Chương III tập trung nghiên cứu giá trị nghệ thuật và những thành công
từ tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng. Nhìn chung giá trị nghệ thuật trong tranh
đề tài chiến tranh của ông được nhìn nhận ở khía cạnh tạo hình và hòa sắc
thông qua các chất liệu sơn mài, sơn dầu, khắc gỗ, lụa. Mỗi chất liệu họa sĩ lại
có phương pháp tạo hình riêng biệt, thông qua hiệu quả từ chất liệu mà tranh
sẽ có những giá trị nghệ thuật riêng.
Đề tài chiến tranh trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng vừa mang tính
thẩm mĩ nhưng đồng thời cũng chứa trong mình những đóng góp của ông với
lịch sử dân tộc. Bên cạnh những đóng góp cho lịch sử, tranh của ông còn góp
phần làm giàu thêm vốn văn hóa nghệ thuật nước nhà, là bài học bổ ích về
tinh thần quả cảm, hăng say trong lao động
71 trang |
Chia sẻ: ngoctoan84 | Lượt xem: 2352 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chiến tranh trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
che nghiêng thay cho mũ áo. Dáng người, dáng ngựa vội vàng. Ánh
sáng hắt ra từ căn nhà ven đường le lói như những tia hy vọng của chính
những người lính về cách mạng. Bức tranh có sự ngậm ngùi, tương phản
giữa cuộc đời chiến sỹ gian lao “ra đi không hẹn ngày về” với giấc mơ
ánh lửa thanh bình dưới mái ấm quê nhà. Từ đó lột tả mặt trái của chiến
tranh thể hiện sự quyết tâm, ý chí của người lính bộ độ qua những câu
chuyện về cuộc chiến xâm lược.
Đề tài cách mạng trong tranh Nguyễn Sáng cũng cho thấy những cái
nhìn mới mẻ của ông về sơn mài. Đó là những ưu điểm mang tính truyền
thống độc đáo sẵn có về thể loại tranh này. Ông đã khắc phục tính thủ
công, mỹ nghệ của sơn ta và thổi hồn tư tưởng thời đại vào trong đó. Tạo
cho tranh sơn mài tính chất hội họa mạnh mẽ. Điều này thấy rõ qua tác
phẩm “Lớp học đêm” sáng tác năm 1960 [H4;tr.60], tác phẩm này đã tạo
nên sự khác biệt so với các tác phẩm sơn mài khác. Ông đã thực nghiệm
đưa phong cách lối vẽ cổ điển vào chất liệu sơn mài để tạo nên sự sâu
lắng trong sự biểu cảm từng khuôn mặt, sự vờn tả tinh tế, mềm mai chi
tiết chân tay to lớn, cuồn cuộn khỏe khoắn, mạnh mẽ của những công
nhân tạo nên tinh thần chiến đấu và hăng say học tập. “Lớp học đêm” là
hình ảnh những cô cậu công nhân đang chăm chú ngồi học tập với bố cục
29
tam giác cổ điển vững trãi, gam màu nâu ấm có tính truyền thống của
nghệ thuật sơn mài tạo nên một không gian sâu lắng. Trong tranh là sự
diễn tả tương quan ánh sáng và bóng tối theo lối vẽ cổ điển, nhân vật
được diễn tả khối, đậm nhạt theo đúng luật xa gần, viễn cận. Màu của
vàng, bạc được ông sử dụng tạo ánh sáng trong tranh. Ánh sáng được
nhảy nhót theo nhịp điệu lên những trang sách, cánh tay, rồi được chìm
vào nền, đằm thắm hòa lẫn sắc độ của tranh tạo nên một vẻ đẹp huyền ảo,
lưu giữ phút giây gian khó của cuộc chiến tranh cách mạng. Nguyễn Sáng
không khai thác chất vàng, son của sơn mài như Nguyễn Gia Trí, ngay cả
việc sử dụng chất liệu vỏ trứng trong tranh Nguyễn Sáng cũng là màu
trắng uyển chuyển, mềm mại mà không khô khan. Qua tác phẩm này ta
thấy được khả năng vẽ hình chính xác như con mắt nhìn thấy của ông, bên
cạnh việc thể hiện tinh thần dân tộc ở đề tài chiến tranh thành công, ông
còn thành công trong việc thể nghiệm chất liệu dân tộc.
Ngược lại với bức “Lớp học đêm” thì “Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ” cho thấy sự khai thác phong cách dân gian trong tranh. “Kết nạp
Đảng ở Điện Biên Phủ” sáng tác năm 1963[H5;tr.61], là một trong những
tác phẩm tiêu biểu, điển hình nhất cho tinh thần nghệ thuật của Nguyễn
Sáng.
Chiến dịch Điện Biên Phủ không chỉ là thắng lợi lẫy lừng của lịch
sử Việt Nam, mà cho cả lịch sử thế giới, mà còn là đề tài lớn của nghệ
thuật. Đề tài về Điện Biên Phủ từng được nhiều họa sĩ thể hiện ở nhiều
chất liệu, góc cạnh khác nhau. Tuy vậy, chỉ “Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ” của Nguyễn Sáng mới cho thấy rõ nét hiện thực chiến tranh và ý chí
của cả một dân tộc.
Gây chú ý bởi những hình ảnh khốc liệt của chiến tranh.Tác phẩm
thể hiện một lẽ kết nạp Đảng trong chiến hào. Tám nhân vật chiến sĩ
30
chiếm hết nền tranh. Một người đỡ đồng đột bị thương, một người khác
giơ tay như tuyên thệ. Phần còn lại là vách chiến hào với lá cờ đỏ. Các
nhân vật được phóng to chính diện, cận cảnh. Ngôn ngữ hội họa được
hiện đại hóa bằng cách lược bỏ viễn cận và vờn khối, giản hóa đường nét,
tạo hình vững chãi, góc cạnh. Bố cục khỏe khoắn, chặt chẽ, dồn nén hình
và không gian trong hòa sắc đậm, đanh bởi chất sơn mài, tất cả tạo cảm
giác về sức mạnh bi tráng, lòng quả cảm và ý chí chiến đấu của người
chiến sĩ. Hình tượng người chiến sĩ Điện Biên được tác giả khắc họa bằng
những đường nét kỷ hả chắc khỏe, hình khối giản lược. Màu sắc trong
tranh với gam màu nóng chủ yếu chỉ gồm đỏ, trắng, vàng và ít màu xanh
cây. Tất cả được Nguyễn Sáng xử lý, sắp xếp một cách chặt chẽ, hài hòa
tạo nên các sắc độ rõ rệt. Khác với sự vờn sâu của bức “Giờ học đêm”,
bức “Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ được thể hiện đơn giản với những
hình khối rõ nét, nét viền thô khỏe, bố cục đơn giản mang sắc thái dân
gian tạo nên bi hùng, chân thực về hiện thực chiến tranh đã đưa tác phẩm
này trở thành đỉnh cao của nghệ thuật sơn mài Việt Nam.
Họa sĩ Trần Khánh Chương – Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam
đánh giá: “Nghệ thuật của Nguyễn Sáng gắn liền với lịch sử cách mạng,
lịch sử nghệ thuật của dân tộc. Ông là một trong số những họa sĩ có
những tác phẩm sơn dầu, sơn mài đẹp nhất về đề tài chiến tranh cách
mạng Việt Nam.”[5] còn nhà nghiên cứu Quách Phong lý giải “Tôi nghĩ
ông vẽ tranh về kháng chiến như Nghỉ chân, Kết nạp Đảng ở Điện Biên
Phủ, Trú mưa không phải với ý nghĩa đem nghệ thuật phục vụ cho
kháng chiến, cho cách mạng, cho nhân dân như khái niệm mà người ta
thường nói về chức năng của nghệ thuật. Nó là một sản phẩm văn hóa,
tinh thần thực sự của cách mạng dân tộc”. Những nhận định trên đã góp
phần khẳng định cho vị trí của nghệ thuật sơn mài, đề tài chiến tranh
trong các tác phẩm của Nguyễn Sáng.
31
Tinh thần dân tộc luôn rực cháy trong Nguyễn Sáng, theo Nguyễn
Tư Nghiêm từng nói “Nguyễn Sáng chống ảnh hưởng của Phương Tây và
thích nghệ thuật dân gian. Theo tôi chưa hoàn toàn đúng. Thành công của
Nguyễn Sáng vẫn là ở phần cá nhân anh quyết định. Mà nói đến cá nhân
thì Nguyễn Sáng là người có cá tính mạnh trong nghệ thuật” [22]
Thật vậy, trong tranh của Nguyễn Sáng luôn đưa những hình tượng
điển hình, chắt lọc và khái quát nhất. Tác phẩm “Thanh niên thành
đồng”, sáng tác năm 1978 [H6;tr.62] đã thể hiện trọn vẹn được tính cá
nhân và dòng nghệ thuật chiến tranh cách mạng của Nguyễn Sáng. Tác
phẩm là cảm xúc của Nguyễn Sáng về phong trào đấu tranh của sinh viên
Sài Gòn dưới thời Mỹ ngụy. Trong tranh sử dụng lối tạo hình mạnh mẽ,
chắc khỏe thông qua lối đậm nhạt tương phản mạnh trên các nhân vật
khỏe khoắn trong cả việc sắp đặt tuyến bố cục. Tuyến nhân vật chính diện
là những thanh niên trẻ đứng lên, dám vượt qua ranh giới của sự sống còn
để đương đầu với kẻ địch. Phía trước các thanh niên là một vạch ranh giới
phân chia bức tranh làm hai, một bên chiếm phần lớn là hình ảnh những
nam, nữ thanh niên đang biểu tình chiến đấu đòi lại tự do độc lập cho dân
tộc, bên kia là những tên giặc với súng giáo chĩa về phía họ. Với bố cục
đối lập, Nguyễn Sáng đã cho thấy sự phi lý của cuộc chiến tranh, đồng
thời ca ngợi tình yêu đất nước, sức mạnh quật cường của dân tộc ta nói
chung, của những thế hệ trẻ nói riêng. Nguyễn Sáng đã kết hợp tư thế, cử
chỉ cũng như số lượng nhân vật cho hai chiến tuyến để làm rõ tư tưởng
cũng như tạo hình mới lạ mang tính triết lý, cô đọng về hình thể. Qua đó,
đề tài chiến tranh được thể hiện thật hùng tráng, tự hào. Đó là sự trân
trọng của tác giả đối với thế hệ trẻ anh hùng, một biểu hiện tình cảm của
Nguyễn Sáng đối với quê hương khi trở lại miền Nam sau ngày thống
nhất đất nước.
32
Cùng với nhiều tác phẩm, Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ, Bộ đội
trú mưa của Nguyễn Sáng đã được lưu giữ tại Bảo tàng mỹ thuật Quốc
gia. Đặc biệt, năm 1996, hai tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Sáng là Kết
nạp Đảng ở Điện Biên Phủ và Thiếu nữ bên hoa sen [H7; tr.63] đã được
ngành Bưu chính Việt Nam chọn và thực hiện thành bộ tem Hội họa Việt
Nam.
Các nhà phê bình mỹ thuật nói rằng: sau danh hoạ Nguyễn Gia Trí,
Nguyễn Sáng và Nguyễn Tư Nghiêm cũng là cây đại thụ của chất liệu sơn
mài Việt Nam.
“Trong sáng tạo nghệ thuật, Nguyễn Sáng không chịu bó tay, liên tục đi
tìm cái mới, cái riêng biệt. Tranh ông toát ra vẻ đẹp trần trụi mà chân thực,
bình dị mà sang trọng, nghiêm khắc mà đôn hậu... Nguyễn Sáng như vó ngựa
bất kham không chịu nổi sân đua, đã muốn phá rào về với thảo nguyên vô
thức nguyên sơ của chính mình. Trên cái mâm bản ngã đã đầy ứ thức ăn của
riêng ông, ông thèm món độc vị cực đoan cuối cùng”
Nguyễn sáng đã trở thành một trong những họa sĩ lớn nhất của mỹ
thuật cách mạng, đại diện xuất sắc của trường phái hiện thực xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Tác phẩm của ông cất tiếng hào sảng, thiết tha về số
phận bi hùng, kiêu dũng của một dân tộc trong cuộc chiến tranh yêu nước
giải phóng dân tộc. Nghệ thuật của ông mạnh mẽ, khỏe khoắn, bộc trực,
hướng tới tính công dân và trách nhiệm lớn lao của mỗi con người đối với
vận mệnh đất nước. Với đề tài chiến tranh trong tranh sơn mài, họa sĩ
Nguyễn Sáng đã cho thấy sức mạnh tiềm tàng của dòng nghệ thuật dân
tộc. Đó là những hình mảng dẹt, đường nét cổ trên bề mặt tranh, tạo
không gian ước lệ mà vẫn bộc lộ được ý chí, tinh thần quật cường của mỗi
con người thể hiện trong mỗi tác phẩm của mình.
33
2.2. Đề tài chiến tranh trong tranh sơn dầu của Nguyễn Sáng
* Khái niệm về chất liệu sơn dầu
Sơn dầu là một loại họa phẩm quen thuộc của các họa sĩ châu Âu, được
làm từ nột khô nghiền kĩ với dầu lanh. Tranh sơn dầu có thể được vẽ trên
nhiều loại mặt nền như gỗ, vải, giấy, kính, kim loại, song phổ biến nhất là
vải sợi cây bông , cây lanh có độ dai và đàn hồi tốt. Loại vải này sợi to, hơi
thô, mặt vải nổi hạt rõ để khi vẽ các lớp sơn dễ bám chắc trên mặt vải. Mặt
nền được quét một lớp sơn lót (thường là màu sáng như hồng, trắng kem,
vàng đậm ; cá biệt có người thích sơn lót màu đậm như Rembandt). Lớp sơn
lót có tác dụng liên kết chặt với các sợi vải để chúng không bị xê dịch, đồng
thời cũng làm một màu nền có sắc độ trung tính, dễ hòa hợp với các sắc độ
của toàn bộ tranh. Trước khi quét lót, mặt vải được quét một lớp keo để vải
không hút dầu của sơn vẽ làm xỉn ố màu.
Hiện nay các họa sĩ vẫn không ngừng tìm tòi sáng tạo cách thể hiện sơn
dầu, có người mạnh dạn dùng bàn tay, ngón tay, đầu cán bút để tạo ra nhiều
bút pháp mới. Vậy kĩ thuật thể hiện tranh sơn dầu là vô tận. Phải dùng đến
nhiều khái niệm để mô tả các cách khai thác khác nhau về kỹ thuật vẽ sơn dầu
như : bôi, trát, chải, xoa mỗi cách đều cho ra hiệu quả nhất định. Đôi chỗ
người vẽ không bôi kín hoàn toàn mặt tranh mà để hở để tạo chất. Có thể nói
tranh sơn dầu được vẽ bằng chất liệu có nhiều đặc tính ưu việt và tận dụng
được phong phú các dụng cụ, từ đó các họa sĩ thực hiện được những ý tưởng
sáng tạo phức tạp nhất. Mỗi thời đại, mỗi lục địa, mỗi khuynh hướng hoặc
trường phái nghệ thuật đều tạo được nhiều tranh sơn dầu tiêu biểu và đóng
góp cho kho tàng mỹ thuật của loài người những tác phẩm quý giá.
Trong tranh sơn dầu, họa sĩ Nguyễn Sáng đã có những tác phẩm xây
dựng công phu, chiến tranh cách mạng là một chủ đề tư tưởng lớn xuyên suốt
trong quá trình làm việc của ông, trong đó khái quát một giai đoạn lịch sử hào
hùng của dân tộc, nhiều bức tuyệt tác sơn dầu như Chợ Bo đẫm máu, Chiếm
34
phủ khâm sai, chân dung mẹ ông Đức Minh, Giặc đốt làng tôi như một
minh chứng lịch sử về chiến tranh.
* Những tác phẩm sơn dầu về đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn
Sáng
Cũng như các tác phẩm sơn mài về đề tài chiến tranh của Nguyễn
Sáng, trong tranh sơn dầu, ta vẫn thấy sự kết hợp hài hòa giữa nghệ thuật
dân gian truyền thống Việt và nghệ thuật hàn lâm phương Tây. Nhưng lối
vẽ sơn dầu của Nguyễn Sáng lại tạo hình bằng mảng phẳng lớn và nét cọ
nhanh mạnh, khoáng đạt. Trong tranh sơn dầu, ông thường dùng ít màu
nhưng nhiều sắc độ để gợi khối và chiều sâu cho hình. Không gian trong
tranh được vẽ theo đúng cảnh thật, tạo nên hiện thực của cuộc chiến tranh.
Có thể nói, trong thời kì kháng chiến chống Pháp, họa sĩ Nguyễn Sáng đã
dành hết công sức của mình để làm nhiệm vụ đưa chiến tranh thành một
đề tài mang tính thời sự tạo nên một sức mạnh của lòng yêu nước của
chính ông.
Từ năm 1953, họa sĩ Nguyễn Sáng tham gia phát động giảm tô, cải
cách ruộng đất, sau đó ông đi chiến trường Lào rồi trở lại chiến trường
Điện Biên Phủ cùng với nhiều họa sĩ khác như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Sỹ
Ngọc, Nguyễn Quang Phòng và vẽ các tác phẩm về địch vận, đóng thuế
nông nghiệp, vẽ phụ bản báo cáoCác tác phẩm chính của ông chủ yếu là
những ghi chép thực tế những sự việc xung quanh mình. Tác phẩm đáng
nhớ nhất trong giai đoạn này của Nguyễn Sáng là “Giặc đốt làng tôi”được
ông sáng tác năm 1954. “Giặc đốt làng tôi” (1954) [H8;tr.64] có thể coi là
bức sơn dầu có kích thước lớn và hoàn chỉnh nhất của Nguyễn Sáng trong
hoàn cảnh kháng chiến chống Pháp hết sức khó khăn, thiếu thốn, tác phẩm
này được hoàn thành ở Tuyên Quang cùng lúc với tác phẩm “Mùa vàng”
của họa sĩ Dương Bích Liên [H9 ;tr.65]. Với gam màu xanh coban, xanh lá
cây pha vàng, nâu đã thu hút người xem. Tác phẩm nói về cảnh tượng
35
người dân Tây Bắc chạy loạn, gặp bộ đội trên đường hành quân. Một phụ
nữ Thái địu con, tay chỉ về hướng làng mình còn đang bốc lửa. Xung quanh
là những khuôn mặt đau khổ, phẫn uất. Tâm lý mỗi nhân vật được thể hiện
rõ nét bằng những vệt sơn thô quánh biểu cảm, đặc biệt là khuôn mặt anh
bộ đội bừng lên niềm xót xa, yêu thương đồng bào và lòng căm thù giặc.
Tác phẩm như một câu chuyện kể cho người xem về cuộc sống những năm
tháng kháng chiến chống quan xâm lược, bảo vệ độc lập cho dân tộc. Bé
trai góc tranh ở truồng đói rách. Với bút pháp tả thực trần trụi, xúc động,
gam màu chàm chủ đạo trầm hùng u tối, lấp lánh ánh sáng trên khuôn mặt
anh bộ đội và áo khăn cô gái người dân tộc. Bức tranh có một sức quấn hút
kì lạ đối với người xem tranh. Chúng ta có thể nhân thấy được cảm xúc của
ông qua nhân vật anh bộ đội cụ Hồ với trang phục và vũ khí của thời kì chiến
dịch Điện Biên Phủ, gương mặt rắn rỏi, ánh mắt chăm chú khi nghe người
phụ nữ Thái địu con tố cáo giặc Pháp đốt làng, bản của mình. Tác phẩm trên
là kết quả của những ngày tháng ông tham gia chiến dịch Điện Biên. Toàn bộ
bức tranh thể hiện bố cục chặt chẽ, bút pháp khỏe khoăn, xúc cảm mạnh mẽ
và là một sáng tác thành công về chủ đề chiến tranh chứa đựng tình quân dân
trong thời loạn, tố cáo tội ác xâm lược của đế quốc.
Sau năm 1954, Hòa bình lập lại ở miền Bắc, ông cùng đoàn quân chiến
thắng trở về thủ đô Hà Nội và công tác ở hội văn nghệ Việt Nam. Thời kì này
họa sĩ Nguyễn Sáng đã sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài chiến tranh, đặc biệt
là các tác phẩm sơn dầu ghi lại nhiều dấu ấn, cảm xúc của ông về anh bộ đội
cụ Hồ mà ông đã ghi nhận qua các chuyến đi : chiến dịch Cao Bắc Lạng, Điện
Biên Phủ, cuộc kháng chiến chống Pháp và thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội
ở Miền Bắc như : Tình cảm họa sĩ, Vùng mỏ hòn Gai
Tác phẩm “Tình cảm họa sĩ” được ông sáng tác 1956 [H10 ;tr.66]là
một tác phẩm hiếm hoi ông vẽ về tình cảm gia đình của chính mình. Do hoàn
36
cảnh chính trị xã hội của đất nước, nhiều họa sĩ tham gia kháng chiến đã trở
thành người chiến sĩ trong cuộc sống và nghệ thuật. Với tinh thần yêu nước,
Nguyễn Sáng luôn cống hiến hết mình và sau thời chiến ông chẳng có gì
ngoài hai bàn tay trắng và nghệ thuật. Trong tranh, các nhân vật được vẽ bằng
những mảng lớn chiếm toàn bộ không gian tạo nên những giây phút bồi hồi,
xúc động. Người đàn ông đang đưa tay với tới người phụ nữ và đứa con của
mình nhưng dường như bàn tay ấy không thể chạm tới được hạnh phúc này.
Trong tranh sử dụng rất ít màu như nâu, xanh xám tạo nên sự ngưng đọng,
tưởng niệm về không gian. Tác phẩm không chỉ nói nên tâm trạng đau xót của
riêng ông mà còn là tâm trạng của bao chiến sĩ bộ đội Việt Nam từ kháng
chiến trở về, vì chính ông cũng chính là một chiến sĩ. Qua đó, phản ánh thêm
một mặt trái, những mất mát để lại sau chiến tranh.
Sau năm 1960, Mỹ mở rộng chiến tranh và ném bom miền Bắc, họa sĩ
Nguyễn Sáng đã đi vẽ nhiều tỉnh từ miền núi Hà Tuyên, Cao Bằng đến Quảng
Ninh, tác phẩm “Vùng mỏ hòn Gai” chất liệu sơn dầu được ông vẽ năm 1962
[H11; tr.67] tại Quảng Ninh cũng là một tác phẩm về đề tài chiến tranh cách
mạng. Trong tranh là hình ảnh những người công nhân đang khai than tại hòn
Gai – Quảng Ninh. Bên cạnh việc đấu tranh tại mặt trận chiến trường, thì
những con người ngày đêm sản xuất công nghiệp để xây dựng hậu phương
vững chắc cho chiến tranh cũng là những người anh hùng thực sự. Những
người chiến sĩ trên mặt trận lao động sản xuất ấy, đã góp phần làm vững
mạnh cho kinh tế phục vụ cuộc chiến tranh vẫn đang diễn ra. Tác phẩm chỉ
được vẽ với hai màu đen trắng kết hợp với các mảng lớn đậm nhạt để gợi nên
hơi thở hiện thực cuộc sống chiến tranh. Giữa một khung cảnh rộng lớn,
những mái lán dựng lên thô sơ, những đường điện công nghiệp được chăng
xuống, một nhóm các công nhân đang cùng nhau khai thác bằng những công
cụ đơn giản. có thể thấy được, sức mạnh và ý chí chiến đấu qua sức căng cơ
thể trong động thái của những người công nhân đang làm việc. Chỉ với sự mô
37
tả khái quát, hầu như lược bỏ phép tả khối và chỉ sử dụng các mảng phẳng
dẹt, lược bỏ về màu, Nguyễn Sáng đã cho thấy việc mô tả tài tình không dựa
theo quy tắc nhất định mà vẫn tạo nên hiệu quả về không gian và thời gian
trên bề mặt tranh. Tạo nên một sức sống mới trong đề tài chiến tranh được thể
hiện một cách cô đọng, chắt lọc mà vẫn cho thấy hơi thở thời đại.
Các tác phẩm sơn dầu của Nguyễn Sáng đã thể hiện thành công sự
dung dị của màu sắc, đường nét của chất liệu sơn dầu trong đề tài chiến tranh.
Tuy vẫn đặc tả theo lối khái quát, cô đọng nhưng nó đã tạo nên hiệu quả mới
cho các tác phẩm.
2.3. Đề tài chiến tranh trong một số chất liệu khác của Nguyễn Sáng
* Đề tài chiến tranh trong tranh khắc gỗ của Nguyễn Sáng
Tranh khắc gỗ là tranh in từ các ván gỗ đã được khắc theo kĩ thuật nổi
[17; tr137] Cách chế bản và phương pháp in ấn tranh khắc gỗ ngày càng có
nhiều tìm tòi, sáng tạo.
Trong chặng đường phát triển của nền mỹ thuật Việt Nam, đặc biệt là
thế kỷ XX, nghệ thuật tranh khắc gỗ đã có những đóng góp không hề nhỏ, tạo
nên diện mạo mỹ thuật nước nhà độc đáo với đặc trưng riêng biệt, không lẫn
với bất kỳ quốc gia nào.
Từ năm 1925 đến nay, kể cả về số lượng tác phẩm và chất lượng nghệ
thuật của các tranh khắc gỗ đã có những bước tiến vượt bậc, không chỉ tiếp
tục kế thừa từ vốn truyền thống dân tộc của nghệ thuật khắc gỗ đó là những
dòng tranh dân gian và những ván khắc kinh mà đã được mở rộng về nội dung
thể hiện và đề tài sáng tác. Có rất nhiều tác giả đã thành danh với chất liệu
khắc gỗ và tự định hình một phong cách nghệ thuật riêng làm phong phú
trang sử tranh khắc hiện đại mà vẫn mang đậm bản sắc dân tộc. Thành công
đó một phần là nhờ việc tiếp nhận có chọn lọc nghệ thuật khoa học hiện đại
38
châu Âu trong xử lý không gian, diễn hình, diễn màu và những nét tinh hoa
của tranh khắc phương Đông tạo nên một bản sắc mang đậm nét Việt.
Truyền thống phương Tây khắc gỗ thớ dọc, chú trọng tả khối trong
không gian mà truyền thống phương Đông (trong đó có Việt Nam) khắc thớ
ngang, chú trọng tả mảng và nét, vậy mà hầu như chưa ai thấy tranh khắc nào
của thời Đông Dương khắc thớ dọc cả- chỉ riêng điều này đã cho thấy dấu ấn
rõ nét của nghệ thuật Á Đông thấm nhuần trong nghệ thuật Việt Nam.Trong
vòng 20 năm Mỹ thuật Đông Dương (1925- 1945) đã xuất hiện một số tranh
khắc gỗ nổi tiếng như: Bến thuyền sông Hồng của An Sơn Đỗ Đức Thuận,
Gội đầu của Trần Văn Cẩn và bộ tranh khắc gỗ về Truyện Kiều hội tụ những
họa sỹ bậc nhất thời bấy giờ như Nguyễn Gia Trí, Tô Ngọc Vân, Nguyễn Đỗ
Cung, Nguyễn Tường Lân, Lê Phổ, Vũ Cao Đàm, Tôn Thất ĐàoCác tranh
khắc gỗ thời này đều giàu chất trang trí Á Đông kết hợp với nét biểu cảm Việt
chân chất, dung dị. Đặc biệt, Nguyễn Sáng với bức “Tình quân dân” -1951,
“Chiến dịch Cao Bắc Lạng” với phong cách nghệ thuật riêng đã tạo nên sự đa
dạng trong thể thức tạo hình về đề tài chiến tranh.
Bức tranh khắc gỗ “Tình quân dân” được sáng tác sau chiến dịch biên
giới 1950 [H12 ;tr.68], Nguyễn Sáng dùng nét khắc để diễn tả một buổi chiều
đang xuống ở một bản Tày. Những người lính và dân bản xúm xít ở vùng
trung tâm tranh, ông diễn tả nét dương ở không gian sáng bình thường. Nhưng
phía rìa tranh thì ông lại dùng nét âm (nền đen nét trắng), để người xem cảm
nhận được bóng tối đang thu dần không gian. Ta có thể thấy được lối sử dụng
mảng và nét âm bản được biến ảo, tài hoa trong việc vận dụng đặc trưng của
nghệ thuật hội họa phương Tây kết hợp với nghệ thuật phương Đông vào
nghệ thuật làm tranh khắc gỗ cho dù vào thời gian này phần lớn các tác giả
làm tranh khắc đang vận dụng lối nét của tranh khắc Đông Hồ cho sáng tác.
39
Qua đó thể hiện tinh thần đoàn kết của quân và dân ta chính là điều cốt lõi cho
chiến thắng lẫy lừng của dân tộc.
Theo Hoàng Đình Tài: “Khi tôi hỏi ông sao không vẽ trận Phay Khắt -
Nà Ngần, bắt Lơpa - Sactong, thì được ông giải thích như một chính trị viên :
em phải nhớ tình quân dân mới là cái gốc của chiến thắng. Trận đánh dù
thắng lớn, thì nó cũng vẫn chỉ là dấu chấm hết của một chiến dịch, là một câu
kết của bài văn mà thôi. Ông nhìn tôi rộng lượng : Anh vẽ cái gốc, thằng em
ạ. Không có tình quân dân thì không có chiến thắng ấy đâu. Thế nên nghệ
thuật mới phải cần một cái đầu biết suy nghĩ.” [22]
Nhà phê bình Phan Cẩm Thượng đã từng nói rằng : Hội họa Nguyễn
Sáng là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện thực trong nền hội họa Việt Nam, khi
tiếp nhận những bài học cổ điển và sự khai phá bản chất ngôn ngữ của trào
lưu tập thể, khi gắn với tinh thần nhân văn trong cái nhìn về chiến tranh, trong
tiến trình dân chủ ở Việt nam nửa thế kỉ qua. Trong hội họa của ông, người ta
thấy số phận của dân tộc. [27]
Thành công trong việc thể nghiệm ở thể loại tranh khắc gỗ đã cho thấy
sự tài hoa, khéo léo của họa sĩ Nguyễn Sáng. Ở ông là sự không ngừng thay
đổi và đổi mới về nghệ thuật.
* Đề tài chiến tranh trong tranh lụa của Nguyễn Sáng
Không chỉ thể nghiệm thành công ở các chất liệu sơn mài, sơn dầu,
khắc gỗ thì lụa cũng là chất liệu thành công của Nguyễn Sáng. Tiếp tục với
tinh thần nghệ thuật vị nhân sinh, đề tài chiến tranh vẫn là chủ đề lớn của
họa sĩ Nguyễn Sáng.
Bức lụa “Tân binh vùng du kích” sáng tác năm 1959 [H13;tr.69] đã cho
thấy nguồn cảm hứng vô tận về đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng trong mọi
chất liệu. Bức tranh là hình ảnh thực tế ông vẽ nhân sự kiện thực dân Mĩ xâm
40
lược nước ta. Theo sát các cuộc kháng chiến của đất nước, ông càng nhận
thức sâu sắc hơn về tổ quốc, về nhân dân và chân lý nghệ thuật. Ông viết “Có
tổ quốc mới có nghệ thuật! Trái lại mất nước mất tự do là mất tất cả”. Chân lý
đó được ông thể hiện ở đề tài chiến tranh ở mọi chất liệu theo phong cách
nghệ thuật cá nhân của mình. Trong tranh “Tân binh vùng du kích” vẫn sử
dụng sự sắp xếp hình mảng lớn để tạo nên bố cục. Hình ảnh những người
chiến sĩ đang chia tay gia đình của mình để lên đường nhập ngũ. Trung tâm
hình ảnh một gia đình người tân binh, người cha quyến luyến cúi xuống nắm
tay và nhìn đứa con thơ dại. Bên cạnh là hình ảnh người lính đang từ biệt cha
mẹ của mình. Và ở phía lớp lớp sau đó, là những người lính cũng đang từ biệt
gia đình của mình. Bức tranh sử dụng tông màu vàng cam nâu với các sắc độ
đậm nhạt khác nhau, Nguyễn Sáng đã tạo nên chiều sâu lắng về tâm tư của
người mẹ, người cha, người vợ tiễn những người lính ra chiến trường.
Với đề tài chiến tranh được vẽ bằng chất liệu lụa đã cho thấy những
ứng dụng của Nguyễn Sáng từ chất liệu kết hợp với phong cách riêng để tạo
nên cái hồn và chất của tác phẩm.
Tiểu kết
Nội dung chương II, nghiên cứu và so sánh với các họa sĩ cùng thời.
Để tìm ra các đặc điểm nghệ thuật trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng. Từ đó
thấy được cái chung, sự riêng biệt, nét nổi bật tạo nên nghệ thuật đặc sắc cho
các tác phẩm đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng.
Nguyễn Sáng là họa sĩ của cách mạng và kháng chiến, tâm huyết với đề
tài Chiến tranh. Từ bức sơn dầu đầu tiên Chợ Bo đẫm máu ở Việt Bắc tới bức
sơn mài cuối cùng Thanh niên thành đồng ở Nam Bộ. Bức tranh Kết nạp đảng
ở Điện Biên Phủ -sơn mài vẽ năm 1963 đưa ông lên vị trí hàng đầu của hội
họa chiến tranh cách mạng Việt Nam.
41
Ông là người đã trải mình trên mọi chất liệu nghệ thuật. Từ tranh khắc
gỗ, lụa, sơn dầu cho đến sơn mài, ông đều đóng góp cho nghệ thuật hiện đại
Việt Nam những tác phẩm quý giá.
Ở chất liệu sơn mài, ông đã tìm ra bảng màu mới là xanh lam và xanh
lá cây kết hợp với những màu đỏ son, cánh gián, vàng, bạc truyền thống từ đó
làm phong phú thêm bảng màu cho nghệ thuật sơn mài. Lối tạo hình mảng
lớn, khỏe khoắn khái quát, tóm lược được cả một thời đại tạo nên phong cách
hiện thực của riêng ông.
Ở chất liệu sơn dầu, tuy vẫn sử dụng những mảng lớn, phẳng dẹt và
bảng màu tối, ít màu sắc, đường nét mạnh mẽ, khoáng đạt nhưng Nguyễn
Sáng vẫn tạo nên sự dung dị riêng của chất liệu mà không mất đi sự cô đọng
về hình thể.
Trong chất liệu khắc gỗ và chất liệu lụa của Nguyễn Sáng cũng cho
thấy tư duy nghệ thuật và hiện thực cuộc sống được hòa làm một tạo nên cấu
trúc vững chắc, chuyển động trong hình thể và sắc độ. Nghệ thuật của Nguyễn
Sáng khỏe khoắn kết hợp với các yếu tố dân tộc, dân gian và hiện đại. Nhân
vật trong tác phẩm của ông vạm vỡ, có tư tưởng, cá tính và sống động.
Việc thể hiện thành công đề tài chiến tranh ở nhiều chất liệu hội họa,
đồ họa khác nhau đã cho thấy sự tìm tòi, sáng tạo không ngừng nghỉ của
Nguyễn Sáng.
Có thể khẳng định: ‘‘Nghệ thuật của Nguyễn Sáng gắn liền với lịch
sử cách mạng, lịch sử nghệ thuật dân tộc. Ông là một trong số những họa sĩ
có những tác phẩm đề tài chiến tranh đẹp nhất lịch sử hội họa Việt Nam
hiện đại’’
42
CHƯƠNG 3
NHỮNG ĐIỀU RÚT RA TỪ NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
3.1 Thành công của Nguyễn Sáng trong các tác phẩm đề tài chiến tranh
* Thành công về tạo hình
Trong mỗi tác phẩm tranh Nguyễn Sáng đều mang đậm những dấu
ấn của chính trị và phong cách sáng tác của ông. Đó là sản phẩm của tinh
thần tâm huyết với tự do, tình yêu quê hương đất nước của các tác giả được
thể hiện thông qua ngôn ngữ tạo hình trong tranh. Ở hai giai đoạn lịch sử
kháng chiến, đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng đều có những bước tiến
về việc phản ánh qua tạo hình nhân vật, không gian thời gian của đương
đại. Qua đó, các tác giả đã thể hiện, đúc kết nên các hình tượng nghệ thuật
trong tranh một cách điển hình và xuất sắc. Với ngôn ngữ cô đọng, tinh tế
đề tài chiến tranh của Nguyễn Sáng được thể hiện thành công trong cách
biểu đạt mảng khối, màu sắc, không gian. Qua những phân tích về đặc
điểm đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng ta rút ra được những
thành công trong việc biểu hiện tạo hình như sau:
Thành công ở các yếu tố tạo hình trong cách xây dựng hình tượng
nghệ thuật. Trong tranh Nguyễn Sáng, hình tượng người nghệ thuật trong
tranh được thể hiện bằng mảng, khối lớn, đường nét khỏe khoắn mang tính
chất hiện thực. Trong tranh, hình tượng nghệ thuật được đặc tả một cách cô
đọng và sử dụng thủ pháp cách điệu, cường điệu để khái quát hóa hình
tượng nghệ thuật. Không gian thường được lược bỏ bớt những rườm rà để
nhấn mạnh và khái quát cô đọng nhất chủ đề. Màu sắc trong tranh Nguyễn
Sáng được sử dụng những gam màu trầm, tối nhiều sắc độ để tạo nên sự
sâu lắng trong từng tác phẩm của ông.
Thành công của tạo hình trong tranh Nguyễn Sáng thể hiện ở tính
sinh động và chi tiết của phong trào hiện thực cách mạng được phản ánh
43
qua ngôn ngữ tạo hình mỹ thuật của ông. Trong tranh sơn mài Nguyễn
Sáng sáng tạo những màu sắc mới để tạo nên bảng màu phong phú cho chất
liệu sơn mài. Việc sử dụng mảng phẳng, to lớn, các nhân vật chiếm hầu
khắp không gian gợi nên sự khỏe khoắn, trữ tình, hiện thực.
Đặc biệt, người lính bộ đội cụ Hồ là một hình tượng được phản ánh
dưới nhiều lần và nhiều góc độ khác nhau, từ những khi chạy trú mưa đến
họ dừng chân nghỉ ngơi, hay lúc ý chí quyết tâm tăng cao. Tất cả đều được
các họa sĩ diễn tả, cô đọng tinh tế ở mọi phương diện đã góp phần lớn đẩy
cao một hình tượng nghệ thuật và nâng lên trở thành hình tượng lý tưởng
cao đẹp và thành công nhất. Đồng thời truyền đạt sâu sắc những tư tưởng
nhân văn trong đường lối chính sách Đảng, thắp lên niềm tin, hy vọng về
một tương lai đất nước phát triển, tươi đẹp.
Để làm ra tác phẩm nghệ thuật mang nét riêng ở cùng một chủ đề
chiến tranh, họa sĩ Nguyễn Sáng đã phải dày công nghiên cứu khám phá ra
những đặc điểm cô đọng nhất, những ý tưởng mới, thay đổi bố cục, màu
sắc, cách điệu những yếu tố tạo hình mà vẫn đưa ra được thông điệp của
ông về chính trị xã hội ý nghĩa, tư tưởng cao đẹp về cách mạng. Từ đó,
khẳng định bản thân và nhiệt huyết sáng tạo của riêng Nguyễn Sáng.
Với cách nhìn sâu rộng, họa sĩ Nguyễn Sáng đã xác lập cho mình
một con đường có hệ thống nhất quán ở quan niệm và phương pháp biểu
đạt khái quát, khúc triết, hình tượng nghệ thuật cô đọng. Đề tài chiến tranh
trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng được họa sĩ diễn đạt theo phương pháp
hiện thực thông qua cách xử lý tạo hình kết hợp giữa phương Tây hàn lâm
và nghệ thuật dân gian. Đề tài trong tranh ông thường chỉ vẽ về con người,
mà ít hướng tới tả cảnh, ông không vẽ cụ thể, chi li mà khái quát chúng
theo cách riêng của mình mà không mất đi cái hồn tự nhiên. Từ đó cho thấy
cái nhìn bao quát, thấu rõ trong sáng tác đề tài chiến tranh của họa sĩ
Nguyễn Sáng. Điểm trội nữa chứng tỏ sự đóng góp của đề tài chiến tranh
44
trong tranh Nguyễn Sáng với nghệ thuật tạo hình đó là việc ông luôn tìm
tòi, luân chuyển, biến đổi đa dạng ở lối vẽ làm cho bức tranh thật hiện
thực, thật cô đọng lại vừa có sự hấp dẫn lôi cuốn về mặt thị giác, lại vừa
tạo nên những âm hưởng dội ra từ bên trong dù diễn tả màu sắc sặc sỡ hay
trầm, êm dịu. Với Nguyễn Sáng, “tranh của ngày hôm nay phải khác ngày
mai” . Ngoài những yếu tố thành công kể trên, việc tiết giản màu sắc, sắc
độ và hình thể tạo ra một không gian giúp khơi gợi sự liên tưởng đa chiều
trong tư duy của người xem.
* Thành công về nội dung phản ánh
Nghệ thuật tạo hình Việt Nam hình thành và phát triển đều gắn liền
với quá trình xây dựng và phát triển của đất nước, ở giai đoạn nào nghệ
thuật mỹ thuật cũng thể hiện tính chiến đấu đậm nét. Từ năm 1945, đất
nước ta rơi vào tình hình nguy cấp trước cuộc chiến tranh thực dân, mỹ
thuật nghệ thuật Việt Nam đã phản ánh mặt trận nóng bóng, cổ vũ mạnh
mẽ trong phong trào giải phóng dân tộc và đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Có
thể thấy vị trí vai trò to lớn của nghệ thuật tạo hình Việt Nam trong hai
cuộc chiến tranh và có tính chiến đấu sâu sắc là nền tảng cho các chức năng
tính chất khác của đời sống văn nghệ. Phù hợp với quan điểm của Đảng về
công tác nghệ thuật trong bối cảnh đất nước. Trong Nguyễn Sáng luôn
hoàn thành mục tiêu tuyên truyền của Đảng
Ở Việt Nam, đề tài chiến tranh được hình thành và phát triển trong
chiến tranh từ năm 1945 như một vũ khí hiệu quả của cách mạng. Cuộc
cách mạng này đã thức tỉnh ý thức dân tộc, ý thức chính trị cho toàn giới
mỹ thuật Việt Nam. Phong trào ủng hộ Đảng cộng sản Việt Nam bùng lên
mạnh mẽ với tinh thần chiến đấu cao. Trong công tác tuyên truyền đường
lối, chủ chương chính sách của Đảng trong hai cuộc kháng chiến trường kì
dân tộc. Đề tài chiến tranh xuất hiện và dần lan rộng thành phong trào ủng
hộ cách mạng, tuyên truyền, động viên tới đông đảo quần chúng nhân dân
45
lao động đã luôn bám sát và phản ánh những diễn biến chính trị, những
đường lối chính sách đến với mọi người. Với những tính chất và đặc điểm
của đề tài này đã cho thấy sự đa dạng trong thể thức biểu hiện tạo hình đến
chất liệu. Mảng chủ đề này, đã cho thấy những biến chuyển của tư tưởng
thẩm mỹ, tư tưởng xã hội và không khí, bối cảnh của nước ta trong cuộc
chiến tranh xâm lược. Ở mỗi thời điểm lịch sử, sự phản ánh về tạo hình
điển hình sẽ tạo nên tác động mạnh mẽ đến quần chúng.
Đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn sáng đã cho thấy sự phản ảnh
hiện thực và tội ác của chiến tranh với nhiều chất liệu. Với tính thẩm mỹ
đặc trưng, sử dụng ngôn ngữ tạo hình mạnh mẽ, khoáng đạt, hình tượng
nhân vật cô đọng, khái quát, đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng đã
thành công trong nhiệm vụ tuyên truyền giáo dục, khơi dậy lòng yêu nước,
căm thù giặc, ca ngợi tinh thần anh dũng trong chiến đấu.
Việc biểu đạt hình tượng nhân vật qua các tác phẩm cùng chủ đề
chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng được hoàn thiện, phong cách cổ điển
phương Tây kết hợp với lối tạo hình Á đông đã bắt nhịp với chế độ chính
trị và tạo nên tinh thần dân tộc trong các tác phẩm của Nguyễn Sáng. Trong
chủ đề chiến tranh, Nguyễn Sáng luôn luôn tìm kiếm, chiêm ngắm và trình
bày nhân vật anh bộ đội cụ Hồ mang vẻ đẹp lý tưởng, khỏe khoắn, tầm vóc
nhưng không bị khô cứng với hình tượng gần gũi, thân quen tạo nên hiệu
ứng cộng hưởng, phát huy tinh thần trong lòng người dân.
Trong quá trình lịch sử mỹ thuật Việt Nam hiện đại, đề tài chiến
tranh đã cho thấy một mạch ngầm trong dòng trào lưu nghệ thuật hiện thực.
Trong đó, các tác phẩm của Nguyễn Sáng cũng không nằm ngoài chủ đề
này. Qua chủ đề cho thấy nhu cầu cần phải tiếp tục thay đổi và phát triển
nghệ thuật để phù hợp với nhu cầu xã hội, phù hợp với trình độ nhận thức,
nâng cao tầm hiểu biết. Nghệ thuật vị nhân sinh.
46
Việc kết hợp giữa những giá trị truyền thống dân tộc và giá trị hiện
đại trong đề tài chiến tranh được họa sĩ Nguyễn Sáng khéo léo lồng ghép,
hòa quyện qua các tác phẩm chủ đề chiến tranh. Đó là những hình ảnh của
những anh bộ đội, những cây tre, những khung cảnh với lối tạo mảng
phẳng, đường bo viền tạo nên sự khỏe khoắn. Có thể thấy, đây là một sự
kết hợp sáng tạo và thành công của tác giả trong việc sử dụng hai yếu tố
tạo hình dân gian và hiện đại trong một tác phẩm đề tài chiến tranh.
Quan điểm của nghệ thuật tạo hình Việt Nam thời kì sau 1945 thì
trách nhiệm của nghệ thuật là “vị nhân sinh” thể hiện những tư tưởng chính
trị kịp thời, chân thực, cái đẹp thuộc về giá trị thực tại cuộc sống, gắn liền
với cuộc sống. Rõ ràng, đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng đã
thành công trên mọi phương diện từ việc thể hiện hình thái nghệ thuật đến
giá trị nhân sinh của nghệ thuật tạo nên vẻ đẹp chuẩn mực của hình tượng
nhân vật.
Từ những thành công trên, có thể khẳng định, các tác phẩm đề tài
chiến tranh của Nguyễn Sáng là những tác phẩm không chỉ mang vẻ đẹp
về tạo hình chiến tranh mà còn mang chiều sâu của hiện thực đầy tính
nhân văn.
3.2 Bài học về giá trị nghệ thuật trong các tác phẩm đề tài chiến tranh
của Nguyễn Sáng
Giai đoạn 1954-1975 là giai đoạn khó khăn của chính trị Việt Nam
khi phải đối đầu với cuộc kháng chiến chống Mĩ tại miền Nam Việt Nam.
Đất nước chia cắt làm đôi, miền Bắc với chính quyền non trẻ đi lên xây
dựng xã hội chủ nghĩa, miền Nam đau thương đấu tranh với giặc Mĩ. Các
sáng tác đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng đã góp phần không nhỏ
trong việc khích lệ tinh thần chiến đấu của quân và dân ta. Giá trị nghệ
thuật trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng nằm ở các yếu tố sau: giá trị
thẩm mĩ, giá trị lịch sử và giá trị tạo hình.
47
* Giá trị thẩm mỹ
Nguyễn Sáng từng nói : “Dân tộc rồi đây cũng 50, 60 triệu người, với
những việc đã làm đứng vào hàng thế giới. Vậy tại sao nghệ thuật ta không
đứng vào hàng thế giới. Và tôi cố gắng làm điều đó”. Câu nói của Nguyễn
Sáng đã cho thấy một tiếng nói của bậc thầy đã giành hết tâm huyết của cả đời
mình cho nghệ thuật đất nước.
Trong tranh sơn mài của Nguyễn Sáng, ông luôn khai thác tìm tòi,
khám phá ra những gam mầu mới mà bản chất sơn mài chỉ có sơn then, cánh
gián, son, vàng bạc. Từ đó tạo nên sự phong phú cho bảng màu sơn mài nước
ta của Việt Nam.
Về yếu tố thẩm mĩ, như đã nói ở trên, trong tất cả các tác phẩm đề tài
chiến tranh họa sĩ luôn thể hiện tối đa cấu trúc hình thể nhân vật và tương
quan đậm nhạt, hình mảng lớn thông qua các chất liệu tạo hình. Ngoài ra, giá
trị thẩm mĩ còn nằm ở phương thức họa sĩ Nguyễn Sáng sử dụng chất liệu
trong đề tài chiến tranh.
Thông qua sự diễn đạt từ tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng về nhân vật, sự
vật, hay cách bài trí bố cục của một tác phẩm, người xem có thể cộng hưởng
và thưởng thức những tiêu chuẩn thẩm mĩ thích hợp, từ đó nắm được ẩn ý về
đời sống vật chất, tinh thần quân và dân ta trong hai cuộc kháng chiến kháng
chiến. Ở mảng tranh đề tài chiến tranh, chúng ta bắt gặp hình ảnh khỏe khoắn
trong tạo hình anh bộ đội cụ Hồ, những người dân công, những cô gái
người xem thấy được sự khái quát hình thể trong tạo hình các nhân vật, ngoài
ra, về màu sắc, họa sĩ Nguyễn Sáng luôn chú ý tới sự tương quan đậm nhạt
khi mô tả về hình thể, trang phục, màu da. Sự quan sát này cho thấy, họa sĩ
có sự nghiên cứu hình thể rất sâu sắc, cùng với đó là khả năng bao quát tuyệt
vời về nội tâm nhân vật thông qua diễn tả đường nét để làm nổi bật thần thái
cũng như hình thể nhân vật.
48
* Giá trị lịch sử
Những sáng tác đề tài chiến tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng được xem
như những minh chứng về lịch sử bằng hình ảnh. Người xem tranh có thể
thấy được tinh thần của cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp - Mĩ của
Việt Nam. Mỗi vùng đất đi qua họa sĩ Nguyễn Sáng lại ghi lại những dấu
ấn quan trọng nhất về con người, phong cảnh, tập tục. Mỗi tác phẩm đề tài
chiến tranh của Nguyễn Sáng là sự san sẻ với những người dân Việt những
câu chuyện về chiến tranh bằng hình ảnh, màu sắc, đường nétLà họa sĩ
được đào tạo theo lối hàn lâm phương Tây, với cách nhìn hiện thực, và
những trải nghiệm thực tế cộng với tư duy vững chắc ở nghề, những tác
phẩm của Nguyễn Sáng luôn có sức sống nội tại của các đối tượng về chiến
tranh và các đề tài khác. Ở mảng đề tài chiến tranh trong tranh, hiện thực
sự việc được mô tả khái quát và hết sức sinh động diễn tả con người, thiên
nhiên một cách chính xác kết hợp với khả năng kiểm soát chủ động về hình
thức biểu đạt mảng phẳng. Điều này phản ánh qua các tác phẩm như bức
Kết nạp Đảng ở Điện Biên Phủ, Thanh niên thành đồng. Vẫn tạo hình dựa
trên phương pháp giản lược hình ảnh và màu sắc, qua tác phẩm người xem
vẫn cảm nhận được một khung cảnh, con người với những tạo hình khái
quát nhất. Bằng những mảng, nét đơn giản, họa sĩ Nguyễn Sáng đã ghi lại
toàn cảnh, những hoạt động, tâm trạng của nhân vật trong chiến tranh. Qua
đó người xem có thể nắm bắt được nhiều khía cạnh khác nhau của cuộc
chiến. Sự hấp dẫn của những giá trị lịch sử trong tranh của họa sĩ Nguyễn
Sáng thể hiện ở đề tài chiến tranh cho thấy hơi thở của thời đại, biểu hiện
những phút dừng chân hiếm hoi của anh lính cụ Hồ khi băng rừng, trèo núi,
hay sự chia cách của anh bộ đội trong giờ chuẩn bị ra chiến trường, sự hối
hả, đau xót của những người dân bản chạy giặc Nét độc đáo, dễ nhận
thấy từ những tranh đề tài chiến tranh cho thấy lịch sử của họa sĩ Nguyễn
Sáng còn nằm ở trang phục của nhân vật, rất đặc trưng điển hình. Nét mạnh
49
mẽ trên trang phục của anh bộ đội được gắn thêm lá ngụy trang, trang phục
của người phụ nữ Thái, của thanh niên Tất cả đều gợi nhắc về một thời
đạn bom gian khổ, để ghi lại một cách chân thực như vậy, họa sĩ phải thực
sự hòa mình với đời sống chung để cảm nhận và thấu hiểu mới có thể phác
họa chính xác nhất.
Từ những đóng góp về yếu tố lịch sử và yếu tố nghệ thuật, đề tài
chiến tranh trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng trở thành những bài học
đắt giá về lòng yêu nước và sự tận tụy với nghề. Với thể loại tranh sơn mài,
sơn dầu, khắc gỗ, lụa, họa sĩ Nguyễn Sáng đã khẳng định, đây là những
chất liệu mà họa sĩ cần vươn tới và khẳng định vị trí hàng đầu với sự đa
diện ở ý tưởng cùng với ngôn ngữ biểu hiện. Là người có công lớn đóng
góp cho chất liệu sơn mài Việt Nam, các tác phẩm sơn mài đề tài chiến
tranh là đỉnh cao trong sáng tác của họa sĩ Nguyễn Sáng.
* Giá trị tạo hình
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu về những tác phẩm đề tài chiến
tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng đã cho người viết thấy được những đặc điểm
tạo hình trong tranh của ông, qua đó rút ra được những bài học về tạo hình
cho bản thân.
Trong đó đáng chú ý là lối tạo hình phản ánh hiện thực khách quan
từ cuộc sống. Ở mỗi tác phẩm của Nguyễn Sáng, người xem có thể thấy
được những nhịp đập của thời đại, tính chiến đấu hào sáng và tình yêu quê
hương đất nước được đặc tả rõ nét trong tranh của Nguyễn Sáng. Từ đó,
mỗi tác phẩm của Nguyễn Sáng như những minh chứng lịch sử hào hùng
của dân tộc trong thời kì chiến tranh.
Bài học về tạo hình trong tranh Nguyễn Sáng luôn luôn có sự tìm tòi,
khám phá, sáng tạo để tìm ra được cái riêng độc đáo cho bản thân, đó là
50
phong cách riêng cho bản thân. Cũng giống như họa sĩ Nguyễn Sáng, ông
đã tìm ra được phong cách tạo hình độc đáo mà ít ai có thể làm được.
Bài học về sự cống hiến cho nghệ thuật chân chính, nghệ thuật sẽ đáp
trả công lao cho người nghệ sĩ bằng những thành công và những tác phẩm vô
giá. Người nghệ sĩ phải có niềm đam mê hết mình, hết lòng vì nghệ thuật.
Bài học về việc duy trì và phát huy nghệ thuật truyền thống, lịch sử
để áp dụng vào sáng tác nghệ thuật cá nhân. Họa sĩ Nguyễn Sáng kết hợp
tính hiện đại với tính dân tộc trong tranh của mình để tạo nên những tác
phẩm mang tính đột phá. Sự chắt lọc tinh họa nhân loại, tinh họa nghệ
thuật được ông sử dụng một cách sáng tạo tạo nên giá trị cho tác phẩm của
mình. Từ đó, người viết rút ra được bài học nhận thức về việc sử dụng nghệ
thuật dân gian trong các tác phẩm của mình.
Theo nhà phê bình nghiên cứu Thái Bá Vân cho rằng: “ Có 3 ý nghĩa
dính kết vào nhau và đọng lại suốt cuộc đời Nguyễn Sáng : một là nghệ
thuật ; hai là Hà Nội ; ba là coi đời mình như con ong. Mang nhu cầu nghệ
thuật sáng tạo như một bản năng sống. Nhận Hà Nội là chiếc nôi văn hiến
của cả dân tộc, như một sự thật lịch sử Nguyễn Sáng không chạy theo
khách hàng, không chạy theo các phòng triển lãm và những lời khen phù
phiếm. So với các đồng nghiệp cùng quê miền Nam, thì Nguyễn Sáng xuất sắc
về mặt dân tộc hóa được nghệ thuật của mình, mình là một kết quả tinh lọc
của bản chất Việt Nam, đã vượt được cái ấn tượng về một bút pháp địa
phương còn nhỏ nhặt, giống như những con nước lẻ tẻ, chưa nhập vào dòng
sông để đổ vào biển khơi Nguyễn Sáng là trường phái Hà Nội theo cái
nghĩa là thủ đô văn hóa, là Việt Nam cô đọng, đầy đủ và toàn thể Đó là tầm
lớn đã quốc gia hóa của anh” [28] Qua đó thấy được vai trò đóng góp nghệ
thuật của Nguyễn Sáng trong ngôn ngữ tạo hình với lịch sử hội nghệ thuật
Việt Nam hiện đại.
51
Tiểu kết
Chương III tập trung nghiên cứu giá trị nghệ thuật và những thành công
từ tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng. Nhìn chung giá trị nghệ thuật trong tranh
đề tài chiến tranh của ông được nhìn nhận ở khía cạnh tạo hình và hòa sắc
thông qua các chất liệu sơn mài, sơn dầu, khắc gỗ, lụa. Mỗi chất liệu họa sĩ lại
có phương pháp tạo hình riêng biệt, thông qua hiệu quả từ chất liệu mà tranh
sẽ có những giá trị nghệ thuật riêng.
Đề tài chiến tranh trong tranh của họa sĩ Nguyễn Sáng vừa mang tính
thẩm mĩ nhưng đồng thời cũng chứa trong mình những đóng góp của ông với
lịch sử dân tộc. Bên cạnh những đóng góp cho lịch sử, tranh của ông còn góp
phần làm giàu thêm vốn văn hóa nghệ thuật nước nhà, là bài học bổ ích về
tinh thần quả cảm, hăng say trong lao động.
Những tác phẩm của ông sẽ là tấm gương rọi sáng cho các thế hệ họa sĩ
sau này học tập. Với lối tạo hình sáng tạo giữa nghệ thuật truyền thống và
nghệ thuật hiện đại, Nguyễn Sáng đã cho thấy việc say mê tìm tòi và nghiên
cứu học tập không ngừng. Trong mỗi chất liệu tạo hình từ hội họa như sơn
mài, sơn dầu, lụa đến đồ họa là khắc gỗ, Nguyễn Sáng luôn sử dụng lối vẽ
khúc triết, khái quát bằng những mảng, hình khối đơn giản mà vẫn gợi nên
chiều sâu không gian và hiệu quả của chất liệu. Cùng với bộ tứ danh họa Sáng
– Phái – Liên – Nghiêm, Nguyễn Sáng là tấm gương nghệ thuật mà thế hệ trẻ
sau này cần noi theo.
52
KẾT LUẬN
Họa sĩ Nguyễn Sáng đã đóng góp một phần lớn cho nền mỹ thuật tạo
hình Việt Nam. Cùng với các bậc thầy, ông đã để lại một khối lượng tác phẩm
lớn và đồ sộ. Không chỉ nhiều về số lượng mà hơn thế là sự thành công của
các tác phẩm là phong cách nghệ thuật và tư tưởng thời đại của Nguyễn Sáng.
Đặc biệt là đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng đã cho thấy tư tưởng,
tình cảm cũng như kỹ thuật điêu luyện trong sáng tác nghệ thuật của ông.
Nghệ thuật và cuộc đời của họa sĩ Nguyễn Sáng gắn liền với lịch sử
cách mạng, lịch sử nghệ thuật của dân tộc. Họa sĩ Nguyễn Sáng đã học tập và
cống hiến cho nghệ thuật đất nước những tuyệt tác hội họa vang danh.
Họa sĩ Nguyễn Sáng đã sáng tác hơn 140 tác phẩm đủ thể loại, chất
liệu, đặc biệt là sơn mài và sơn dầu. Ở sơn mài ông đã khám phá ra việc sử
dụng thêm màu xanh vào trong tranh để tạo nên bảng màu mới. Khác với
nhiều họa sĩ cùng thời, Nguyễn Sáng đã thay đổi cả một bộ mặt của chất liệu
sơn mài, chính ông là người một trong những người đưa sơn mài từ một chất
liệu mỹ nghệ trở thành một chất liệu hội họa thực thụ.
Đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng là một đề tài lớn trong suốt
quá trình làm việc của ông. Ở đề tài này, Nguyễn Sáng đã cho thấy sự say mê
sáng tạo từ ngôn ngữ tạo hình cho đến việc thể nghiệm chất liệu. Với lối tạo
hình khỏe khoắn, vững chắc, hình tượng nghệ thuật trong tranh Nguyễn Sáng
luôn được cô đọng, khái quát thể hiện tinh thần ẩn trong đó. Trong tranh,
Nguyễn Sáng sử dụng nhiều đường kỷ hà, đường đơn tuyến, nhiều nét to, thô,
khỏe khoắn, mảng lớn, rõ đậm nhạt mang âm hưởng của nghệ thuật dân gian.
Ông sáng tác nhiều mảng đề tài từ chân dung, sinh hoạt, con vật, vũ trụ nhưng
sâu sắc và thành công nhất là đề tài chiến tranh.
Qua nghiên cứu về đề tài chiến tranh trong tranh Nguyễn Sáng, ta hiểu
thêm về lối tạo hình và tư tưởng thẩm mỹ của Nguyễn Sáng. Thông qua đó,
hiểu rõ thêm về nghệ thuật tạo hình của một bậc thầy hội họa Việt Nam.
53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Lương Tiểu Bạch (chủ biên), Bùi Như Hương, Phạm Trung,
Nguyễn Văn Chiến (2005), Mỹ thuật Việt Nam hiện đại, Trương đại
học Mỹ thuật Hà Nội – Viện Mỹ thuật, Hà Nội.
2. Văn Bảy, Những câu chuyện ít biết về Nguyễn Sáng, Báo Thể thao và
văn hóa, ngày 15/11/2008.
3. Bộ Văn hóa- Thông tin, Hội Mỹ thuật Việt Nam, Triển lãm Mỹ thuật
toàn quốc 2001 – 2005.
4. Trần Khánh Chương (chủ biên) (2013), Mỹ thuật Sài Gòn thành phố
Hồ Chí Minh, Nxb Mỹ thuật.
5. Trần Khánh Chương (2003), Họa sĩ Nguyễn Sáng giải thưởng Hồ Chí
Minh(đợt I -1996), Tạp chí mỹ thuật sô 84(55).
6. Nguyễn Phi Hoanh (1970), Lược sử mỹ thuật Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Phi Hoanh (1993), Mỹ thuật và nghệ sĩ, Nxb Thành phố Hồ
Chí Minh, Hồ Chí Minh.
8. Hội đồng từ điển (1994), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội.
9. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 1 A- Đ, NXB
Từ điển Bách khoa.
10. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 2 E – M, NXB
Từ điển Bách khoa.
11. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 3 N – S, NXB
Từ điển Bách khoa.
12. Hội đồng Quốc gia (1995), Từ điển bách khoa Việt Nam 4 T – Z, NXB
Từ điển Bách khoa.
54
13. Trần Tiểu Lâm (2001), Giáo trình Mỹ thuật học. Nxb Mỹ thuật.
14. Lê Thanh Lộc (1997), Từ điển Mỹ thuật, Nxb Văn hoá thông tin Hà
Nội.
15. Hoàng Công Luận, Nguyễn Quân (1994), Các bậc thầy hội họa Việt
Nam “Tô Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Sáng, Bùi Xuân Phái”,
Nxb Mỹ thuật Hà Nội.
16. Ngô Văn Nam (2015), Tính lạc quan trong hội họa Việt Nam giai đoạn
1945- 1975, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam.
17. Đặng Bích Ngân (2002), Từ điển Thuật ngữ Mỹ thuật phổ thông, Nxb
Giáo dục.
18. Nguyễn Tôn Nhan, Phú Văn Hẳn (2015), Từ điển Tiếng Việt, Nxb
Hồng Đức.
19. Quang Việt (2008), Từ điển Họa sĩ Việt Nam, Nhà xuất bản Mỹ thuật.
20. Nguyễn Quang Phòng (chủ biên), Các họa sĩ trường Cao đẳng Mỹ
thuật Đông Dương, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
21. Trần Văn Uyên (2008), Hình tượng anh bộ đội cụ Hồ trong tranh
Nguyễn Sáng, Luận văn tốt nghiệp, Trường Đại học Mỹ thuật Việt
Nam.
22. Hoàng Đình Tài (2003), Kỉ niệm về Nguyễn Sáng, Tạp chí mỹ thuật số
84(55).
23. Tác giả tác phẩm mỹ thuật Viêt Nam, Nxb Văn hóa- Thông tin.
24. Trần Chiến Thắng, Ngô Quang Nam, Vũ Giáng Hương (2003), Tuyển
tập Mỹ thuật Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Văn hóa- Thông tin.
25. Trần Thức (1989), Họa sĩ Nguyễn Sáng, Nxb Mỹ thuật, Hà Nội.
55
26. Trần Thức (2003), Một đời người, một cá tính nghệ thuật, Tạp chí mỹ
thuật số 85(55).
27. Trần Hậu Tuấn (2005), Hôi họa Việt Nam đương đại “Nguyễn Gia Trí,
Bùi Xuân Phái, Nguyễn Tư Nghiêm, Nguyễn Sáng, Dương Bích Liên”,
Nxb Văn hóa Sài Gòn.
28. Thái Bá Vân (1995), Tiếp xúc với nghệ thuật, Viện Mỹ thuật ấn hành.
29. Viện Ngôn ngữ học (2013), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ THUẬT VIỆT NAM
HOÀNG THẮNG
ĐỀ TÀI CHIẾN TRANH
TRONG TRANH CỦA HỌA SĨ NGUYỄN SÁNG
PHẦN PHỤ LỤC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN LUẬN VĂN
PGS TS. LÊ BÁ DŨNG
Hà Nội – 2017
57
PHỤ LỤC
H1“Bộ đội nghỉ trưa trên đồi”, 1959, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
58
H2 họa sĩ Trần Đình Thọ,“Tre” ,1975, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
59
H3 “Bộ đội trú mưa”,1960, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
60
H4“Lớp học đêm”,1960, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
61
H5“Kết nạp đảng ở Điện Biên Phủ”,1963, Sơn mài
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
62
H6 “Thanh niên thành đồng”,1978, Sơn mài
Nguồn: Cuốn Mỹ thuật Việt Nam hiện đại
63
H7 Thiếu nữ bên họa sen, Sơn dầu
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
64
H8“Giặc đốt làng tôi”,1954, Sơn dầu
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
65
H9 Họa sĩ Dương Bích Liên, “Mùa vàng” ,1954
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
66
H10“Tình cảm họa sĩ”, 1956, Sơn dầu
Nguồn: Internet
67
H11“Vùng mỏ hòn Gai”,1962, Sơn dầu
Nguồn: Bộ sưu tập Hoàng Đình Tài
68
H12“Tình quân dân”,1950, Khắc gỗ
Nguồn: Hoàng Thắng chụp tháng 12 năm 2016
69
H13“Tân binh vùng du kích”,1959, Lụa
Nguồn: Bộ sưu tập Hoàng Đình Tài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_chien_tranh_trong_tranh_cua_hoa_si_nguyen_sang_041_2075317.pdf