LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
1.1.Khái niệm, vị trí của CSTT
1.1.1.Khái niệm CSTT
1.1.2.Vị trí của CSTT
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ
1.2.1.Ổn định giá trị đồng tiền
1.2.2.Tăng công ăn việc làm
1.2.3.Tăng trưởng kinh tế
1.3 Các công cụ của CSTT
1.3.1.Nghiệp vụ thị trường mở
1.3.2 Dự trữ bắt buộc
1.3.3 Chính sách tái chiết khấu
1.3.4. Quản lý hạn mức tín dụng của các NHTM
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM VÀ VIỆC THỰC HIỆN CSTT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.Thực trạng kinh tế VN thời gian qua
2.1.1.Kinh tế VN năm 2006
2.1.2.Kinh tế VN năm 2007
2.1.3.Kinh tế VN năm 2008
2.2.Việc thực hiện CSTT ở Việt Nam hiện nay
2.2.1.Mục tiêu thực hiện CSTT ở Việt Nam hiện nay
2.2.2.Thực trạng việc thực hiện các công cụ của CSTT ở Việt Nam hiện nay
2.2.2.1.Công cụ lãi suất
2.2.2.3.Công cụ nghiệp vụ thị trường mở
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI VÀ HOÀN THIỆN CSTT
3.1.Nhóm giải pháp về việc tạo môi trường, điều kiện thuận lợi
3.2.Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách
KẾT LUẬN
35 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2839 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chính sách tiền tệ Quốc gia và các giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
* Cơ chế tác động: Đây là một cộng cụ điều chỉnh một cách trực tiếp đối với lượng tiền cung ứng, việc quy định pháp lý khối lượng hạn mức tín dụng cho nền kinh tế có quan hệ thuận chiều với qui mô lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của NHTM.
* Đặc điểm: Giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng khi các công cụ gián tiếp kém hiệu quả, đặc biệt tác dụng nhất thời của nó rất cao trong những giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế.Song nhược điểm của nó rất lớn: triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các NHTM, làm giảm hiệu quả phân bổ vốn trong nến kinh tế, dễ phát sinh nhiều hình thức tín dụng ngoài sự kiểm soát của NHTW và nó sẽ trở nên quá kìm hãm khi nhu cầu tín dụng cho việc phát triển kinh tế tăng lên .
1.3.5 Quản lý lãi suất của các NHTM:
* Khái niệm: Quản lý lãi suất của các NHTM là việc NHTW đưa ra một khung lãi suất hay ấn dịnh một trần lãi suất cho vay để hướng các NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng tới qui mô tín dụng của nền kinh tế và NHTW có thể đạt được quản lý mức cung tiền của mình.
* Cơ chế tác động: Việc điều chỉnh lãi suất theo xu hướng tăng hay giảm sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới qui mô huy động và cho vay của các NHTM làm cho lượng tiền cung ứng thay đổi theo.
* Đặc điểm: Giúp cho NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời kỳ, điều này phù hợp với các quốc gia khi chưa có điều kiện để phát huy tác dụng của các công cụ gián tiếp.Song, nó dễ làm mất đi tính khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì thực chất lãI suất là “giá cả” của vốn do vậy nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung cầu về vốn trong nến kinh tế .Mặt khác việc thay đổi quy định đIều chỉnh lãi suất dễ làm cho các NHTM bị động, tốn kém trong hoạt động kinh doanh của mình.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG KINH TẾ VIỆT NAM VÀ VIỆC THỰC HIỆN CSTT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1.Thực trạng kinh tế VN thời gian qua.
2.1.1.Kinh tế VN năm 2006.
* Tổng sản phẩm trong nước năm 2006 theo giá so sánh ước tính tăng 8,17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,37%; khu vực dịch vụ tăng 8,29%.Trong 8,17% tăng trưởng chung, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,67 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 4,16 điểm phần trăm và khu vực dịch vụ đóng góp 3,34 điểm phần trăm.
Khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,4%, thấp hơn mức tăng 4% của năm 2005, chủ yếu do tốc độ tăng của ngành nông nghiệp và thuỷ sản chậm lại vì ảnh hưởng của thời tiết bất thường và dịch bệnh. Khu vực công nghiệp, xây dựng tăng trưởng thấp hơn mức tăng của năm ngoái do sản xuất công nghiệp giảm (dầu thô khai thác đạt 17 triệu tấn, thấp hơn mức 18,5 triệu tấn của năm 2005; công nghiệp chế biến và điện, nước, ga cũng giảm so với mức tăng trưởng năm trước. Khu vực dịch vụ tăng cao hơn mức tăng trưởng chung của nền kinh tế, trong đó một số ngành có tỷ trọng lớn duy trì được mức độ tăng cao như thương nghiệp; vận tải, bưu chính viễn thông, du lịch; khách sạn, nhà hàng; tài chính ngân hàng, bảo hiểm.
* Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng khu vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ, giảm tỷ trọng khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản.Tỷ trọng khu vực công nghiệp và xây dựng từ 40,97% năm 2005 lên 41,52% trong năm nay; khu vực dịch vụ tăng từ 38,01% lên 38,08%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản giảm từ 21,02% xuống còn 20,40%.
* Tổng thu ngân sách Nhà nước năm 2006 ước tính bằng 110,2% dự toán cả năm, trong đó các khoản thu nội địa bằng 103%; thu từ dầu thô bằng 126%; thu cân đối ngân sách từ hoạt động xuất nhập khẩu bằng 106,3%; thu viện trợ bằng 148%. Chi ngân sách Nhà nước năm 2006 bằng 108,4% dự toán cả năm, bảo đảm được các kế hoạch chi cho đầu tư phát triển và chi thường xuyên. Bội chi ngân sách Nhà nước cả năm bằng mức dự toán cả năm, trong đó 74,2% được bù đắp bằng nguồn vay trong nước và 25,8% từ nguồn vay nước ngoài.
* Về nông, lâm nghiệp và thuỷ sản
Giá trị sản xuất khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản năm 2006 (theo giá cố định) ước tính tăng 4,4% so với năm 2005, trong đó nông nghiệp tăng 3,6%; lâm nghiệp tăng 1,2%; thuỷ sản tăng 7,7%.
* Về sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh 1994 ước tính đạt 490,82 nghìn tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước, trong đó khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng 9,1% (Trung ương quản lý tăng 11,9%; địa phương quản lý tăng 2%); khu vực ngoài Nhà nước tăng 23,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,8% (Dầu mỏ và khí đốt giảm 6,5%, các ngành khác tăng 25,4%). Nguyên nhân khu vực doanh nghiệp Nhà nước tăng thấp hơn, chủ yếu do giảm số doanh nghiệp, giảm nhiều nhất là doanh nghiệp Nhà nước địa phương quản lý do tiếp tục thực hiện triệt để hơn chủ trương của Nhà nước về đổi mới, sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước.
* Về đầu tư
Thực hiện vốn đầu tư năm 2006 theo giá thực tế ước tính đạt 398,9 nghìn tỷ đồng, bằng 105,9% kế hoạch năm, trong đó vốn Nhà nước chiếm tỷ trọng 50,1%, bằng 103,2%; vốn ngoài Nhà nước chiếm 33,6%, bằng 105,7%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 16,3%, bằng 116,1%.
Vốn đầu tư XDCB thuộc nguồn vốn ngân sách Nhà nước năm 2006 ước tính thực hiện 64,1 nghìn tỷ đồng, bằng 114,1% kế hoạch cả năm, trong đó vốn đầu tư do trung ương quản lý xấp xỉ 18 nghìn tỷ đồng, bằng 103,3%; vốn do địa phương quản lý 46,1 nghìn tỷ đồng, bằng 119%.
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài năm 2006 tiếp tục phát triển. Tính từ đầu năm đến 18/12/2006, cả nước có 797 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy phép với tổng số vốn đăng ký 7,57 tỷ USD, bình quân 1 dự án đạt 9,5 triệu USD. Cũng đến thời điểm trên, còn có 486 lượt dự án được tăng vốn với số vốn tăng thêm 2,36 tỷ USD; tính chung cả cấp mới và tăng vốn đến 18/12/2006 đạt 9,9 tỷ USD và như vậy cả năm 2006 sẽ đạt trên 10 tỷ USD, là mức cao nhất từ trước đến nay và cũng là một trong những sự kiện kinh tế nổi bật nhất trong năm 2006. Trong tổng vốn đăng ký thuộc các dự án ĐTNN được cấp phép năm nay, công nghiệp và xây dựng chiếm 68,4%; dịch vụ chiếm 30%; nông, lâm nghiệp, thuỷ sản chiếm 1,6%. Có 43 tỉnh, thành phố có dự án đầu tư nước ngoài mới cấp phép trong năm 2006, trong đó có 12 tỉnh, thành phố có số vốn đăng ký từ 100 triệu USD trở lên. Có 39 quốc gia và vùng lãnh thổ được cấp giấy phép đầu tư vào Việt Nam trong năm 2006.
* Về thương mại, giá cả và dịch vụ
Tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 580,7 nghìn tỷ đồng (tính theo giá thực tế) tăng 20,9% so với năm trước và tăng trên 13%, nếu loại trừ yếu tố giá, đây là mức tăng tương đối cao so với mức tăng trưởng, chứng tỏ sức mua tăng và tiêu dùng của dân cư tăng lên. Trong tổng mức, kinh tế nhà nước tăng 8,2%; kinh tế tập thể tăng 20,8%; kinh tế cá thể tăng 22,4%; kinh tế tư nhân tăng 25%; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng 21,5%. Phân tích theo ngành kinh tế, thương nghiệp tăng 19,9%; khách sạn, nhà hàng tăng 22,3%; dịch vụ tăng 31,6% và du lịch lữ hành, chiếm 0,7% tổng mức nhưng tăng 30,5%.
Giá tiêu dùng tháng 12/2006 tăng 0,5% so với tháng trước và tăng 6,6% so với tháng 12/2005, thấp hơn mức tăng trưởng và đạt mục tiêu về lạm phát mà Quốc hội đã đề ra. Giá của tất cả các nhóm hàng hoá và dịch vụ trong tháng 12 đều tăng so với cuối năm trước, trong đó hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 7,9%, là nhân tố chính đóng góp vào tăng giá tiêu dùng; các nhóm còn lại tăng phổ biến từ 3,5% đến 6,5%; riêng giá phân nhóm bưu chính, viễn thông giảm 2,9%. Giá bình quân năm 2006 tăng 7,5% so với năm trước, thấp hơn mức tăng của 2 năm liền trước (giá bình quân năm 2005 tăng 8,3%, năm 2004 tăng 7,7%).
Giá vàng tháng 12/2006 đã tăng 3,2% so với tháng trước và tăng 27,2% so với cuối năm trước. Bình quân giá vàng năm 2006 tăng 36,6% so với năm 2005, trong đó tăng mạnh ở các quí II và III với các mức tăng tương ứng là 47,6% và 44,5%. Giá đô la Mỹ tháng 12/2006 không tăng so với giá tháng 11, nhưng tăng 1% so với cuối năm 2005. Bình quân giá đô la Mỹ năm nay tăng 0,9% so với năm ngoái và không chênh lệch nhiều giữa các quí, mức giao động chỉ từ 0,9% tới 1,1%. Như vậy, nếu quan sát từ năm 2003 đến nay, giá đô la Mỹ tăng thấp đáng kể so với giá vàng và tăng thấp so với mức tăng giá tiêu dùng.
Tổng mức lưu chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu năm 2006 ước tính đạt 84 tỷ USD, tăng 21% so với năm trước, trong đó xuất khẩu tăng 22,1%; nhập khẩu tăng 20,1%; nhập siêu là 4,8 tỷ USD, bằng 12,1% kim ngạch xuất khẩu (các con số tương ứng của năm trước là 4,54 tỷ USD và 14%).
Xuất khẩu hàng hoá năm 2006 ước tính đạt 39,6 tỷ USD và đã vượt 4,9% so với kế hoạch cả năm, trong đó khu vực kinh tế trong 16,7 tỷ USD, tăng 20,5% so với năm trước, đóng góp 39,8% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài không kể dầu thô 14,5 tỷ USD, tăng 30,1%, đóng góp 46,9% và dầu thô 8,3 tỷ USD, tăng 12,9%, đóng góp 13,3%. Năm nay, có thêm cao su và cà phê đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD nâng tổng số các mặt hàng có kim ngạch từ 1 tỷ USD trở lên là 9, trong đó 4 mặt hàng lớn truyền thống là dầu thô, dệt may, giày dép và thuỷ sản kim ngạch mỗi mặt hàng đạt trên 3,3 tỷ USD. Xuất khẩu một số mặt hàng nông sản năm nay tăng mạnh, do phát triển nông nghiệp đúng hướng, đồng thời giá thế giới tăng cao, trong đó kim ngạch cao su tăng cao nhất (+58,3%); cà phê tăng tới 49,9% (hoàn toàn do được lợi về giá); riêng gạo giảm cả kim ngạch và lượng, chủ yếu do nguồn cung không tăng.
Nhập khẩu hàng hoá năm 2006 ước tính đạt 44,41 tỷ USD, vượt 4,5% so với kế hoạch năm 2006 và tăng 20,1% so với năm trước, trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 27,99 tỷ USD, tăng 19,9% và đóng góp 62,6% vào mức tăng chung; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 16,42 tỷ USD, tăng 20,4%, đóng góp 37,4%.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị và hầu hết các vật tư, nguyên liệu cho sản xuất trong nước đều tăng so với năm trước, đặc biệt là nhiều loại vật tư chủ yếu (trừ xăng dầu, phôi thép và phân u rê) có lượng nhập khẩu tăng khá. Nhập khẩu máy móc, thiết bị tăng 24,1%; xăng dầu 5,8 tỷ USD, tăng 16,4% (nhưng lượng nhập giảm 3,8%); phân bón tăng 5,1%; chất dẻo tăng 26,8%; hoá chất 18,6%; giấy các loại tăng 30,5%; vải tăng 23,1%; riêng nguyên phụ liệu dệt, may, da giảm 14,1%, và đang có xu hướng giảm do tăng sản xuất thay thế ở trong nước; sắt, thép 2,9 tỷ USD, giảm 0,9%, nhưng lượng tăng 1,8% nhờ giá giảm.
Xuất khẩu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 5,1 tỷ USD, tăng 19,6% so với năm 2005, trong đó một số dịch vụ có tỷ trọng cao đạt mức tăng trên 20% như: du lịch, tăng 23,9%; vận tải hàng không tăng 35,5%; dịch vụ hàng hải tăng 27,5%; dịch vụ tài chính tăng 22,7%. Nhập khẩu dịch vụ năm 2006 ước tính đạt 5,12 tỷ USD, tăng 14,3% so với năm trước, trong đó du lịch tăng 16,7% và cước phí vận tải, bảo hiểm (cif) chiếm 33,7%, tăng 20,1%. Nhập siêu dịch vụ năm 2006 chỉ còn khoảng 22 triệu USD (năm trước 220 triệu USD).
Vận chuyển hành khách năm 2006 ước tính đạt 1386,6 triệu lượt khách và 58,7 tỷ lượt khách.km, tăng 9,1% về lượt khách và tăng 10,2% về lượt khách.km so với năm 2005, trong đó vận chuyển hành khách bằng đường bộ chiếm 85,7% số lượt hành khách vận chuyển, tăng 10,1%; đường sông tăng 4,3%; hàng không tăng 15,5%; đường biển tăng 11,1%. Khối lượng hành khách luân chuyển tăng chủ yếu do tăng luân chuyển bằng đường bộ và đường hàng không. Riêng vận chuyển hành khách bằng đường sắt giảm cả về số lượt khách và lượt khách.km.
Vận chuyển hàng hoá năm 2006 ước tính đạt 350,4 triệu tấn và 88,6 tỷ tấn.km, tăng 8,1% về tấn và tăng 9,3% về tấn.km so với năm trước. Trong đó, vận tải cả trung ương, địa phương cũng như vận chuyển trên cả tuyến đường trong nước, quốc tế và các ngành đường đều tăng cả về tấn hàng hoá và tấn.km.
Khách quốc tế đến Việt Nam năm 2006 ước tính đạt 3,6 triệu lượt người, tăng 3% so với năm 2005, chưa đạt được mức tăng trưởng như mong đợi và là mức tăng tương đối thấp so với tốc độ tăng 18,8% của 2005, chủ yếu do khách đến từ Trung Quốc giảm tới 28%. Ngoài ra, khách đến từ một số nước như Cam-pu-chia, Lào, Phi-li-pin, In-đô-nê-xi-a…đều giảm từ 7,7% đến 22%. Theo mục đích đến, khách du lịch nghỉ ngơi chiếm 57,7% nhưng chỉ tăng 1,5% so với năm 2005; đi công việc tăng 16,2%; thăm thân nhân tăng 10,4%; riêng khách đến với các mục đích khác giảm 13,1%. Các nước có lượng khách đến nước ta đạt trên 100 nghìn lượt người vẫn giữ mức tăng trưởng cao như Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Ôx-trây-lia, Thái Lan và Xin-ga-po.
Bưu chính, Viễn thông 2006 tiếp tục là năm sôi động. Trên thị trường thông tin di động, có thêm mạng điện thoại di động EVN từ tháng 3/2006, thử nghiệm dịch vụ điện thoại di động CDMA của Viễn thông Hà Nội từ tháng 11/2006; các nhà cung cấp không ngừng đưa ra các loại hình dịch vụ mới và đa dạng để thu hút khách hàng; kết cấu hạ tầng viễn thông ngày càng hoàn thiện. Mạng lưới bưu chính được củng cố.Ước tính đến hết tháng 12/2006, trên cả nước đã có 25,4 triệu thuê bao điện thoại, tăng 60,5% so với cùng thời điểm năm 2005, trong đó Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông chiếm tới 67,4% thị phần với 17,1 triệu thuê bao (7,6 triệu thuê bao cố định và 9,5 triệu thuê bao di động).Số thuê bao internet phát triển năm 2006 của toàn mạng ước tính đạt 1,19 triệu thuê bao, bằng 95,9% so với năm 2005, do khách hàng chuyển sang sử dụng thuê bao băng rộng (ADSL).Ước tính đến cuối năm 2006, cả nước có 4,1 triệu thuê bao internet (với 1,77 triệu thuê bao thuộc Tập đoàn Bưu chính, Viễn thông). Tổng doanh thu bưu chính, viễn thông năm 2006 ước tính đạt 37,4 nghìn tỷ đồng, trong đó Tập đoàn Bưu chính Viễn thông 34,8 nghìn tỷ đồng.
2.1.2.Kinh tế VN năm 2007.
* Những thành tựu đạt được
Kinh tế tăng trưởng cao, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ là thành tựu nổi bật nhất, cơ bản nhất của nền kinh tế Việt Nam năm 2007. Tổng sản phẩm trong nước tăng 8,44%, đạt kế hoạch đề ra (8,0 - 8,5%), cao hơn năm 2006 (8,17%) và là mức cao nhất trong vòng 11 năm gần đây. Với tốc độ này, Việt Nam đứng vị trí thứ 3 về tốc độ tăng GDP năm 2007 của các nước châu Á sau Trung Quốc (11,3%) và Ấn Độ (khoảng 9%) và cao nhất trong các nước ASEAN (6,1%). Tốc độ tăng trưởng GDP cả 3 khu vực kinh tế chủ yếu đều đạt mức khá: Khu vực nông - lâm nghiệp và thủy sản ước tăng 3,0%/ so với mức 3,32% cùng kỳ 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 10,33% (riêng công nghiệp tăng 10,32%)/ so với mức 10,4% và 10,32% cùng kỳ và khu vực dịch vụ tăng 8,5%/ so với mức 8,29% của năm 2006. (tính theo giá so sánh năm 1994).
Nếu không có thiên tai, dịch bệnh lớn như vừa trải qua, tốc độ tăng GDP chắc chắn còn cao hơn 8,5%.Cơ cấu kinh tế theo giá thực tế chuyển dịch theo hướng tích cực.Tỷ trọng GDP khu vực nông - lâm nghiệp - thủy sản giảm còn dưới 20,0%/ so với 20,81% năm 2006, khu vực công nghiệp và xây dựng tăng dần và chiếm trên 41,7% so với 41.56% và khu vực dịch vụ tăng nhẹ, chiếm 38,30% so với 38,08% trong 2 năm tương ứng. Nét mới trong năm 2007 là tỷ trọng khu vực dịch vụ tăng cao và tốc độ tăng khá ổn định, quý sau cao hơn quý trước, trong điều kiện có khó khăn nhiều mặt, nhất là dịch vụ vận tải, du lịch, thương mại, tài chính ngân hàng trong bối cảnh hội nhập WTO.
Tổng số chi ngân sách nhà nước cả năm 2007 ước đạt dự toán năm. Bội chi ngân sách cả năm ước đạt 5% GDP. Đến nay ngân sách trung ương đã cấp chuyển 100% dự toán chi bổ sung cân đối cho các địa phương, trong đó một số địa phương có khó khăn đã được cấp đủ 100% trợ cấp cân đối ngân sách theo dự toán để chủ động nguồn xử lý các nhiệm vụ chi trong tháng cuối năm. Bên cạnh đó, việc bảo đảm lương thực cho công tác cứu trợ nhân dân và kinh phí để hỗ trợ các địa phương bị thiệt hại do mưa lũ gây ra cũng được chú trọng, đáp ứng kịp thời yêu cầu đề ra.
Kết quả tăng trưởng kinh tế vĩ mô và ổn định nền tài chính quốc gia năm 2007 như trên có nguyên nhân trực tiếp là các ngành sản xuất và dịch vụ tiếp tục phát triển và tăng trưởng cao.
Sản xuất công nghiệp tăng trưởng khá cao. Tính chung năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp (theo giá so sánh 1994) ước tăng 17,0% so với năm 2006, trong đó khu vực doanh nghiệp nhà nước tăng 10,4% (trung ương quản lý tăng 13,4%; địa phương quản lý tăng 3,5%); khu vực ngoài nhà nước tăng 20,9%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,0% (dầu mỏ và khí đốt giảm 7,37%, các ngành khác tăng 23,1%).
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đạt mức kỷ lục: Ước tính vốn đăng ký mới và vốn tăng thêm của các dự án cũ bổ sung cả năm 2007 đạt trên 20,3 tỉ USD, tăng 8,3 tỉ USD, so năm 2006 (12 tỉ USD), vượt kế hoạch 7 tỉ USD và là mức cao nhất từ trước đến nay. Tổng số vốn FDI năm 2007 đạt mức gần bằng vốn đầu tư của 5 năm 1991 - 1995 là 17 tỉ USD và vượt qua năm cao nhất 1996 là 10,1 tỉ USD. Vốn đầu tư chủ yếu tập trung vào dịch vụ 63,7% và công nghiệp 35,0%, ngành nông - lâm nghiệp thủy sản 1,3%.
Trong năm 2007 cả nước đã thu hút 350 lượt dự án tăng vốn với số vốn trên 3,2 tỉ USD vốn đầu tư tăng thêm của các dự án cũ. Nét mới trong thu hút vốn FDI năm 2007 là cơ cấu đầu tư đã chuyển dịch từ công nghiệp sang lĩnh vực dịch vụ khách sạn, căn hộ cho thuê, nhà hàng, du lịch, tài chính, ngân hàng... Tổng số vốn đầu tư nước ngoài (FDI) năm 2007 của nước ta đạt 20,3 tỉ USD là mức cao nhất từ trước đến nay.
Vốn đầu tư thực hiện năm 2007 ước đạt 5,1 tỉ USD, tăng 1,2 tỉ USD (30,7%) so năm 2006 (39,56 tỉ USD). Vốn đầu tư gián tiếp từ thị trường chứng khoán cả năm ước đạt từ 4,5 đến 5 tỉ USD năm 2007.
Xuất khẩu đạt mức cao nhất từ trước đến nay và tăng trưởng với tốc độ cao: Ước tính cả năm kim ngạch xuất khẩu đạt 47,7 tỉ USD, tăng 21% so năm 2006 (7,9 tỉ USD) và vượt 15,5% so kế hoạch. Trong đó khu vực kinh tế trong nước chiếm 42% và tăng 22,3%; khu vực FDI chiếm 58% và tăng 18,4%, (kể cả dầu thô) nếu không có dầu thô, tăng 30,4% so với năm 2006). Có 10 mặt hàng đạt trên 1 tỉ USD. Những thành tựu trên đây đã nâng vị thế của Việt Nam lên tầm cao mới. Quy mô nền kinh tế đã lớn mạnh hơn so năm 2006. Thu nhập quốc dân theo GDP năm 2007 tính bình quân đầu người đạt 835 USD, tăng 15 USD so kế hoạch. Dự trữ ngoại tệ đạt 20 tỉ USD, là mức cao so với các năm trước. Trong bối cảnh thiên tai, dịch bệnh của năm 2007, những kết quả đạt được về kinh tế như trên là những thành tựu to lớn, cơ bản và rất đáng tự hào. Nguyên nhân của những thành tựu đó có nhiều, trong đó đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách kinh tế tài chính có tác dụng kích thích sản xuất, mở rộng dịch vụ của Nhà nước và sự điều hành của Chính phủ có vai trò quyết định.
Thành tựu đó của kinh tế Việt Nam năm nay cũng được quốc tế thừa nhận. Chuyên gia kinh tế của Ngân hàng thế giới đánh giá khá lạc quan "Việt Nam tăng trưởng kinh tế tốt. Năm nay, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng tăng mức kỷ lục cả về vốn cam kết và vốn thực hiện, cho thấy tín hiệu tích cực từ cải cách đang hấp dẫn các nhà đầu tư. Chi trả nợ nước ngoài đạt kế hoạch. Nợ công và nợ nước ngoài vẫn ở mức kiểm soát được. Thị trường chứng khoán đi vào ổn định, các nhà đầu tư bắt đầu thận trọng hơn" (Báo Tuổi Trẻ 30-11-2007).
* Những bất cập và hạn chế
Giá cả tăng cao, không đạt được mục tiêu đề ra. Chỉ số giá tiêu dùng ước tăng 12,4% so với tháng 12-2006. Đây là tốc độ tăng giá cao nhất trong những năm gần đây, vượt qua tốc độ tăng GDP và không đạt mục tiêu đề ra. Nhóm hàng tăng giá cao nhất trong năm qua là hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 18,92%, riêng lương thực tăng 15,4%, giá thực phẩm tăng 21,16%, thứ 2 là nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 17,12%, thứ 3 là đồ dùng và dịch vụ khác tăng 9,02%, thứ 4 là dược phẩm, y tế tăng 7,05% và thứ 5 là may mặc, mũ nón, giày dép tăng 5,47%. ở Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ số giá cả ước cả năm tăng trên 12%.
Nguyên nhân tăng giá: Về khách quan, giá thế giới tăng, thiên tai, dịch bệnh lan rộng, gây thiệt hại nặng nề. Về nguyên nhân chủ quan do điều hành giá yếu, dự báo sai, điều hành chính sách tiền tệ chưa tốt. "Việc lúng túng trong điều hành thị trường tiền tệ cũng là một lý do khiến tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) vượt quá tốc độ tăng GDP" (đánh giá của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại hội nghị Kế hoạch và Đầu tư năm 2007, ngày 30-11-2007. Theo đánh giá của chuyên gia kinh tế WB tại Hà Nội: Lượng tiền lưu thông quá lớn, tỷ lệ tăng tín dụng trên 38%, so với tốc độ tăng GDP khoảng 8% thì con số đó là rất nhiều, dù cho các ngân hàng thương mại phải tăng tỷ lệ dự trữ, nhưng lượng tiền lưu thông vẫn rất nhiều. Do dòng vốn đổ vào thị trường mạnh nhưng chưa có cơ quan điều tiết đủ năng lực, chính sách ngoại hối, ngoại tệ chưa phát huy tác dụng vì chính sách của Chính phủ trong thị trường tiền tệ và hối đoái không nhất quán. Chính phủ mua USD vào nhiều và bơm tiền đồng ra thị trường có thể làm giảm giá đồng USD sẽ gây bất lợi cho xuất khẩu và tạo sức ép cho lạm phát (Báo Tuổi trẻ 30-11-2007).
Nhập siêu lớn. Chung cả năm, nhập siêu ước lên tới trên 13,1 tỉ USD, bằng 27,5% kim ngạch xuất khẩu. Điều này thể hiện rõ nhất trong 2 tháng cuối năm. Đáng chú ý là 3 mặt hàng nhập khẩu tăng gấp hơn 2 lần so năm 2006 là ô-tô nguyên chiếc xe máy nguyên chiếc và dầu mỡ động thực vật, không có mặt hàng nào giảm so với năm 2006 về kim ngạch.
Kim ngạch nhập khẩu cả năm 2007 ước đạt 60,8 tỉ USD, tăng 35,5% so năm 2006. Nguyên nhân nhập siêu cao có nhiều nhưng nguyên nhân khách quan do giá cả nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu thị trường thế giới tăng cao, nhất là xăng dầu, sắt thép, phôi thép, nhựa, vải sợi, phân bón, thức ăn gia súc. Nguyên nhân chủ quan do lúng túng trong điều hành xuất nhập khẩu của Nhà nước và các doanh nghiệp. Tốc độ tăng kim ngạch nhập khẩu cao hơn nhiều so với tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu; công tác dự báo thị trường chưa tốt, chất lượng hàng hóa xuất khẩu chưa cao, sức cạnh tranh còn hạn chế.
Tốc độ giải ngân vốn ODA tuy có tiến bộ, nhưng vẫn chậm so với yêu cầu. Trong 2 năm 2006 - 2007 cả nước mới giải ngân đươc 3,9 tỉ USD, tương đương 32% tổng vốn ODA dự kiến giải ngân thời kỳ 2006 - 2010. Nguyên nhân chính là do thiếu quy trình phù hợp, thủ tục phức tạp, thiếu rõ ràng, thiếu các quy định trách nhiệm của Việt Nam - nhà tài trợ, công tác di dân, giải phóng mặt bằng triển khai dự án, tổ chức đấu thầu lúng túng.Tỷ trọng vốn FDI trong nông nghiệp chỉ đạt 1,8% tổng số vốn đầu tư năm 2007 là quá thấp và không cân đối.
Chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao, chưa đều và chưa bền vững. Khuyết điểm này tồn tại đã nhiều năm nhưng vẫn tái diễn lại trong năm 2007. Trong công nghiệp, tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất khá cao 17%, nhưng tốc độ tăng trưởng giá trị tăng thêm vẫn thấp khoảng 10,2%. Khoảng cách chênh lệch giữa 2 tốc độ vẫn là gần 7%, chưa giảm, ngược lại cao hơn năm trước đó (17% và 10,34% của năm 2006). Nguyên nhân có nhiều, công nghiệp chế biến phụ thuộc vào nguyên liệu, vật liệu phụ nhập khẩu với giá cả tăng cao, nhất là dệt may, sắt thép, thị trường chưa thật ổn định, sức cạnh tranh còn thấp. Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu cũng chưa thật vững. Tuy nhiên những hạn chế và bất cập trên đây là khó tránh khỏi trong bối cảnh có nhiều khó khăn khách quan, nhất là thiên tai, dịch bệnh và sự biến động thất thường của thị trường thế giới, trong khi nền kinh tế Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi và bước đầu hội nhập. So với những thành tựu to lớn đã đạt được, những hạn chế và bất cập đó chỉ là thứ yếu, tạm thời, không cơ bản. Mặt khác, một số hạn chế cũng có yếu tố tích cực như nhập siêu chủ yếu là do nhập nguyên vật liệu, máy móc phục vụ sản xuất năm 2008, mua máy bay, nhập thiết bị nhà máy lọc dầu. Chỉ số giá tăng cao nhưng kinh tế vĩ mô ổn định, giá trị đồng tiền giữ vững, tỷ giá hối đoái không bị đảo lộn.
Trong bối cảnh khó khăn nhiều hơn thuận lợi nhưng kinh tế cả nước năm 2007 vẫn tăng cao, xã hội ổn định, thu nhập và đời sống dân cư về cơ bản ổn định và được cải thiện. Theo Tổng cục Thống kê, thu nhập của người dân bình quân đầu người năm 2007 tăng 5,8% so năm 2006, sau khi đã trừ tốc độ tăng giá. Tổng sức mua xã hội năm 2007 vẫn tăng 22%. Đó là những tín hiệu vui, là tiền đề vật chất và động lực tinh thần để cả nước bước vào năm 2008 với niềm tin: đủ khả năng hoàn thành kế hoạch: Tốc độ tăng GDP cao hơn năm 2007.
2.1.3.Kinh tế VN năm 2008.
Đối với Việt Nam, là nước có nền kinh tế đang phát triển mới bước vào hội nhập kinh tế quốc tế, mặc dù đến thời điểm này chưa chịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng như hầu hết nền kinh tế chủ chốt, nhưng đến năm 2009 có thể chịu ảnh hưởng mạnh hơn năm 2008. Do vậy, các động thái chính sách kinh tế vĩ mô, nhất là CSTT không thể đi ngược với xu thế hiện nay của thế giới.
Tuy nhiên, do nền kinh tế Viêt Nam có những diễn biến tương đối khác so với các nền kinh tế chủ chốt, nên liều lượng nới lỏng, cũng như thời điểm nới lỏng cần có sự nghiên cứu cho phù hợp với diễn biến tình hình.
* Diễn biến kinh tế Việt Nam năm 2008, mặc dù không đạt được mức tăng trưởng như mục tiêu đề ra, nhưng chưa có dấu hiệu suy thoái: tăng trưởng kinh tế quý I là 7,42%; quý II là 5,28%; quý III là 6,5%, cả năm đạt 6,23%, song một số lĩnh vực sản xuất gặp khó khăn do khủng hoảng, như lĩnh vực xuất khẩu, hàng hải… và tình trạng nhập siêu đang là vấn đề cần có những giải pháp để khắc phục, hạn chế đến mức thấp nhất sự suy giảm của nền kinh tế.
* Về lạm phát, biểu hiện ở chỉ số giá tiêu dùng tăng mạnh trong 8 tháng đầu năm, đạt ở mức 27,9% so với cùng kỳ và bắt đầu có xu hướng giảm từ tháng 9, tuy nhiên vẫn ở mức cao, bình quân cả năm 2008 là 22,97%. CPI của Việt Nam giảm do giá cả trên thế giới giảm, giá lương thực thực phẩm giảm mạnh, chứ không do nguyên nhân bởi cú sốc tiêu cực bên cầu do thất nghiệp hàng loạt, cung nhiều hơn cầu như các nền kinh tế chủ chốt, trên thực tế, nền kinh tế Việt Nam nguồn cung không dồi dào vượt cầu như các nước.
* Thêm vào đó, hệ thống NHTM Việt Nam, tuy cũng gặp khó khăn nhất định do tác động của cuộc khủng khoảng tài chính toàn cầu nhưng rõ ràng là không bị lâm vào tình trạng như NHTM của các nền kinh tế chủ chốt, đến thời điểm này hầu hết các NHTM Việt Nam đều kinh doanh có lãi.
Do tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng cuối 2007 và những tháng đầu năm 2008 tăng cao nên đến cuối tháng 4, đầu tháng 5/2008 một loạt ngân hàng mất tính thanh khoản. Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, chính sách tiền tệ thông qua điều hành lãi suất tiền gửi và lãi suất dự trữ bắt buộc kịp thời đã giúp ngân hàng vượt qua được thời kỳ sóng gió đó. Đến bây giờ cơ bản các ngân hàng hoạt động ổn định, lãi suất huy động và lãi suất cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần đã dần trở lại gần như cuối năm 2007.
2.2.Việc thực hiện CSTT ở Việt Nam hiện nay.
2.2.1.Mục tiêu thực hiện CSTT ở Việt Nam hiện nay.
Theo người đứng đầu Chính phủ, nhiệm vụ của Việt Nam trong năm 2009 vẫn là kiềm chế lạm phát. Các giải pháp chính nhằm ổn định kinh tế vĩ mô, ngăn chặn nguy cơ suy giảm nhưng vẫn đảm bảo kiềm chế lạm phát gồm: áp dụng chính sách tài khóa tiền tệ phù hợp, khuyến khích mạnh đầu tư phát triển cùng xuất khẩu và đảm bảo an sinh xã hội.
Thủ tướng nhấn mạnh Việt Nam sẽ áp dụng chính sách tiền tệ nới lỏng có kiểm soát, giảm lãi suất để kích thích đầu tư và hiện đã đưa lãi suất về gần với mức lãi suất trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính thế giới. Đi liền với đó là tạo điều kiện cho hệ thống ngân hàng hoạt động hiệu quả, tính thanh khoản được bảo đảm. Không để hệ thống ngân hàng (quốc doanh và cổ phần) mất ổn định. Các định chế tài chính, chứng khoán ở Việt Nam chưa phát triển nên nguồn vốn huy động cho nền kinh tế chủ yếu từ ngân hàng. Do đó Nhà nước phải can thiệp không chỉ bằng mệnh lệnh hành chính mà bằng thực lực của nền kinh tế khi các ngân hàng thương mại quốc doanh chiếm 70% thị phần cho vay. Trong bối cảnh các doanh nghiệp tồn kho lớn, chưa xuất khẩu được, các ngân hàng có thể hỗ trợ doanh nghiệp vượt khó khăn bằng khoanh nợ, giãn nợ, thậm chí giảm lãi suất.Cùng với đó chính sách tài khóa cũng được áp dụng như xem xét miễn giảm thuế cho doanh nghiệp để duy trì sản xuất.
2.2.2.Thực trạng việc thực hiện các công cụ của CSTT ở Việt Nam hiện nay.
2.2.2.1.Công cụ lãi suất.
Năm 2006.
Trong năm 2006, NHNN tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng, linh hoạt nhằm ổn định mặt bằng lãi suất. Theo đó, các mức lãi suất của NHNN công bố trong tháng 11/2006 không thay đổi so với cuối năm 2005, cụ thể như sau:
Các mức lãi suất
Tháng 1/2006
Tháng 11/2006
+/-
1.lãi suất tái cấp vốn
6,50
6,50
0
2.lãi suất tái chiết khấu
4,50
4,50
0
3.Lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử LNH
10,08
10,08
0
4.Lãi suất tiêng gửi VND của các TCTD tại NHNN đối với tiền gửi.
- Trong phạm vi DTBB
- Vượt quá mức DTBB
1,20
0,00
1,20
0,00
0
0
5. Lãi suất tiền gửi USD của các TCTD tại NHNN đối với tiền gửi:
- Trong phạm vi DTBB
- Vượt mức DTBB
0,00
1,00
0.00
1,00
0
0
6. Lãi suất tiền gửi USD của các TCTD
1,00
1,00
0
7. Lãi suất cơ bản
8,25
8,25
0
8. Lãi suất tại thị trường mở giao động
1,2
1,2
0
9. Lãi suất tiền gửi USD của các pháp nhân tại TCTD
- Không kỳ hạn
- Kỳ hạn ≤ 6 tháng
- Kỳ hạn > 6 tháng
≤ 0,50
≤ 1,20
≤ 1,50
≤ 0,50
≤ 1,20
≤ 1,50
0
0
0
Năm 2007
Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 75/2007/QĐ-BTC công bố lãi suất tín dụng đầu tư, tín dụng xuất khẩu của Nhà nước và mức chênh lệch lãi suất được tính hỗ trợ sau đầu tư. Theo đó, lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu bằng đồng Việt Nam giảm từ 9%/năm xuống 8,7%/năm.
Theo Quyết định này, lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước được giữ nguyên, cụ thể: Lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước bằng đồng Việt Nam là 9,0%/năm, bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi là 7,5%/năm; Đối với các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội; dự án phát triển nông nghiệp, nông thôn và dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn, dự án tại vùng đồng bào dân tộc Khơ me sinh sống tập trung, các xã thuộc Chương trình 135 và các xã biên giới thuộc Chương trình 120, các xã vùng bãi ngang, lãi suất cho vay tín dụng đầu tư của Nhà nước bằng đồng Việt Nam là 8,4%/năm, bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi là 6,9%/năm.
Đối với lãi suất cho vay tín dụng xuất khẩu của Nhà nước bằng đồng Việt Nam là 8,7%/năm, bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi là 6,9%/năm.
Cũng theo Quyết định này, mức chênh lệch lãi suất được tính hỗ trợ sau đầu tư là 3,9%/năm và áp dụng cho hợp đồng hỗ trợ sau đầu tư ký với Ngân hàng phát triển Việt Nam kể từ ngày 16/01/2007.
Năm 2008.
Từ giữa tháng 5/2008 đến nay, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản:
- Thực hiện cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mà theo đó, các NHTM ấn định lãi suất cho vay tối đa bằng 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố trong từng thời kỳ. Đây là công cụ trực tiếp để kiểm soát lãi suất kinh doanh của NHTM; đồng thời, NHNN tiếp tục điều hành linh hoạt các mức lãi suất nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất tái cấp vốn và tái chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Lãi suất cơ bản được xác định và công bố trên cơ sở xu hướng biến động cung - cầu vốn thị trường, mục tiêu của chính sách tiền tệ và các nhân tố tác động khác của thị trường tiền tệ, ngoại hối ở trong và ngoài nước.
- Thiết lập một hành lang lãi suất thị trường liên ngân hàng với biên độ chênh lệch khoảng 2% để điều tiết lãi suất thị trường: (i) "Trần" là lãi suất tái cấp vốn, "sàn" là lãi suất tái chiết khấu (hiện nay là 7% - 5%/năm); lãi suất cơ bản và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở biến động trong phạm vi hành lang này; (ii) Lãi suất nghiệp vụ thị trường mở đóng vai trò định hướng và thực hiện việc "bơm" tiền ra hoặc "hút" tiền về, từ đó tác động đến cung - cầu vốn, lãi suất thị trường liên ngân hàng và lãi suất huy động, cho vay của NHTM.
Từ tháng 5 - 9/2008, NHNN điều hành chính sách tiền tệ "thắt chặt", các mức lãi suất chủ đạo được điều chỉnh tăng, lãi suất cơ bản từ 12%/năm lên 14%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 13%/năm lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm lên 13%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 11,7%/năm lên 15%/năm. Từ tháng 10/2008 đến nay, NHNN chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ "thắt chặt" để chống lạm phát sang "nới lỏng" nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế, điều chỉnh giảm mạnh lãi suất cơ bản từ 14% - 13% - 11% - 8,5% - 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn từ 15% - 13% - 12% - 9,5% - 8% - 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 13% - 11% - 12% - 10% - 7,5% - 6%/năm, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở từ 15% - 14,3% - 13,5% - 11% - 9% - 8% - 7,5% - 7%/năm.
2.2.2.2.Công cụ dự trữ bắt buộc.
Năm 2006.
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước hôm 20/7 đã ký quyết định điều chỉnh phương thức trả lãi tiền gửi dự trữ bắt buộc nhằm giảm chi phí vốn cho các tổ chức tín dụng, đồng thời định hướng các ngân hàng sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả hơn.Theo quyết định này, Ngân hàng Nhà nước sẽ trả lãi 1,2%/năm cho phần tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND trong phạm vi mức dự trữ bắt buộc quy định. Với phần tiền VND gửi vượt dự trữ bắt buộc, sẽ không được hưởng lãi.
"Cách trả lãi này ngược lại so với các phương án hiện hành, tính lãi cho phần tiền vượt chứ không trả cho phần dự trữ theo quy định. Cách làm cũ không khuyến khích ngân hàng sử dụng đồng vốn một cách hiệu quả. Vì vậy, có đơn vị, phần tiền vượt cao gấp mấy lần so với quy định", một quan chức Vụ Chính sách Tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhận định. Theo vị quan chức này, cách trả lãi mới cũng góp phần giảm bớt chi phí vốn cho các ngân hàng thương mại trong bối cảnh phải nâg cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
Với tiền dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, cách trả lãi không thay đổi. Theo đó, lãi suất với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ của các tổ chức tín dụng gửi tại Ngân hàng Nhà nước được áp dụng mức 0%; lãi suất cho phần vượt là 1%/năm.
Năm 2007.
Từ 1/7, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng của các tổ chức tín dụng được điều chỉnh tăng lên ở tất cả các đơn vị.Theo đó, đối với các ngân hàng thương mại Nhà nước (trừ Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn), ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; Riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn là 4%.Các ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, ngân hàng hợp tác là 2%.
Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 2% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng cho các ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 8% cho tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tại các ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, công ty tài chính, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương.Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 2% đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới 24 tháng cho các ngân hàng thương mại Nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn, ngân hàng hợp tác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính.
Năm 2008.
Ngày 16-1, Thống đốc NHNN Việt Nam đã ký Quyết định 187 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng. Theo đó, kể từ tháng 2-2008, tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tăng thêm 1% đối với các loại tiền gửi so với tỷ lệ quy định hiện nay. Cụ thể, đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt buộc được tăng từ 4% lên 5%. Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng từ 4% lên 5%.
2.2.2.3.Công cụ nghiệp vụ thị trường mở.
Từ đầu năm 2004 đến nay, Ngân hàng nhà nước đã tổ chức được 78 phiên giao dịch thị trường mở. Tuy nhiên các phiên giao dịch từ đầu tháng 9/2004 đến nay không có kết quả trúng thầu. Tại phiên giao dịch thị trường mở thứ 74 trong năm 2004, được Ngân hàng nhà nước tổ chức cuối tháng 8/2004 vừa qua có 1 ngân hàng thương mại đăng ký dự thầu với khối lượng vốn đăng ký 125 tỷ đồng. Lãi suất đăng ký dự thầu cao nhất là 4,5%/năm, kết quả 125 tỷ đồng trúng thầu với lãi suất 4,40%/năm.
Thực hiện quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng theo xu hướng hội nhập quốc tế, Ngân hàng nhà nước Việt Nam cũng chuyển sang sử dụng công cụ gián tiếp điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có nghiệp vụ thị trường mở. Sau một thời gian nghiên cứu, tham khảo kinh nghiệm quốc tế và chuẩn bị đủ mọi điều kiện, ngày 12/7/2000, Ngân hàng nhà nước đã chính thức đưa công cụ nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động. Việc thực hiện nghiệp vụ này đánh dấu một sự chuyển biến quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước, từ sử dụng công cụ trực tiếp sang sử dụng các công cụ gián tiếp theo tín hiệu của thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế. Đến nay đã có 22 tổ chức kinh doanh tiền tệ được cấp giấy chứng nhận là thành viên nghiệp vụ thị trường mở, tăng thêm 4 thành viên so với khi mới khai trương hoạt động; trong đó có 4 NHTM Nhà nước, 10 NHTM cổ phần, 1 ngân hàng liên doanh, 5 chi nhánh NH nước ngoài, 1 công ty tài chính và Quỹ tín dụngTrung ương. Quy mô và doanh số hoạt động của thị trường mở ngày càng tăng thể hiện sự phát triển ổn định và bền vững của nghiệp vụ mới này. Trong 6 tháng cuối năm 2000, Ngân hàng nhà nước tổ chức được 17 phiên giao dịch với tổng khối lượng giấy tờ có giá mua bán là 1.903,5 tỷ đồng; năm 2001 có 48 phiên giao dịch với khối lượng vốn mua bán là 3.033,8 tỷ đồng.
Năm 2003, tổng doanh số giao dịch trên thị trường mở đạt 21.183,15 tỷ đồng; trong đó doanh số Ngân hàng nhà nước mua vào là 9.843,15 tỷ đồng, doanh số bán là 11.340 tỷ đồng.Năm 2004, bằng cách tiếp tục duy trì 2 phương thức giao dịch là mua có kỳ hạn và bán hẳn. Tính đến nay Ngân hàng nhà nước đã tổ chức được 78 phiên giao dịch thị trường mở, với tổng khối lượng trúng thầu nói trên. Tức là thông qua thị trường này trong gần 9 tháng đầu năm 2004, NHNN đã cung ứng hơn 22.000 tỷ đồng cho các NHTM, tăng đáng kể so với các năm trước đó... Xu hướng đó một mặt nghiệp vụ thị trường mở thực sự có hiệu quả trong việc tác động vào vốn khả dụng của NHNN, chủ động thu hút tiền về hoặc bơm tiền ra lưu thông trên cơ sở cung cầu vốn của thị trường; mặt khác cũng chứng tỏ thị trường mở hấp dẫn đối với các NHTM. Tác động tích cực làm ổn định lãi suất huy động vốn và lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại.
Lãi suất trên thị trường mở trong thời gian qua tăng nhẹ phản ánh diễn biến lãi suất trên thị trường tiền tệ và lãi suất ngắn hạn trong nền kinh tế. Trong các phiên giao dịch đầu năm 2004 lãi suất trúng thầu trên thị trường mở xoay quanh mức 3,20%/năm đến 3,50%/năm; các phiên gần đây tăng lên 3,5% - 4,0%/năm; trong khi đó lãi suất trúng thầu của các phiên trong năm 2003 chỉ có 2,29% -3,0%/năm của các phiên trước đó. Thời gian qua các ngân hàng: công thương, đầu tư & phát triển, nông nghiệp & phát triển nông thôn, ngoại thương thường xuyên đăng ký bán hàng trăm tỷ đồng tín phiếu còn thời hạn ngắn, nhưng 8 phiên gần đây mỗi phiên tổng số chỉ có 200 tỷ đồng trúng thầu. Điều đó chứng tỏ các NHTM đang linh hoạt sử dụng vốn khả dụng của mình. Đây cũng là cơ sở để cho lãi suất huy động vốn tương đối ổn định.
Song thông qua hoạt động của thị trường mở từ đầu năm 2004 đến nay cho thấy, một số tồn tại của thị trường này vẫn là hầu như chỉ có các NHTM nhà nước tham gia, các NHTM cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và ngân hàng liên doanh vẫn đứng ngoài, mặc dù ngân hàng nhà nước có nhiều nỗ lực để thu hút khối ngân hàng này vào cuộc.
Theo Quyết định số 27/2008/QĐ-NHNN của NHNN, ban hành ngày 30/9/2008, về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế nghiệp vụ thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 của NHNN, các Điều 2, 5, 7, 8, 9, 11, 12, 13, 14, 16, 20, 21, 22, 24, và Phụ lục số 03/TTM của Quy chế nghiệp vụ thị trường mở đã được sửa đổi, bố sung cho phù hợp với thực tế hiện nay của hoạt động thị trường mở. Như vậy, không còn quy định: “Ban Điều hành nghiệp vụ thị trường mở quyết định mỗi phiên giao dịch chỉ áp dụng một trong các phương thức này” của Quy chế cũ khi chưa sửa đổi.
Ngoài ra, những điểm đáng chú ý của việc sửa đổi, bổ sung theo Quyết định vừa ban hành còn bao gồm:
Trong quy định về phương thức đấu thầu khối lượng, trường hợp tại đơn dự thầu của tổ chức tín dụng trúng thầu đăng ký nhiều loại giấy tờ có giá cần mua hoặc bán: (1) Nếu không bao gồm các loại giấy tờ có giá mà NHNN quy định tỷ lệ giao dịch tại mỗi phiên giao dịch nghiệp vụ thị trường mở, NHNN xét thầu xác định thứ tự ưu tiên từng loại giấy tờ có giá theo thời hạn còn lại của các giấy tờ có giá ngắn hơn, sau đó mới tới giấy tờ có giá đăng ký bán hoặc mua có khối lượng lớn hơn; (2) Nếu bao gồm các loại giấy tờ có giá có quy định tỷ lệ giao dịch và các loại giấy tờ có giá không quy định tỷ lệ giao dịch, NHNN xét thầu theo nguyên tắc tỷ lệ các loại giấy tờ có giá trúng thầu tương ứng với tỷ lệ giao dịch của các loại giấy tờ có giá đăng ký tại đơn dự thầu theo quy định của NHNN.
Việc xác định thứ tự ưu tiên xét thầu trong số giấy tờ có giá không quy định tỷ lệ giao dịch và giấy tờ có giá có quy định tỷ lệ giao dịch cũng được thực hiện theo thời hạn còn lại của các giấy tờ có giá ngắn hơn, sau đó mới tới giấy tờ có giá đăng ký bán hoặc mua có khối lượng lớn hơn.
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI
VÀ HOÀN THIỆN CSTT
3.1.Nhóm giải pháp về việc tạo môi trường, điều kiện thuận lợi.
- Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó
trong một chỉnh thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT cần được độc lập với chính sách tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước.
- Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố và phát triển để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.
- Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện, cơ cấu lại hệ thống NH để đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .
- Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập, xử lý thông tin và ra quyết định điều hành CSTT.
- Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng, tài chính để cơ chế thực thi CSTT nói chung, các công cụ của CSTT nói riêng được nghiêm minh và có hiệu quả hơn.Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói quen mới trong tâm lý của các cá nhân, các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện các công cụ của CSTT có hiệu quả hơn
3.2.Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách
tiền tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh nhanh chóng hoàn thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực tiễn VN- phục vụ đắc lực cho quá trình đổi mới CSTT.Hệ thống các công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo hướng hỗ trợ, phối hợp thúc đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau.Cụ thể:
* Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHTN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần phải theo dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và
NHNN sẽ can thiệp vào hoạt động này trong điều kiện cụ thể.
* Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi ích của cả người gửi tiền, tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo điều kiện tập trung tối đa các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp các tổ chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố: Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp; sự biến động của quan hệ cung cầu; vốn đầu tư; mức độ lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị trường .
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu tư cho nền kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất ngắn hạn trong từng thời kỳ.Việc duy trì các mức lãi suất ưu đãi cho các đối tượng dân cư gặp điều khó khăn là phù hợp; tuy vậy chính phủ cần tìm các nguồn ngân sách và các kênh tài trợ hoạt động này đặt ngoài hoạt động kinh doanh của các NHTM quốc doanh.
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách hợp lý, từng bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên đất Việt Nam .
* Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
Vì dự trữ bắt buộc có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng huy động và cung ứng tín dụng cho nền kinh tế của các tổ chức tín dụng, do vậy trong cơ chế thị trường thì NHNN cần phải có cơ chế quản lý dự trữ bắt buộc thích hợp để tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các tổ chức tín dụng: nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đưa ra phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ, với mục tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam.
Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự trữ bắt buộc, đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế dự trữ để đảm bảo sự lành mạnh của hệ thống tài chính, ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu CSTT NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các qui chế dự trữ như: quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài chính NHNN.
Trong thời gian trước mắt ,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình huy động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế
Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ, thị trường vốn đã phát triển, các công cụ khác có thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân hàng Nhà nước nên có dự kiến giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để họ được linh động, mạnh dạn hơn trong hoạt động kinh doanh của mình .
* Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:
Thương phiếu, hối phiếu chính là sự ghi nhận của các quan hệ tín dụng thương mại trong nền kinh tế thị trường, ở nước ta hiện nay các hình thức tín dụng thương mại đã xuất hiện, doanh số hoạt động mua bán chịu có thời hạn giao nhận hàng thanh toán gối đầu giữa các doanh nghiệp là rất lớn.Do vậy cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thương phiếu trong các quan hệ tín dụng thương mại.
NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả việc điều chỉnh mức cung tiền .
Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và nên mở rộng đối tượng được vay chiết khấu để phát huy vai trò “người cho vay cuối cùng” của NHNN và đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô, chất lượng) để NHNN có cơ sở chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu, tạo ra tín hiệu tốt đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM . Mặt khác, cùng với xu hướng tự do hoá lãi suất thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên, trở thành một công cụ gián tiếp điều tiết lãi suất thị trường một cách hữu hiệu, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
* Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Phải phát triển thị trường mở theo hướng đưa nó trở thành một công cụ hữu hiệu, linh hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải:
- Theo dõi, tính toán, dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng, diễn biến ạm phát lãi suất, đầu tư...để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào thị trường mở như thế nào (mua bán tín phiếu), với lượng là bao nhiêu.
- NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị trường mở và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở.
- Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại lý phát hành tín phiếu, trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát hành các loại chứng chỉ tiền gửi...Muốn vậy NHNN phải nắm được ( quản lý) được các hoạt động này đồng thời tạo ra tính “thanh khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trường mở.
- Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp vụ thị trường mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ.
- Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của các thị trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường thứ cấp.
KẾT LUẬN
Như vậy, chính sách tiền tệ, đặc biệt là các công cụ của nó có vài trò rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường nói chung và nền kinh tế Việt Nam nói riêng.Việc sử dụng các công cụ đó như thế nào sẽ có ảnh hưởng rất lớn sự phát triển của nền kinh tế ở từng thời điểm cụ thể.
Việt Nam đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thì việc áp dụng các công cụ của CSTT luôn đòi hỏi phải có sự phù hợp, hiệu quả.Trong những năm đầu của thời kỳ đổi mới việc áp dụng các công cụ điều tiết trực tiếp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc kiềm chế lạm phát và thúc đẩy trưởng kinh tế.Tuy vậy thời gian gần đây chúng đã bộc lộ rõ những hạn chế khi nền kinh tế bước sang một giai đoạn phát triển mới. Trong khi đó các công cụ điều chỉnh gián tiếp mới được đưa vào sử dụng và chưa thực sự phát huy hết, hoặc chưa thể hiện rõ vai trò của nó do nhiều nguyên nhân gắn với thực lực của nền kinh tế.
Từ đó đòi hỏi chúng ta phải có những định hướng và giải pháp đúng trong việc hoàn thiện các công cụ đó. Để có được điều này, bên cạnh sự định hướng đúng đắn của Đảng và Nhà nước, cần phải có sự phát triển đồng bộ về năng lực NHNN, hệ thống NHTM... và nhiều sự phối hợp đồng bộ khác.
Do đó, việc nghiên cứu tìm hiểu về các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam phải được coi là cả một quá trình lâu dài và cần được tiếp tục phát triển về sau.
MỤC LỤC
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chính sách tiền tệ Quốc gia và các giải pháp hoàn thiện chính sách tiền tệ ở Việt Nam hiện nay.doc