1. Nguyên nhân và thực trạng của chính sách tiền tệ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
1.1 Đầu năm 2007 đến đầu năm 2008
1.2 Cuối năm 2008 đến đầu năm 2009
1.3 Cuối năm 2009 đến đầu năm 2010
2. Kiến nghị và giải pháp
8 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2634 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chính sách tề tệ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TIỂU LUẬN MÔN KINH TẾ VĨ MÔ
CHÍNH SÁCH TỀ TỆ CỦA VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP WTO
Nguyên nhân và thực trạng của chính sách tiền tệ của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Sau khi gia nhập WTO(ngày 7/11/2006), Nước chúng ta có cơ hội tiến sâu vào hội nhập và phát triển bình đẳng với các quốc gia trên thế giới. Song việc gia nhập WTO cũng đặt nước ta đứng trước những thách thức không phải là nhỏ. Tùy thuộc vào chính sách kinh tế trong từng giai đoạn mà việc điều hành chính sách tiền tệ của nước ta có thể tạm chia như sau:
Đầu năm 2007 đến đầu năm 2008
Đầu năm 2007, thời điểm những thuận lợi có được từ việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của WTO bắt đầu được phát huy làm cho nền kinh tế hấp thụ một lượng lớn nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, cùng với sự bùng nổ của thị trường chứng khoán đã làm cho lượng ngoại tệ trong nước tăng lên. Theo tiến sĩ Nguyễn Khánh Long – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Khoa học Thị trường Giá cả cho rằng, yếu tố cơ bản gây nên lạm phát là “tiền nhiều”. Riêng kiều hối lên đến 5 tỷ USD thậm chí có thể lên đến 7,5 tỷ USD. Theo Giáo sư Kenichi Ohno - chuyên gia Diễn đàn Phát triển Việt Nam (VDF) ước tính, có ít nhất 15 tỷ USD đã đổ vào Việt Nam trong năm 2007 từ các nguồn: dịch vụ (du lịch) 4,6 tỷ USD; vốn FDI giải ngân 2,2 tỷ USD; vốn vay ODA 1,8 tỷ USD, cổ phiếu và trái phiếu 2,5 tỷ USD…., điều này đã đẩy áp lực tăng giá trị của đồng Việt Nam, gây bất lợi cho xuất khẩu, làm giảm tăng trưởng kinh tế. Để có thể hoàn thành chỉ tiêu kinh tế năm 2007 là 8,2 – 8,5%, trước tình hình này Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam đã tung lượng tiền đồng để mua vào một lượng lớn ngoại tệ mà theo ước tính của Ngân Hàng Thế Giới, chỉ trong quí 1, dự trữ ngoại hối của Việt Nam tăng khoảng 3 tỷ đôla tương đương với gần 50.000 tỷ đồng được đưa vào lưu thông. Chính điều này đã tác động lớn đến tăng giá hàng hóa và dịch vụ, làm tăng tỉ lệ lạm phát đầu năm 2007.
Với lượng cung tiền của đầu năm 2007 quá lớn đã làm cho chỉ số lạm phát ngày càng cao. Theo ông Shogo Ishii, Phó Giám đốc IMF khu vực châu Á-TBD: “Để duy trì sự phát triển bền vững, trước hết, Việt Nam cần thắt chặt chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ của Việt Nam vẫn bị động trước những thay đổi của môi trường kinh tế quốc tế. Việt Nam cần phải có sự can thiệp tỷ giá kịp thời khi ngày càng có nhiều nguồn vốn đầu tư đổ vào Việt Nam. Một chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn sẽ tăng cường sức đề kháng của nền kinh tế trước các cú sốc từ bên ngoài”. Đến cuối năm 2007, nước ta đã thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ tương đối đột ngột. Ngân Hàng Nhà Nước đã hút tiền về bằng cách áp dụng chính sách như bán tin phiếu tăng, tỉ lệ dự trữ bắt buộc của các Ngân Hàng TM. Cụ thể như là tỉ lệ dự trữ bắt buộc tiền gởi bằng đồng Việt Nam từ 5% lên 10% .
Tiếp tục đến đầu năm 2008, do vốn đầu tư nước ngoài tăng đột biến, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tính đến 6 tháng đầu năm 2008, con số này đã lên đến 31,6 tỷ USD, gấp rưỡi tổng vốn của cả năm 2007, đầu tư nước ngoài giải ngân trong 6 tháng đầu năm 2008 cũng đạt gần 5 tỷ USD, tăng 37,6% so với cùng kỳ năm trước. Với lượng ngoại tệ lớn chảy vào nước ta như vậy thì Ngân Hàng Nhà Nước đã thực hiện đơn thuần việc mua vào lượng USD này và tung VND ra để ổn định tỷ giá. Do điều hành chính sách tiền tệ với mục tiêu tăng trưởng kinh tế (GDP tăng từ 7,5-8%/năm), Chính phủ đã thực thực hiện chính sách tài khoá theo hướng mở rộng, thâm hụt ngân sách trong năm 2007 vào khoảng 5% GDP, đồng thời lượng vốn đầu tư công không đạt hiệu quả cao (ICOR là hơn 4 lần). Do đó lượng tiền cung ứng và cả lạm phát đều tăng cao. Đầu năm 2008 thì lạm phát đã trở thành một vấn đề đối với cả nền kinh tế. Nhằm mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát, Ngân Hàng Nhà Nước đã tích cực thực hiện hút tiền từ lưu thông về thông qua các công cụ, như: Tăng thêm 1% tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Quyết định số 187/QĐ-NHNN ngày 16/1/2008) nâng lãi suất cơ bản lên 14%; rút tiền gửi của kho bạc từ ngân hàng thương mại; phát hành tín phiếu NHNN bắt buộc 20.300 tỷ đồng kỳ hạn 1 năm, lãi suất 7,80%/năm (Quyết định số 346/QĐ-NHNN ngày 13/2/2008). Đặc biệt, NHNN đã điều hành linh hoạt các mức lãi suất chỉ đạo.
Trong những tháng đầu năm 2008 các công cụ nhằm hạn chế lượng tiền cung ứng đã bước đầu phát huy hiệu quả: lượng tiền huy động của hệ thống NHTM tiếp tục tăng lên (tiền gửi có kì hạn đã tăng 13%, dự trữ tăng 18%), lượng tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng chỉ tăng 7% so với cuối năm 2007 (còn khoảng 255 ngàn tỷ đồng)… Từ đó, lạm phát trong những tháng tiếp theo đã có dấu hiệu chững lại. Nhưng với việc thực thi chính sách thắt chặt tiền tệ của NHTW đã tác động trực tiếp đến thị trường tiền tệ và hoạt động kinh doanh của các NHTM, các NHTM đã không phản ứng kịp thời trước việc thắt chặt CSTT, cùng với việc quản lý thanh khoản của các NHTM còn bất cập đã gây nên tình trạng thiếu khả năng thanh khoản tại nhiều ngân hàng, làm giảm quy mô nguồn vốn; giảm khả năng cho vay và đã xảy ra cuộc đua lãi suất của các NHTM vào giữa năm 2008, lãi suất trên thị trường liên ngân hàng trong thời gian này có thời điểm lên đến 35%/năm. Điều này đã ảnh hưởng lớn đến đại đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ có số vốn ít, phụ thuộc rất nhìu vào nguồn vốn vay mượn từ ngân hàng.
Cuối năm 2008 đến đầu năm 2009
Theo PGS-TS Nguyễn Thị Mùi, Phó Giám đốc Học viện Tài chính (Bộ Tài chính) - thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tiền tệ quốc gia, lãi suất phải được điều hành theo hướng ổn định và giảm dần, nếu không giảm lãi suất sẽ ảnh hưởng đến vốn vay và đình trệ sản xuất. Bà Mùi nói: “Trong điều kiện lạm phát bắt đầu được kiểm soát, phải giảm dần lãi suất và không nên quá coi trọng chính sách thắt chặt tiền tệ. Nếu tiếp tục duy trì lãi suất cao sẽ phản tác dụng”
Theo Ông Bùi Đức Thụ, Vụ trưởng Vụ Tài chính ngân sách - Văn phòng Quốc hội, cho biết: “Tôi đi nhiều địa phương thấy DN đang đứng trước bờ vực thẳm. Đại bộ phận DN VN dựa vào vốn vay là chủ yếu. Hiện nay, không nhiều DN có thể chịu được lãi suất trên 20%/năm. Nếu tiếp tục thắt chặt tiền tệ, nhiều DN sẽ không trả được nợ và có nguy cơ phá sản, ảnh hưởng đến nền kinh tế”.
Trước tình hình này Ngân Hàng Nhà Nước phải quy định trần lãi suất huy động tiền gửi của các NHTM không được vượt quá 12%. Giải pháp trên đã có tác động nhanh chóng, tích cực “giảm đà tăng lãi suất huy động của các NHTM” chỉ trong vài ngày. Tiếp theo để tạo sự bình ổn thị trường bền vững, ổn định trở lại, NHNN thực hiện cơ chế điều hành lãi suất mới, theo đó quy định các NHTM cho vay nền kinh tế không vượt quá 150% lãi suất cơ bản và mức lãi suất cơ bản được điều chỉnh từ mức 12%/năm lên 14%/năm. Quy định này phù hợp với Bộ luật Dân sự hiện nay, đó như là một liệu pháp mạnh mang tính tình thế đã có tác động ổn định lãi suất và tăng trưởng tín dụng đã chậm lại.
Tháng 7/2008, tình hình kinh tế thế giới diễn ra theo chiều hướng bất ổn rõ nét: từ khủng hoảng thị trường nhà đất của Mỹ chuyển sang khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế đã xảy ra ở hầu hết nền kinh tế chủ chốt, như Nhật, Mỹ, Anh và nhiều nước Châu Âu; giá dầu và giá lương thực giảm mạnh kéo theo giá các mặt hàng tiêu dùng khác giảm theo... điều này cho thấy kinh tế thế giới đang từ xu hướng suy thoái kinh tế gắn lạm phát sang suy thoái kinh tế gắn với giảm phát đây là nỗi lo của các quốc gia. Để cứu nguy cho tình hình này, hầu hết các nền kinh tế đã thực hiện CSTT và chính sách tài khóa nới lỏng nhằm tăng tính thanh khoản cho thị trường, khuyến khích các NHTM mở rộng cho vay, kích thích đầu tư...
Trong tình hình kinh tế thế giới như vậy, mặc dù những tháng cuối năm 2008 mức độ ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu đến nền kinh tế Việt Nam,và thị trường tài chính Việt Nam còn nhỏ, song để ngăn chặn ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu và giảm áp lực lạm phát vẫn diễn ra ở Việt Nam đến tận tháng 9, NHNN áp dụng một số biện pháp hỗ trợ thị trường như nâng lãi suất tín phiếu bắt buộc, trả lãi cho tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND… đây là những bước mở đầu nhằm kích thích nền kinh tế chống lại nguy cơ giảm phát. Bắt đầu từ tháng 10, các loại lãi suất chỉ đạo đã liên tục được hạ xuống theo một lộ trình thích hợp. Lãi suất cơ bản từ mức 14%/năm sau 4 lần hạ hiện xuống còn 8,5%, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn cũng được hạ tương ứng, lãi suất huy động và cho vay bằng VND giảm 2,5%-3%/năm. Hành động này nhằm tạo sự hợp lý giữa các công cụ CSTT, giảm một phần chi phí hoạt động cho các NHTM, để các NHTM có điều kiện hạ lãi suất cho vay hỗ trợ cho các doanh nghiệp duy trì và mở rộng sản xuất, khuyến khích xuất khẩu trong điều kiện kinh tế thế giới suy thoái
Không chỉ vậy, trước diễn biến của khủng hoảng tài chính toàn cầu, từ 15/9/2008, NHNN đã chủ động đánh giá tác động tới hoạt động của hệ thống ngân hàng và nền kinh tế; chủ động các biện pháp nhằm quản lý an toàn và dự trữ ngoại hối Nhà nước; NHNN ban hành Chỉ thị số 05/2008/CT-NHNN ngày 09 tháng 10 năm 2008 của Thống đốc về một số biện pháp đảm bảo an toàn, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng. Trong đó, chú trọng các biện pháp ngăn ngừa rủi ro có thể xảy ra do tác động của khủng hoảng tài chính và dấu hiệu suy thoái kinh tế toàn cầu, chấp hành đúng quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động kinh doanh. Bên cạnh đó, NHNN còn tăng cường công tác thanh tra, giám sát hoạt động của các Tổ Chức Tín Dụng theo quy định của pháp luật và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế.
Đầu năm 2009 Nhà Nước chủ trương điều hành chính sách tiền tệ theo hướng nới lỏng một cách thận trọng. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp và dân cư trong xã hội tiếp cận được với vốn vay của hệ thống ngân hàng theo tinh thần của các gói giải pháp kích cầu của Chính phủ cũng như tạo điều kiện cho các NHTM hoạt động ổn định và hiệu quả, NHNN đã hạ thấp lãi suất chỉ đạo từ 14% xuống 7%, hạ thấp tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 11% xuống 5%. Ngày 1/2/2009 lãi suất cơ bản từ 8.5% hạ xuống còn 7%.
Do tác động phụ của chính sách hỗ trợ lãi suất cho vay bằng VND và việc điều chỉnh giảm lãi suất cơ bản bằng VND, nhiều doanh nghiệp không muốn vay ngoại tệ mà chuyển sang vay VND để mua ngoại tệ, dẫn đến nhu cầu mua ngoại tệ tăng mạnh, tình hình cung cầu ngoại tệ trở nên căng thẳng. Để tăng nguồn cung và ổn định thị trường ngoại tệ, NHNN đã triển khai quyết liệt nhiều giải pháp như mở rộng biên độ ấn định tỷ giá mua bán USD/VND của các ngân hàng thương mại từ +/-3% lên +/-5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng cùng phối hợp với các biện pháp điều tiết cung cầu ngoại tệ trên thị trường như bán ngoại tệ hỗ trợ nhu cầu nhập khẩu các mặt hàng thiết yếu đảm bảo ổn định sản xuất và đời sống; điều hoà ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ trên ngân hàng.
Trong 7 tháng đầu năm 2009, kinh tế nước ta dần lấy lại được đà tăng trưởng (6 tháng GDP tăng 3,9%, tháng 7, sản xuất nông nghiệp - công nghiệp và dịch vụ tiếp tục gia tăng), lạm phát là 3,22%. Trong những tháng cuối năm, mặc dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sản xuất - kinh doanh có chiều hướng thuận lợi hơn, nhưng lạm phát có xu hướng tăng do tác động của chính sách tài khoá, tiền tệ nới lỏng, Nhà nước điều chỉnh tăng lương và giá một số vật tư đầu vào; giá lương thực, xăng dầu và nguyên liệu cơ bản có thể tăng do tác động của giá cả thị trường thế giới
Từ tháng 7 năm 2009, NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ bằng cách điều chỉnh linh hoạt lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, lãi suất tín phiếu… Nhờ đó, tổng phương tiện thanh toán toàn ngành tăng 16-17% so với năm 2007, dư nợ tín dụng tăng 21-22%. Tỷ giá bình quân liên ngân hàng tăng 5,4%, tỷ giá giao dịch của các ngân hàng thương mại tăng 8-9%. Lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng giảm nhanh trong những tháng cuối năm, từ mức 23-24%/năm, xuống dưới 12,75%/năm, trong đó, mức lãi suất cho vay thấp nhất là 8,5%/năm. Vốn tín dụng đầu tư vào khu vực dân doanh tăng 35-37%; doanh nghiệp nhà nước tăng 12-14%; lĩnh vực xuất khẩu tăng 35-37%; sản xuất tăng 34-36%; nông nghiệp - nông thôn tăng 30%; cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách khác tăng 40-42%.
Cuối năm 2009 đến tháng 2/2010
Cuối năm 2009 và đầu năm 2010 CPI tăng chủ yếu do kinh tế phục hồi, tổng cầu tăng lên. Điều dễ thấy là giá lương thực, thực phẩm tăng mạnh. Tuy nhiên, chỉ số CPI ở Việt Nam tăng lên trong thời gian qua không thuần tuý là do cung tiền tăng nhờ chính sách tiền tệ linh hoạt mà còn do “chi phí đẩy” (tức là giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, giá điện nước tăng…).Hàng loạt nguyên nhiên vật liệu phục vụ sản xuất kinh doanh đã tăng cao như than đá (bán cho ngành điện), điện, nước, xăng dầu, lãi suất vay vốn cao… Không những vậy, Việt Nam là nước nhập siêu, lại nhập phần lớn nguyên nhiên vật liệu, nên cũng sẽ nhập khẩu lạm phát từ thế giới. Theo nhận định của PGS TS Trần Hoàng Ngân lạm phát tăng lên ở nước ta gần đây không hoàn toàn do cung tiền mà còn do “chi phí đẩy”. Do đó, chúng ta không nên thắt chặt tiền tệ mà nên có chính sách linh hoạt, đảm bảo cung ứng đủ vốn cho nền kinh tế, ưu tiên vốn các dự án sản xuất kinh doanh hiệu quả. Chính sách tiền tệ không nới lỏng mà cũng không thắt chặt, nên linh động để vừa kiểm soát lạm phát vừa đảm bảo kinh tế tăng trưởng phù hợp, từ ngày 1/12/2009 lãi suất cơ bản đã tăng lên 8%.
Để kiềm chế lạm phát ở mức một con số và đảm bảo GDP tăng trưởng 6,5%, trước hết chúng ta cần triển khai thực hiện thật tốt 6 giải pháp mà Chính phủ đã đề ra trong Nghị quyết 18 (ngày 6-4-2010). Trong đó, quan trọng nhất làm sao ổn định được giá xăng dầu trong thời gian dài; không tăng giá than và điện; tích cực thanh tra, giám sát việc chấp hành pháp lệnh về giá trong kinh doanh. Công tác quản lý giá cần được quan tâm nhiều hơn nữa để đẩy lùi được tình trạng lũng đoạn giá tồn tại phổ biến lâu nay. Quan trọng nữa là cải thiện cán cân thanh toán, kiểm soát nhập siêu, có giải pháp cụ thể hạn chế nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ và chưa cần thiết, hỗ trợ những ngành sản xuất nguyên vật liệu cơ bản và sản phẩm phục vụ xuất khẩu. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần có biện pháp để ổn định tỷ giá vì tỷ giá biến động sẽ gây lạm phát.
Theo mục tiêu phấn đấu thì sang năm 2010, NHNN phải thực hiện 2 mục tiêu đó là tăng trưởng và kiềm chế lạm phát. Và NHNN có khả năng đáp ứng cả hai mục tiêu, nhưng mục tiêu tăng trưởng có thể sẽ chiếm ưu thế vì tình hình kinh tế thế giới sẽ biến chuyển thuận lợi hơn, tạo điều kiện cho VN tăng trưởng nhanh hơn so với năm ngoái. Để đạt mức tăng trưởng 6,5% cho 2010, có lẽ chúng ta phải chấp nhận một mức độ lạm phát cao hơn 7%. Một mức lạm phát 7-9% có thể chấp nhận được. vì vậy, theo dự đoán trong thời gian sắp tới ngân hàng nhà nước sẽ thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt phù hợp với từng thời điểm của nên kinh tế và tạo điều kiện để đảm bảo mức tăng trưởng 6,5%.
Ta có thể dựa vào bản thông tin lãi suất qua các thời kì để hiểu roc hơn về chính sách tiền tệ của nước ta những năm sau khi gia nhập WTO
Áp dụng từ
Lãi suất
01/12/2006
8,25%/năm
01/02/2008
8,75%/năm
19/05/2008
12%/năm
01/07/2008
14%/năm
21/10/2008
13%/năm
05/11/2008
12%/năm
21/11/2008
11%/năm
05/12/2008
10%/năm
22/12/2008
8.5%/năm
01/02/2009
7%/năm
01/12/2009
8%/năm
Kiến nghị và giải pháp
Như vậy với 2 biện pháp trong chính sách tiền tệ năm 2007: tung tiền ra để mua ngoại tệ nhằm bình ổn tỉ giá, và tăng dự trữ bắt buộc nhằm giảm áp lực của lạm phát thì ba mục tiêu đã đạt được gồm: đảm bảo mục tiêu ổn định tỷ giá, tăng được lượng dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng lại không gây áp lực lạm phát. Có vẻ như ổn thỏa nhưng nếu xem xét kĩ thì về dài hạn chính sách này sẽ ảnh hưởng không tốt đến nền kinh tế. khi đó thì đồng tiền chảy vào không được đưa vào đầu tư mà lại nằm dưới dạng dự trữ không tạo ra giá trị gia tăng cho nền kinh tế, làm cho việc đầu tư không hiệu quả.
Trong bối cảnh nền kinh tế lạm phát cao và gặp nhiều khó khăn, các biện pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN trong năm 2008 đã có tác động tích cực đối với kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và duy trì đà tăng trưởng kinh tế, củng cố niềm tin đối với các tổ chức, cá nhân, các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Thực tế cho thấy, việc điều hành linh hoạt các công cụ quản lý đã phát huy tác dụng nhiều mặt, vừa kiểm soát khối lượng tiền trong lưu thông, vừa điều tiết lãi suất và tỷ giá trên thị trường, đồng thời phát ra tín hiệu rõ ràng về thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt để phối hợp điều tiết các hoạt động kinh tế của tổ chức, cá nhân phù hợp với mục tiêu chính sách. Cho nên trong bối cảnh của Việt nam là mới gia nhập WTO thì việc điều hành linh hoạt các công cụ quản lí là khá hợp lí. Điều này đã được chứng minh thông qua các dấu hiệu tích cực của nền kinh tế trong năm 2008 như:
Lạm phát đã có xu hướng giảm dần: CPI các tháng là: Tháng 1: +2,38%; tháng 2: +3,56%; tháng 3: +2,99%; tháng 4: +2,2%; tháng 5: +3,91%; tháng 6: +2,14%; tháng 7: +1,13%; tháng 8: +1,56%, tháng 9: + 0,18%, tháng 10: -0,19%, tháng 11: -0,76% là mức thấp nhất so với các tháng trước đó
Tổng phương tiện thanh toán và tín dụng được kiểm soát phù hợp với mục tiêu kiểm soát lạm phát
Tỷ giá VND so với USD trên thị trường liên ngân hàng tăng ở mức độ hợp lý. Tính đến ngày 28/11/2008: 16.483VND/USD, tăng 2,76% so với đầu năm, phù hợp với cung-cầu ngoại tệ,
Lãi suất có xu hướng giảm: Sau những động thái hạ các mức lãi suất chủ đạo của NHNN, hiện nay lãi suất huy động và cho vay của các TCTD đã giảm, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận vốn vay của ngân hàng dễ dàng hơn. Hiện nay lãi suất cho vay của NHTM Nhà nước khoảng 12-14%/năm, của NHTM cổ phần phổ biến ở mức 14-16%/năm
Biểu đồ lãi suất cho vay và huy động 10 tháng năm 2008
Nhập siêu được cải thiện trong những tháng gần đây: Mức nhập siêu giảm mạnh từ mức bình quân 2,4 tỷ USD/tháng trong 6 tháng đầu năm xuống trung bình trên 500 triệu USD/tháng từ tháng 7 đến tháng 10
Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tiếp tục tăng mạnh: Vốn FDI tiếp tục gia tăng: 10T/2008, FDI đăng ký đạt 58,3 tỷ USD, cả năm đạt 60,3 tỷ USD gấp 5 lần so với cùng kỳ năm 2007; vốn thực hiện đạt 9,1 tỷ USD
Trong năm 2008 thì một bài học cũng cần rút ra cho thực thi CSTT, đó là do chưa lường trước được phản ứng của thị trường, nên các biện pháp CSTT phần nào gây cú sốc thị trường, làm cho các NHTM có sự chao đảo nhất định trong kinh doanh. Nhưng cú sốc đó lại là bài học tốt cho các NHTM trong việc nâng cao hơn năng lực quản trị điều hành của mình, tạo đà để các NHTM đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính đang lan rộng toàn cầu và NHNN cũng rút được kinh nghiêm trong việc nghiên cứu, nằm bắt chính xác mức độ phản ứng của thị trường trước những thay đổi chính sách để có liều lượng chính sách thích hợp hơn, đạt được hiệu quả cao hơn trong điều hành, cũng như chủ động hơn trong các quyết sách để trở thành người cầm lái vững chắc trên thị trường tiền tệ.
Năm 2009, với việc thực hiện chính sách tiền tệ nới lỏng và thực hiện chương trình kích thích kinh tế của Chính phủ làm cho mức tăng trưởng tín dụng tăng cao. Vì vậy, việc tăng lãi suất cơ bản và điều chỉnh tỷ giá là việc làm cần thiết để tác động vào mức tăng trưởng tín dụng, kiểm soát chặt chẽ quy mô và chất lượng tín dụng, phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô theo Nghị quyết của Quốc hội và chủ trương của Chính phủ, đồng thời tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại huy động được vốn từ nền kinh tế và ngăn chặn ngay từ đầu trạng thái lạm phát cao có thể xảy ra khi nền kinh tế phục hồi.
Năm 2010, nền kinh tế thế giới đang dần phục hồi cho nên chính sách tiền tệ không quá thắt chặt để tạo điều kiện cho nền kinh tế tăng trưởng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Minh Hữu. (03/11/2008). Thị trường tiền tệ và “bộ ba bất khả thi”. Được lấy về từ:
ị-trường-tiền-tệ-va-bộ-ba-bất-khả-thi-2/
Thông tin pháp luật dân sự. (08/07/2008). Thông tin về lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam của Ngân Hàng Nhà Nước. Được lấy từ:
TS Nguyễn Thị Kim Thanh. (01/06/2009). Tóm lược chính sách tiền tệ 2008: Một năm chưa có tiền lệ. Được lấy từ:
Hoàng Minh. (18/11/2009). Thắt chặt tiền tệ tưc cuối năm 2007 là hoàn toàn đúng đắn. được lấy về từ:
Lê Trang, vụ CSTT – NHNN. (06/-1/2009). Chính sách tiền tệ 2008 – triển vọng 2009. Được lấy từ:
Và nhiều bài báo khác.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách tề tệ của việt nam sau khi gia nhập wto.docx