Chương I: Tổng quan nghiên cứu về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
1.1 Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Hãng nước ngọt Pepsi được thành lập gần một thế kỷ trước, lượng tiêu thụ và danh tiếng đều kém xa Coca Cola. Nhưng đến những năm đầu của thập niên 90, Pepsi đã vinh dự được xếp hàng thứ bảy trong số 10 tập đoàn lớn nhất nước Mỹ, trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất của Coca Cola.
Ngay khi Việt Nam mở cửa thị trường, ngày 24/12/1991,Pepsi đã ký hợp đồng “xâm nhập”. Lập tức, với thế lực hùng hậu của mình, Pepsi đã thống lĩnh thị trường Việt từ Nam ra Bắc.
Với giá quá rẻ, cộng thêm uy tín, chất lượng “hàng đầu thế giới”, Pepsi “đè bẹp” các đối thủ Việt Nam trong vòng không quá . một tháng. Hãng nước ngọt Tribeco cũng đành “ngậm ngùi” chấm dứt thời “hoàng kim”ngắn ngủi để chuyển sang sản xuất sữa đậu nành để tránh phải đối đầu với một thế lực hùng mạnh như là Pepsi.
Sau đó, Pepsi thiết lập hệ thống phân phối trên toàn Việt Nam. Ngoài các đại lý và tổng đại lý, Pepsi còn “tiếp cận” hầu hết các quán cà phê (nơi quảng bá và tiêu thụ một lượng rất lớn nước ngọt của Pepsi).
Du khách tới Việt Nam qua cửa ngõ Tân Sơn Nhất, chỉ cần ra khỏi phi trường đã thấy ngay một tấm pa-nô cực lớn quảng cáo cho hãng Pepsi. Coca-Cola được giới thiệu lần đầu tiên tại Việt Nam từ năm 1960 và đã trở lại từ tháng 2 năm 1994, sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại. Ngay khi quay trở lại Coca-Cola đã phải gặp cản trở lớn từ đối thủ Pepsi.
Vừa xâm nhập vào thị trường Việt Nam, Coca-cola đã vội ra quyết định đại hạ giá để “thị uy” và giành giật thị phần. Nhưng tình hình lúc đó đã khác với thời điểm Pepsi vào Việt Nam.Khi Pepsi vào Việt Nam chỉ có những “đơn vị” sản xuất nước ngọt nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, vốn liếng “ba cọc ba đồng” , nên nhanh chóng bị Pepsi đánh bại .Ngay cả chiêu thức “đại hạ giá” mà Coca-cola tung ra cũng không mấy hiệu quả vì luật pháp Việt Nam thời “đổ bộ” của Pepsi vào Việt Nam còn rất yếu kém về mặt quản lý kinh tế, nên Việt Nam hầu như không kịp trở tay khi Pepsi làm tan vỡ hầu hết các cơ sở sản xuất nước ngọt trong nước.Nhưng khi Coca-cola vào Việt Nam thì luật pháp Việt Nam đã kịp “điều chỉnh”, ra quy định về việc khuyến mãi không được bán dưới giá thành sản xuất và quy định phần trăm cụ thể. Hơn nữa khi Coca-cola “đại hạ giá” thì lập tức Pepsi cũng tung ra các chiêu thức khuyến mãi tương tự làm cho Coca-cola không thể tự ý thâu tóm thị trường Việt Nam.Cuối cùng, hai hãng này đều tung ra những chiêu thức tiếp thị-quảng cáo theo từng đợt trên các phương tiện truyền thông đại chúng tại Việt Nam.Tại Việt Nam, Pepsi
43 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 4595 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca - Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương I: Tổng quan nghiên cứu về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài
Hãng nước ngọt Pepsi được thành lập gần một thế kỷ trước, lượng tiêu thụ và danh tiếng đều kém xa Coca Cola. Nhưng đến những năm đầu của thập niên 90, Pepsi đã vinh dự được xếp hàng thứ bảy trong số 10 tập đoàn lớn nhất nước Mỹ, trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ nhất của Coca Cola.
Ngay khi Việt Nam mở cửa thị trường, ngày 24/12/1991,Pepsi đã ký hợp đồng “xâm nhập”. Lập tức, với thế lực hùng hậu của mình, Pepsi đã thống lĩnh thị trường Việt từ Nam ra Bắc.
Với giá quá rẻ, cộng thêm uy tín, chất lượng “hàng đầu thế giới”, Pepsi “đè bẹp” các đối thủ Việt Nam trong vòng không quá... một tháng. Hãng nước ngọt Tribeco cũng đành “ngậm ngùi” chấm dứt thời “hoàng kim”ngắn ngủi để chuyển sang sản xuất sữa đậu nành để tránh phải đối đầu với một thế lực hùng mạnh như là Pepsi.
Sau đó, Pepsi thiết lập hệ thống phân phối trên toàn Việt Nam. Ngoài các đại lý và tổng đại lý, Pepsi còn “tiếp cận” hầu hết các quán cà phê (nơi quảng bá và tiêu thụ một lượng rất lớn nước ngọt của Pepsi).
Du khách tới Việt Nam qua cửa ngõ Tân Sơn Nhất, chỉ cần ra khỏi phi trường đã thấy ngay một tấm pa-nô cực lớn quảng cáo cho hãng Pepsi. Coca-Cola được giới thiệu lần đầu tiên tại Việt Nam từ năm 1960 và đã trở lại từ tháng 2 năm 1994, sau khi Hoa Kỳ bãi bỏ lệnh cấm vận thương mại. Ngay khi quay trở lại Coca-Cola đã phải gặp cản trở lớn từ đối thủ Pepsi.
Hai võ sĩ Pepsi và Coca-Cola so tài
Vừa xâm nhập vào thị trường Việt Nam, Coca-cola đã vội ra quyết định đại hạ giá để “thị uy” và giành giật thị phần. Nhưng tình hình lúc đó đã khác với thời điểm Pepsi vào Việt Nam.Khi Pepsi vào Việt Nam chỉ có những “đơn vị” sản xuất nước ngọt nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu, vốn liếng “ba cọc ba đồng” , nên nhanh chóng bị Pepsi đánh bại .Ngay cả chiêu thức “đại hạ giá” mà Coca-cola tung ra cũng không mấy hiệu quả vì luật pháp Việt Nam thời “đổ bộ” của Pepsi vào Việt Nam còn rất yếu kém về mặt quản lý kinh tế, nên Việt Nam hầu như không kịp trở tay khi Pepsi làm tan vỡ hầu hết các cơ sở sản xuất nước ngọt trong nước.Nhưng khi Coca-cola vào Việt Nam thì luật pháp Việt Nam đã kịp “điều chỉnh”, ra quy định về việc khuyến mãi không được bán dưới giá thành sản xuất và quy định phần trăm cụ thể. Hơn nữa khi Coca-cola “đại hạ giá” thì lập tức Pepsi cũng tung ra các chiêu thức khuyến mãi tương tự làm cho Coca-cola không thể tự ý thâu tóm thị trường Việt Nam.Cuối cùng, hai hãng này đều tung ra những chiêu thức tiếp thị-quảng cáo theo từng đợt trên các phương tiện truyền thông đại chúng tại Việt Nam.Tại Việt Nam, Pepsi không những có được một hệ thống phân phối tốt trên toàn đất nước mà họ còn có được những nhà quản lý và điều hành giỏi, am hiểu tâm lý của người Việt - điều này rất quan trọng. Thí dụ, “đánh” vào tâm lý yêu thích bóng tròn và tâm lý tự hào dân tộc của người Việt, Pepsi tổ chức “ngày hội bóng đá” thông qua show quảng cáo trên truyền hình,với hình ảnh cầu thủ bóng đá Việt Nam được yêu thích nhất thời bấy giờ, biểu diễn “tâng bóng” cùng với các danh thủ hàng đầu thế giới.Và đồng thời tung ra khẩu hiệu: “Uống Pepsi là ủng hộ đội tuyển quốc gia Việt Nam vươn ra đấu trường quốc tế”. Lập tức doanh số bán ra của Pepsi “tăng vọt” (nhất là trong các giải cầu của Ðông Nam Á, hoặc Châu Á có đội tuyển quốc gia Việt Nam tham dự), tình cảm của người dân Việt Nam đối với Pepsi cũng được gia tăng.Cũng cần phải nói thêm, “khẩu vị” của Pepsi hợp với người Việt hơn là Coca-cola. Chẳng hạn, chai to hơn, nước uống cũng ngọt đậm đà hơn. Ðiều này phù hợp với tâm lý tiêu dùng của người Viêt.
Cuộc cạnh tranh giữa “coca cola” và “pepsi cola"
Như vậy với hàng loạt các chiêu thức, quyết định quản lý của Pepsi đã càng làm cho môi trường cạnh tranh giữa Coca-Cola và Pepsi ngày càng gay gắt. Điều này khiến các nhà kinh tế học trên thế giới nhìn Pepsi với con mắt hoàn toàn khác, đồng thời làm cho Coca Cola thực sự cảm thấy không an tâm. Bên cạnh đó các yếu tố nguồn lực như vốn, cơ sở vật chất,kĩ thuật,con người… đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mỗi công ty nhưng chúng chủ yếu lại là nguồn lực khan hiếm. Do đó công ty Coca-Cola cần phải lựa chọn sử dụng những nguồn lực đó một cách hiệu quả để tối thiểu hóa chi phí.
Từ những vấn đề cấp thiết mà thực tiễn đặt ra đòi hỏi phải nghiên cứu cách thức đưa ra quyết định quản lý để từ đó Coca-Cola có thể đưa ra những chiến lược kinh doanh phù hợp nhằm tối đa hóa lợi nhuận cũng như giúp Coca-Cola có thể nắm bắt được phần trăm thị phần của mình ở Việt Nam. Xuất phát từ thực trạng trên nhóm chúng em quyết định chọn đề tài: “Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát”.
1.2.Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài.
Với tính cấp thiết trên chúng em tuyên bố sẽ nghiên cứu về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng em đặt ra một số câu hỏi liên quan cần làm rõ trong đề tài:
Tình hình phát triển của công ty Coca-Cola?
Đối thủ lớn nhất của Coca-Cola là công ty nào? Tình hình phát triển của đối thủ đó?
Thị trường độc quyền nhóm- môi trường công ty Coca-Cola hoạt động-mang đặc trưng gì?
Coca-Cola có thể đưa ra quyết định quản lý về giá,sản lượng,quảng cáo…như thế nào để tối đa hóa lợi nhuận? Những chiến lược nào mà Coca-Cola áp dụng để đưa ra các quyết định đó?
1.3 Các mục tiêu nghiên cứu.
Khi tiến hành nghiên cứu,đề tài hướng tới các mục tiêu sau đây:
Tổng quan một số vấn đề lý thuyết về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Nêu và phân tích thực trạng hoạt động sản xuất, kinh doanh, các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola. Tìm những tồn tại,hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola.
Áp dụng lý thuyết về cách thức đề ra quyết định quản lý để đề xuất một số giải pháp đưa ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-Đối tượng nghiên cứu: các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola,Pepsi dựa trên cơ sở lý thuyết trò chơi, cân bằng Nash ,các chiến lược ưu thế,chiến lược bị lấn át,cây trò chơi,quyết định tuần tự… Từ đó đưa ra được quyết định quản lý chính xác nhất nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho công ty Coca-Cola.
-Phạm vi thời gian: nghiên cứu chỉ tập trung thu thập các số liệu liên quan trong giai đoạn 2000-2011: Đề xuất cách thức đưa ra quyết định quản lý cho công ty Coca-Cola nhằm tối đa hóa lợi nhuận giai đoạn từ 2012-2015.
-Phạm vi không gian: nghiên cứu hoạt động và các quyết định quản lý của công ty Coca-Cola ở Việt Nam.
1.5 Kết cấu báo cáo nghiên cứu
Ngoài phần mục lục danh từ viết tắt, tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài được chia làm bốn chương như sau:
Chương I: Tổng quan nghiên cứu về cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương II: Tóm lược một số vấn đề lý luận về quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương III:Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng của các quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Chương IV:Các kết luận và đề xuất cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát .
Chương II: Tóm lược một số vấn đề lý luận về quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Một số định nghĩa, khái niệm cơ bản
2.1. 1.Nét cơ bản về công ty Coca-Cola.
a. Công ty Coca-Cola.
Coca-Cola (còn được gọi tắt là Coke) là nhãn hiệu nước ngọt được đăng ký năm 1893 tại Mỹ. Cha đẻ của Coca Cola là một dược sỹ và theo cách hiểu của người dân Mỹ thời kỳ đó Coke (Coca Cola) là một loại thuốc uống. Sau này, khi mua lại Coca Cola, Asa Candler - Nhà lãnh đạo tài ba bậc nhất của Coca Cola đã biến chuyển suy nghĩ của người dân nước Mỹ về hình ảnh của Coca Cola. Ông cho những người tiêu dùng của mình hiểu thứ "thuốc uống" Coke là một loại đồ uống ngon lành và tươi mát. Cho đến ngày nay, Coca Cola vẫn trung thành với tiêu chí này của hãng. Hình dạng chai Coca-Cola được đăng ký bảo hộ năm 1960.
Cái tên Coca-Cola xuất phát từ tên lá coca và quả cola, hai thành phần của nước ngọt Coca-Cola. Chính điều này đã làm Coca Cola có thời kỳ khuynh đảo vì người ta đã quy kết Asa Candler là người đàn ông gây nghiện của thế giới. Hiện nay Coca-Cola trở thành hãng nước ngọt nổi tiếng thế giới với rất nhiều sản phẩm đa dạng như Coca-Cola Light (hay Diet Coke- Coca kiêng), Coca-Cola Cherry...
b.Lịch sử công ty Coca Cola Việt Nam
1960: Lần đầu tiên Coca-Cola được giới thiệu tại Việt Nam.
Tháng 2 năm 1994: Coca-Cola trở lại Việt Nam và bắt đầu quá trình kinh doanh lâu dài.
Tháng 8 năm 1995: Liên Doanh đầu tiên giữa Coca-Cola Đông Dương và công ty Vinafimex được thành lập, có trụ sở tại miền Bắc.
Tháng 9 năm 1995: Một Liên Doanh tiếp theo tại miền Nam mang tên Công ty Nước Giải Khát Coca-Cola Chương Dương cũng ra đời do sự liên kết giữa Coca-Cola và công ty Chương Dương của Việt Nam.
Tháng 1 năm 1998: Thêm một liên doanh nữa xuất hiện tại miền Trung - Coca-Cola Non Nước. Đó là quyết định liên doanh cuối cùng của Coca-Cola Đông Dương tại Việt Nam, được thực hiện do sự hợp tác với Công ty Nước Giải Khát Đà Nẵng.
Tháng 10 năm 1998: Chính Phủ Việt Nam đã cho phép các Công ty Liên Doanh trở thành Công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các Liên Doanh của Coca-Cola tại Việt Nam lần lượt thuộc về quyền sở hữu hoàn toàn của Coca-Cola Đông Dương, và sự thay đổi này đã được thực hiện trước tiên bởi Công ty Coca-Cola Chương Dương – miền Nam.
Tháng 3 đến tháng 8 năm 1999: Liên doanh tại Đà Nẵng và Hà Nội cũng chuyển sang hình thức sở hữu tương tự.
Tháng 6 năm 2001: Do sự cho phép của Chính phủ Việt Nam, ba Công ty Nước Giải Khát Coca-Cola tại ba miền đã hợp nhất thành một và có chung sự quản lý của Coca-Cola Việt Nam, đặt trụ sở tại Quận Thủ Đức – Thành Phố Hồ Chí Minh.
Từ ngày 1 tháng 3 năm 2004: Coca-Cola Việt Nam đã được chuyển giao cho Sabco, một trong những Tập Đoàn Đóng Chai danh tiếng của Coca-Cola trên thế giới.
2.1.2. Một số nét cơ bản về Pepsi.
a. Công ty Pepsi.
Năm 1886, Bradham không thể hiểu được mức độ thành công của Pepsi trong tương lai khi mà ông pha chế ra một loại nước uống dễ tiêu làm từ nước cacbonat, đường, vani và một chút dầu ăn. Nó được bán trong khu vực dưới tên “Nước uống của Brad” nhưng năm 1893 Bradham đổi sang một cái tên mới “Pepsi-Cola”, nghe khoẻ khoắn, mạnh mẽ hơn và chuẩn bị đưa ra bán một cách rộng rãi hơn. Công ty Pepsi-Cola với trụ sở chính ở Purchase, New York, là một phần của Tập đoàn nước giải khát toàn cầu Pepsi Co, Inc.. Năm 2004, Pepsi Co đạt doanh thu hơn 200 tỉ đôla Mỹ và trở thành nhà cung cấp hàng đầu về doanh số bán hàng và lãi ròng cho các nhà bán lẻ ở nước Mỹ. Từ những khởi nguồn hết sức bình thường, Pepsi đã sống sót sau hai lần phá sản và trở thành công ty nước giải khát lớn thứ 2 trên thế giới. Ngày nay, biểu tượng toàn cầu của Pepsi là một trong những logo được biết tới nhiều nhất trên toàn thế giới. Các loại nước giải khát của Pepsi-Cola có thể được tìm thấy khắp nơi ở hơn 195 quốc gia trên thế giới. Năm 1991, Tập đoàn Pepsi lần đầu tiên đến Việt Nam với sản phẩm chất lượng cao và khẩu vị có thay đổi chút ít để phù hợp hơn với người tiêu dùng Việt Nam. Trải qua gần 15 năm hoạt động, Công ty Pepsi Việt Nam đã trở thành một thương hiệu quen thuộc với người dân Việt Nam.
b. Pepsi-đối thủ cạnh tranh hàng đầu của Coca-Cola.
Coca-Cola xuất hiện trên thị trường lần đầu tiên năm 1886 tại Atlanta (bang Georgia, Mỹ) và thường được nhắc đến với tên Coke. Pepsi có mặt trên thị trường muộn hơn, vào năm 1903, nhưng sau đó cả hai công ty này đều chiến đấu rất căng thẳng thông qua các quảng cáo in, video... để chiếm lĩnh vị trí của nhau. Một số hình ảnh quảng cáo in và truyền hình về "cuộc chiến quảng cáo" của hai hãng nước ngọt nổi tiếng này.
Nhân viên Pepsi uống Coca Cola.
Quảng cáo của Coca Cola và...
... của Pepsi.
Một quảng cáo của Pepsi được công bố vào ngày "Cá tháng tư".
Nhân viên Pepsi bị sa thải vì... "xét nghiệm cho thấy dương tính với Coca Cola".
2.2. Một số lý thuyết của vấn đề nghiên cứu.
2.2.1. Thị trường độc quyền nhóm.
Trên thị trường độc quyền nhóm có một số ít các hãng cung ứng phần lớn hoặc toàn bộ sản lượng của thị trường . Sản phẩm hàng hóa có thể đồng nhất hoặc không đồng nhất và có rào cản lớn về việc gia nhập vào thị trường. Tính phụ thuộc lẫn nhau giữa các hãng là rất lớn. Lợi nhuận của các hãng trên thị trường độc quyền nhóm phụ thuộc lẫn nhau. Đây là đặc điểm riêng có của thị trường độc quyền nhóm. Khi số lượng hãng trên thị trường ít,các quyết định về sản lượng,giá cả… của bất kì hãng nào cũng tác động đến những điều kiện về cầu và doanh thu cận biên của các hãng còn lại trên thị trường. Do đó việc đặt giá bán hay quyết định mức sản lượng của một hãng phụ thuộc vào hành vi của các đối thủ cạnh tranh. Nguyên tắc xác định trạng tháni cân bằng của mỗi hãng dựa vào cân bằng Nash: Mỗi hãng thực hiện điều tốt nhất có thể khi cho trước hành động của các hãng đối thủ.
2.2.2. Quyết định chiến lược.
Hành vi chiến lược: Các hành động được các hãng tiến hành để lập kế hoạch và phản ứng lại các hành động cạnh tranh từ các hãng đối thủ.
Lý thuyết trò chơi: Lý thuyết cung cấp lời chỉ dẫn hữu ích về việc làm thế nào để hành xử trong các tình huống chiến lược có liên quan đến tình trạng phụ thuộc lẫn nhau.
2.2.3. Chiến lược ra quyết định đồng thời.
Chiến lược ra quyết định đồng thời xảy ra trong các thị trường độc quyền nhóm khi các nhà quản lý phải đưa ra các quyết định cá nhân mà không biết gì về quyết định của các đối thủ cạnh tranh. Các quyết định cá nhân của các nhà quản lý không nhất thiết phải xảy ra cùng một thời điểm.
2.2.4. Chiến lược ưu thế.
Chiến lược ưu thế là một chiến lược hoặc hành động mang lại kết cục tốt nhất dù cho các đối thủ có quyết định làm gì đi chăng nữa. Khi tồn tại chiến lược ưu thế,một người quyết định có lý trí luôn áp dụng chiến lược ưu thế. Họ dự đoán rằng nếu đối thủ của mình cũng có các chiến lược ưu thế thì họ cũng sẽ áp dụng các chiến lược ưu thế đó.
Trạng thái cân bằng chiến lược ưu thế tồn tại khi tất cả người ra quyết định đều có chiến lược ưu thế.
2.2.5. Tình thế lưỡng nan của người tù.
Bill
Không thú tội
Thú tội
Không thú tội
2 năm, 2 năm
12 năm, 1 năm
Thú tội
1 năm, 12 năm
6 năm, 6 năm
Jane
Cả hai đối thủ đều có chiến lược ưu thế là không thú tội. Nếu Bill à Jane hợp tác với nhau thì họ chỉ phải chịu mức phạt là 2 năm tù giam thay vì chọn chiến lược ưu thế thì cả 2 cùng chịu mức phạt là 6 năm tù giam. Như vậy ở trạng thái cân bằng chiến lược ưu thế,các đối thủ đều bị thiệt hơn so với trường hợp họ ra quyết định có hợp tác với nhau.
2.2.6. Các quyết định với một chiến lược ưu thế.
Khi một hãng không có chiến lược ưu thế nhưng ít nhất một trong các đối thủ có chiến lược ưu thế. Khi đó hãng dự đoán rằng đối thủ sẽ thực hiện chiến lược ưu thế của mình, khi biết hành động của đối thủ thì nhà quản lý có thể chọn chiến lược tốt nhất cho mình.
Ví dụ:
Pepsi
Cao ($ 10)
Thấp ($ 6)
Cao ($10)
$ 1000, $ 1000
$ 500, $ 1200
Thấp ($6)
$ 1200, $ 300
$ 400, $ 400
Coca-Cola
Thấy hãng Pepsi có chiến lược ưu thế là bán giá thấp. Hãng Coca-Cola dự đoán hãng Pepsi thực hiện chiến lược ưu thế của mình(bán giá thấp) khi đó hãng Coca-Cola sẽ lựa chọn bán giá cao để thu được lợi nhuận lớn nhất.
2.2.7. Các chiến lược bị lấn át.
Các chiến lược bị lấn át là những chiến lược sẽ không bao giờ được lựa chọn vì luôn có một chiến lược tốt hơn chúng. Sự loại trừ liên tiếp các chiến lược bị lấn át là một tiến trình ra quyết định lặp lại trong đó các chiến lược bị lấn át bị giảm thiểu để tạo ra một bảng lợi ích rút gọn với ít quyết định hơn cho các nhà quản lý xem xét.
Ví dụ:
Pepsi
Cao ($10)
Trung bình ($8)
Thấp ($6)
Cao ($10)
$ 1000, $ 1000
$900, $1100
$500, $1200
Trung bình ($8)
$ 1100, $400
$800,$800
$ 450, $500
Thấp ($6)
$ 1200, $ 300
$500,$350
$400,$400
Coca-Cola2.2.7. Ra quyết định tốt nhất cho các bên.
Các nhà quản lý sẽ chọn chiến lược nào mang lại lợi ích lớn nhất cho họ dựa trên hành động của đối thủ mà hãng dự đoán. Các nhà quản lý dự đoán rằng hành động của mỗi đối thủ là quyết định tốt nhất cho đối thủ đó, dựa trên dự đoán của đối thủ đó về hành động của các đối thủ khác. Các nhà quản lý tìm kiếm quyết định quản lý tốt nhất cho các bên.
2.2.8. Cân bằng Nash.
Là một tập hợp các hành động hay quyết định mà từ đó các nhà quản lý chọn ra quyết định tốt nhất khi đối thủ của họ đưa ra hành động mà họ dự đoán. Cân bằng Nash là một chiến lược mang tính ổn định, không hãng nào có thể được lợi hơn khi đơn phương thay đổi quyết định của mình.
Nếu chỉ tồn tại một cân bằng Nash duy nhất thì có thể mong đợi các đối thủ cùng thực hiện quyết định dẫn tới trạng thái cân bằng Nash. Khi có nhiều trạng thái cân bằng Nash thì không thể dự đoán được kết cục có thể xảy ra.
Cân bằng chiến lược ưu thế là một trường hợp đặc biệt của cân bằng Nash. Cân bằng Nash có thể xảy ra mà không có chiến lược ưu thế hay chiến lược bị lấn át nào.
2.2.9. Đường phản ứng tốt nhất.
Đường phản ứng tốt nhất dùng để phân tích và giải thích các quyết định đồng thời khi lựa chọn là liên tục( chứ không phải rời rạc). Đường phản ứng tốt nhất của một hãng cho thấy quyết định tốt nhất của hãng dựa trên quyết định mà hãng mong chờ đối thủ của mình sẽ thực hiện và thường thì đó là quyết định tối đa hóa lợi nhuận. Cân bằng Nash xảy ra khi các đường phản ứng tốt nhất của các hãng cắt nhau.
Ví dụ:
Hai hãng Coca-Cola và Pepsi hoạt động trong thị trường độc quyền nhóm và cạnh tranh nhau về giá cả. hai hãng đang lập kế hoạch để bán nước ngọt vào dịp tết Nguyên đán sắp tới. Cả hai nhà quản lý đều biết rằng hàm cầu của hai hãng là:
= 4000 25 + 12
= 3000 20 + 12
Và hàm chi phí:
= = $160
= = $180
Mối hãng cần biết mức giá tốt nhất cho mình trong điều kiện đối thủ của hãng ra mức giá mà hãng dự đoán. Nhà quản lý của hai hãng đều phải biết cả đường phản ứng tốt nhất của mình và đối thủ.
Giả sử hãng Coca-Cola cho rằng Pepsi định mức giá $100, đường cầu cả Coca-Cola là:
= 4000 25 + 12 x $100 = 5200 25
= 208 0,04
= 208 0,04
= 208 0,08
= => 208 0,08 160 => = 600, P = $184
Đồ thị A: Hãng Coca-Cola tin rằng Pepsi định mức giá $100
Tương tự nếu Coca- Cola dự đoán Pepsi định giá bán là $200 thì Coca-Cola sẽ đặt mức giá là P = $208.
Đồ thị B: Hai điểm trên đường phản ứng tốt nhất của Coca-Cola.
Đồ thị C: Các đường phản ứng tốt nhất và cân bằng Nash
Điểm N là điểm cân bằng Nash, là giao điểm của hai đường phản ứng tốt nhất của hai hãng. Tại điểm N không một hãng nào có thể đơn phương thay đổi quyết định của mình để đem lại thêm lợi ích cho hãng đó. Vì thế cân bằng Nash có tính ổn định, các hãng không có động cơ xa rời cân bằng Nash.
Cách xây dựng đường phản ứng tốt nhất.
Giả sử có hai hãng A,B hoạt động trên thị trường độc quyền nhóm và phải ra quyết định về giá. Hàm cầu đối với hai hãng lần lượt là:
= ab + c
= de + f
Trong đó a,d > 0; b,e 0
Giả sử hai hãng có hiệu suất không đổi theo quy mô. Gọi và lần lượt là chi phí cận biên dài hạn và chi phí bình quân của hai hãng A và B, ta có:
( = và ( =
Hàm lợi nhuận cho hai hãng A và B là:
= ( =( ( ab + c
= ( =( ( e + f
Điều kiện tối đa hóa lợi nhuận của mỗi hãng là
= a + 2b + c b = 0 (1)
= d + 2e + f e = 0 (2)
Giải phương trình (1) tìm được đường phản ứng tốt nhất của hãng A, giải phương trình (2) được đường phản ứng tốt nhất của hãng B,lần lượt là:
= ( =
= ( =
Mức giá cân bằng Nash:
=
=
Đồ thị D: Đường phản ứng tốt nhất của hai hãng A và B.
2.2.10. Chiến lược ra quyết định tuần tự.
Quyết định tuần tự là một hãng ra quyết định trước rùi đến đối thủ của nó ra quyết định khi đã biết được hành động mà hãng thứ nhất thực hiện. Quyết định tốt nhất mà một nhà quản lý có thể đưa ra ngày hôm nay phụ thuộc vào việc đối thủ của anh ta sẽ ra phản ứng như thế nào vào ngày mai.
2.2.11. Cây trò chơi.
Cây trò chơi là một sơ đồ minh họa các quyết định quản lý của hãng như các nút quyết định với các nhánh vươn ra từ các nút. Mỗi nhánh đại diện cho mỗi hành động có thể được thực hiện tại nút đó. Thứ tự các quyết định thường bắt đầu từ trái sang phải cho đến khi tới được bảng lợi ích cuối cùng. Sau khi thiết lập sơ đồ cây trò chơi, sử dụng phương pháp quay ngược để tìm cân bằng Nash theo một quyết định tuần tự bằng dự đoán các quyết định trong tương lai nhằm đưa ra các quyết định ở hiện tại tốt nhất.
Nếu hãng Coca-Cola chọn giá cao thì hãng Pepsi sẽ chọn giá thấp để thu được lợi nhuận lớn hơn( $1200>$1000). Nếu hãng Coca-Cola chọn giá thấp thì hãng Pepsi sẽ chọn giá thấp để thu được lợi nhuận lớn hơn( $400>$300). Nhận thấy dù Coca-Cola có lựa chọn hành động như thế nào thì Pepsi vẫn đưa ra quyết định lựa chọn bán giá thấp để tối đa hóa lợi nhuận. Dự đoán trong tương lai như thế nên hãng Coca-Cola quyết định lựa chọn bán giá cao để tối đa hóa lợi nhuận($500>$400). Hướng quyết định lựa chọn giá bán của các hãng được biểu diễn bởi đường màu đỏ trong sơ đồ cây trò chơi.
Như vậy khi đưa ra các quyết định tuần tự, nhà quản lý đưa ra quyết định tốt nhất cho bản thân họ bằng cách sử dụng phương pháp quay ngược. Phương pháp này dẫn đến một con đường duy nhất và là con đường quyết định cân bằng Nash. Mỗi hãng thực hiện điều tốt nhất cho bản thân trong điều kiện các đối thủ đã đưa ra những quyết định tốt nhất cho họ.
Lợi thế của người quyết định trước và của người quyết định sau: người quyết định trước ra quyết định đầu tiên để gây ảnh hưởng tới các định sau này của đối thủ, làm đối thủ chọn hành động theo cách làm bạn có lợi hơn; lợi thế của người quyết định sau có được khi hãng phản ứng lại quyết định thứ nhất của hãng đối thủ và thu được lợi ích cao hơn. Để xác định xem liệu thứ tự ra quyết định có tạo ra lợi thế khi các hãng đưa ra các quyết định kế tiếp hay không,áp dụng biện pháp quay ngược vào các cây trò chơi với mỗi chuỗi quyết định có thể xảy ra. Nếu lợi ích tăng lên nhờ ra quyết định đầu tiên thì nghĩa là có lợi thế người quyết định đầu tiên. Nếu lợi ích tăng lên nhờ ra quyết định thứ hai nghĩa là có lợi thế của người đi sau. Nếu lợi ích không thay đổi khi thay đổi thứ tự ra quyết định thì có nghĩa là thứ tự thay đổi không có ý nghĩa gì.
Ví dụ:
Hai hãng Coca-Cola và Pepsi hoạt động trong thi trường độc quyền nhóm về nước uống giải khát. Hai hãng đang suy nghĩ để đưa ra quyết định quảng cáo. Cả hai hãng cùng quảng cáo bằng phương tiện truyền thông là tivi và tạp chí.Tổng doanh số sẽ thấp đi nếu Coca-Cola và Pepsi không thỏa thuận cùng phương tiện truyền thông để quảng cáo.
Coca-Cola
Pepsi
Chi phí hàng năm cho quảng cáo bằng tivi
$250
$400
Chi phí hàng năm cho quảng cáo bằng tạp chí
$350
$325
Tổng doanh số sẽ thấp đi nếu Coca-Cola và Pepsi không thỏa thuận cùng phương tiện truyền thông để quảng cáo.
Quyết định đồng thời:
Pepsi
Tivi
Tạp chí
Tivi
$1000,$1200
$700,$1000
Tạp chí
$900,$1000
$950,$1400
Coca-Cola
Quyết định tuần tự:
Như vậy nhìn vào sơ đồ cây trò chơi có thể thấy cả Coca-Cola và Pepsi đều có lợi thế của người ra quyết định trước. Nếu là người quyết định trước thì Coca-Cola kiếm được lợi nhuận $1000 lớn hợn trường hợp là người quyết định sau chỉ thu được lợi nhuận là $950. Tương tự Pepsi cũng thu được lợi nhuận $1400 khi quyết định trước lớn hơn $1200 nếu quyết định sau.
2.2.12. Các động thái chiến lược.
Động thái chiến lược là hành động được sử dụng để đẩy đối thủ vào tình thế bất lợi. Có ba dạng động thái chiến lược là: cam kết,đe dọa và hứa hẹn. Động thái chiến lược chỉ có hiểu quả khi động thái chiến lược đó là đáng tin cậy.
Cam kết:Các nhà quản lý tuyên bố hay biểu thị cho đối thủ biết bằng cách nào đó rằng họ sẽ tự rang buộc bản thân vào việc thực hiện một hành động hay đưa ra một quyết định nào đó bất chấp đối thủ có thực hiện hành động gì hay ra quyết định gì đi chăng nữa. Nói cách khác đây là quyết định hay hành động vô điều kiện. Các hãng đưa ra cam kết đáng tin cậy bằng cách thực hiện hành động không thể thay đổi được một cách vô điều kiện. Hãng đưa ra lời cam kết cũng là một hành động tạo vị thế người ra quyết định đầu tiên cho hãng đưa ra cam kết trong trò chơi ra quyết định kế tiếp.
Đe dọa và hứa hẹn: là những hành động hay quyết định có điều kiện. Đe dọa có thể được đưa ra công khai hoặc ngụ ý: “Nếu anh thực hiện hành động A,tôi sẽ thực hiện hành động B mà anh không mong muốn hoặc sẽ buộc anh phải trả giá đắt”. Ngược lại, với lời hứa hẹn: “ Nếu anh thực hiện hành động B mà anh mong muốn hoặc mang lại lợi ích cho anh”
Hợp tác trong các quyết định chiến lược lặp lại: hợp tác khi các hãng độc quyền nhóm thực hiện các quyết định cá nhân khiến cho tất cả các hãng đều có lợi hơn so với trường hợp kết cục cân bằng Nash khi không hợp tác. Các quyết định lặp lại là các quyết định được cùng một số hãng đưa ra hết lần này đến lần khác.
Các quyết định một lần trong tình thế lưỡng nan của người tù: lừa dối có nghĩa là khi một nhà quản lý đưa ra một quyết định bất hợp tác. Trong tình thế lưỡng nan của những người tù khi đưa ra quyết định quản lý một lần. Các quyết định hợp tác đều mang tính không ổn định về mặt chiến lược. Các hãng có động cơ phá vỡ các quyết định hợp tác, đó là hành động dối lừa không gây hậu quả gì trong tương lai,vì thế cả hai đều dự đoán đối thủ sẽ lừa dối. Khi đó lừa dối trở thành phản ứng tốt nhất cho mỗi hãng.
Ví dụ:
Tình huống khó xử khi định giá của Coca-Cola và Pepsi
Pepsi
Cao
Thấp
Cao
Hợp tác
$1000,$500
Pepsi lừa dối
$400,$700
Thấp
Coca-Cola lừa dối
$1200,$100
Không hợp tác
$600,$200
Coca-Cola
Trừng phạt sự lừa dối: trong các quyết định quản lý lặp lại thì sự lừa dối có thể bị trừng phạt. Khi một hãng lừa dối hãng đối thủ, lần sau lại lặp lại quyết định lừa dối đó thì hãng có thể sẽ bị trừng phạt vì hãng đối thủ không dễ gì bị tiếp tục bị lừa lần nữa. Trừng phạt do lừa dối thường thực hiện dưới dạng một quyết định trả đũa do hãng trừng phạt thực hiện, chuyển trò chơi về quyết định Nash khi không hợp tác. Nếu lời đe dọa là đáng tin cậy thì các nhà quản lý đôi khi có thể đạt được sự hợp tác trong tình thế tiến thoái lưỡng nan của những người tù. Bill và Jane trước khi vào phòng điều tra lấy lời khai có sự hợp tác với nhau, cả hai cùng không thú tội, nếu một trong hai phá vỡ cam kết( thú tội) thì sẽ bị người còn lại trừng phạt( giả sử Bill phá vỡ cam kết thì sau khi ra tù Jane sẽ đến “hỏi thăm” gia đình Bill). Như vậy giữa hai người tù đã có một lời đe dọa đáng tin cậy, dẫn đến họ không có ý muốn phá vỡ cam kết, và cũng không nghĩ là người kia sẽ phá vỡ cam kết. Trong trường hợp này cả hai có thể đạt được sự hợp tác và chỉ phải chịu mức tù giam là 2 năm do cùng không nhận tội.
Nếu giá trị hiện tại của cái giá của hành vi lừa dối lớn hơn giá trị hiện tại của các lợi ích có được từ hành vi lừa dối thì hãng sẽ quyết định hợp tác với nhau. Quyết định hợp tác đạt được trong thị trường độc quyền nhóm khi tất cả các hãng trong một thị trường độc quyền nhóm lựa chọn sẽ không lừa dối. nếu giá trị hiện tại của lợi ích có được từ hành vi dối lừa lớn hơn giá trị hiện tại của cái giá của hành vi lừa dối.
= +…+
Trong đó = - với i=
= +…+
Trong đó = với j=
Chiến lược bóp cò.
Hành vi lừa dối sẽ “nhấn cò” cho một giai đoạn trừng phạt trong quyết định lặp lại tiếp theo của trò chơi. Chiến lược ăn miếng chả miếng là trừng phạt trong giai đoạn quyết định tiếp theo và quay trở lại hợp tác nếu hành vi lừa dối ngừng lại. Chiến lược không lay chuyển là sự trừng phạt mãi mãi, thậm chí ngay cả khi đối thủ lừa dối muốn qua trở lại hợp tác.
2.2.13. Các động tác tạo điều kiện thuận lợi.
Đó là các phương pháp không làm trái pháp luật nhằm khuyến khích các hành vi hợp tác bằng cách giảm lợi ích của hành vi lừa dối hoặc làm tăng cái giá phải trả cho hành vì lừa dối. Có bốn dạng chính:
Khớp giá
Bảo đảm giá bán
Định giá công khai.
Lãnh đạo giá.
Khớp giá: hãng tuyên bố công khai rằng sẽ khớp giá với bất kì mức giá thấp hơn nào của đổi thủ. Phương pháp này thường thông qua quảng cáo. Như vậy khi thực hiện khớp giá có nghĩa là không khuyến khích sự giảm giá bất hợp tác, lợi ích của hành vi giảm giá để lấy khách hàng của đối thủ gần như bị triệt tiêu khi hãng tự buộc mình phải nhanh chóng định giá bằng với mức giá của bất cứ đối thủ nào hạ giá.
Bảo đảm giá: cam kết của một hãng bán cho những người mua của hãng có thể bán trong suốt một thời kì tương lai quy ước. Mục đích chính của các bảo đảm giá bán này là để làm cho những hãng hạ giá bán sẽ phải chịu chi phí cao hơn.
Định giá công khai: việc thông báo cho những người mua về các mức giá theo cách đưa các thông tin định giá đến công chúng. Những hãng hạ giá theo kiểu không hợp tác sẽ bị phát hiện nhanh chóng và do đó thu được rất ít lợi nhuận. Định giá công khai là biện pháp phòng ngừa trước: rút ngắn giai đoạn hãng giảm giá được lợi, đẩy nhanh hành động giảm giá trả đũa, giảm khả năng hành vi hạ giá đơn phương làm tăng giá trị của hãng thực hiện hạ giá.
Lãnh đạo giá: xảy ra khi một hãng độc quyền nhóm(hãng lãnh đạo) đặt giá của mình ở mức giá mà hãng này tin rằng sẽ tối đa hóa lợi nhuận của toàn ngành. Các hãng còn lại(các hãng làm theo) hợp tác bằng cách cũng định mức giá như vậy. Không đòi hỏi phải có một thỏa thuận công khai là làm theo hãng lãnh đạo giá giữa các hãng trên thị trường. Các hãng làm theo chỉ ngầm đồng ý với cách dàn xếp này.
Cartel là hình thức thỏa thuận cấu kết công khai trong độc quyền nhóm. Các thành viên dựa vào các thỏa thuận định giá công khai để nâng giá bằng cách hạn chế cạnh tranh. Cartel là bất hợp pháp ở Hoa Kỳ, Ca-na-đa, Mê-xi-cô,Đức và Liên minh Châu Âu. Hầu hết các cartel đều không tăng giá được nhiều và trong một thời gian dài. Mức giá cả mà tất cả các hãng trong ngành đều mong muốn lại không có tính ổn định về mặt chiến lược. Các hãng có động cơ lớn để lừa dối bằng cách đơn phương giảm giá để tăng lợi nhuận.
Cấu kết ngầm: là sự hợp tác giữa các hãng đối thủ không nằm trong bất kì một thỏa thuận công khai nào. Cấu kết ngầm ra đời vì tất cả hoặc gần như tất cả các hãng trong thị trường độc quyền nhóm đều nhận thức được tình trạng phụ thuộc lẫn nhau và hiểu được hậu quả của sự không hợp tác.
2.2.14.Ước lượng cầu
Xác đinh mô hình
Hàm cầu có dạng : Q0 = a + bP0 + cP1
Trong đó: Q0 là nhu cầu sản lượng(lít)
P0 là giá sản phẩm(nghìn/lít)
P1 là giá sản phẩm đối thủ(nghìn/lít)
Dự báo về dấu của các hệ số
+) Với hệ số a: Có thể dương hoặc âm
+) Với hệ số b: b < 0 vì tuân theo quy luật về cầu, khi giá của hàng hóa tăng lên thì nhu cầu về hàng hóa đó giảm xuống. Chính vì vậy mà cầu về sản phẩm Coca-Cola hay pepsi có mối quan hệ tỉ lệ nghịch với giá của sản phẩm.
+) Với hệ số c: c > 0 vì khi giá của đối thủ cạnh tranh(Pepsi hoặc Coca-Cola) tăng lên thì mọi người sẽ có xu hướng tiêu dùng sản phẩm đang xét(Coca-Cola hoặc Pepsi) nhiều hơn. Chính vì thế giá của đối thủ cạnh tranh có mối quan hệ tỉ lệ thuận với cầu sản phẩm đang xét.
Các bước ước lượng cầu bằng phương pháp OLS
B1: Xác định hàm cầu của hãng
B2: Thu thập số liệu về các bến có trong hàm cầu của hãng.
B3: Ước lượng cầu của hãng bằng phương pháp OLS
2.3 Tổng quan tình hình khách thể nghiên cứu của những công trình năm trước.
Theo nghiên cứu của nhóm, những năm trước chưa có cá nhân hay tập thể nào nghiên cứu về đề tài “Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát” hay đề tài có liên quan. Do đó nhóm sẽ cố gắng nghiên cứu một cách chi tiết và sâu sắc để có được sản phẩm nghiên cứu toàn diện nhất.
2.4 Phân định nội dung vấn đề nghiên cứu của đề tài.
Đề tài nghiên cứu về thị trường độc quyền nhóm với cách thức đưa ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát. Những quyết định về sản lượng,giá bán, quảng cáo; cách thức đưa ra các quyết định đó của hãng.
Chương III: Phương pháp nghiên cứu và các kết quả phân tích thực trạng vấn đề nghiên cứu.
3.1.Phương pháp nghiên cứu
Để phục vụ cho quá trình phân tích và đánh giá thực trạng đồng thời đưa ra các giải pháp cho vấn đề nghiên cứu, đề tài đã sử dụng một số các phương pháp nghiên cứu cụ thể như sau:
Phương pháp thu thập dữ liệu
1. Phương pháp tổng quan tài liệu: sử dụng chủ yếu để phục vụ chương II. Từ việc tham khảo các tài liệu văn bản, giáo trình, sách tham khảo, báo, tạp chí... tiến hành phương phá
này để xem xét và đưa ra các vấn đề lý luận về cách thức đưa ra các quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
2. Phương pháp điều tra,phỏng vấn: sử dụng chủ yếu để phục vụ chương 3, một phần chương 2 và chương 4. Chúng em đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp những người tiêu dùng khi uống loại nước ngọt Coke. Từ đó rút ra các kết luận.
3. Phương pháp tổng hợp,thống kê số liệu từ sách báo, tạp trí, internet để phục vụ chủ yếu trong chương 3, từ các số liệu đó lập bảng,sơ đồ nhằm làm rõ thực trạng và những tồn tại,hạn chế của các quyết định quản lý đưa ra nhằm tối đa hóa lợi nhuận của Coca-Cola và từ đó đưa ra giải pháp.
3.1.2 Phương pháp phân tích dữ liệu.
1.Đề tài sử dụng phương pháp so sánh sử dụng chủ yếu trong chương III để có những đánh giá chi tiết đầy đủ hơn về thực trạng hoạt động,các quyết định quản lý của Coca-Cola.
2. Phương pháp ước lượng cầu được sử dụng trong chương III để ước lượng được hàm cầu của Coca-Cola trên thị trường, dựa vào đó phân tích cách thức đề ra quyết định quản lý về giá,sản lượng nhằm tối đa hóa lợi nhuận của Coca-Cola.
3.2 Đánh giá tổng quan tình hình và ảnh hưởng nhân tố môi trường đến các quyết định quản lý nhằm tối đa hóa lợi nhuận của Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
3.2.1. Tổng quan tình hình môi trường kinh doanh nước giải khát ở Việt Nam.
Mấy năm gần đây, ngành đồ uống Việt Nam đang được đánh giá là thị trường tiềm năng thu hút các nhà đầu tư nước ngoài. Đặc biệt tại các thành phố và thị trấn, nơi lối sống hiện đại đang ngày càng trở nên phổ biến đã dẫn đến sự gia tăng về nhu cầu thực phẩm đã qua chế biến và đóng gói. Và một trong những sản phẩm đó là các loại nước uống giải khát có ga và không ga.Hiện nay trên thị trường Việt Nam có khoảng khoảng 300 loại nước giải khát các loại, mỗi loại đều đánh vào những thị hiếu khác nhau như giải nhiệt, đẹp da, giảm béo, chữa bệnh... Trước đây thị trường nước giải khát ở nước ta đa phần là sản phẩm nước uống có gas, rất ít những sản phẩm chiết xuất từ trái cây và không có gas. Nhưng mấy năm gần đây do xu hướng người tiêu dùng ưa chuộng các sản phẩm nước không gas nên doanh nghiệp kinh doanh nước giải khát đã mạnh dạn đầu tư dây chuyền mới để tung ra hàng loạt sản phẩm theo nhu cầu của khách hàng. Đa phần người tiêu dùng quan niệm nước hoa quả không chỉ mang tính giải khát mà còn rất bổ dưỡng, nhiều vitamin, tốt cho cơ thể. Xu hướng này thể hiện rõ khi khảo sát sự mua sắm qua các siêu thị. Bà Dương Thị Quỳnh Trang- giám đốc đối ngoại và quan hệ công chúng BigC Việt Nam cho biết: Sản phẩm nước giải khát không có gas được bán rất chạy tại BigC. Doanh số trong tháng 4 và tháng 5/2010 của siêu thị này đã tăng nhiều gấp đôi so với trước đó. Điều này cho thấy người tiêu dùng đang quan tâm nhiều đến các sản phẩm làm từ thiên nhiên và trái cây nhiều hơn. Bên cạnh đó, các sản phẩm nước giải khát cũng giữ giá khá ổn định, không tăng đột biến và mang tính thời vụ như một số sản phẩm khác nên mức độ tiêu dùng cũng ổn định hơn.
3.2.2.Ảnh hưởng nhân tố môi trường đến các quyết định quản lý nhằm tối đa hóa lợi nhuận của Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.
Trong chuyến viếng thăm Việt Nam lần đầu tiên vào tháng 9.2009 trên cương vị Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc điều hành toàn cầu của Tập đoàn Coca-Cola, ông Muhtar Kent, đã công bố khoảnđầu tư thêm 200 triệu USD tại đây trong 3 năm. Mục đích của gói đầu tư này là nâng cao quy mô sản xuất, tăng cường các kênh phân phối, hoạt động tiếp thị vàđào tạo nhân lực.Theo ông Kent, các sản phẩm nước giải khát của Coca-Cola đã tăng trưởng 2 năm liên tiếp (2008-2009). Hiện nay, Coca-Cola có 50 nhà phân phối lớn, 1.500 nhân viên và hơn 300.000 đại lý tại Việt Nam.Nhận định về cách đầu tư của Coca-Cola, ông Damien Duhamel, Giám đốc Điều hành Công ty Tư vấn Chiến lược Sáng tạo và Tiếp thị Solidiance (có văn phòng ở TP.HCM), nói: “Tính luôn cả nước uống không gas, trong năm 2009, Coca-Cola Việt Nam đã đạt mức tăng trưởng 12%. Chúng tôi tin rằng thị trường nước giải khát Việt Nam sẽ “phình” thêm 40% nữa từ năm 2010-2015 vàđiều này phù hợp với công bố gia tăng đầu tư thêm 200 triệu USD của công ty tại Việt Nam trong vòng 3 năm như đã thông báo”.Trong khi đó, với khoản vốn đầu tư 250 triệu USD vừa tuyên bố, ông Saad Abdul-Latif, Chủ tịch PepsiCo khu vực Châu Á, Trung Đông và Châu Phi cho biết: “Trong hơn 90 quốc gia ở châu Á, châu Phi và Trung Đông, Việt Nam là một trong những thị trường đang phát triển quan trọng nhất của chúng tôi”.
Ông Saad cho biết khẳng định trên xuất phát từ 3 nguyên nhân. Thứ nhất, Việt Nam đang có một nền chính trị ổnđịnh. Thứ hai là cơ cấu dân số trẻ, ham học hỏi, rất thích hợp để phát triển ngành nước giải khát. Sau cùng là tiềm năng dồi dào và năng động của nguồn nhân lực trong nước.
Theo kế hoạch, số vốn đầu tư250 triệu USD sẽ được PepsiCo tập trung cho cả 3 miền Bắc, Trung và Nam nhằm gia tăng năng lực sản xuất, gia tăng trang thiết bị tại điểm bán, củng cố sức mạnh cho các thương hiệu và mở rộng danh mục sản phẩm của Tập đoàn.
Ngày 22.5.2010 vừa qua, PepsiCo Việt Namđã đưa vào hoạt động nhà máy nước ngọt mới nhất tại khu công nghiệp Trà Nóc 2, Cần Thơ với tổng vốn đầu tư 30 triệu USD. Đây là nhà máy thứ 5 của PepsiCo trên cả nước sau Hà Nội, Điện Bàn, Hóc Môn và Bình Dương.
Trước đó 2 năm, PepsiCo Việt Nam đã công bố dự án trồng khoai tây sạch tại Đà Lạt để sản xuất bánh snack Poca cho thị trường trong nước tại nhà máy ở Bình Dương có vốn đầu tư 30 triệu USD. Nhà máy này đã đi vào hoạt động từ tháng 6.2008 với công suất khoảng 10.000 tấn khoai tây tươi mỗi năm.
Cũng xác định chiến lược đầu tư trong 3 năm như Coca-Cola, ông Phạm Phú Ngọc Trai, Chủ tịch Hội đồng Cố vấnĐối ngoại của PepsiCo Đông Nam Á, cho biết với số vốn trên, Công ty sẽ tiếp tụcđầu tư vào 2 nhà máy tại Bình Dương, Cần Thơ, đồng thời mở thêm một số nhà máy mới nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong cả 2 phân khúc thực phẩm tiện dụng và nước giải khát.
3.2.2.
Phía Coca-cola cũng đang tiếp tục cho ra đời những dòng sản phẩm mới, gần đây nhất phải kể tới là sản phẩm nước cam Minute Maid Teppy. Đây là sản phẩm nước cam đóng chai có hương vị cam thơm ngon cùng các tép cam tự nhiên mọng nước, tràn đầy năng lượng dành cho giới trẻ năng động. Đặc biệt hơn, ngoài chai thuỷ tinh truyền thống, nước cam Teppy còn có chai nhựa PET độc đáo, tiện dụng mang đến một phong cách thưởng thức di động hiện đại cho giới trẻ Việt Nam. Bên cạnh sản phẩm của nhãn hàng Coca-cola, Highlands Coffee cũng vừa ra mắt bộ ba sản phẩm nước trái cây kết hợp đá xay mới – Ice Blended Juice. Sản phẩm không những cung cấp nhiều dưỡng chất mà còn có tác dụng thanh nhiệt, rất thích hợp cho mùa hè. Các sản phẩm này bao gồm Reviving Guava, Vita Grape và Energizing Pomelo. Nguyên liệu chủ yếu là ổi, nho đen và bưởi, đây là những loại trái cây chứa nhiều chất dinh dưỡng rất tốt cho cơ thể như Vitamin A, C, B6 và khoáng chất giúp kiểm soát bệnh tiểu đường, giảm huyết áp và nguy cơ ung thư.
hông chịu thua khoản đầu tư bổ sung 200 triệu USD năm 2009 của Coca-Cola, PepsiCo cũng quyết định mạnh tay hơn với mức đầu tư 250 triệu USD vào thị trường Việt Nam.Tuyên bố tăng cường đầu tư bổsung của PepsiCo càng khẳng định tiềm năng của thị trường nước giải khát Việt Nam thời kỳ hậu khủng hoảng.Tạp chí Media của Hồng Kông hồi tháng 1 cho biết, trong năm 2009, các thương hiệu nước giải khát trong và ngoài nước tại thị trường Việt Nam đạt mức tăng trưởng đến 2 con số. Điều này cũng được dẫn chứng bằng sự gia tăng của doanh số quảng cáo từ kết quả khảo sát của Công ty Nghiên cứu Thị trường TNS Việt Nam.Tổng doanh số quảng cáo của thị trường nước giải khát Việt Namđã tăng trưởng đến 93% so với cùng kỳ 2008, đạt 36,1 triệu USD trong nửa đầu năm 2009. Trong đó, nước ngọt có gas đạt doanh số quảng cáo 4,1 triệu USD, nhưng đến tháng 11.2009 đã tăng gần 100% so với nửa đầu năm, đạt 8 triệu USD.Với tốc độ tăng trưởng này, ngành công nghiệp nước giải khát đã vươn lên vị trí thứ 4 trong số các ngành có doanh thu lớn nhất Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2009, xếp sau viễn thông, thực phẩm và chăm sóc sắc đẹp.Trong khi đó, cũng nghiên cứu về thị trường nước giải khát Việt Nam, tập đoàn nghiên cứu thị trường Euromonitor International (Anh) cho biết, lượng tiêu thụ nước giải khát của Việt Nam năm 2008 chỉ ở mức 9,5 lít/người. Tuy nhiên, con số này sẽ tiếp tục tăng trưởng vì giá bán trung bình của các sản phẩm đã tăng gần 20% trong năm ngoái.Cũng theo Euromonitor International, trong năm 2008, tổng doanh số bán của thị trường nước giải khát Việt Nam đạt 4.400 tỉ đồng, tương đương 255 triệu lít và cả Coca-Cola lẫn PepsiCo đều gần như thống lĩnh thị trường nước có gas.Và cũng trong năm này, Coca-Cola có đến 4 nhãn hàng lọt vào nhóm 10 sản phẩm nước giải khát có gas hàng đầu tại Việt Nam gồm Coca-Cola, Sprite, Fanta và Schweppes. PepsiCo cũng có 4 nhãn hàng gồm Mirinda, Pepsi, 7-Up và Evervess. Tribeco và Chương Dương là hai sản phẩm đại diện cho nội địa lọt vào nhóm 10 này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Cách thức đề ra quyết định quản lý nhằm mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận của công ty Coca-Cola trong lĩnh vực kinh doanh đồ uống giải khát.doc