Đề tài Cao su tự nhiên – sản phẩm lợi thế của Việt Nam trên thị trường thế giới

Trong khi ngành cao su của các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản chỉ mới bắt đầu hồi phục sau khủng hoảng, thì ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ, ngành cao su đã bước ra khỏi khủng hoảng do khai thác đúng hướng thị trường tiêu thụ nội địa. Nhu cầu nhập cao su thiên nhiên của các nước này tiếp tục gia tăng, mặc dù đây là hai quốc gia đang sản xuất cao su thiên nhiên nhưng cung không đủ cầu. Bên cạnh đó, Malaysia đang tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong các nước tiêu thụ cao su có thứ hạng trên thế giới nhờ phát triển mạnh công nghiệp sản xuất sản phẩm cao su, và tiếp tục chuyển đổi vườn cao su sang vườn cọ dầu. Việt Nam đang tận dụng cơ hội khai thác các thị trường tiêu thụ còn nhiều tiềm năng này. Nhờ vậy, lượng cao su xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2009 không sụt giảm mà còn tăng khoảng 6% về lượng so cùng kỳ năm trước.

doc15 trang | Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2491 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Cao su tự nhiên – sản phẩm lợi thế của Việt Nam trên thị trường thế giới, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: “ CAO SU TỰ NHIÊN – SẢN PHẨM LỢI THẾ CỦA VIỆT NAM TRÊN THỊ TRƯỜNG THẾ GIỚI ” Giáo viên : PGS.TS NGUYỄN PHÚ TỤ Người thực hiện : PHẠM QUANG HƯNG Lớp 10-KT4 MSSV: 108206816 Hồ Chí Minh – Tháng 04/10 MỤC LỤC ĐỀ THI HẾT MÔN:PHÁP LUẬT KINH TẾ Thời Gian:60phút-Đề1 (Học viên được tham khảo tài liệu) Hãy chọn câu trả lời đúng nhất 1)Trong mối quan hệ giữa luật chung và luật riêng,trong trường hợp có sự khác biệt giữa luật chung và luật riêng thì: a)Luật chung được ưu tiên áp dụng trước b)Aùp dụng luật thứ ba nếu có c)Luật riêng được ưu tiên áp dụng trước d)Cả a,b,c, đều đúng 2)Trong quá trình hội nhập quốc tế,đặc biệt là việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới(WTO).Nguyên tắc đối xử phổ biến trong pháp luật về thành lập,quản lí hoạt động doanh nghiệp và pháp luật về đầu tư là: a)Đối xử quốc gia b)Bình đẳng c)Bảo hộ kinh tế quốc gia d)Cảa,b,c đều đúng 3)Kinh doanh là việc thực hiện liên tục,thường xuyên: a)Một công đoạn của quá trình đầu tư,từ b)Tất cả các công đoạn củaquá trình đầu sản xuất đến phân phối hàng hoá hoặc tư cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích lợi nhuận c)Một số công đoạn của quá trình đầu tư d)Cả a,b,c đều đúng I.Cao Su Cao su (danh pháp khoa học: Hevea brasiliensis), là một lồi cây thân gỗ thuộc về họ Đại kích (Euphorbiaceae) và là thành viên cĩ tầm quan trọng kinh tế lớn nhất trong chi Hevea. Nĩ cĩ tầm quan trọng kinh tế lớn là do chất lỏng chiết ra tựa như nhựa cây của nĩ (gọi là nhựa mủ-latex) cĩ thể được thu thập lại như là nguồn chủ lực trong sản xuất cao su tự nhiên. Cây cao su cĩ thể cao tới trên 30m. Nhựa mủ màu trắng hay vàng cĩ trong các mạch nhựa mủ ở vỏ cây, chủ yếu là bên ngồi libe. Các mạch này tạo thành xoắn ốc theo thân cây theo hướng tay phải, tạo thành một gĩc khoảng 30 độ với mặt phẳng. Khi cây đạt độ tuổi 5-6 năm thì người ta bắt đầu thu hoạch nhựa mủ: các vết rạch vuơng gĩc với mạch nhựa mủ, với độ sâu vừa phải sao cho cĩ thể làm nhựa mủ chảy ra mà khơng gây tổn hại cho sự phát triển của cây, và nhựa mủ được thu thập trong các thùng nhỏ. Quá trình này gọi là cạo mủ cao su. Các cây già hơn cho nhiều nhựa mủ hơn, nhưng chúng sẽ ngừng sản xuất nhựa mủ khi đạt độ tuổi 26-30 năm. 1.Lịch sử Cây cao su ban đầu chỉ mọc tại khu vực rừng mưa Amazon. Cách đây gần 10 thế kỷ, thổ dân Mainas sống ở đây đã biết lấy nhựa của cây này dùng để tẩm vào quần áo chống ẩm ướt, và tạo ra những quả bĩng vui chơi trong dịp hội hè. Họ gọi chất nhựa này là Caouchouk, theo Thổ ngữ Mainas nghĩa là “Nước mắt của cây” (cao là gỗ. Uchouk là chảy ra hay khĩc). Do nhu cầu tăng lên và sự phát minh ra cơng nghệ lưu hĩa năm 1839 đã dẫn tới sự bùng nổ trong khu vực này, làm giàu cho các thành phố Manaus (bang Amazonas) và Belém (bang Pará), thuộc Brasil. Cố gắng thử nghiệm đầu tiên trong việc trồng cây cao su ra ngồi phạm vi Brasil diễn ra vào năm 1873. Sau một vài nỗ lực, 12 hạt giống đã nảy mầm tại Vườn thực vật Hồng gia Kew. Những cây con này đã được gửi tới Ấn Độ để gieo trồng, nhưng chúng đã bị chết. Cố gắng thứ hai sau đĩ đã được thực hiện, khoảng 70.000 hạt giống đã được gửi tới Kew năm 1875. Khoảng 4% hạt giống đã nảy mầm, và vào năm 1876 khoảng 2.000 cây giống đã được gửi trong các thùng Ward tới Ceylon, và 22 đã được gửi tới các vườn thực vật tại Singapore. Sau khi đã thiết lập sự cĩ mặt ở ngồi nơi bản địa của nĩ, cây cao su đã được nhân giống rộng khắp tại các thuộc địa của Anh. Các cây cao su đã cĩ mặt tại các vườn thực vật ở Buitenzorg, Malaysia năm 1883[1]. Vào năm 1898, một đồn điền trồng cao su đã được thành lập tại Malaya, và ngày nay phần lớn các khu vực trồng cao su nằm tại Đơng Nam Á và một số tại khu vực châu Phi nhiệt đới. Các cố gắng gieo trồng cây cao su tại Nam Mỹ bản địa của nĩ thì lại khơng diễn ra tốt đẹp như vậy. 2.Cây cao su ở Việt Nam Cây cao su được người Pháp đưa vào Việt Nam lần đầu tiên tại vườn thực vật Sài Gịn năm 1878 nhưng khơng sống. Đến năm 1892, 2000 hạt cao su từ Indonesia được nhập vào Việt Nam. Trong 1600 cây sống, 1000 cây được giao cho trạm thực vật Ong Yệm (Bến Cát, Bình Dương), 200 cây giao cho bác sĩ Yersin trồng thử ở Suối Dầu (cách Nha Trang 20 km). Năm 1897 đã đánh dầu sự hiện diện của cây cao su ở Việt Nam. Cơng ty cao su đầu tiên được thành lập là Suzannah (dầu Giây, Long Khánh, Đồng Nai) năm 1907. Tiếp sau, hàng loạt đồn điền và cơng ty cao su ra đời, chủ yếu là của người Pháp và tập trung ở Đơng Nam Bộ : SIPH, SPTR, CEXO, Michelin … Một số đồn điền cao su tư nhân Việt Nam cũng được thành lập. Đến năm 1920, miền Đơng Nam Bộ cĩ khoảng 7.000 ha và sản lượng 3.000 tấn. Cây cao su được trồng thử ở Tây Nguyên năm 1923 và phát triển mạnh trong giai đoạn 1960 – 1962, trên những vùng đất cao 400 – 600 m, sau đĩ ngưng vì chiến tranh. Trong thời kỳ trước 1975, để cĩ nguồn nguyên liệu cho nền cơng nghiệp miền Bắc, cây cao su đã được trồng vượt trên vĩ tuyến 170 Bắc (Quảng Trị, Quảng Bình, Nghệ An, Thanh Hĩa, Phú Thọ). Trong những năm 1958 – 1963 bằng nguồn giống từ Trung Quốc, diện tích đã lên đến khoảng 6.000 ha. Đến 1976, Việt Nam cịn khoảng 76.000 ha, tập trung ở Đơng Nam Bộ khoảng 69.500 ha, Tây Nguyên khoảng 3.482 ha, các tỉnh duyên hải miền Trung và khu 4 cũ khoảng 3.636 ha. Sau 1975, cây cao su được tiếp tục phát triển chủ yếu ở Đơng Nam Bộ. Từ 1977, Tây Nguyên bắt đầu lại chương trình trồng mới cao su, thoạt tiên do các nơng trường quân đội, sau 1985 đo các nơng trường quốc doanh, từ 1992 đến nay tư nhân đã tham gia trồng cao su. Ở miền Trung sau 1984, cây cao su được phát triển ở Quảng trị, Quảng Bình trong các cơng ty quốc doanh. Đến năm 1999, diện tích cao su cả nước đạt 394.900 ha, cao su tiểu điền chiếm khoảng 27,2 %. Năm 2004, diện tích cao su cả nước là 454.000 ha, trong đĩ cao su tiểu điền chiếm 37 %. Năm 2005, diện tích cao su cả nước là 464.875 ha. Năm 2007 diện tích Cao Su ở Đơng Nam Bộ (339.000 ha), Tây Nguyên (113.000 ha), Trung tâm phía Bắc (41.500 ha) và Duyên Hải miền Trung (6.500 ha). Vào năm 2010, diện tích cao su cĩ thể đạt mức 700.000 ha; trong đĩ diện tích khai thác từ 420.000 đến 450.000 ha và cho sản lượng trên 600.000 tấn; kim ngạch xuất khẩu vẫn giữ được ở mức trên 1 tỷ USD. Đến năm 2015, diện tích khai thác đạt 520.000 đến 530.000 ha, và sản lượng ước đạt 750.000-800.000 tấn, đạt kim ngạch xuất khẩu 1,5 tỷ-1,6 tỷ USD. Với việc tăng diện tích và sản lượng Cao su, Việt Nam hy vọng sẽ đạt 1,5 triệu tấn cao su thiên nhiên và hơn 1,5 triệu m3 gỗ Cao su (gỗ trịn) trước năm 2020. 3.Ứng dụng của cây cao su Nhựa mủ dùng để sản xuất cao su tự nhiên là chủ yếu, bên cạnh việc sản xuất latex dạng nước. Gỗ từ cây cao su, gọi là gỗ cao su, được sử dụng trong sản xuất đồ gỗ. Nĩ được đánh giá cao vì cĩ thớ gỗ dày, ít co, màu sắc hấp dẫn và cĩ thể chấp nhận các kiểu hồn thiện khác nhau. Nĩ cũng được đánh giá như là loại gỗ "thân thiện mơi trường", do người ta chỉ khai thác gỗ sau khi cây cao su đã kết thúc chu trình sản sinh nhựa mủ. Hạt cao su được dùng để làm giống, làm nguyên liệu tẩy rửa, thức ăn gia súc, hĩa chất sơn và các loại phụ liệu khác. Cành khơ dùng làm củi, lá khơ rụng làm phân. Lá cao su phân hủy cĩ tác dụng cải tạo đất, những vùng đất cằn cỗi sau khi trồng cao su một thời gian cĩ khả năng mầu mỡ trở lại. Cây cao su khi trồng tập trung cĩ khả năng tạo và giữ được nguồn nước, cĩ độ che phủ lớn, chống rửa trơi xĩi mịn đất, hạn chế lũ lụt, làm tốt đất và trong sạch khơng khí, cải thiện mơi trường; cĩ thể xây dựng những khu du lịch sinh thái trong rừng cao su, cĩ thể nuơi ong lấy mật trong rừng cao su. II.Vì sao cây cao su lại là sản phẩm lợi thế của Việt Nam Lợi thế trồng cây cao su ở nước ta Cây cao su đã được trồng ở nước ta được hơn 110 năm, vào những năm 60 của thế kỷ trước, trên địa bàn Phú Thọ cũng đã trồng thử nghiệm 100 ha. Sau năm 1975, chủ trương của ngành cao su Việt Nam chỉ đạo chỉ trồng và phát triển cây cao su từ vĩ tuyến 16 trở vào cho nên diện tích trồng cây cao su tại Phú Thọ được thay thế bằng cây trồng khác. Trong những năm gần đây, Viện Nơng - Lâm nghiệp miền núi phía Bắc, đứng chân tại tỉnh Phú Thọ, đã cĩ những thành cơng bước đầu trong việc trồng thử nghiệm 3,2 ha cao su (năng suất mủ bình quân 1, 5 tấn/ha/năm). Và đã chọn được tập đồn giống cĩ khả năng thích nghi với điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng của Phú Thọ. Tại các tỉnh Sơn La, Điện Biên, Hà Giang và Lai Châu, cao su được trồng và phát triển tốt. Trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của tỉnh Sơn La từ nay đến năm 2015, tồn tỉnh sẽ cĩ thêm 30.000ha cao su, con số này ở Lai Châu là 11.000ha. Số liệu thống kê của Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn, năm 2009, tổng diện tích cây cao su đạt 674.200 ha, tăng 42.700 ha (13,5%) so với năm 2008. Trong đĩ, diện tích cho khai thác là 421.600 ha ( chiếm 62,5% tổng diện tích), với sản lượng đạt 723.700 tấn, tăng 9,7 % so năm 2008. Diện tích trồng cao su tập trung chủ yếu ở Đơng Nam Bộ (64%), kế đến là Tây Nguyên (24,5%) và duyên hải miền Trung (10 %). Diện tích cây cao su ở vùng Tây Bắc mới đạt khoảng 10.200 ha (chiếm 1,5%). Về điều kiện lập địa cũng như khí hậu, Việt Nam là nước cĩ điều kiện đất đai và khí hậu thích hợp đối với cây cao su. Theo nhiều tài liệu nước ngồi, khí hậu nhiệt đới, nĩng ẩm ít biến động (từ 29 độ vĩ Bắc đến 23 độ Nam)trong đĩ cĩ Việt Nam, là khí hậu thuận lợi để cây cao su phát triển. Về đất đai qua thực tế trồng cao su tại Việt Nam hơn 100 năm nay đã khẳng định chúng ta cĩ nhiều vùng đất để trồng cây cao su rất tốt, đặc biệt là từ Thạch Thành – Thanh Hĩa đến các tỉnh miền Đơng Nam Bộ. Hiện nay chúng ta mới trồng được gần 300.000 ha cây cao su (theo số liệu thống kê của Tổng Cơng ty Cao su Việt Nam tính đến năm 1997). Trong khi đĩ chúng ta cịn cĩ tiềm năng về đất trống cũng như đất cĩ thể chuyển hĩa thành đất trồng cây cao su Bộ Nơng nghiệp và Phát triển Nơng thơn cũng đã thống kê để thực hiện chương trình trồng 5 triệu ha rừng. Lợi thế thị trường xuất khẩu 2 tháng đầu năm 2010 Theo số liệu thống kê, tháng 2/2010 Việt Nam đã xuất khẩu hơn 22 nghìn tấn cao su, trị giá 55,95 triệu USD chiếm 1,4% tổng kim ngạch xuất khẩu, giảm 53,9% về lượng và 52,5% về trị giá so với tháng 1/2010. Tính chung 2 tháng đầu năm 2010, Việt Nam đã xuất khẩu 76,34 nghìn tấn cao su, trị giá 192,69 triệu USD giảm 0,1% về lượng nhưng tăng 87% về trị giá so với cùng kỳ. So với cùng kỳ năm ngối, thì 2 tháng đầu năm nay, hầu hết các thị trường xuất khẩu mặt hàng cao su của Việt Nam đều cĩ kim ngạch tăng.Trong số đĩ thì Trung Quốc vẫn là thị trường xuất chủ yếu đồng thời là thị trường nhập khẩu nhiều nhất mặt hàng này của Việt Nam. Tháng 2/2010, Trung Quốc đã nhập 12,3 nghìn tấn cao su chiếm 56,2% lượng cao su xuất khẩu của cả nước trong tháng, đạt trị giá 31,76 triệu USD, tuy nhiên so với tháng 2/2009 thì lượng cao su Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này lại giảm tới 51%. Tính chung 2 tháng đầu năm 2010, Trung Quốc đã nhập 51,48 nghìn tấn cao su từ thị trường Việt Nam, giảm 1,17% về lượng, nhưng tăng 94,60% về trị giá so với cùng kỳ. Tuy chỉ chiếm 10% lượng cao su xuất khẩu của cả nước trong tháng 2/2010, nhưng Hàn Quốc chỉ đứng sau Trung Quốc về thị trường nhập khẩu cao su chủ yếu của Việt Nam, với lượng nhập trong tháng là 2,2 nghìn tấn, trị giá 5,37 triệu USD, giảm 19,7% về lượng nhưng tăng 44,23% về trị giá so với tháng 2/2009. Tính chung 2 tháng đầu năm 2010, Hàn Quốc đã nhập 4,5 nghìn tấn cao su trị giá 5,79 triệu USD, giảm 2,05% về lượng nhưng tăng 73,56% về trị giá so với cùng kỳ năm ngối. 2 tháng đầu năm 2010, khơng kể những thị trường đạt kim ngạch tăng cịn cĩ những thị trường đạt kim ngạch giảm so với cùng kỳ như: Malaixia (giảm 43,06%); Braxin (giảm 32,44%); Anh (giảm 59,80%). Điểm đáng chú ý, thị trường xuất khẩu cao su của Việt Nam trong tháng 2/2010 cĩ thêm thị trường mới so với tháng 2/2009, đĩ là thị trường : Indonesia, Nga và Séc cĩ lượng xuất trong tháng lần lượt là: 415 tấn, trị giá 851,5 nghìn USD; 735 tấn trị giá 2,27 triệu USD; 38 tấn trị giá 125,6 nghìn USD Sau thời kỳ suy giảm mạnh, giá cao su xuất khẩu đã cĩ sự cải thiện đáng kể, đặc biệt là trong những tháng cuối năm 2009. Giá cao su vào tháng 1/2009 chỉ đạt bình quân khoảng 1.280 USD/tấn, sau đĩ ổn định ở mức 1.420 – 1.485 USD/tấn trong quý I và quý II. Từ tháng 6 đến tháng 12/2009, giá cao su xuất khẩu tăng liên tục. Đến tháng 12/2009, cao su xuất khẩu đạt bình quân 2.004 USD/tấn, tăng 57% so với tháng 1, riêng chủng loại SVR 3L đạt 2.622 USD/tấn. Lượng cao su và trị giá xuất khẩu đã tăng liên tục trong quý 3 và 4, đặc biệt trong 2 tháng cuối năm, lượng và kim ngạch xuất khẩu đã tăng đáng kể so cùng kỳ năm trước. Giá cao su thiên nhiên khơng tiếp tục giảm mà giữ ổn định trong 6 tháng đầu năm 2009. Ngồi ra, giá cao su tăng nhanh trong 6 tháng cuối năm cịn do mức tiêu thụ cao su của thị trường Trung Quốc tăng mạnh do sự cải thiện chính sách kích cầu thị trường ơ-tơ nội địa của thị trường này. Đồng thời, giá dầu thơ tăng vào 2 quý cuối năm 2009 khi nền kinh tế thế giới bắt đầu phục hồi đã nâng đỡ giá cao su thiên nhiên và lượng tiêu thụ gia tăng. Thị trường chính cho xuất khẩu cao su VN là Châu Á, Châu Âu và Bắc Mỹ. Sản lượng cao su tiêu thụ trong nước chỉ chiếm khoảng 20% tổng sản lượng tồn quốc, chủ yếu phục vụ cho các doanh nghiệp sản xuất nệm mút, xăm lốp ơ tơ, giày dép,… Các doanh nghiệp lớn trong ngành thường cĩ tỷ lệ tiêu thụ cao su nội địa cao hơn mức trung bình của ngành, khoảng 30-40%. Cụ thể trong năm 2008, cao su Phước Hịa, thị trường tiêu thụ nội địa chiếm 31%, tỷ lệ này đối với cao su Đồng Nai là 40%. Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu cao su lớn nhất của VN trong các năm qua. Vị trí này ngày càng củng cố qua tình hình xuất khẩu cao su 6 tháng đầu năm 2009, chiếm 69.2% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành, đạt 249.6 triệu USD. Hàn Quốc là thị trường lớn thứ 2 nhưng giá trị xuất khẩu thua xa Trung Quốc, chỉ đạt 16.3 triệu USD. Đây là điều khá may mắn cho ngành cao su Việt Nam khi quốc gia này được dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh trong năm nay và các năm tiếp theo. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng được đánh giá là thị trường cĩ nhiều biến động thất thường nhất. Khi cĩ những tác động nhỏ về cơ chế, chính sách từ phía chính phủ, ngay lập tức nhu cầu và giá cao su cũng biến động theo. Do vậy, sự biến động của thị trường này đều ảnh hưởng đến doanh thu của ngành cao su trong nước. Trong những năm gần đây, nhu cầu tiêu thụ cao su thiên nhiên trên thế giới ngày một tăng lên. Đây là một trong những thuận lợi đầu tiên giúp ngành cao su VN ngày càng phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành gia tăng lợi nhuận. Bên cạnh đĩ, ngành cao su là một trong những ngành được Chính phủ hết sức ưu tiên phát triển, tạo điều kiện mở rộng diện tích trồng cây cao su trong và cả ngồi nước. Vì vậy, trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp trong ngành đang ra sức gia tăng diện tích cao su của mình. Đây chính là tiềm năng của các doanh nghiệp trong ngành trong tương lai. Từ đầu năm 2009, ngành cao su tồn cầu đã gặp khĩ khăn lớn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, thị trường tiêu thụ ơ-tơ thu hẹp, nhiều ngành cơng nghiệp đình trệ kéo theo nhu cầu săm lốp và cao su nguyên liệu sụt giảm rất nhanh, giá xuống thấp chỉ cịn khoảng 55 - 60% so với cùng kỳ năm trước. Thời điểm tháng 8/2008 giá cao su đạt trên 3.000 USD/tấn, thì đến đầu 2009 chỉ cịn trên 1.000 USD/tấn. Cĩ thể nĩi, đây là sự tụt dốc quá nhanh của giá cao su xuất khẩu. Các doanh nghiệp cũng như người sản xuất đối mặt với nguy cơ thua lỗ, mất việc làm. Đồng thuận với các nước xuất khẩu cao su khác, VRA khuyến cáo các doanh nghiệp ngừng xuất khẩu nếu giá cao su xuống dưới 1.350 USD/tấn, đồng thời đề xuất Nhà nước hỗ trợ phương án mua trữ cao su nếu giá mua trong nước thấp dưới 1.000 USD/tấn... Rất may là tình huống này đã khơng xảy ra. Bên cạnh đĩ, với những giải pháp được khuyến cáo như giảm giá thành, tăng tốc độ tái canh diện tích kém hiệu quả, tiếp tục phát triển diện tích, đã giúp người trồng yên tâm sản xuất, duy trì vườn cây, sẵn sàng tăng cường khai thác khi giá và mức tiêu thụ gia tăng. Nhờ đĩ, các doanh nghiệp đã ổn định việc làm cho người lao động với mức thu nhập đảm bảo mức sống cơ bản và vượt qua giai đoạn khĩ khăn. Cĩ một thực tế là, thị trường xuất khẩu thu hẹp song số lượng doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu cao su lại tăng rất mạnh. Nhiều thị trường giảm khối lượng cao su nhập khẩu song vẫn duy trì các ngành cơng nghiệp tiêu thụ cao su dù với số lượng thấp. Cụ thể là năm 2009 Việt Nam đã xuất khẩu cao su sang 71 nước, khơng sụt giảm nhiều so với năm 2008 (73 nước). Năm 2009, số lượng doanh nghiệp tham gia xuất khẩu cao su tăng gấp đơi so với năm trước (năm 2008 cĩ khoảng 230 doanh nghiệp) nhưng phần lớn quy mơ xuất khẩu thấp. T Trong bối cảnh khĩ khăn chung trong xuất khẩu, các doanh nghiệp từ các ngành hàng khác tìm cách thâm nhập thị trường cao su Trung Quốc, Malaysia, Ấn Độ, nơi nhu cầu nhập khẩu cao su vẫn cĩ sự tăng trưởng. Nhờ vậy, lượng cao su xuất khẩu của Việt Nam đã tăng so với năm 2008, kim ngạch xuất khẩu tuy giảm so với năm 2008 nhưng vẫn đạt 1,2 tỷ USD, vượt kế hoạch đề ra hồi đầu năm (1,1 tỷ USD). Đây là kết quả rất đáng ghi nhận. Trong bối cảnh nhu cầu cao su của nhiều thị trường sụt giảm do ảnh hưởng của suy thối kinh tế thì nhu cầu tiêu thụ cao su của Trung Quốc khơng những khơng suy giảm, mà cịn cĩ phần tăng lên trong năm 2009 và sẽ tiếp tục tăng trưởng trong nhiều năm đến. Với vị trí địa lý nằm sát với Trung Quốc nên việc xuất khẩu cao su của Việt Nam vào thị trường này thuận lợi hơn các nước khác và giá cả cạnh tranh tốt hơn. Hiện Trung Quốc vẫn giữ vị thế là nước sử dụng cao su lớn nhất thế giới và là thị trường dẫn đầu trong xuất khẩu cao su của Việt Nam với số lượng khoảng 489.230 tấn năm 2009, chiếm 67,4% tổng lượng cao su xuất khẩu cả nước, tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2008  và đạt trị giá 761,46 triệu đơ-la, trong đĩ phương thức giao hàng qua biên giới sang Trung Quốc chiếm tới 51 % tổng lượng cao su Việt Nam xuất khẩu. Do vậy, cần củng cố duy trì thị trường truyền thống này bên cạnh việc đa dạng hĩa thị trường để phịng chống rủi ro trong xuất khẩu cao su. Các cơ quản lý nhà nước cần cung cấp kịp thời số liệu thống kê xuất nhập khẩu, giá cả và thơng tin về các chính sách của Trung Quốc đối với việc nhập khẩu cao su để giúp Hiệp hội và doanh nghiệp cĩ cơ sở ứng phĩ với những biến động của thị trường lớn này. Triển vọng phát triển tương lai Đến năm 2010: tiếp tục trồng mới 70 nghìn ha để diện tích cao su cả nước đạt 650 nghìn ha, sản lượng mủ đạt 800 nghìn tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,6 tỷ USD; mở rộng cơng suất chế biến khoảng 220 nghìn tấn. Đến năm 2015: tiếp tục trồng mới 150 nghìn ha, để diện tích cao su cả nước đạt 800 nghìn ha, sản lượng mủ đạt 1,1 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 1,8 tỷ USD; mở rộng cơng suất chế biến trong 5 năm 360 nghìn tấn. Đến năm 2020: diện tích cao su ổn định 800 nghìn ha, sản lượng mủ đạt 1,2 triệu tấn, kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD. Ngành cao su từ nhiều thập kỷ trở lại đây luơn giữ vai trị là một trong những ngành trọng yếu của nền kinh tế VN. Trải qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế với nhiều biến động, ngành cao su VN nĩi chung và các doanh nghiệp cao su nĩi riêng ít nhiều đã phải gánh chịu những tác động tiêu cực. Bước sang giai đoạn hậu khủng hoảng và phục hồi kinh tế, nhiều thách thức đang dần hiện ra trước mắt trong lộ trình phát triển của ngành cao su. Việt Nam hiện là nước cĩ sản lượng cao su đứng vị trí thứ 5 trên thế giới sau Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ với 662.9 ngàn tấn mủ và đứng thứ 4 về năng suất khai thác mủ với 1.66 tấn/ha trong năm 2008. Theo chiến lược phát triển cây cao su do Chính phủ đề ra, đến năm 2020 diện tích cao su phải đạt 1,000,000 ha với sản lượng khai thác đạt 1,200 ngàn tấn mủ. Ở thời điểm hiện tại, ngành cao su được đánh giá là rất triển vọng trong bối cảnh nền kinh tế đang trong quá trình hồi phục sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008. Tuy vậy, bên cạnh những thuận lợi vốn cĩ, ngành cao su Việt Nam vẫn cịn đĩ những khĩ khăn cần được giải quyết. Quỹ đất để trồng mới cây cao su hiện cịn khơng nhiều nên các doanh nghiệp đã chuyển hướng sang trồng cao su tại Lào và Campuchia với diện tích trồng thêm dự tính vào khoảng 200,000 ha. Tuy nhiên, việc trồng mới tại 2 quốc gia này đang gặp nhiều trở ngại. Chính phủ hai nước sở tại đã bắt đầu so sánh lợi ích từ trồng cây cao su với việc trồng các loại cây khác, so sánh với việc hàng loạt rừng xanh bị mất để thay bằng cây cao su – vốn là loại cây làm hại đất. Do đĩ, việc cịn lại và cũng là vấn đề bức thiết hiện nay là các doanh nghiệp trong ngành cần liên kết lại nghiên cứu ra giống cây mới cĩ năng suất cao nhằm nâng cao sản lượng cao su, phục vụ cho nhu cầu trong nước và giữ vững vị trí của Việt Nam trong ngành cao su thế giới. Triển vọng thị trường cao su trong năm 2010 Năm 2010, nền kinh tế thế giới phục hồi dần, tạo thuận lợi cho việc xuất khẩu cao su nguyên liệu và sản phẩm. Theo Tổ chức nghiên cứu cao su quốc tế (IRSG), từ năm 2010, nhu cầu cao su thiên nhiên sẽ tăng trưởng liên tục đến 2019. Trong đĩ, năm 2010, dự báo mức tiêu thụ cao su thiên nhiên khoảng 10,43 triệu tấn, tăng 8% so năm 2009.Theo đĩ, giá cả cũng sẽ được cải thiện ở mức thoả đáng theo đà phục hồi của giá dầu thơ và cao su tổng hợp, đem lại lợi nhuận tốt cho người sản xuất. Với thành tựu đặc biệt cĩ ý nghĩa trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế tồn cầu (năm 2009), tơi tin rằng ngành cao su sẽ cĩ bước tiến ấn tượng trong năm 2010. Năm 2009, Chính phủ đã ban hành quyết định Phê duyệt Quy hoạch phát triển cao su đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm 2020 (750/QĐ-TTg ngày 03/6/2009) đưa ra mục tiêu 800.000 ha cao su vào năm 2015 và sản lượng 1,2 triệu tấn năm 2020 với kim ngạch xuất khẩu đạt 2 tỷ USD. Đáp ứng mục tiêu này, năm 2010 dự kiến ngành cao su sẽ phát triển thêm diện tích trên 30.000 – 40.000 ha (nếu việc giao đất của địa phương được thuận lợi), tăng sản lượng đạt khoảng 770.000 tấn và dự kiến xuất khẩu 750.000 tấn (bao gồm cả nguồn tạm nhập tái xuất), trị giá xuất khẩu dự kiến trên 1,5 tỷ USD. III. Kết luận: Theo quy hoạch của Chính phủ, ngành cao su Việt Nam sẽ hướng đến mục tiêu 1,1 - 1,2 triệu tấn hàng năm từ năm 2015 - 2020, gấp đơi sản lượng hiện nay. Để tăng xuất khẩu cao su nguyên liệu và hỗ trợ hữu hiệu cho cơng nghiệp chế biến sản phẩm cao su trong nước, những giải pháp cần quan tâm như sau: - Xây dựng và củng cố thương hiệu của doanh nghiệp Để duy trì thị trường, khách hàng ổn định và lâu dài, một số doanh nghiệp đã rất quan tâm đến việc xây dựng và củng cố thương hiệu trong thời kỳ nhu cầu và giá sụt giảm. Trong đĩ, việc đảm bảo chất lượng được xem là giải pháp hàng đầu. Ngồi ra, các doanh nghiệp cũng đã quan tâm nâng cao trình độ nghiệp vụ, dịch vụ hậu mãi để tăng uy tín thương mại, năng lực cạnh tranh, trách nhiệm bảo vệ mơi trường, đĩng gĩp xã hội, nhằm tiến tới sản phẩm thân thiện với mơi trường và cộng đồng. - Điều chỉnh cơ cấu chủng loại để thâm nhập nhiều thị trường Các thị trường khác ngồi Trung Quốc thường sử dụng nhiều chủng loại để sản xuất lốp xe như SVR 10, SVR 20, RSS 3 và nhu cầu về cao su ly tâm đang tăng dần tại  Malaysia, Hoa Kỳ, châu Âu, Trung Quốc, Hàn Quốc, ... Để đa dạng hĩa thị trường và tăng thị phần ở các thị trường ngồi Trung Quốc, một số doanh nghiệp đã tăng sản xuất cao su ly tâm và SVR 10, SVR 20. Trong những năm sắp đến, khi cao su tiểu điền tăng trưởng sản lượng, cũng cĩ cơ hội để Việt Nam gia tăng sản lượng cao su tờ xơng khĩi RSS 3.  - Tăng xuất khẩu vào Trung Quốc, Ấn Độ và Malaysia Trong khi ngành cao su của các nền kinh tế phát triển như Hoa Kỳ, EU và Nhật Bản chỉ mới bắt đầu hồi phục sau khủng hoảng, thì ở các nền kinh tế mới nổi như Trung Quốc và Ấn Độ, ngành cao su đã bước ra khỏi khủng hoảng do khai thác đúng hướng thị trường tiêu thụ nội địa. Nhu cầu nhập cao su thiên nhiên của các nước này tiếp tục gia tăng, mặc dù đây là hai quốc gia đang sản xuất cao su thiên nhiên nhưng cung khơng đủ cầu. Bên cạnh đĩ, Malaysia đang tiếp tục giữ vị trí quan trọng trong các nước tiêu thụ cao su cĩ thứ hạng trên thế giới nhờ phát triển mạnh cơng nghiệp sản xuất sản phẩm cao su, và tiếp tục chuyển đổi vườn cao su sang vườn cọ dầu. Việt Nam đang tận dụng cơ hội khai thác các thị trường tiêu thụ cịn nhiều tiềm năng này. Nhờ vậy, lượng cao su xuất khẩu trong 9 tháng đầu năm 2009 khơng sụt giảm mà cịn tăng khoảng 6% về lượng so cùng kỳ năm trước. - Phát triển thị trường nội địa để sản xuất sản phẩm và giảm xuất thơ Một số doanh nghiệp trồng cao su đang đầu tư cho các dự án sản xuất sản phẩm cao su hoặc liên kết với khối doanh nghiệp chế biến sâu như là một định hướng  lâu dài để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm xuất khẩu nguyên liệu thơ và phát triển doanh nghiệp bền vững. - Hồn thiện tổ chức quản lý chất lượng nguyên liệu cao su thiên nhiên Việt Nam đã cĩ những điều kiện cơ bản để đánh giá và cấp giấy chứng nhận cho chất lượng cho nguyên liệu cao su thiên nhiên. Hiện nay, tiêu chuẩn của Việt Nam về chất lượng cao su thiên nhiên phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, cĩ 10 phịng kiểm phẩm cao su thiên nhiên đạt cấp quốc gia nằm tại những vùng cao su trọng điểm, Viện Nghiên cứu cao su Việt Nam cĩ đủ năng lực đào tạo quy trình cơng nghệ sơ chế và hướng dẫn xây dựng phịng kiểm phẩm cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, việc nâng cao và đảm bảo chất lượng chỉ được chú trọng trong các doanh nghiệp thành viên của Tập đồn Cơng nghiệp Cao su Việt Nam và một số doanh nghiệp quy mơ lớn để xây dựng và bảo vệ thương hiệu. Trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế, mức tiêu thụ bị thu hẹp và người mua địi hỏi cao về chất lượng, để giữ được khách hàng, ngành cao su Việt Nam cần tăng cường quan tâm đến việc nâng cao và đảm bảo chất lượng cao su nguyên liệu. Hệ thống quản lý chất lượng nguyên liệu cao su thiên nhiên tại Việt Nam cần được hồn chỉnh trên quy mơ quốc gia, được cơng nhận về mặt kỹ thuật và pháp lý. Hệ thống này sẽ quản lý từ nguyên liệu đầu vào của vườn cây đến sản phẩm cuối cùng của nhà máy sơ chế và cấp giấy kiểm phẩm cho các lơ hàng cao su. Để tạo nhiều sản phẩm chất lượng cao, Bộ Nơng nghiệp và Phát triển nơng thơn  cần sớm ban hành quy chế chứng nhận nhà máy cĩ quy trình sơ chế cao su thiên nhiên đúng kỹ thuật và yêu cầu các lơ hàng sản xuất phải cĩ chứng chỉ kiểm phẩm xác nhận đúng phẩm cấp. Sau khi nền kinh tế thế giới được phục hồi, nhu cầu cao su thiên nhiên sẽ gia tăng, nhưng nguồn cung cĩ thể tăng nhanh hơn cầu do diện tích cây cao su của nhiều nước đã mở rộng đáng kể trong 5 năm gần đây. Tính cạnh tranh giữa các nước cùng sản xuất nguyên liệu này sẽ trở nên gay gắt và yếu tố chất lượng sẽ là hàng rào kỹ thuật khĩ vượt qua nếu doanh nghiệp ngành cao su Việt Nam khơng cĩ bước tăng trưởng vững vàng về chất lượng. - Tăng cường uy tín thương mại cũng sẽ là yếu tố tích cực để nâng cao thương hiệu đến hiệu quả của cao su xuất khẩu từ Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docviplam_net_cao_su_tu_nhien_san_pham_loi_the_6888.doc
Luận văn liên quan