhiều rào cản đối với tự do thƣơng mại. Chính vì
vậy, đáp ứng nhu cầu hội nhập, cải cách kinh tế theo hƣớng mở cửa là tất yếu phải
đƣợc thực hiện, mà theo đó, việc ký kết các điều ƣớc quốc tế và sửa đổi chính sách,
pháp luật trong nƣớc là một nhiệm vụ quan trọng.
Trong bối cảnh có sự thay đổi về cơ cấu của thƣơng mại quốc tế, vai trò của
trao đổi dịch vụ trong thƣơng mại quốc tế đang tăng dần lên và trở thành một lĩnh
vực không thể thiếu trong các cuộc đàm phán về tự do hoá của các tổ chức thƣơng
mại quốc tế. Pháp luật thƣơng mại, trong đó có pháp luật về giao kết hợp đồng điện
tử, đặc biệt là pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài, có sứ
mệnh “nội luật hoá” các cam kết quốc tế, góp phần đẩy nhanh tiến trình hội nhập
KTQT của các quốc gia.
Ngày 24/11/2000, Thủ tƣớng Chính phủ đã ký Hiệp định khung ASEAN về
Thƣơng mại điện tử (E-ASEAN), theo đó Việt Nam cam kết phát triển thƣơng mại
điện tử và tham gia không gian giao dịch điện tử trong khối ASEAN. Hiệp định
gồm bảy điểm trong đó có hai điểm hết sức quan trọng là đẩy mạnh việc ứng dụng
công nghệ thông tin trong các cơ quan công quyền (gọi tắt là xây dựng Thƣơng mại
điện tửvà Chính phủ điện tử). Nhƣ vậy, khi tham gia Hiệp định khung E-ASEAN
thì Việt Nam sẽ phải nhanh chóng xây dựng khung pháp lý phù hợp với những quy
định “khung” trong Hiệp định này nhằm thực hiện những cam kết đã đƣa ra trong
Hiệp định.
74
Những yêu cầu của thực tiễn giao dịch thƣơng mại trong nƣớc cũng nhƣ yêu
cầu từ các cam kết ở phạm vi khu vực và quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải xây dựng
hệ thống các quy tắc dành riêng cho thƣơng mại điện tử và cho việc giao kết các
hợp đồng điện tử. Tháng 1/2002, Chính phủ đã giao cho Bộ thƣơng mại chủ trì xây
dựng Pháp lệnh thƣơng mại nhằm hình thành cơ sở pháp lý đầu tiên cho thƣơng
mại điện tử. Sau gần hai năm xây dựng, tới cuối năm 2003, Bộ thƣơng mại đã hoàn
thành Dự thảo lần thứ 6 của Pháp lệnh và chuẩn bị trình Chính phủ. Tuy nhiên, Dự
thảo Pháp lệnh thƣơng mại điện tử đã không đƣợc thông qua.
Do tầm quan trọng của giao dịch điện tử đối với mọi mặt của kinh tế xã hội
nên Quốc hội đã quyết định xây dựng Luật Giao dịch điện tử để thay thế cho Pháp
lệnh Thƣơng mại điện tử. Căn cứ vào Nghị quyết số 21 của Quốc hội khoá XI về
Chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh ngày 12/03/2004, Uỷ ban Thƣờng vụ Quốc
hội đã ra Nghị quyết số 480 về việc thành lập Ban soạn thảo dự án Luật Giao dịch
điện tử với đơn vị chủ trì là Uỷ ban Khoa học, Công nghệ và Môi trƣờng. Qua hai
phiên họp toàn thể, Ban soạn thảo Luật Giao dịch điện tử đã thống nhất lộ trình và
các nội dụng liên quan đến dự án Luật. Luật đã đƣợc trình quốc hội để thông qua
tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khoá XI và đã đƣợc thông qua vào ngày 29/11/2005.
2.1.3. Xây dựng, ban hành và sửa đổi bổ sung pháp luật phải phù hợp với thực
trạng của Việt Nam
Thực trạng hiện nay cho thấy, các thƣơng nhân thực hiện giao kết hợp đồng
thƣơng mại điện tử có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam tuy ngày càng tăng về mặt số
lƣợng nhƣng quy mô vẫn chỉ ở mức trung bình và nhỏ. Do thói quen và nề nếp kinh
doanh theo lối cũ nên nhiều thƣơng nhân và doanh nghiệp Việt Nam vẫn bảo thủ
tiến hành theo lối “ăn chắc mặc bền”, đi theo lối kinh doanh, giao kết hợp đồng
theo kiểu truyền thống. Chính việc không am hiểu thấu đáo về lợi ích của việc giao
kết hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng
mà các doanh nghiệp cũng nhƣ các thƣơng nhân này vô hình chung đã làm tốn kém
một khoản phí (cả về thời gian và tiền bạc) không đáng có.
Tuy nhiên, nói đi thì cũng nên nói lại, với trình độ công nghệ còn chƣa cao, cơ
sở hạ tầng còn thấp kém. Bên cạnh đó, thì việc thực hiện giao kết hợp đồng điện tử
75
nói chung cũng nhƣ giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng lại
liên quan chặt chẽ dến vấn đề máy móc và công nghệ nhƣ việc kiểm tra, bảo mật
các thông tin, thông điệp dữ liệu số cũng nhƣ kiểm chứng chữ ký điện tử...Công
nghệ càng cao, các thủ đoạn lừa đảo cũng càng cao, càng tinh vi cũng khiến cho
các doanh nghiệp cũng phân vân khi sử dụng loại giao dịch này.
Thấy đƣợc lợi ích của giao kết hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng điện
tử có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng, Nhà nƣớc ta cũng đã có các chính sách hỗ trợ và
khuyến khích các thƣơng nhân cũng nhƣ các doanh nghiệp sử dùng cách thức trên
khi giao kết hợp đồng. Các Luật và văn bản hƣớng dẫn thi hành cũng dần ra đời.
Tuy nhiên, Luật và các văn bản hƣớng dẫn thi hành này vẫn còn chƣa cụ thể và còn
nhiều chỗ còn mơ hồ cũng là lý do khiến các doanh nghiệp phải lo ngại.
Bởi vậy, để thu hút sự chú ý quan tâm của các thƣơng nhân cũng nhƣ các
doanh nghiệp Việt Nam cũng nhƣ nƣớc ngoài tham gia vào hoạt động giao kết hợp
đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài thì trƣớc tiên phải gây dựng lòng tin của họ về
sự an toàn khi sử dụng dịch vụ này.
Thông qua công cụ quan trọng nhất là pháp luật, Nhà nƣớc thực hiện nhiệm
vụ bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể và đảm bảo sự phát triển lành mạnh
của nền kinh tế. Để thực hiện đƣợc nhiệm vụ đó, quá trình hoàn thiện pháp luật về
giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài phải quan tâm toàn diện đến nhiều
vấn đề liên quan.
2.1.4. Xây dựng, ban hành và sửa đổi bổ sung pháp luật phải đảm bảo tính minh bạch
Đảm bảo tính minh bạch là yêu cầu hết sức quan trọng đối với toàn bộ hệ
thónng pháp luật cũng nhƣ pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc
ngoài. Tuy nhiên, để thực hiện đuợc yêu cầu này thì yếu tố chủ quan cóvai trò
quyết định. Và khi xây dựng hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử có
yếu tố nƣớc ngoài, các nhà làm luật cần phải lƣu ý một số vấn đề sau:
Một là, đảm bảo tính chất nhất quán của hệ thống văn bản pháp luật về giao
kết hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng điện tửcó yếu tố nƣớc ngoài nói riêng;
văn bản pháp luật không đƣợc mâu thuẫn với đạo luật mà chúng dựa vào; các quyết
định cung một văn bản không đƣợc trái ngƣợc, triệt tiêu nhau. Để pháp luật ngày
76
càng nhất quán, nhất thiết tăng cƣờng hiệu quả làm việc của Quốc hội, bởi vì đây là
cơ quan có quyền lập pháp cao nhất. Pháp luật phải tạo ra một trình tự lập pháp
ngày càng nghiêm ngặt, đồng thời vẫn hạn chế đến mức thấp nhất việc ban hành
các văn bản pháp quy cảu các cơ quan hành pháp hƣớng dẫn thi hành pháp luật.
Hai là, đảm bảo tính có thể dự đoán đƣợc của pháp luật về giao kết hợp đồng
điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nói chung và giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nuớc
ngoài. Khi ban hành một văn bản pháp luật nào đó, Nhà nƣớc tránh phải gây ra
những cú sốc, ngạc nhiên, bất ngờ cho đối tƣợng bị áp dụng. Việc sử dụng, bổ sung
pháp luật phải thông báo công khai trƣớc một thời hạn hợp lý để ngƣời dân có thời
gian chuẩn bị. Điều này càng có ý nghĩa trong việc xây dựng pháp luật về giao kết
hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nhằm mục đích tạo môi trƣờng ổn định
trong kinh doanh. Để có thể lƣờng trƣớc sự thay đổi của pháp luật, trong chừng
mực nhất định, những đối tƣợng xã hội có liên quan đến một văn bản mới sắp đƣợc
ban hành cần tạo điều kiện để họ có ý kiến về nội dung của pháp luật. Bên cạnh đó,
các cơ quan áp dụng pháp luật phải coi lẽ công bằng là một trong những nguyên tắc
cơ bản cho hoạt động của mình.
Ba là, việc xây dựng, ban hành, thực hiện pháp luật phải đƣợc tiến hành công
khai, tạo điều kiện cho mọi lực lƣợng trong xã hội bảo vệ và cân bằng lợi ích của
mình. Sau khi đuợc ban hành, Luật của Quốc hội phải đƣợc công bố trên công báo,
văn bản hành chính của các cơ quan hành pháp phải đƣợc công bố trên các phƣơng
tiên thông tin, dễ dàng truy cập đối với ngƣời dân.
Tóm lại, đặc thù của hoạt động thƣơng mại điện tử là đƣợc thực hiện dựa trên
việc áp dụng các công nghệ “số hoá” hiện đại trong việc truyền dẫn thông tin và
giao dịch. Vì vậy, khi xây dựng các văn bản làm cơ sở pháp lý cho hoạt động
thƣơng mại điện tử, các quốc gia đều tính đến những điểm đặc thù của hoạt động
này. Những yêu cầu về mặt kỹ thuật lập pháp là: tránh những quy định quá chặt
chẽ, ngƣợc lại, cần linh hoạt và trung lập về mặt công nghệ vì sự biến đổi và phát
triển không ngừng của công nghệ hiện đại sẽ khiến cho Luật dễ bị “lạc hậu” nếu
quá cứng nhắc. Cần rõ ràng, minh bạch nhƣng cần có khả năng tiên liệu trƣớc.
77
Khung pháp lý về hợp đồng điện tử đòi hỏi các nhà lập pháp phải tập hợp
đƣợc trí tuệ, kiến thức không chỉ của các nhà kỹ thuật công nghệ, các luật gia mà
còn cần đến tri thức của các nhà kinh doanh thƣơng mại. Kiến thức pháp luật,công
nghệ và thƣơng mại là không thể tách rời khi xây dựng và hoàn thiện khung pháp
lý về giao kết hợp đồng điện tử.
III. CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VIỆT NAM VỀ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG ĐIỆN TỬ CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI
3.1. Nhóm giải pháp sửa đổi các quy định của pháp luật VN về giao kết hợp
đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài
Nhƣ ở các chƣơng đã phân tích, khung pháp lý cho thƣơng mại điện tử ở Việt
Nam đã và đang từng bƣớc hình thành và hoàn thiện với việc bổ sung và ban hành
Luật Thƣơng mại năm 2005, sửa đổi để ban hành Bộ luật Dân sự năm 2005 và ban
hành Luật gioa dịch điện tử đầu tiên ở Việt Nam (năm 2005). Tháng 6/2006, Nghị
quyết đầu tiên hƣớng dẫn thực thi Luật Giao dịch điện tử năm 2005 cũng đã đƣợc
ban hành. Đó là nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 về Thƣơng mại
điên tử. Và ngày 29/06/2006, Quốc hội cũng thông qua Luật công nghệ thông tin
(có hiệu lực từ ngày 01/01/2007). Tiếp đến là nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày
15/02/2007 về chữ ký số và dịch vụ chứng thực chữ ký số. Và cuỗi cùng gần đây
nhất là sự ra đời của thông tƣ Thông tƣ số 09/2008/TT-BTC ngày 21/07/2008 của
Bộ công thƣơng hƣớng dẫn về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên
website thƣơng mại điện tử. Điều này cho thấy khung pháp lý về giao kết hợp đồng
điện tử nói chung và hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng đã và đang
từng bƣớc đƣợc hình thành. Tuy nhiên, khung pháp lý về hợp đồng điện tử nói
riêng và giao kết hợp đồng điện tử nói riêng, cho đến nay, vẫn còn thiếu, do đó vẫn
cần phải tiếp tục bổ sung, hoàn thiện. Trong phạm vi của đề tài, nhóm nghiên cứu
chỉ xin đi sâu vào một mảng nhỏ còn thiếu sót của Luật Giao dịch điện tử năm
2005. Đó là, các quy định về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài. Và,
giải pháp đầu tiên đó là tiếp tục sửa đổi Luật Giao dịch điện tử năm 2005 về các
quy định về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài.
78
-Cần bổ sung khái niệm về “Hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài”
Theo cách hiểu nhƣ trên thì hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc hiểu
nhƣ sau:
Hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài là hợp đồng điện tử thoả mãn một số
các điều kiện sau:
-Có ít nhất một trong các bên tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài,
-Ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài
-Hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt
Nam nhƣng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nƣớc
ngoài, phát sinh tại nƣớc ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nƣớc ngoài
Đó chỉ là định nghĩa đơn giản nhất về hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài,
bên cạnh đó cần xem xét và dẫn chiếu với bản chất khái niệm nội hàm của hợp
đồng điện tử và hợp đồng mua bán quốc tế để có thể nắm đƣợc bản chất nội hàm
của hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài.
-Cần bổ sung các quy định cụ thể hƣớng dẫn việc giao kết hợp đồng điện tử
có yếu tố nƣớc ngoài.
Làm rõ vấn đề chữ ký điện tử có yếu tố nước ngoài vào Luật Giao
dịch điện tử năm 2005
Vấn đề về hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài chỉ đƣợc đề cập hết sức sơ
sài tại điều 27 của Luật GDĐT năm 2005.Điều 27 khoản 1 của Luật này quy định:
“ Nhà nƣớc công nhận giá trị pháp lý của chữ ký điện tử và chứng thƣ điện tử nƣớc
ngoài nếu chữ ký điện tử hoặc chứng thƣ điện tử đó có độ tin cậy tƣơng đƣơng với
độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thƣ điện tử theo quy định của pháp luật.
Việc xác định mức độ tin cậy của chữ ký điện tử và chứng thƣ điện tử nƣớc ngoài
phải căn cứ vào các tiêu chuẩn quốc tế đã đƣợc thừa nhận, điều ƣớc quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và các yếu tố có liên quan”
79
Và đáng chú ý hơn nữa là Điều 27 khoản 2 nói trên lại khẳng định rằng:
“Chính phủ quy định cụ thể về việc thừa nhận chữ ký điện tử và chứng thƣ điện tử
nƣớc ngoài”. Vậy mà kể từ khi Luật GDĐT năm 2005 có hiệu lực đến nay thì
Chính phủ vẫn chƣa có quy định cụ thể nào về vấn đề này.
Các vấn đề về luật vẫn chƣa đƣợc làm rõ để hƣớng dẫn các thƣơng nhân cũng
nhƣ các doanh nghiệp thực hiện giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài.
Đó là các vấn đề nhƣ: thế nào là có độ tin cậy tƣơng đƣơng chữ ký điện tử và
chứng thƣ điện tử nƣớc ngoài theo quy định của pháp luật? Và đâu là tiêu chuẩn
mà quốc tế đã thừa nhận về vấn đề này? Những tiêu chuẩn nào mà nhà nƣớc Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã là thành viên công nhận?
Một loạt các vấn đề cần đƣợc Chính phủ giải đáp hƣớng dẫn các thƣơng nhân
cũng nhƣ các doanh nghiệp có thể yên tâm thực hiện giao kết hợp đồng điện tử có
yếu tố nƣớc ngoài. Chính phủ cần đƣa ra các câu trả lời cụ thể và xác đáng để chấm
dứt tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam muốn tham gia giao kết hợp đồng điện
tử có yếu tố nƣớc ngoài đang phải nằm dài chờ đợi.
Trên thực tiễn, có thể tham khảo vấn đề chữ ký điện tử của Hoa Kỳ, của
Singapore và của UNCITRAL. Chữ ký điện tử của UNCITRAL quy định rõ
nguyên tắc không phân biệt đối xử với chữ ký điện tử nƣớc ngoài: “Việc công nhận
hay không công nhận một chữ ký điện tử là dựa trên độ tin cậy của chữ ký đó chứ
không phân biệt nguồn gốc của chữ ký hay của cơ quan chứng nhận chữ ký”.
Về vấn đề quy định về nội dung của hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài
Việc quy định về nội dung của hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài cũng
không có. Trong Luật GDĐT năm 2005 chỉ có quy định về nội dung của hợp đồng
điện tử nhƣng các quy định này chỉ nói hết sức chung chung. Nội dung của hợp
đồng điên tử đƣợc quy định trong điều 13, điều 14, điều 15 của Luật này. Trong đó
các quy định còn rất chung chung về việc thừa nhận giá trị nhƣ bản gốc, có giá trị
làm chứng cứ và lƣu trữ thông điệp dữ liệu. Các quy định vẫn chƣa đƣa ra đƣợc nội
dung cụ thể của một hợp đồng điện tử nói chung và một hợp đồng điện tử có yếu tố
nƣớc ngoài nói riêng bao gồm những gì? Và nếu nội dung này đƣợc điều chỉnh theo
luật nào đó thì nó nằm ở đâu và đƣợc quy định nhƣ thế nào?
80
Xét về pháp luật thực định của Việt Nam, Luật GDĐT năm 2005, LTMVN
2005 và các văn bản hƣớng dẫn thi hành không có quy định chuyên biệt nào về nội
dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng nhƣ đối với hợp đồng điện tử
hay hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài
Vì vậy, nhóm nghiên cứu có khuyến nghị để đảm bảo nội dung của hợp đồng
điện tử có yếu tố nƣớc ngoài tuân theo Luật Dân sự năm 2005 bao gồm: 1. Đối
tƣợng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không đƣợc làm;
2. Số lƣợng, chất lƣợng; 3. Giá, phƣơng thức thanh toán; 4. Thời hạn, địa điểm,
phƣơng thức thực hiện hợp đồng; 5. Quyền, nghĩa vụ của các bên; 6. Trách nhiệm
do vi phạm hợp đồng; 7. Phạt vi phạm hợp đồng; 8. Các nội dung khác (Điều 402
BLDSVN 2005).
Bên cạnh đó, nhƣ đã khẳng định ở trên, với tính chất đặc định của hợp đồng
điện tử có yếu tố nƣớc ngoài khiến cho các điều khoản trong nội dung của nó mang
tính chất điện tử rất cao. Theo đó, khi đề cập đến nội dung của hợp đồng điện tử có
yếu tố nƣớc ngoài-khác với hợp đồng truyền thống – hợp đồng mà khi đàm phán để
tiến tới giao kết, các bên thƣờng chỉ chú ý đến điều khoản chủ yếu làm thành nội
dung của hợp đồng, giá cả, điều kiện thanh toán, điều kiện giao hàng...-Ở hợp đồng
điện tử nƣớc ngoài, các bên giao kết hợp đồng bắt buộc và trƣớc hết phải chú ý đến
các quy định có tính kỹ thuật của công nghệ tin học của các bên, đặc biệt là khi tình
trạng công nghệ của các bên chênh lệch nhau quá nhiều. Việc hiển thị nội dung của
hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài không tốt, không chính xác thì việc giao kết
hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài này về mặt nội dung cũng không thể đạt đƣợc.
Theo đó, trong quy định về nội dung của hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc
ngoài cần có quy định thống nhất và rõ ràng điều khoản về cách hiển thị nội dung
của hợp đồng điện tử. Đây là cơ sở pháp lý của quy trình liên quan đến hợp đồng và
xa hơn là việc thực hiện đƣợc hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài.
Rõ ràng, việc phải bổ sung thêm những quy định cụ thể về hƣớng dẫn việc
giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài và giao kết hợp đồng điện tử có yếu
tố nƣớc ngoài trong lĩnh vực thƣơng mại nói riêng là rất cần thiết
81
3.2. Nhóm giải pháp mới ban hành văn bản dẫn luật để hƣớng dẫn thực hiện
giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài
Việc ban hành Luật Giao dịch điện tử năm 2005 là một thành tựu lớn, là một
bƣớc ngoặt quan trọng trong quá trình xây dƣng đạo luật khung điều chỉnh việc
giao kết hợp đồng điện tử ở Việt Nam, Luật đã dành hẳn một chƣơng để quy định
về giao kết hợp đồng điện tử. Tuy nhiên, những quy định về giao kết hợp đồng điện
tử trong Luật còn chƣa cụ thể, nhƣng đó là nền tảng pháp lý cơ bản ban đầu để tiếp
tục bổ sung, hoàn thiện nhằm có đƣợc một khung pháp lý phù hợp với những văn
bản pháp lý hƣớng dẫn thi hành Luật cụ thể hơn.
Trong lĩnh vực giao kết hợp đồng thƣơng mại điện tử, sự ban hành kịp thời
Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006 là cơ sở pháp lý quan trọng giúp
các doanh nghiệp Việt Nam có thể yên tâm hơn khi tiến hành giao kết các hợp đồng
thƣơng mại điện tử. Và gần đây nhất là Thông tƣ số 09/2008/TT-BTC ngày
21/07/2008 của Bộ công thƣơng hƣớng dẫn về cung cấp thông tin và giao kết hợp
đồng trên website thƣơng mại điện tử. Tuy nhiên vẫn chƣa đủ. Nhà nƣớc cần ban
hành các văn bản dƣới luật khác hƣớng dẫn thi hành giúp cho Luật giao dịch năm
2005 nói chung và pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài có
thể vận hành đƣợc tốt hơn. Theo nhóm nghiên cứu, các văn bản pháp luật này cần
tập trung vào các điểm thiếu sót sau:
-Thứ nhất, về Chữ ký điện tử và chứng thƣ điện tử nƣớc ngoài ( để cụ thể hoá
điều 27 của Luật GDĐT năm 2005). Rồi chƣơng 3 của Luật Giao dịch điện tử năm
2005 có 6 điều khoản về chữ ký điện tử. Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày
09/06/2006 đƣa ra một số điều khoản (điều 10) về giá trị pháp lý của chữ ký điện
tử. Những quy định ở 8 điều khoản nói trên là cơ sở pháp lý hƣớng dẫn tạo lập một
chữ ký điện tử có yếu tố nƣớc ngoài.Tuy nhiên thì những điều khoản này chỉ là cơ
sở pháp lý có tính nguyên tắc.
Chính sự phức tạp về mặt công nghệ tin học cũng nhƣ về thủ tục pháp lý liên
quan đến chứng thực chữ ký điện tử nói chung và chữ ký điện tử có yếu tố nƣớc
ngoài nói riêng đòi hỏi việc bổ sung các quy định về chữ ký điện tử trong hợp đồng
điện tử có yếu tố nƣớc ngoài đồng thời phải đi kèm với các văn bản hƣớng dẫn thi
82
hành. Điều này sẽ giúp cho việc thực hiện hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài
hiệu quả hơn.
-Thứ hai, nghị định chuyên biệt về chứng thực chữ ký điện tử nói chung và
chữ ký điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng.
Sau khi luật Giao dịch điện tử năm 2005 ra đời và có hiệu lực từ ngày
01/03/2006 thì hàng loạt các văn bản dƣới luật cũng lân lƣợt ra đời nhằm hƣớng
dẫn thực hiện và đƣa luật Giao dịch điện tử năm 2005 vào đời sống. Trong số các
văn bản dƣới luật đó, đáng kể nhất là có nhiều văn bản về dịch vụ chứng thực chữ
ký số, ví dụ nhƣ nghị định số 26/2007/NĐ-CP ngày 15/02/2007 về chữ ký số và
dịch vụ chứng thực chữ ký số; Quyết định số 04/2008/QĐ-NHNN ngày 21/02/2008
của Ngân hàng nhà nƣớc Việt Nam về cấp phát, quản lý, sử dụng chữ ký số của
Ngân hàng nhà nƣớc; Quyết định số 25/2006/QĐ-BTM ngày 25/7/2006 về quy chế
sử dụng chữ ký số của Bộ thƣơng mại…Tuy nhiên, văn bản dƣới luật hƣớng dẫn về
dịch vụ chứng thực chữ ký điện tử thì lại chƣa có.
Tuy nhiên thì để sử dụng tốt chữ ký số thì trƣớc tiên cần phải sử dụng tốt chữ
ký điện tử. Do chữ ký số có độ an toàn và bảo mật cao, kỹ thuật cao nên thƣờng
đƣợc dùng trong các hợp đồng quan trọng hoặc có giá trị lớn, có tính bảo mật cao.
Còn với các doanh nghiệp thông thƣờng, họ đang mong chờ nghi định chuyên biệt
về chứng thực chữ ký điện tử nói chung và chữ ký điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nói
riêng để có phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
-Thứ ba, Nghị định hƣớng dẫn về vấn đề xử lý lỗi kỹ thuật trong giao kết hợp
đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài
Khi thực hiện giao kết hợp đồng điện tử trên mạng, các bên giao kết tiếp xúc
với phƣơng thức giao kết điện tử, trong quá trình này, họ phải thực hiện các thao
tác trên mạng từ chọn hàng, phƣơng thức giao hàng…đến phƣơng thức thanh toán.
Trong quá trình này không thể tránh khỏi những sai sót về thao tác ngoài ý muốn.
Trong trƣờng hợp này không thể ràng buộc họ vì các lỗi kỹ thuật không chủ ý đó.
Tuy nhiên, ngƣời bán đƣợc yêu cầu là phải nhuần nhuyễn trong sử dụng kỹ thuật
83
mua bán trực tuyến. Vì thế, ngƣời bán đôi khi vẫn không thể tránh khỏi sự ràng
buộc trong các lỗi này.
Cho đến thời điểm hiện tại thì các nƣớc vẫn chƣa có một quy định thống nhất
nào trong việc xây dựng cơ sở pháp lý cho vấn đề giải quyết lỗi kỹ thuật trong các
điều khoản liên quan đến nội dung của hợp đồng điện tử. Vấn đề này do từng nƣớc
quy định.
Trong Nghị định 57/2006/NĐ-CP có duy nhất một quy định theo hƣớng bảo
vệ cho bên mắc lỗi kỹ thuật với điều kiện bên phát sinh lỗi phải báo ngay cho bên
kia khi lỗi kỹ thuật xảy ra và bên làm phat sinh lỗi chƣa có đƣợc bất cứ lợi ích vật
chất nào từ việc sai sót kỹ thuật này. Đó là khoản 1 Điều 15, quy định: “Trƣờng
hợp một cá nhân mắc phải lỗi nhập thông tin trong một chứng từ điện tử đƣợc sử
dụng để trao đổi với hệ thống thông tin tự động của bên khác, nhƣng hệ thống
thông tin tự động này không hỗ trợ cho cá nhân đó sửa lại lỗi thì cá nhân đó hoặc
ngƣời đại diện của mình có quyền rút bỏ phần chứng từ điện tử có lỗi nếu tuân thủ
2 điều kiện sau:
a) Ngay khi biết lỗi, cá nhân hoặc đại diện của cá nhân đó thông báo cho bên
kia và nêu rõ mình đã mắc phải lỗi trong chứng thƣ điện tử này.
b) Cá nhân hoặc đại diện của cá nhân đó vẫn chƣa sử dụng hoặc có đƣợc bất
kỳ lợi ích vậtchất nào từ hàng hóa hay dịch vụ nhận đƣợc từ bên kia”
Nhƣ vậy, lỗi trong kỹ thuật là không thể tránh khỏi, trong khi đó thì việc quy
định trong một điều luật là chƣa đủ để cho các bên có thể yên tâm tham gia vào
giao kết hợp đồng điện tử. Bên cạnh đó, điều luật duy nhất đƣợc đƣa ra trong Nghị
định 57 này chỉ bảo vệ quyền lợi cho ngƣời mua khi tham gia vào giao kết hợp đồng
điện tử, đặc biệt là hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài. Trong khi đó, ngƣời bán thì
không tránh khỏi ràng buộc và thiệt hại khi sai sót về lỗi kỹ thuật xảy ra.
Việc ban hành các nghị định hƣớng dẫn thi hành khi xảy ra sai sót về lỗi kỹ
thuật trong giao kết hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc
ngoài nói riêng là một vấn đề bức xúc giúp cho quá trình giao kết và thực hiện hợp
84
đồng điện tử và hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc diễn ra thông suốt và
hiệu quả, giải quyết đƣợc khâu sai sót kỹ thuật ngoài ý muốn.
3.3. Nhóm giải pháp khác
Bên cạnh việc hoàn thiện khung pháp lý về hợp đồng điện tử; tăng cƣờng
công tác đào tạo đội ngũ chuyên trách về thƣơng mại điện tử và giao kết hợp đồng
điện tử...để việc giao kết hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng điện tử có yếu tố
nƣớc ngoài nói riêng thành công. Nhà nƣớc cần phải:
-Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đủ mạnh
Việc giao kết hợp đồng điện tử chỉ có thể thành công nếu các quốc gia có một
cơ sở hạn tâng công nghệ và kỹ thuật đáp ứng đƣợc những đòi hỏi cần thiết cho
việc truyên tải dữ liệu điện tử. Đó là một hệ thống đảm bảo tốc độ truyền dẫn thông
tin ổn định, đảm bảo tính thông suốt của việc truyền dẫn. Nói nhƣ vậy thì tƣởng
vấn đề là đơn giản. Trong thực tế không phải nhƣ vậy. Giao kết hợp đồng điện tử
không đơn thuần chỉ là dùng các phƣơng tiện điện tử để thực hiện các hoạt động
thƣơng mại truyền thống mà ngƣợc lại, giao kết hợp đồng điện tử đòi hòi toàn bộ
hình thái, phƣơng thức hoạt động của một quốc gia sẽ phải thay đổi. Thay đổi từ
tập quán buôn bán, tập quán kinh doanh, hệ thống giáo dục đến cả thói quen làm
việc ở trong phạm vi quốc tế. Đầu tƣ cho ơ sở hạ tầng công nghệ thong tin đủ mạnh
đòi hỏi Nhà nƣớc phải đầu tƣ đủ mạnh cho:
+Hạ tầng cơ sở công nghệ;
+Hạ tầng cơ sở nhân lực;
+Hạ tâng bảo mật an ninh;
+Hạ tầng tài chính tự động;
+Hạ tầng về quyền sở hữu trí tuệ;
+Hạ tầng ngăn chặn những ảnh hƣởng tiêu cực của Internet...
+Hạ tầng điện lực hoàn hảo (không bao giờ cúp điện đột xuất).
Ngoài ra, các quốc gia phải có cac biện pháp bảo đảm an toàn và an ninh
thông tin, có các chƣơng trình hữu hiệu chống các tội phạm tin học...Có nhƣ vậy
85
mới khiến các doanh nghiệp yên tâm tham gia vào một hình thức giao kết hợp đồng
rất mới mẻ này, đồng thời tạo ra tính an toàn, ổn định của các hoạt động này. Gắn
bó chặt chẽ với bảo mật là an toàn thông tin. An toàn càng đƣợc quan tâm đặc biệt
khi các đối tác mua bán tiến hành giao kết hợp đồng điện tử có trụ sở nằm ở các
nƣớc khác nhau ( giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài). Các doanh
nghiệp đòi hỏi thông tin của họ đƣợc truyền tải và lƣu trữ an toàn, chính xác, thông
tin họ nhận đƣợc là xác thực và thể hiện thông điệp từ phía khách hàng. Do vậy,
Nhà nƣớc phải xây dựng đƣợc một thể chế pháp lý xác thực chữ ký điện tử và chữ
ký số hoá.
-Có chính sách khuyến khích thoả đáng để phát triển hệ thống thanh toán điện
tử tại các Ngân hàng thương mại
Việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử nói chung và hợp đồng điện tử
nói riêng thƣờng kèm theo một số chứng từ và một số yêu cầu khác về điện tử. Ví
dụ nhƣ, cùng với hợp đồng điện tử sẽ là các hoá đơn điện tử, chứng từ vận tải điện
tử, các quy định về chữ ký điện tử và bảo mật v.v...Hợp đồng điện tử nói chung và
hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng sẽ đƣợc thanh toán thông qua hệ
thống thanh toán điện tử. Hệ thống thanh toán của các ngân hàng chƣa tƣơng thích
với thƣơng mại điện tử cũng là trở ngại cho việc giao kết và thực hiện các hợp
đồng điện tử. Việc các chứng từ điện tử bị từ chối (bởi cơ quan hải quan hay bởi
các cơ quan xét xử) cũng sẽ làm nản lòng các doanh nghiệp giao kết hợp đồng điện
tử và các bên có liên quan. Các quốc gia sẽ phải vào cuộc để giải quyết các vấn đề
đó nhằm đảm bảo tính khả thi cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử. Ví
dụ, nhà nƣớc phải có chủ trƣơng, chính sách khuyến khích sựu phát triển của hệ
thống thanh toán điện tử trong các ngana hàng, tạo ra tiền điện tử và những đảm
bảo cho đồng tiền này, thay đổi một số văn bản pháp lý có liên quan về thuế (khả
năng sử dụng hoá đơn thanh toán điện tử), về hải quan ( khả năng sử dụng các
chứng từ điện tử để thông quan, áp dụng hình thức hải quan điện tử)...Những yêu
cầu nhƣ vậy chắc chắn phải có sự hỗ trợ tích cực của Nhà nƣớc.
-Khẩn trương thành lập cơ quan chuyên biệt chứng thực chữ ký điện tử có yếu
tố nước ngoài
86
Để có thể triển khai rộng rãi ứng dụng chữ ký số trong xã hội, cần phải có hệ
thống các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số mà trung tâm là Tổ chức
chứng thực chữ ký số quốc gia – với vai trò cơ quan quản lý, điều phố chung hoạt
động của toàn hệ thống. Muốn cung cấp dịch vụ, các tổ chức chứng thực chữ ký số
cần phải đƣợc Tổ chức chứng thực chữ ký số quốc gia thảm định và cấp phép. Do
đó, hoạt động của Tổ chức chứng thực chữ ký số quốc gia là điều kiện tiên quyết để
triển khai đồng bộ việc cung cấp và ứng dụng chữ ký số tại Việt Nam. Song song
với việc hoàn thiện về mặt tổ chức Trung tâm Chứng thực chữ ký số cũng đang
trong quá trình xây dựng nhƣ dự thảo Danh mục tiêu chuẩn về chữ ký số và chứng
thực chữ ký số, Quyết định ban hành biểu mẫu và quy chế báo cáo thông tin về
hoạt động chứng thực chữ ký số của các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ
ký số và Thông tƣ hƣớng dẫn về áp dụng công nghệ chữ ký số trong các ứng dụng
CNTT của dịch vụ công.
-Đẩy mạnh công tác đào tạo đội ngũ làm thương mại điện tử và chuyên trách giao
kết hợp đồng điện tử (trong đó có giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài)
Nguồn nhân lực chính là nhân tố quyết định sự phát triển của thƣơng mại điện
tử cũng nhƣ giao kết và thực hiện thành công hợp đồng điện tử. Mỗi doanh nghiệp
muốn thành công lâu dài trên thƣơng trƣờng này cần phải có đội ngũ nguồn nhân
lực có khả năng chinh phục lĩnh vực kinh doanh mới mẻ này. Doanh nghiệp cần
phải đầu tƣ thích đáng cho việc đào tạo nhân lực, đào tạo các cán bộ chuyên trách
về mặt kỹ thuật, về công nghệ, về ngoại ngữ, về thƣơng mại và về cả pháp luật. Bởi
để có thể ký kết thành công những hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài thì nguồn
nhân lực trong doanh nghiệp cần hội đủ tất cả các điều kiện trên.
-Tăng cường công tác tuyên truyền phổ biến về Luật Giao dịch điện tử 2005,
về giao kết và thực hiện hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài
Thực tế điều tra kiến thức của doanh nghiệp về những khía cạnh pháp lý của
hợp đồng điện tử nói chung cho thấy hiểu biết của các doanh nghiệp trong lĩnh vực
này còn khá hạn chế, họ thƣờng ký các hợp đồng điện tử thông qua môi giới, trung
gian là chính. Nhƣ vậy là doanh nghiệp đã tự đánh tụt năng lực cạnh tranh của
87
mình thông qua việc sử dụng môi giới trung gian và thậm chí đã tự đẩy mình vào
những rủi ro tiềm ẩn trong việc ký kết hợp đồng mà không hiểu rõ những quy định
của pháp luật về loại hợp đồng mình ký. Chính vì vậy chƣa bao giờ công tác tuyên
truyền phổ biến nội dung của Luật Giao dịch điện tử 2005 về sự cần thiết phải có
sự hiểu biết những kiến thức về hợp đồng điện tử, giao kết hợp đồng điện tử có yếu
tố nƣớc ngoài…lại cần thiết nhƣ hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. TÀI LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Bộ Luật Dân sự năm 2005
2. Luật Giao dịch điện tử Việt Nam 2005
3. Luật công nghệ thông tin 2006
4. Nghị định 57/2006/NĐ-CP ngày 09/06/2006của Chính phủ về Thƣơng mại điện tử
5. Thông tƣ số 09/2008/TT-BTC ngày 21/07/2008 của Bộ Công thƣơng hƣớng
dẫn về cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử
6. Thông tƣ số 04/2006/TT-BTM ngày 06/04/2006 của Bộ Công thƣơng hƣớng
dẫn một số nội dung quy định tại nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006
của Chính phủ
7. Nghị quyết số 35/2004/QH11 ngày 25/11/2004 của Quốc hội nƣớc CHXHCN
Việt Nam về chƣơng trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2005
8. GS.TS.NGND. Nguyễn Thị Mơ, Cẩm nang pháp luật về giao kết hợp đồng
điện tử, NXB Lao động – Xã hội, Hà Nội năm 2006
9. Bộ Công thƣơng, Báo cáo Thƣơng mại Điện tử, Hà Nội năm 2008
10. Bộ Công thƣơng, Báo cáo Thƣơng mại Điện tử, Hà Nội năm 2007
11. Tạp chí kinh tế đối ngoại, các số từ năm 2005 đến năm 2009
12. Đại học Luật TP.HCM, Tập 2 đề tài “Một số vấn đề pháp lý về giao dịch điện
tử” năm 2003
13. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình tƣ pháp quốc tế, NXB Công an nhân dân, 2007.
II. TÀI LIỆU TIẾNG ANH
1. Luật Thống nhất về giao dịch điện tử Hoa Kỳ năm 1999 (UETA – Uniform
Electronic Transaction Act 1999)
2. Luật mẫu của UNCITRAL năm 2001 về chữ ký điện tử
3. Luật Giao dịch điện tử năm 2000 của New Zealand
III. CÁC TRANG WEB
1. www.ecommerce.com.vn
2. www.vietlaw.gov.vn
3. www.idc.com
4. www.amazon.com
5. www.iab.net
6. www.internetworldstats.com
7.
8. www.uncitral.org
PHỤ LỤC 1
THÔNG TƢ VỀ CUNG CẤP THÔNG TIN VÀ
GIAO KẾT HỢP ĐỒNG TRÊN WEBSITE THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
____________
Thông tƣ số 09/2008/TT-BCT ngày 21 tháng 7 năm 2008 của Bộ Công
Thƣơng Hƣớng dẫn Nghị định Thƣơng mại điện tử về cung cấp thông tin và
giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử
Căn cứ Nghị định số 189/2007/NĐ-CP ngày 27 tháng 12 năm 2007 của Chính
phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công
Thƣơng;
Căn cứ Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2006 của Chính
phủ về thƣơng mại điện tử; Bộ Công Thƣơng hƣớng dẫn việc cung cấp thông tin và
giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử nhƣ sau:
I. NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Phạm vi điều chỉnh và đối tƣợng áp dụng
a) Thông tƣ này điều chỉnh việc cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên
các website
thƣơng mại điện tử.
b) Thông tƣ này đƣợc áp dụng đối với:
- Thƣơng nhân sử dụng website thƣơng mại điện tử để bán hàng hóa hoặc
cung ứng dịch vụ (sau đây gọi là thƣơng nhân);
- Tổ chức, cá nhân tham gia giao dịch với thƣơng nhân trên website thƣơng
mại điện tử (sau đây gọi là khách hàng);
- Tổ chức, cá nhân sở hữu website thƣơng mại điện tử (sau đây gọi là ngƣời
sở hữu website).
Điều 2. Giải thích từ ngữ
Trong Thông tƣ này, các từ ngữ dƣới đây đƣợc hiểu nhƣ sau:
a) Website thƣơng mại điện tử là trang thông tin điện tử phục vụ hoạt động
thƣơng mại và các hoạt động liên quan đến thƣơng mại.
b) Chức năng đặt hàng trực tuyến là một chức năng đƣợc cài đặt trên website
thƣơng mại điện tử cho phép khách hàng khởi tạo hoặc phản hồi các thông điệp dữ
liệu để tiến hành giao kết hợp đồng với thƣơng nhân theo những điều khoản đƣợc
thông báo trên website.
c) Đƣờng dẫn (hyperlink) là một yếu tố của trang thông tin điện tử khi đƣợc
chọn sẽ đƣa ngƣời sử dụng tới một khu vực khác trên cùng trang thông tin đó hoặc
một trang thông tin điện tử khác.
d) Thẻ mô tả (meta-tag) là từ khoá đƣợc nhúng vào một trang thông tin điện
tử, từ khoá này không hiển thị trên màn hình nhƣng lại có thể đọc đƣợc bởi các
công cụ tìm kiếm khi tìm những trang thông tin liên quan tới từ khóa đó.
Điều 3. Những hành vi vi phạm pháp luật về cung cấp thông tin và giao
kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử
a) Thƣơng nhân và ngƣời sở hữu website thƣơng mại điện tử phải tuân thủ
quy định tại Điều 16 Nghị định số 57/2006/NĐ-CP ngày 09 tháng 6 năm 2006 của
Chính phủ về thƣơng mại điện tử về các hành vi vi phạm pháp luật về thƣơng mại
điện tử.
b) Trong cung cấp thông tin và giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại
điện tử, thƣơng nhân và ngƣời sở hữu website không đƣợc cung cấp thông tin sai
lệch hoặc thực hiện các biện pháp kỹ thuật khác nhằm thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật, bao gồm:
- Ngụy trang các đƣờng dẫn và biểu trƣng quảng cáo dƣới những hình thức
khiến khách
hàng không nhận biết đƣợc là có nội dung quảng cáo đằng sau đƣờng dẫn
hoặc biểu
trƣng đó;
- Sử dụng biểu trƣng của các chƣơng trình đánh giá, xếp hạng website thƣơng
mại điện tử uy tín trên website khi chƣa đƣợc những chƣơng trình này chính thức
công nhận;
- Sử dụng các đƣờng dẫn, biểu trƣng, hoặc những công nghệ trực tuyến để gây
nhầm lẫn về mối liên hệ giữa thƣơng nhân với các tổ chức, cá nhân khác;
- Sử dụng đƣờng dẫn để cung cấp những thông tin trái ngƣợc hoặc sai lệch so
với thông tin đƣợc công bố tại khu vực website có gắn đƣờng dẫn này;
- Sử dụng các thẻ mô tả là những từ khóa tìm kiếm thông dụng nhƣng không
liên quan đến nội dung website, hoặc chứa tên các doanh nghiệp hoặc sản phẩm có
uy tín gây nhầm lẫn cho ngƣời tiêu dùng và làm ảnh hƣởng tới quyền và lợi ích hợp
pháp của các tổ chức, cá nhân khác;
- Can thiệp vào hệ điều hành và trình duyệt Internet tại các máy tính truy cập
vào website
nhằm buộc khách hàng lƣu lại website trái với ý muốn của mình.
II. GIAO KẾT HỢP ĐỒNG SỬ DỤNG CHỨC NĂNG ĐẶT HÀNG
TRỰC TUYẾN
TRÊN WEBSITE THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Điều 4. Thông báo về đề nghị giao kết hợp đồng của thƣơng nhân
Nếu một website thƣơng mại điện tử có chức năng đặt hàng trực tuyến cho
từng hàng hóa
hoặc dịch vụ cụ thể đƣợc giới thiệu trên website đó, thì các thông tin giới
thiệu về hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản liên quan đƣợc xem là thông báo về
đề nghị giao kết hợp đồng của thƣơng nhân sở hữu hàng hóa hoặc dịch vụ đó.
Điều 5. Đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng
Chứng từ điện tử do khách hàng khởi tạo và gửi đi bằng cách sử dụng chức
năng đặt hàng trực tuyến đƣợc xem là đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng
đối với hàng hóa hoặc dịch vụ gắn kèm chức năng đặt hàng trực tuyến đó.
Điều 6. Trả lời đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng
a) Khi trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng, thƣơng nhân phải cung
cấp cho khách hàng những thông tin sau:
- Danh sách toàn bộ hàng hóa hoặc dịch vụ khách hàng đặt mua, số lƣợng, giá
của từng sản phẩm và tổng giá trị hợp đồng;
- Thời hạn giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ;
- Thông tin liên hệ để khách hàng có thể hỏi về tình trạng thực hiện hợp đồng
khi cần thiết.
b) Trả lời không chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng phải nêu rõ lý do.
c) Trả lời đề nghị giao kết hợp đồng phải đƣợc thực hiện dƣới hình thức phù
hợp để thông tin có thể lƣu trữ, in ấn đƣợc tại hệ thống thông tin của khách hàng và
hiển thị đƣợc về sau.
Điều 7. Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng
a) Trƣờng hợp website có công bố thời hạn trả lời đề nghị giao kết hợp đồng,
nếu hết thời hạn này mà khách hàng vẫn chƣa nhận đƣợc trả lời của thƣơng nhân
thì đề nghị giao kết hợp đồng của khách hàng chấm dứt hiệu lực. Việc trả lời chấp
nhận sau thời hạn này hình thành một đề nghị giao kết hợp đồng khác từ phía
thƣơng nhân.
b) Trong trƣờng hợp website không công bố rõ thời hạn trả lời đề nghị giao
kết hợp đồng, nếu trong vòng 08 (tám) giờ làm việc kể từ khi gửi đề nghị giao kết
hợp đồng, khách hàng vẫn chƣa nhận đƣợc trả lời đề nghị giao kết hợp đồng thì đề
nghị giao kết hợp đồng của khách hàng đƣợc xem là chấm dứt hiệu lực.
Điều 8. Thời điểm giao kết hợp đồng khi sử dụng chức năng đặt hàng
trực tuyến trên website thƣơng mại điện tử
Thời điểm giao kết hợp đồng là thời điểm khách hàng nhận đƣợc trả lời của
thƣơng nhân chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng theo quy định tại điểm a khoản 6
Thông tƣ này.
Điều 9. Giá trị pháp lý của hợp đồng giao kết bằng chức năng đặt hàng
trực tuyến
Hợp đồng đƣợc giao kết từ sự tƣơng tác giữa khách hàng và chức năng đặt
hàng trực tuyến trên website thƣơng mại điện tử không bị phủ nhận giá trị pháp lý
chỉ vì không có sự kiểm tra hay can thiệp trực tiếp của thƣơng nhân vào từng bƣớc
của quá trình giao kết hợp đồng.
Điều 10. Cung cấp các điều khoản của hợp đồng khi sử dụng chức năng
đặt hàng trực tuyến trên website thƣơng mại điện tử
Website thƣơng mại điện tử có chức năng đặt hàng trực tuyến phải cung cấp
cho khách hàng thông tin về các điều khoản của hợp đồng nhƣ quy định tại mục III
Thông tƣ này trƣớc thời điểm khách hàng gửi đề nghị giao kết hợp đồng.
III. CUNG CẤP THÔNG TIN VỀ CÁC ĐIỀu KHOẢN CỦA HỢP
ĐỒNG TRÊN WEBSITE THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Điều 11. Nguyên tắc cung cấp thông tin trên website thƣơng mại điện tử
Website thƣơng mại điện tử phải cung cấp đầy đủ thông tin về thƣơng nhân,
hàng hóa, dịch vụ và các điều khoản của hợp đồng mua bán áp dụng cho hàng hóa,
dịch vụ đƣợc giới thiệu trên website theo quy định từ khoản 12 đến 16 Thông tƣ
này. Những thông tin này phải đáp ứng các điều kiện sau:
a) Rõ ràng, chính xác, dễ tìm và dễ hiểu.
b) Đƣợc sắp xếp tại các mục tƣơng ứng trên website và có thể truy cập bằng
phƣơng pháp trực tuyến.
c) Có khả năng lƣu trữ, in ấn và hiển thị đƣợc về sau.
d) Đƣợc hiển thị rõ đối với khách hàng trƣớc thời điểm khách hàng gửi đề
nghị giao kết hợp đồng.
Điều 12. Thông tin về hàng hóa, dịch vụ
Với bất kỳ hàng hóa hoặc dịch vụ nào đƣợc giới thiệu trên website thƣơng
mại điện tử, thƣơng nhân phải cung cấp những thông tin giúp khách hàng có thể
xác định chính xác các đặc tính của hàng hóa, dịch vụ nhằm tránh sự hiểu nhầm khi
ra quyết định giao kết hợp đồng.
Điều 13. Thông tin về giá cả
a) Thông tin về giá hàng hóa hoặc dịch vụ, nếu có, phải thể hiện rõ giá đó đa
hay chƣa bao gồm những chi phí liên quan đến việc mua hàng hóa hoặc dịch vụ
nhƣ thuế, phí đóng gói, phí vận chuyển và các chi phí phát sinh khác.
b) Đối với những hợp đồng cung ứng dịch vụ dài hạn, website phải cung cấp
thông tin về
phƣơng thức tính phí và cơ chế thanh toán định kỳ.
Điều 14. Thông tin về các điều khoản giao dịch
Thƣơng nhân phải công bố những điều khoản giao dịch chung đối với hàng
hóa hoặc dịch vụ giới thiệu trên website, bao gồm:
a) Bất kỳ điều kiện hoặc hạn chế nào, nếu có, trong việc cung cấp hàng hóa
hoặc dịch vụ, nhƣ giới hạn về thời gian hay phạm vi địa lý.
b) Chính sách hoàn trả, bao gồm thời hạn hoàn trả, phƣơng thức trả hoặc đổi
hàng đa mua, cách thức lấy lại tiền, và chi phí cho các giao dịch phát sinh này.
c) Chính sách bảo hành sản phẩm, nếu có.
d) Các tiêu chuẩn dịch vụ, quy trình cung cấp dịch vụ, biểu phí, và các điều
khoản khác liên quan đến việc cung cấp dịch vụ, bao gồm cả những điều kiện và
hạn chế nếu có.
đ) Nghĩa vụ của thƣơng nhân và nghĩa vụ của khách hàng trong mỗi giao dịch.
Điều 15. Thông tin về vận chuyển và giao nhận
Thƣơng nhân phải công bố những thông tin sau về điều kiện vận chuyển và
giao nhận áp dụng cho hàng hóa hoặc dịch vụ giới thiệu trên website:
a) Các phƣơng thức giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ.
b) Thời hạn ƣớc tính cho việc giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ, có tính đến
các yếu tố khoảng cách địa lý và phƣơng thức giao hàng.
c) Các giới hạn về mặt địa lý cho việc giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ, nếu có.
d) Trƣờng hợp phát sinh chậm trễ trong việc giao hàng hoặc cung ứng dịch
vụ, phải có thông tin kịp thời cho khách hàng và tạo cơ hội để khách hàng có thể
hủy hợp đồng nếu muốn.
Điều 16. Thông tin về các phƣơng thức thanh toán
a) Thƣơng nhân phải công bố toàn bộ các phƣơng thức thanh toán áp dụng
cho hàng hóa
hoặc dịch vụ chào bán trên website, kèm theo giải thích rõ ràng, chính xác để
khách hàng có thể hiểu và lựa chọn phƣơng thức thanh toán phù hợp.
b) Nếu thƣơng nhân áp dụng phƣơng thức thanh toán trực tuyến, website phải
có cơ chế khởi tạo và lƣu trữ chứng từ điện tử chứa những thông tin chi tiết về từng
giao dịch thanh toán đƣợc thực hiện bằng phƣơng thức này, đồng thời tạo điều kiện
cho khách hàng xem, in ấn và lƣu trữ chứng từ ngay thời điểm chứng từ đƣợc khởi tạo.
IV. BẢO VỆ QUYỀN LỢI KHÁCH HÀNG TRONG GIAO KẾT HỢP
ĐỒNG TRÊN WEBSITE THƢƠNG MẠI ĐIỆN TỬ
Điều 17. Thông tin về thƣơng nhân và ngƣời sở hữu website
a) Thƣơng nhân và ngƣời sở hữu website phải công bố những thông tin tối
thiểu sau trên
website:
- Tên, địa chỉ trụ sở;
- Số, ngày cấp và nơi cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh;
- Số điện thoại, địa chỉ thƣ điện tử hoặc một phƣơng thức liên hệ trực tuyến khác.
b) Thông tin về ngƣời sở hữu website phải đƣợc hiển thị tại trang chủ của
website.
Điều 18. Cơ chế rà soát và xác nhận nội dung hợp đồng
Website phải có cơ chế cho phép khách hàng rà soát, bổ sung, sửa đổi và xác
nhận nội dung giao dịch trƣớc khi sử dụng chức năng đặt hàng trực tuyến để gửi đề
nghị giao kết hợp đồng. Cơ chế rà soát và xác nhận này phải thỏa mãn các điều
kiện sau:
a) Hiển thị cho khách hàng những thông tin cơ bản liên quan đến giao dịch,
bao gồm:
- Tên hàng hóa hoặc dịch vụ, số lƣợng và chủng loại, phƣơng thức và thời hạn
giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ;
- Tổng giá trị của hợp đồng và các chi tiết liên quan đến phƣơng thức thanh
toán đƣợc khách hàng lựa chọn; Những thông tin này phải đáp ứng khả năng lƣu
trữ, in ấn đƣợc trên hệ thống thông tin của khách hàng và hiển thị đƣợc về sau.
b) Cho phép khách hàng sau khi rà soát những thông tin tại điểm a đƣợc lựa
chọn hủy giao dịch hoặc xác nhận việc đề nghị giao kết hợp đồng.
Điều 19. Thủ tục chấm dứt hợp đồng đối với hợp đồng cung ứng dịch vụ
trực tuyến dài hạn
a) Website thƣơng mại điện tử cung cấp dịch vụ trực tuyến dài hạn phải tạo
điều kiện để khách hàng có thể chấm dứt hợp đồng một cách nhanh chóng và thuận
tiện khi hết nhu cầu sử dụng dịch vụ.
b) Website thƣơng mại điện tử phải:
- Công bố thông tin minh bạch, đầy đủ về thủ tục chấm dứt hợp đồng;
- Cung cấp một công cụ thuận tiện để khách hàng gửi thông báo yêu cầu chấm
dứt hợp đồng;
- Có cơ chế phản hồi kịp thời với các yêu cầu chấm dứt hợp đồng từ phía
khách hàng.
Điều 20. Giải quyết tranh chấp liên quan đến các hợp đồng giao kết trên
website thƣơng mại điện tử
a) Thƣơng nhân phải công bố trên website cơ chế, quy trình cụ thể để giải
quyết khiếu nại của khách hàng liên quan đến hợp đồng đƣợc giao kết trên website.
b) Việc giải quyết tranh chấp giữa thƣơng nhân và khách hàng trong quá trình
thực hiện hợp đồng phải dựa trên các điều khoản của hợp đồng đƣợc công bố tại
website vào thời điểm giao kết hợp đồng và quy định của pháp luật có liên quan.
c) Thƣơng nhân không đƣợc lợi dụng các ƣu thế của mình trên môi trƣờng
điện tử để đơn phƣơng giải quyết những vấn đề tranh chấp khi chƣa có sự đồng ý
của khách hàng.
Điều 21. Bảo vệ thông tin cá nhân của khách hàng trên website thƣơng
mại điện tử
Việc thu thập và sử dụng thông tin cá nhân trên website thƣơng mại điện tử
phải tuân thủ
những quy định sau:
a) Thông báo rõ ràng ở trang chủ, hoặc cung cấp ngay ở trang chủ một cơ chế
để khách hàng tiếp cận và tìm hiểu chi tiết chính sách bảo vệ thông tin cá nhân tại
website này.
b) Việc thu thập và sử dụng thông tin cá nhân của mỗi khách hàng phải đƣợc
sự đồng ý của khách hàng đó trừ những trƣờng hợp pháp luật có quy định khác.
c) Việc xin ý kiến đồng ý của khách hàng phải đƣợc tiến hành thông qua một
bƣớc riêng để khách hàng lựa chọn chấp nhận hoặc từ chối. Không đƣợc thiết lập
cơ chế chọn đồng ý mặc định cho khách hàng.
Điều 22. Thông tin đầy đủ và trung thực về việc đƣợc chứng nhận website
thƣơng mại
điện tử uy tín
Nếu một website thƣơng mại điện tử công bố việc đƣợc chứng nhận là
website thƣơng mại điện tử uy tín, hoặc tham gia bất kỳ một chƣơng trình đánh giá,
xếp hạng hay hoạt động tƣơng tự nào có tác dụng nâng cao uy tín của website, thì
website này phải cung cấp cho khách hàng thông tin chính xác về mục đích, phạm
vi, đối tƣợng và tiêu chuẩn đánh giá của những chƣơng trình nói trên.
V. XỬ Lý VI PHẠM VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN
Điều 23. Xử lý vi phạm
a) Thƣơng nhân, ngƣời sở hữu website có trách nhiệm thực hiện các quy định
về cung cấp
thông tin và giao kết hợp đồng trên website thƣơng mại điện tử theo quy định
tại thông tƣ
này.
b) Mọi tổ chức, cá nhân thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật về thƣơng
mại điện tử, tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm sẽ bị xử phạt theo quy định của
pháp luật.
Điều 24. Điều khoản thi hành
Thông tƣ này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày đăng Công báo.
Trong quá trình thực hiện Thông tƣ này, nếu có phát sinh vƣớng mắc, thƣơng
nhân hoặc các tổ chức, cá nhân có liên quan kịp thời phản ánh về Bộ Công Thƣơng
để xem xét, xử lý./.
KT. BỘ TRƢỞNG
THỨ TRƢỞNG
(Đã ký)
Lê Danh Vĩnh
PHỤ LỤC 2: Các văn bản thuộc Hệ thống Luật Giao dịch điện tử và
Luật Công nghệ thông tin
LỜI KẾT
Trong bối cảnh Thƣơng mại điện tử toàn cầu đang ngày càng phát triển, nhu
cầu sử dụng công nghệ thông tin theo đó cũng ngày càng gia tăng. Tất yếu các giao
kết hợp đồng điện tử cũng nhƣ giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài diễn
ra ngày càng nhiều do các thuận lợi mà nó mang lại cho thƣơng nhân cũng nhƣ cho
các doanh nghiệp, và cao hơn nữa là đáp ứng sức cạng tranh trên thị trƣờng.
Việc nghiên cứu vấn đề: “Các quy định của pháp luật Việt Nam về giao kết
hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài. Những bất cập và giải pháp hoàn
thiện” nhằm làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực trạng điều chỉnh pháp luật
đối với giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài, chỉ ra một số bất cập và
hƣớng tới hoàn thiện pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài
với một số đề xuất cụ thể, thiết thực.
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về giao kết hợp đông điện tử có
yếu tố nƣớc ngoài và thực tiễn pháp luật điều chỉnh giao kết hợp đồng điện tử có
yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam, có thể rút ra những kết luận rằng: Pháp luật Việt
Nam về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam còn rất sơ sài;
tản mạn, rải rác; thiếu sót rất nhiều các quy định: nhƣ khái niệm về hợp đồng điện
tử có yếu tố nƣớc ngoài, chữ ký điện tử nƣớc ngoài v.v… Tuy nhiên, cũng có
những cơ sở để hoàn toàn tin tƣởng vào sự hoàn thiện các quy định về loại hợp
đồng này.
Để tháo gỡ những vƣớng mắc trong các quy định pháp luật về giao kết hợp
đồng địên tử có yếu tố nƣớc ngoài, pháp luật về giao kết hợp đồng điện tử phải
đƣợc hoàn thiện sao cho phù hợp với đƣờng lối của Đảng, đảm bảo thực thi các quy
định trong các điều ƣớc quốc tế mà Việt Nam đã cam kết phù hợp với thực trạng
của Việt Nam và không chồng chéo với các văn bản pháp luật khác có liên quan.
Theo định hƣớng đó, bài nghiên cứu đƣa ra một số giải pháp cơ bản nhằm
hoàn thiện pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài.
Bao gồm các quy định về bổ sung khái niệm, các văn bản hƣớng dẫn thi hành giao
kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc ngoài v.v…
Nhìn chung, đề tài nghiên cứu này đã cố gắng phân tích và đƣa ra những nét
khái quát nhất của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nƣớc
ngoài, chỉ ra những điểm thành công và tồn tại của hệ thống pháp luật này và đồng
thời đƣa ra một số giải pháp hoàn thiện. Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian và vốn
hiểu biết của mình, đề tài nghiên cứu khoa học chắc chắn sẽ không tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của các Thầy Cô giáo cũng nhƣ
những ngƣời có quan tâm và am hiểu về vấn đề này để nhóm nghiên cứu có thể
hoàn thiện tốt hơn đề tài này trong những nghiên cƣus tiêp theo.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Các quy định của pháp luật Việt Nam về giao kết hợp đồng điện tử có yếu tố nước ngoài Những bất cập và giải pháp hoàn thiện.pdf