Tâm là một trong những giá trị cần có của con người. Có tâm sẽ giúp con người ta sống thanh thản, có trách nhiệm với công việc của mình hơn. Đặc biệt hơn, nghề giáo viên là một trong những nghề cần chữ tâm ở vị trí hàng đầu. Người giáo viên là những người đưa đò qua sông. Nhân cách, sự thành bại của một con người chủ yếu là do người giáo viên.Vậy nên, Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm là nhiệm vụ vô cùng quan trong và rất cần thiết. Đây là vấn đề lớn trong chiến lược con người mà Đảng và Nhà nước ta xác định phải quan tâm trong thời kì đổi mới, thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cần giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên theo hướng kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống với những giá trị đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường. Cần đa dạng hóa các loại hình giáo dục đạo đức cho sinh viên mà quan trọng là kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Song nhà trường phải giữ vai trò chủ đạo trong tất cả các biện pháp nhằm tạo ra sự thống nhất cho mọi hoạt động. Khi lựa chọn các biện pháp cần dựa vào mục đích, nội dung từng hoạt động và dựa vào đặc điểm tâm lí sinh viên, phong tục tập quán của từng địa phương, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường
38 trang |
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 3278 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chữ tâm trong đạo phật với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iáo viên chưa nêu những điểm hạn chế và cách khắc phục.
Và khóa luận tốt nghiệp: phạm trù chữ “tâm”- trong triết học Trung Quốc thời kì Tiên Tần với việc hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện nay” Lê Thị Tươi, 2012, đã nêu về phạm trù chữ “tâm”,một số phạm trù triết học Trung Quốc thời kì Tiên Tần và qua đó hình thành nhân cách con người Việt Nam thông qua các mối quan hệ xã hội.Cũng chỉ dừng lại nghiên cứu con nguười Việt Nam nói chung ảnh hưởng của chữ tâm thời kì Tiên Tần.
Mặc dù vậy, cho đến nay chưa có bài viết nào tập trung khai thác tiếp cận chữ tâm trong phật giáo một cách hệ thống và phân tích vai trò của nó đối với giáo dục đạo đứccho sinh viên sư phạm.Vậy nên đề tài này có những cái mới nổi bật hơn nêu rõ chữ tâm trong đạo phật và chữ tâm theo quan niệm đạo đức, đi tìm hiểu vai trò của chữ tâm trong giáo dục đạo đức sinh viên sư phạm, từ đó tìm hiểu điểm mạnh, điểm yếu của việc vận dụng chữ tâm trong giáo dục đạo đức sinh viên sư phạm ngày nay từ đó tìm ra giải pháp.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Làm rõ chữ tâm trong đạo phật và ảnh hưởng của nó đến việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm, từ đó đưa ra các giải pháp để phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực của chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
4. Đối tượng nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu chữ tâm trong đạo phật đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay.
4.2 Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng- duy vật lịch sử, phân tích tổng hợp, khảo sát thực tiễn, đối chiếu so sánh. Ngoài ra, còn sử dụng cá phương pháp khái quát hóa, trừu tượng hóa trong quá trình nghiên cứu và trình bày.
5. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ảnh hưởng của chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
6. Những đóng góp mới của đề tài
6.1 Về phương diện lý luận
Đề tài góp phần hệ thống, cung cấp bổ sung thêm phần lý luận chung về chữ tâm trong phật giáo, và ảnh hưởng của nó đến việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm.
Phân tích làm sáng tỏ thêm vai trò của nó đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay.
6.2 Về phương diện thực tiễn
Đề tài góp phần tạo cơ sở cho việc phát huy tích cực và hạn chế những tiêu cực của chữ tâm đối với việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay.
Đề tài có thề sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến vấn đề chữ tâm trong phật giáo.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TẦM QUAN TRỌNG CỦA NGHIÊN CỨU CHỮ TÂM TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM
Chữ tâm trong quan niệm đạo đức và chữ tâm trong đạo phật
Chữ tâm trong qua niệm đạo đức
Chữ Tâm là phiên âm của chữ Hán, là chữ tượng hình của người Trung Quốc( một vầng trăng khuyết ba sao trên trời). “Tâm” là tim là trung tâm của trung tâm, là bộ phận quan trong nhất, quý giá nhất. Vì thế mà người ta ví Hà Nội là trái tim của cả nước. “tâm” là lương tâm, đức độ, tấm lòng, là lòng nhân ái của của con người với đồng loại. “Tâm” đồng thời cũng là sự bao dung, độ lượng, lòng vị tha, từ bi. “Tâm” cũng có thể hiểu là tâm tư, tâm tính, tâm can, tâm khảm. Theo từ điển tiếng việt, “tâm” được định nghĩa là mặt hồng cầu, ý chí của con người
Nhưng ở phương Tây với nền văn minh du mục, trọng “động” nên chữ “tâm” không được coi trọng như ở phương Đông. Ở phương Đông với nền văn minh nông nghiệp, gắn liền với cây lúa nước. Nên đời sống của người phương Đông thường ổn đinh, định cư lâu dài trên một địa bàn nhất định chứ không nay đây mai đó như nền văn minh du mục. Từ đó hình thành nên nếp sống, trật tự phép tắc, trong mối quan hệ giữa người với người. Chính vì thế mà chữ “tâm” đặc biệt được coi trọng
Người Trung Hoa cổ đại cho rằng “đức” có nguồn gốc từ tâm. Tâm là nơi phát sinh những tình cảm, đạo đức. Phải có tâm tốt thì mới có đức tốt. Vì vậy, cần phải có chân tâm, thành tâm, thiện tâm…. Ngoài ra cần phải có minh tâm để thấu hiểu lẽ thị phi “tâm như minh kính đài”. Đài gương tuy sáng nhưng cũng cần được gột rửa và tâm cũng thế. Tâm là cái bên trong, ẩn giấu (vì vậy chữ ẩn mới có từ căn là tâm). Mặc dù vậy, người ta thường nói phàm là làm việc gì nếu người khác không biết thì cũng có trời biết, đất biết, quỷ thần biết “tâm động quỷ thần tri”. Tâm chính là tấm lòng. Tâm chịu tác động của cuộc sống bên ngoài sinh ra tính (Bộ tâm đứng ghép với chữ “sinh” sẽ tạo thành tính). Mạnh Tử cho rằng“nhân chi sơ tính bản thiện”. Người có tính thiện là người biết giũ phần quý, bỏ phần hèn, giữ cái cao đạo bỏ phần ti tiện, có thể trở thành thánh nhân.Tính thiện của con người được biểu hiện ở bốn đức lớn đó là: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Bốn đức lớn đó lại bắt nguồn từ “tứ đoan” là: Lòng trắc ẩn (biết thượng xót), lòng tu ố( biết thẹn ghét), lòng tư nhượng (biết cung kính), lòng thị phi( biết phải trái). Lòng thương xót là đầu mối của nhân, lòng thẹn ghét là đầu mối của nghĩa, lòng cung kính là đầu mối của lễ, lòng thị phi là đầu mối của tri. Khác với Mạnh Tử, Tuân Tử thì cho rằng “nhân tri sơ tính bản ác”. Tính thiện chỉ là do con người trong quá trình rèn rũa mà có vì vậy cần phải giữ cho tâm chính định, sáng suốt, theo đạo lý đúng đắn mới tránh khỏi nhận thức sai lầm.
Còn ở Việt Nam, với truyền thồng văn hóa lâu đời chữ Tâm cũng luôn được đặt lên hàng đầu. Chữ Tâm đã trở thành một phạm trù cơ bản trong đạo lý truyền thống của dân tộc. Chữ Tâm luôn gắn với một con người, không chỉ là tình thương yêu, xuất phát từ bản chất thuần lương vốn có của con người, mà còn là sự căm ghét cái xấu, biết xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc.
Trong sự thăng trầm, hưng thịnh và diệt vong của các triều đại phong kiến, Việt Nam ta đã trải qua nhiều giai đoạn dưới sự cai trị của những nhà vua u tối cùng chế độ chính trị quan lại tham nhũng.
Nhiều sĩ phu tự biết mình không thể thay đổi được thế sự, nên đã chọn cho mình một con đường khác giúp dân, giúp nước - là treo ấn từ quan trở về đời thường, hoặc sống thanh bạch với nghề dạy học. Hình ảnh những người thầy như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Khuyến... mà tài năng, đạo đức của các vị đã trở thành niềm tự hào của nền giáo dục của đất nước có lịch sử ngàn năm văn hiến.
Học trò - những môn sinh của ho ở khắp nơi, không chỉ học kiến thức uyên bác, mà còn học ở thầy khí phách của chữ Tâm, sống trọn đạo một con dân đất Việt.
Bởi vậy trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, khi bị giặc Nguyên bắt và dụ hàng, Trần Bình Trọng đã khảng khái "Ta thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc". Còn khi giặc Pháp xâm lược nước ta, Triều đình nhà Nguyễn yêu cầu Trương Công Định thu binh nghị hòa, nhưng ông đã thẳng thắn trả lời: "Triều đình hòa nghị, cứ hòa nghị, còn Định đây thì không hòa nghị, Định không nỡ ngồi nhìn giang sơn chìm đắm"....
Còn rất nhiều con dân đất Việt tuổi đời còn rất trẻ, đã ngã xuống nơi biên giới, biển đảo xa xôi, để bảo vệ từng tấc đất hương hỏa của cha ông.
Chữ Tâm trong đạo lí truyền thống, của người dân Việt vẫn luôn tỏa sáng; không chỉ là tình thương yêu, mà còn là xả thân vì nghĩa lớn, vì quốc gia, dân tộc - "Quốc gia hưng vong, sĩ phu hữu trách".
Phong trào (cách mạng) dân chủ đã (xóa bỏ chế độ quân chủ), làm thay đổi cơ bản đời sống chính trị trên phạm vi toàn thế giới. Chính quyền nhà nước được thành lập, thông qua vận động tranh cử của các đảng phái chính trị, và bầu cử dân chủ, nhưng hình thức thì mỗi nền văn minh vẫn còn nhiều khác biệt.
Trong bất kỳ thể chế chính trị nào, chữ Tâm luôn là một tiêu chẩn lựa chọn con người, gánh vác việc nước. Nhưng công chúng (lịch sử) luôn là người đánh giá đúng thực chất của chữ Tâm, dù đó là của cá nhân hay của một tổ chức đảng phái chính trị.
Chữ Tâm được dân chúng sử dụng một cách công bằng, bình đẳng, để đánh giá về nhân phẩm (tốt, xấu) của một chủ thể (con người, hay một tổ chức đảng phái), mà không phụ thuộc vào địa vị, giai cấp mà chủ thể đó. Nhân phẩm của chủ thể, được dân chúng xác định thông qua bản chất, động cơ của hành động, trong những sự việc do chính chủ thể đó làm ra.
Tâm trong Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo ra đời vào khoảng thế kỉ VI trước công nguyên ở Ấn Độ cho rằng con người sống trong cuộc đời này là đau khổ. Mục đích của đạo phật là giải thoát sự đau khổ ấy. Tình cảm, cảm xúc của con người chia ra làm bảy trạng thái( ái, ô, kỉ, nộ, ai, lạc, lục). Để giữ tâm hồn được thanh thản thì phải điều hòa, kết hợp bảy trạng thái cảm xúc ấy( yêu, ghét, vui, buồn, tức giận,….phải cân bằng)
Khi nói đến đạo phật, vấn đề trung tâm và vật thường đặt ra cho người ta rằng đạo phật là duy tâm vì trong kinh phật có câu: “Nhất thiết duy tâm tạo”. Vậy ta phải hiểu chữ duy tâm ở đây như thế nào. “Duy tâm” trong đạo phật khác hẳn với duy tâm trong triết học tây phương. Triết học Tây Phương hiểu chữ tâm là tinh thần, đối với vạn vật là vật chất. Chữ tâm trong đạo phật có ý nghĩa hoàn toàn khác. Vậy chữ tâm trong đạo phật là gì?
Khái niệm “tâm” của Phật Giáo không đơn giản như các học giả phương Tây lầm tưởng. Tâm được xem là một trong những phạm trù quan trọng, cơ bản của Phật Giáo. Kinh Pháp Cú, vốn được xem như Kinh Thánh của Phật Giáo mở đầu như sau:“Tâm dẫn đầu các pháp. Tâm là chủ. Tâm tạo tất cả”. Một cách khái quát, qua các kinh điển Phật Giáo người ta có thể phân biệt sáu loại tâm:
Nhục đoàn tâm (肉團心): trái tim thịt (Phật Giáo không để ý nhiều tới nghĩa này). Ví dụ: “Hễ Bồ Tát nghe tiếng bọn người ác ngoại đạo đem lời dèm pha phá huỷ Phật giáo, dường như ba trăm mũi giáo đâm vào tâm mình” (Bồ Tát Giáo Kinh).
Tinh yếu tâm (精要心): chỗ kín mật, chỉ cái tinh hoa cốt tuỷ. Ví dụ: “Phật pháp lấy tâm làm gốc, lấy thân và khẩu làm ngọn” (Long Thọ Bồ Tát).
Kiên thực tâm (堅實心): là cái tâm không hư vọng, cũng gọi là chân tâm. Chỉ cái tuyệt đối, cái mầm mống giác ngộ vốn sẵn có trong mỗi chúng ta, đó là Phật tính:"Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chân tâm"(Kinh Thủ Lăng Nghiêm).
Liễu biệt tâm (了別心): gồm sáu loại nhận thức đầu trong tám thức, tức là tri thức giác quan và ý thức. Căn cứ phát sinh của nó là giác quan, thần kinh hệ và não bộ. Có tác dụng dựa vào với ngoại cảnh bên ngoài và phân biệt nhận thức chúng: “Tâm buồn cảnh được vui sao, tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”.
Tư lượng tâm (思量心) còn gọi là Mạt-na thức (末那識): thức thứ bảy trong tám thức. Một trong các chức năng chính của nó là nhận lập trường chủ quan của thức thứ tám (A-lại-da thức), lầm cho lập trường này là bản ngã của chính mình, vì vậy mà tạo ra chấp ngã, là bản ngã, cái tôi của con người (ego-consciousness). Bản chất của nó là suy tính, nhưng có sự khác với thức thứ sáu. Nó được xem là tâm trạng của một lĩnh vực mà người ta không thể điều khiển một cách có chủ ý, thường phát sinh những mâu thuẫn của những quyết định tâm thức và không ngừng chấp dính vào bản ngã: “Mạt-na nhậm trì ý thức linh phân biệt chuyển, thị cố thuyết vi ý thức sở y: Mạt-na nhận lấy ý thức, khiến sinh khởi phân biệt; nên gọi nó là chỗ y cứ của ý thức” (Du-già sư địa luận)
Tập khởi tâm (集起心) còn gọi là A-lại-da thức (阿賴耶識) dịch nghĩa là tạng thức (藏識): chứa đựng mọi kinh nghiệm của đời sống mỗi con người và nguồn gốc tất cả các hiện tượng tinh thần. Là căn nguyên của mọi hoạt động nhận thức, hoạt động tâm lý; là nơi lưu trữ những hạt giống sinh ra muôn sự muôn vật, hữu hình hay vô hình. Tâm lý học phương Tây thường gọi thức này là vô thức hay tiềm thức: “Nhất thiết thế gian trung. Mặc bất tùng tâm tạo: Tất cả những gì trong thế gian. Đều là do tâm tạo” (Kinh Hoa Nghiêm).
Phật Giáo không quan niệm tâm là một cái gì thuần nhất, giản đơn theo kiểu như khái niệm linh hồn. Theo Ngũ uẩn, tâm không phải chỉ là một cục hay một khối cứng nhắc, mà là một luồng tư tưởng, một chuỗi dài tư tưởng, có sinh có diệt (khác quan niệm “hồn thiêng bất tử”), có năng lực (nghiệp lực) được chuyển từ luồng này sang luồng khác. Cái luồng tâm này với những nghiệp lực là căn bản cho sự tái sinh. Theo Vi Diệu pháp, tâm không phải là một cá thể, mà là một dòng tâm thức gồm nhiều loại tâm khởi lên rồi diệt. Khi con người còn sống thì dòng tâm thức lặng lẽ trôi chảy trong ngũ uẩn, nếu không có một tâm nào khác khởi lên. Khi chết, dòng tâm thức cuối cùng của kiếp này trở thành dòng tâm thức đầu tiên của kiếp sau. Duy Thức học khai triển thêm tâm thức là cái biết, căn bản là tạng thức, chứa đựng các loại chủng tử ... Tóm lại, dù nhìn dưới khía cạnh nào, có thể nói theo Thiền Tông: Có hai thứ tâm. Một thứ là tâm theo dòng tâm thức, khởi lên rồi diệt, vì ngũ uẩn bị mê mờ bởi tham ái, dục lạc, vọng tưởng; tâm này được gọi là Vọng tâm là tâm của chúng sinh. Hai là Chân tâm có tự tính là thanh tịnh, không sinh diệt, không dao động, thường vắng lặng, là tính giác của những vị đã giác ngộ, cũng còn được gọi là Tâm Phật.
Như vậy tâm trong đạo phật chỉ như dòng chảy trong một sác na đã khởi lên một ý niệm ác, tâm ta luôn luôn biến chuyển cho nên gọi là tâm phân duyên. Nghĩa là lúc viết thế này, lúc nghĩ thế kia được gọi là vọng động, cho nên cái tâm luôn quan trọng vỡi mỗi con người.
Vai trò chữ tâm trong đạo đức nhà giáo ở nước ta hiện nay
1.2.1 Chữ “tâm” giúp những nhà giáo có trách nhiệm với công việc của mình hơn
Dạy học là một nghề đặc biệt, mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Người thầy góp phần tạo dựng nên tâm hồn, nhân cách và trí tuệ của con người nên được xã hội quý trọng. Vì lẽ đó người thầy càng phải tu dưỡng phẩm chất đạo đức, rèn luyện kỹ năng nghề nghiệp để thực hiện tốt trọng trách “trồng người” mà xã hội giao cho.
Đã làm thầy thì yêu cầu đầu tiên là phải có đạo đức. Đạo đức của người thầy thể hiện ở cái tâm trong sáng, tận tâm, tận tụy với nghề, hết lòng thương yêu học sinh. Người thầy phải lấy chuẩn mực của nhà giáo trong cuộc sống ra làm gương cho học sinh. Người thầy có tâm, truyền đạt kiến thức cho các em thôi chưa đủ, còn phải giáo dục kỹ năng sống, điều chỉnh hành vi đạo đức của học sinh. Giáo viên không chỉ đến lớp dạy hết giờ rồi về, mà người thầy có tâm phải tìm hiểu tâm tư, tình cảm của các em, sẻ chia khi các em có chuyện buồn vui.
Đạo đức của người thầy còn thể hiện ở chỗ dạy thật, học thật, không để học sinh ngồi nhầm lớp, không để học sinh nghỉ, bỏ học. Những em không có khả năng tiếp thu bài tốt, giáo viên cần mạnh dạn cho các em học lại. Nếu giáo viên thương trò cho lên lớp, các em không có được kiến thức vững chắc thì sẽ chới với khi học ở lớp cao hơn, làm như vậy là không có đạo đức lương tâm nghề nghiệp. Trong cơ chế thị trường, nếu người thầy không có cái tâm trong sáng sẽ dễ bị sa ngã. Sự cám dỗ của đồng tiền dễ đưa người thầy đến chỗ tạo áp lực để học sinh học thêm vô tội vạ. Tuy nhiên, dù khó khăn đến đâu nhà giáo vẫn giữ cái tâm trong sạch liêm khiết.
Người giáo viên có tinh thần trách nhiệm với học sinh, khi soạn giảng phải biết học sinh còn khiếm khuyết những gì. Và, soạn giáo án là một lẽ, khi lên lớp, tùy đối tượng học sinh mà có sự điều chỉnh phù hợp. Không có phương pháp giảng dạy nào là hoàn chỉnh cả, giáo viên phải biết khơi gợi, hiểu năng lực học sinh để có phương pháp dạy thích hợp.
Đạo đức hay cái tâm của người thầy còn thể hiện ở lòng nhân ái. Từ lòng thương yêu học sinh, thầy cô đem cả con tim, khối óc ra để nghiên cứu, tìm tòi phương pháp giảng dạy hay tốt. Và tính sáng tạo cũng là một đòi hỏi ở người thầy. Sáng tạo trong vận dụng tri thức, công nghệ mới vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ; tích cực nghiên cứu, tự làm đồ dùng dạy học mới hoặc cải tiến đồ dùng dạy học đã có cho phù hợp với bài dạy; ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy, xử lý tốt các tình huống sư phạm…Trong giảng dạy, giáo viên luôn tâm huyết với nghề, luôn giữ gìn vị thế và vai trò của người thầy, không ngừng đổi mới phương pháp dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, tận dụng tối đa phương tiện và thiết bị sẵn có để nâng cao hiệu quả giảng dạy. Giáo viên còn nghiên cứu tự làm thêm một số đồ dùng dạy học mới ngoài danh mục thiết bị cấp phát phục vụ cho các tiết dạy của mình và đồng nghiệp. Xây dựng các phần mềm ứng dụng trong công tác kiểm tra đánh giá học sinh, các bài mô phỏng giúp học sinh trực quan hóa các hiện tượng trong bài giảng, giúp các em nắm vững nội dung bài học.
Người thầy có trách nhiệm với trò còn thể hiện ở tinh thần tự học nâng cao trình độ về mọi mặt. Thời gian qua, đội ngũ nhà giáo đã tích cực tự học, tự rèn để nâng cao trình độ chuẩn và trên chuẩn. Có những nhà giáo dù sắp về hưu vẫn theo học thạc sĩ, tiến sĩ. Ai trong chúng ta cũng đều cảm nhận được rằng sự hiểu biết của mình không là gì cả so với kho tàng tri thức nhân loại. Hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển với tốc độ vũ bão. Tri thức ngày càng mở rộng và đào sâu, phương tiện để tiếp cận ngày càng thuận tiện và nhanh chóng. Chỉ cần một ngày không cập nhật là đã lạc hậu bao nhiêu so với học sinh. Để tránh tình trạng phải cố với sức, tránh cảm giác bị thiếu hụt và tạo niềm tin cho học sinh, vậy nên mọi người đều phải tích cực, không ngừng phấn đấu nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
Có thể nói, việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh gắn với các cuộc vận động của ngành như: “Hai không”, “mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo”, “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” đã tạo nên luồng sinh khí mới để mỗi người thầy tự học, tự rèn, góp phần xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục.
Đó chính là cái tâm, là trách nhiệm của người thầy giáo đối với học sinh. Nhìn lại giáo viên đều giữ được lòng yêu nghề, được nhân dân, đồng nghiệp,và học sinh yêu mến kính trọng.
1.2.2 Chữ “tâm” giúp cho mỗi nhà giáo trở nên yêu nghề hơn
Cũng như bao nghề khác trong xã hội, nghề giáo luôn cần một chữ “tâm”. Nhưng chữ “tâm” của nghề giáo đặc biệt hơn, bởi lẽ nhiệm vụ của nghề giáo không chỉ đào tạo nên những con người “vừa hồng, vừa chuyên” mà còn làm cho tâm hồn những con người ấy trở nên tinh tú, tuyệt vời hơn, hướng những thế giới tâm hồn riêng ấy đến một thế giới chung đầy tình thân ái, đoàn kết. Chữ “tâm” chính là đòn bẩy để mỗi nhà giáo thực hiện trọng trách này. Bởi khi thực hiện trọng trách cao cả và thiêng liêng ấy họ tìm thấy được niềm vui và hạnh phúc. Hạnh phúc đối với nghề giáo thật đơn giản, nó đôi khi chỉ là một ánh mắt, nụ cười, lời cảm ơn chân thành từ học sinh, từ phụ huynh, bà con, hàng xóm; hay mỗi khi nghe tin học trò đậu đại học, có được việc làm, gặt hái được những thành công trong cuộc sống nhờ có công lao dạy dỗ của mình. Tất cả những điều đó đã quá đủ hạnh phúc cho một giáo viên và khi ấy họ cảm thấy cái nghề này sao mà cao quý đến vậy như cố thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “Nghề giáo là nghề cao quý nhất trong tất cả những nghề cao quý”. Chỉ cần người giáo viên có được chữ tâm trong mình sẽ vượt qua được mọi thách thức khó khăn trong cuộc sống, tích cực học tập để nâng cao trình độ chuyên môn phù hợp với sự phát triển của xã hội. Hơn thế, có chữ tâm trong nghề còn giúp mình có trách nhiệm hơn với nhiệm vụ được giao, có trách nhiệm với học trò.
1.2.3. Chữ “tâm” giúp cho người thầy nâng cao chất lượng dạy học
Người thầy có một vai trò đặc biệt quan trọng, ở người thầy phải hội tụ những phẩm chất cao đẹp, ngoài tri thức uyên thâm tài năng sư phạm, người thầy còn phải có lòng vị tha, biết thương yêu và quý trọng học sinh, sinh viên của mình, có lối sống lành mạnh để làm gương cho học sinh và sinh viên noi theo... chính những điều ấy giúp cho học sinh, sinh viên có hứng thú học tập. Từ đó dẫn đến chất lượng các giờ học cao, kết quả học tập ngày càng tốt đối với học sinh đó cũng chính là nguồn động lực kích thích lòng đam mê nhiệt huyết yêu cái nghề cao quý của mình
Người thầy đứng trên bục giảng phải thể hiện một sự công bằng và nghiêm túc đối với học sinh, sinh viên. Mỗi người thầy "công bằng và nghiêm túc" sẽ tạo cho học sinh, sinh viên có niềm tin trong cuộc sống, có ý thức học tập tốt, rèn luyện nghiêm. Chính sự nghiêm túc của thầy còn giúp cho những học sinh, sinh viên lơ là, chểnh mảng trong học tập và rèn luyện biết tự sửa mình, tự lực cánh sinh vượt qua mọi khó khăn thử thách trong học tập cũng như trong cuộc sống. Ngược lại, nếu người thầy thiếu nghiêm túc trong giảng dạy và lối sống thì ít nhiều cũng ảnh hưởng không tốt đến học sinh, sinh viên. Người thầy phải đề ra các biện pháp, kỷ luật chặt chẽ đối với những học sinh, sinh viên còn kém tư cách, thiếu ý thức nhưng đồng thời cũng phải có hình thức biểu dương khen thưởng thích đáng đối với học sinh, sinh viên học tập, tu dưỡng tốt. Có như vậy mới khuyến khích được tinh thần học tập rèn luyện phẩm chất đạo đức lối sống của học sinh, sinh viên.
Một yêu cầu hết sức quan trọng đối với người làm công tác giảng dạy trong các trường đại học và cao đẳng là trình độ hiểu biết, năng lực chyên môn. Bởi tài năng của người thầy cũng chính là nhân tố cực kỳ quan trọng trong việc truyền thụ kiến thức chuyên môn và rèn luyện tu dưỡng cho học sinh, sinh viên. Một người thầy "võ cao, quyền giỏi" sẽ tạo cho học sinh, sinh viên một thái độ phục tùng, tôn trọng, có niềm tin, học hỏi kinh nghiệm nghề nghiệp và lối sống.
Trong quá trình giảng dạy, người thầy không chỉ đưa đến cho học sinh, sinh viên những kiến thức chuyên môn mà còn truyền thụ cho họ những thế giới quan - phương pháp luận khoa học vốn sống, về đạo làm người trong quá trình hoạt động thực tiễn. Say mê nghề nghiệp, có ý thức đoàn kết tập thể, tôn trọng đồng đội, giúp đỡ bạn bè, tuân thủ hiến pháp, pháp luật. Biết cống hiến và hy sinh, có tinh thần đấu tranh với những tiêu cực trong học tập và rèn luyện, lối sống. Đó là hội tụ tất cả những phẩm chất tốt đẹp thuộc về đạo đức của học sinh, sinh viên mà người thầy cần phải truyền đạt cho mỗi học sinh, sinh viên trong quá trình đào tạo tại các nhà trường
Qua phân tích vai trò chữ tâm chúng ta nhận thấy, vai trò của người thầy trong việc giáo dục đạo đức, nghề nghiệp cho sinh viên là vô cùng to lớn. Vì vậy xây dựng đội ngũ những người thầy mẫu mực có đạo đức trong sáng và có chuyên môn nghiệp vụ giỏi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của các nhà trường nói riêng và ngành giáo dục đào tạo nói chung.
CHƯƠNG 2: PHÁT HUY VAI TRÒ CHỮ TÂM TRONG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CHO SINH VIÊN SƯ PHẠM HIỆN NAY- THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
2.1 Đặc thù của sinh viên sư phạm
2.1.1 Sinh viên sư phạm là gì
Sinh viên sư phạm là những sinh viên đang học tập rèn luyện trong các trường đại học, cao đẳng sư phạm được đào tạo theo một chương trình chuyên biệt, sinh viên có nhiệm vụ học tập, tích lũy tri thức, trau dồi đạo đức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, phát triển nhân cách toàn diện để trở thành những người thầy giáo trong tương lai.
2.1.2 Một số đặc thù của sinh viên sư phạm
Đối với sinh viên sư phạm, hầu hết họ luôn hướng giá trị của nghề dạy học lên hàng đầu. Bên cạnh giá trị “trình độ học vấn”, sinh viên sư phạm còn đề cao việc cống hiến công sức của mình cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ, cho công cuộc xây dựng xã hội. Ngoài ra, theo họ đã là sinh viên sư phạm thì phải có lòng yêu mến học sinh, có lý tưởng đào tạo thế hệ trẻ, yêu nghề, có thế giới quan khoa học, có ý chí vượt khó. Đó chính là những giá trị cần thiết để trở thành một giáo viên có tâm trong tương lai, cũng là mục tiêu mà những sinh viên sư phạm đang theo đuổi.
Hầu hết các sinh viên sư phạm cho rằng giá trị quan trọng nữa của giáo viên là phải có tinh thần trách nhiệm cao, giáo dục chuẩn mực đạo đức xã hội ở học sinh, góp phần nâng cao dân trí, bổ sung nhân tài.Vậy nên các sinh viên sư phạm ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường đã luôn ý thức được: sống là phải có trách nhiệm với những gì ta đã chọn.
Có rất nhiều quan điểm về sinh viên sư phạm ngày nay trong đó có quan điểm của Mechel Develay như sau: Nghề sư phạm được xác định trước hết không phải xác định bằng hoạt động dạy mà bằng hoạt động học của người học. Tức là giúp người học tìm ra những tình huống học làm chủ kỹ xảo tạo ra cầu nối nhận thức. Xuất phát từ đặc điểm lao động của nghề giáo, đòi hỏi người sinh viên sư phạm ngày nay trong những năm tháng học tập ở trường đại học phải không ngừng phấn đấu rèn luyện nhằm hoàn thiện nhân cách người thầy giáo tương lai.
Còn theo các nhà giáo dục Mỹ sinh viên sư phạm phải là người có chí hướng phục vụ cộng đồng, chấp nhận gắn bó suốt đời với nghề dạy học, có thời gian lâu dài được đào tạo chuyên môn, có khối lượng trí thức và năng lực xác định cao hơn so với những người không chuyên đáp ứng tiêu chuẩn bằng cấp, hoặc những nhu cầu tuyển dụng, chấp nhận trách nhiệm đối với sự đánh giá và các hoạt động được thực hiện có liên quan đến công việc được giao.
Từ các quan điểm trên ta thấy dù ở đất nước nào đã là nhà giáo thì cần phải có chữ tâm trong mình, không ngừng hoàn thiện nhân cách, là tâm gương sáng cho học sinh noi theo. Đối với sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội cũng vậy đều là những thầy, cô giáo tương lai thì trước tiên phải là những công dân gương mẫu, thực hiện tốt chữ tâm trong giáo dục, là tấm gương sáng gương mẫu cho học sinh sau này. Sinh viên sư phạm là những người bằng nhân cách của mình góp phần đào tạo thế hệ trẻ thành những lớp người kế tục xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
2.2. Thực trạng chữ tâm trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiên nay
2.2.1 Thành tựu của việc phát huy vai trò chữ tâm trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay
Chữ tâm luôn gắn liền với cuộc sống của mỗi con người, nếu như biết cách phát huy chữ tâm ấy trong mình thì vô cùng ý nghĩa và tốt đẹp. Sinh viên sư phạm cũng vậy, khi còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng đã có chữ tâm trong nghề dạy học thì sinh viên ấy đã đạt được rất nhiều các thành tựu quý giá cho bản thân.
Thứ nhất, chữ tâm giúp cho sinh viên sư phạm yêu nghề dạy học. Đúng vậy, có chữ tâm người sinh viên sau khi ra trường mang trong mình lòng nhiệt huyết dạy trò những điều hay, lẽ phải, cung cấp những tri thức bổ ích cho học sinh, là những người hàng ngày trở lớp lớp các chuyến đò qua sông. Từ những tấm gương sáng của các thầy cô giáo trong nhà trường sư phạm, đã giúp cho sinh viên sư phạm nhận ra sự thật về cái tâm của nghề dạy học nó ý nghĩa như thế nào đối với nghề giáo. Chính vì những động lực như vậy mà giúp cho sinh vien sư phạm ngày càng yêu cái nghề của mình hơn.
Thứ hai, chữ tâm giúp cho sinh viên sư phạm khắc phục những sai lầm trong quá trình học tập. Sinh viên có chữ tâm trong nghề sẽ ý thức được sau này mình là người đi dạy nhân cách, tri thức cho học sinh. Vậy nên, ngay từ bây giờ luôn cố gắng phấn đấu, không vì chút khó khăn mà chùn bước. Không ngại khó ngại khổ, tham gia nhiệt tình các đề tài nghiên cứu khoa học, qua các lần nghiên cứu sẽ rút ra được nhiều bài học quý báu cho bản thân. Giúp cho sinh viên ấy hình thành nên tính ham học hỏi, tích lũy vốn tri thức sâu rộng của nhân loại sau ngày khi ra trường khi làm công tác giảng dạy cũng sẽ không ngừng cập nhật, thay đổi phương pháp dạy học cho phù hợp với từng đối tượng.Khi có chữ tâm sinh viên sư phạm còn không ngừng khắc phục những điều gian dối trong học tập và thi cử. Lẽ nào là một giáo viên tương lai, lại đi quay bài trong các lần kiểm tra và thi. Vậy sau này, khi đã là giáo viên không đủ tư cách để dạy đạo đức nhân cách cho học sinh. Điều đó cho thấy, có chữ tâm là vô cùng quan trọng của nghề dạy học nói riêng và của con người nói chung.
Thứ ba, chữ tâm giúp cho sinh viên sư phạm có ý thức học tập, rèn luyện đạt được kết quả cao hơn. Nhờ có chữ tâm, sinh viên sẽ ý thức được bản thân mình sau này là một nhà giáo sẽ luôn cố gắng tích cực học tập, tích lũy nguồn tri thức quý báu, sau này khi ra trường có thể đem nguồn tri thức ấy cung cấp cho học sinh thân yêu của mình. Nếu như không học tập và rèn luyện ngay từ khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường thì sau này khi đứng trước học sinh sẽ bị thụ động, không làm chủ bản thân, dễ rơi vào tình trạng mất bình tĩnh, không trả lời được những câu học sinh thắc mắc, dẫn đến chất lượng giờ học thấp, học sinh sẽ không còn tôn trọng giáo viên áy, cho rằng trình độ của giáo viên ấy thấp không đủ khả năng để dạy học.
2.2.2 Hạn chế của chữ tâm trong giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm hiện nay
Bên cạnh những thành tựu giáo dục chữ tâm cho sinh viên sư phạm còn có một số điểm hạn chế vẫn còn tồn tại khá phổ biến không chỉ ở các sinh viên học các trường đại học mà ngay ở sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội đó là việc:
Nhiều sinh viên vẫn còn có biểu hiện thiếu lương tâm, đạo đức trong học tập, rèn luyện, vẫn còn có sinh viên sư phạm trốn học, trốn tiết, vô kỷ luật
Thực tế, tình trạng trốn học trốn tiết ngày nay diễn ra tương đối phổ biến trong các trường đại học trong đó có sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội. Hiện tượng này diễn ra ngày càng phổ biến ở các bạn sinh viên chỉ vì chữ lười mà sẵn sàng trốn học để làm các việc vô bổ. Nhiều bạn nói rằng, chỉ vì đang ngủ, mà phải dậy đi học đúng lúc sáng sớm hoặc giữa trưa thì cũng sẵn sàng nghỉ học để ngủ, một số bạn khác lại nói rằng chẳng qua là không có hứng lên giảng đường, gặp gỡ giảng viên nào đó mà sẵn sàng trốn học để đi chơi giải tỏa tâm trạng không muốn học. Tuy vậy cũng còn có một số bạn nghỉ học trốn tiết do trùng lịch với việc làm thêm không thể xin nghỉ mãi được nên đành buổi đi học buổi nghỉ, trốn được buổi nào hay buổi ấy dẫn đến tchaats lượng đào tạo bị ảnh hưởng
Vẫn còn có sinh viên không thuộc bài, không học bài, trong thi cử còn sai phạm
Một hiện tượng diễn ra ở hầu hết các bạn sinh viên. Không còn cái thời ngày ngày học bài cũ trước khi đến lớp để kiểm tra bài cũ, kiểm tra mười lăm phút bất ngờ như ở trung học phổ thông. Vì không còn sự ép buộc nên khi lên học đại học nhiều bạn chưa ý thức được việc quan trọng của chuẩn bị bài trước khi đến lớp. Nhiều sinh viên mang sách đến lớp rồi hết giờ lại mang về, khi nào đến tiết lại mang đi. Chính vì thế mà không hiểu được bài học một cách sâu sắc, câu hỏi khác đi là không biết trả lời đẫn đến việc sai phạm trong thi cử. Tuy là các giáo viên tương lai nhưng các bạn vẫn dùng nhiều thủ đoạn gian lận trong thi cử để đạt được mục đích trước mắt quên đi nhân cách của một nhà giáo.
Còn có sinh viên mất trật tự, gây rối trong sinh hoạt tập thể (nói chuyện, nghe, gọi điện thoại trong giờ học, sinh hoạt tập thể)
Hiện tượng này diễn ra tương đối phổ biến ở sinh viên trường đại học sư phạm Hà Nội. Khi lên giảng đường học rất nhiều bạn lên với mục đích điểm danh, có mặt đủ, không chú ý đến việc học. Vậy nên trong giờ học rất nhiều bạn nói chuyện, nghe nhạc, nhắn tin trong lớp thậm chó còn có bạn ngang nhiên nghe điện thoại trong lớp . Từ đó ảnh hưởng đến chất lượng giờ học, nhiều bạn có ý thức học không thể tập trung từng lời dạy của thầy cô.
Trang phục không phù hợp với môi trường sư phạm
Hiện nay, rất nhiều sinh viên quan tâm thái quá đến cách ăn mặc, làm đẹp. Họ cũng rất quan tâm đến vẻ đẹp, trang phục của nhau, của những người nổi tiếng mà họ cho là thần tượng. Từ đó, họ thường mặc giống như thần tượng ngay cả khi đi học. Điều đáng nói là những bộ cánh mà các nữ sinh viên khoắc trên mình đôi khi hở hang hoặc ngắn đến mức còn ngắn được nữa, điều đó không phù hợp với thuần phong mỹ tục trong môi trường sư phạm, đặc biệt là với sinh viên sư phạm.
2.1.3 Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó
Có những hạn chế đáng buồn như vậy là do rất nhiều nguyên nhân, có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan.Tình trạng sinh viên bỏ học, trốn tiết như vậy phần nhiều là do điều kiện sống còn thiếu thốn, sinh viên còn nhiều khó khăn, sinh viên vừa học vừa phải đi làm để kiếm tiền trang trải các sinh hoạt nên ảnh hưởng không nhỏ đến kết quả học tập và rèn luyện. Tuy nhiên cuộc sống có khó khăn đến đâu thì cũng không được xao nhãng việc hoc. Mục đích chính của chúng ta ngồi trên mái trường này là sau này cùng truyền đạt những tri thức kinh nghiệm, việc làm thêm chỉ là phụ để đỡ khoản tiền chi tiêu trong gia đình. Vậy nên đi làm thêm sẽ rất tốt với những ai có thể điều nhỉnh hợp lý thời gian học và thời gian làm thêm, vừa giúp đỡ gia đình lại vừa có thể có them kinh nghiệp trong cuộc sống. Dù là hoàn cảnh nào đi chăng nữa việc trốn học, trốn tiết là không nên. Hãy cân đối giữa thời gian học và thời gian đi làm thêm.
Thứ hai, một bộ phận sinh viên chưa có ý thức cao trong học tập, sinh hoạt, thiếu ý chí phấn đấu, sống phụ thuộc vào người khác, đua đòi, hưởng thụ và nhận thức xã hội thấp. Đúng vậy nhiều bạn sinh viên mới vào trường đã không có ý thức học tập, vẫn còn có suy nghĩ xả hơi sau những ngày dài ôn thi đại học. Đó chính là nguyên nhân dẫ đến hiện tượng ý thức học tập kém. Bởi lẽ từ khi mới vào nhập học đã có thức học tập kém dẫn đến không hiểu bài mà dần dần mất kiến tức chán nản không muốn học dẫn đến chất lượng đào tạo kém. Vậy nên ngay từ ngồi trên ghế nhà trườn sinh viên luôn có tinh thần học tập, không dựa dẫm vào bạn è mà hãy là chính bản thân mình tự mình đứng lên sau những lần thất bại.
Thứ ba, Sinh viên chưa được quan tâm đúng mức về giáo dục đạo đức truyền thống trong cả phạm vi gia đình, nhà trường và xã hội. Sự quan tâm đúng mức về
Thứ tư, Tình trạng chưa có nhiệm sở của nhiều sinh viên sau khi ra trường đã tác động đến lớp sinh viên đang học, làm cho các em chán nản, mất niềm tin. Đúng vậy, vấn đề việc làm là vấn đề hết sức nhạy cảm, đối với những sinh viên ra trường nhưng công việc chưa có, làm mất lòng tin vào các bạn sinh viên vẫn còn đang ngồi trên ghế nhà trường sư phạm.Vậy nên, tránh bị ản hưởng bởi yếu tố bên ngoài sinh viên đang ngồi trên ghế nhà trường hãy luôn học tập và phấn đấu hết mình, chắc chắn những nhân tài sẽ được chấp nhận trong xã hội những người lười học không có kiến thức sẽ bị đào thải,
Thứ năm, Do quản lí chưa chặt chẽ trong cả phạm vi gia đình, nhà trường và xã hội…đúng vậy nhiều sinh viên do ở xa bố mẹ, không còn bị 2 bố mẹ quản lý nữa nên sống buông thả hơn, với nhưng ý nghĩ nông nổi muốn làm gì thì làm vậy nên dẫn đến những tệ nạn xã hội. Để tránh những hiện tượng đó xảy ra trươc tiên mỗi bản thân chúng ta phải xác định trứơc mục tiêu của mình là gì, và mình là người như thế nào để không sông buông thả.
2.2 Giải pháp phát huy vai trò chữ tâm trong giáo dục đạp đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm
2.2.1. Đổi mới chương trình đào tạo
Đổi mới cách thức đào tạo là đổi mới nội dung, chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy, hình thức đào tạo... Đây đang là vấn đề lớn và bức thiết, có tầm chiến lược, mang tính vĩ mô của giáo dục đại học. Tuy nhiên, điều này chỉ có thể thực hiện được khi chúng ta có đội ngũ giảng viên có chất lượng, đồng thời những nhà giáo dục, đặc biệt là các nhà quản lý giáo dục phải có sự thay đổi cách nhìn, cách tư duy trong đào tạo.
Thứ nhất, Chất lượng đội ngũ giảng viên các trường sư phạm.
Đội ngũ giảng viên các trường sư phạm nhất thiết phải có năng lực chuyên môn vững vàng, có kỹ năng giảng dạy tốt. Đây là vấn đề then chốt để nâng cao chất lượng các trường sư phạm. Hiện nay, ngành giáo dục nước ta đã làm tốt các công tác đào tạo và tuyển dụng đội ngũ giảng viên có chất lượng vào dạy học ở các trường sư phạm. Nhiều sinh viên có thành tích học tập xuất sắc thường được lựa chọn vào các lớp tài năng chất lượng cao và đi đào tạo ở nước ngoài. Đây chính là cách làm thiết thực nhằm bồi dưỡng một đội ngũ giảng viên thực sự chất lượng cho ngành giáo dục. Bên cạnh đó, các nhà trường thường xuyên mời chuyên gia bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên sư phạm.
Tuy nhiên, hiện nay còn một vài hiện tượng, sinh viên tốt nghiệp đại học không mấy xuất sắc, nhưng do “mối quan hệ” lại trở thành giảng viên trong các trường sư phạm. Những giảng viên này, sau một vài năm giảng dạy, nhà trường sẽ “tạo điều kiện” cho đi bồi dưỡng để trở thành những thạc sĩ, tiến sĩ nhưng chất lượng giảng dạy vẫn khó được cải thiện, vì họ thiếu cái “nền học vấn” và kỹ năng cần có. Những biểu hiện tiêu cực trong việc tuyển, tiếp nhận giảng viên ở các trường sư phạm đã xuất hiện đâu đó, đang là một hiện tượng đáng báo động. Đây chính là một nguyên nhân của sự yếu kém chất lượng ở các trường sư phạm.
Bên cạnh đó, chế độ đãi ngộ cho giảng viên chưa thực sự xứng đáng với công sức mà các nhà sư phạm đang cống hiến. Một giáo sư gạo cội của Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thì lương cũng được hơn chục triệu đồng. Trong khi đó, thực tế là một giáo sư giảng dạy toàn thời gian tại Mỹ được trả lương hơn 8 nghìn USD (gần 200 triệu đồng) một tháng. Một sự chênh lệch đáng kinh ngạc. Nói như vậy để thấy rằng, chúng ta vẫn chưa có chế độ đãi ngộ phù hợp để có thể thu hút được những tài năng cống hiến cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Đây cũng là nguyên nhân khiến nhiều du học sinh ngành sư phạm được đi đào tạo ở nước ngoài thường ít khi về nước giảng dạy, hoặc nhiều giảng viên giỏi đã phải chuyển nghề. Chính điều này tạo nên tổn thất đáng kể về nguồn lực giảng viên có chất lượng.
Đổi mới chương trình và cách thức đào tạo
Với sự phát triển không ngừng của thời đại, trong thời gian qua, hệ thống giáo dục nước ta đã có nhiều sự thay đổi cả về hình thức đào tạo và nội dung chương trình. Mặc dù vậy, quá trình đổi mới chưa thực sự hiệu quả và đồng bộ, vì vậy chưa đáp ứng kịp yêu cầu đào tạo nguồn lực giáo viên trong thời đại mới. Vấn đề đổi mới tư duy và đổi mới cách thức đào tạo một cách toàn diện đã được các nhà giáo dục nhiều lần đề cập. Tuy nhiên đến nay, vẫn chưa đi đến những ý kiến đồng nhất. Có ba vấn đề trong đào tạo một sinh viên sư phạm đó là rèn luyện đạo đức, tăng cường tri thức và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Theo đó, muốn một sinh viên khi ra trường hội tụ đủ các yếu tố này, bên cạnh việc làm thường xuyên là rèn luyện đạo đức cho sinh viên thì việc tiến hành thay đổi phương pháp, chú trọng trang bị kiến thức một cách kịp thời, cập nhật và tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên là vấn đề sống còn trong quy trình đào tạo nên một nhà giáo tương lai.
Hiện nay, giáo trình giảng dạy của nhiều trường sư phạm đã quá cũ và lạc hậu so với đòi hỏi của nền giáo dục hiện đại. Thiết nghĩ, các trường cần tăng cường nghiên cứu, đổi mới về nội dung, chương trình đào tạo để bảo đảm tính khoa học, tính hiện đại, tính dân tộc và tính thực tiễn. Đây là nhiệm vụ trọng tâm của các trường sư phạm. Việc làm này có ý nghĩa và tác dụng to lớn trong việc nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên cho toàn ngành. Bộ Giáo dục và Đào tạo cần lựa chọn các chuyên gia giỏi để biên soạn giáo trình mới; cũng có thể động viên các nhà khoa học, nhà giáo có kinh nghiệm biên soạn các bộ giáo trình, rồi tổ chức hội đồng thẩm định cấp Bộ để đánh giá, xét duyệt và dùng làm giáo trình cho các trường.
Các trường sư phạm cần đẩy mạnh và đi tiên phong trong đổi mới phương pháp dạy học. Đây là vấn đề không nhỏ đòi hỏi sự tâm huyết của nhiều giảng viên, nhiều nhà nghiên cứu sư phạm. Thiết nghĩ, chúng ta không nên cực đoan, đi theo bước chân của các nước một cách rập khuôn, cũng không nên hình thức, phiến diện khi đưa ra các phương pháp giáo dục, hình thức giảng dạy mới. Phương pháp nào cũng có thế mạnh riêng, nhưng yêu cầu phải truyền đạt kiến thức một cách chính xác, khơi gợi được hứng thú học tập, trí thông minh, óc sáng tạo của sinh viên. Chính vì thế, sự phối hợp và chọn lọc ưu điểm của một số phương pháp tốt sẽ mang lại hiệu quả cao trong mỗi bài giảng - đó là điều mà các giảng viên cần đặc biệt quan tâm.
Vấn đề thực tập sư phạm cũng là vấn đề quan trọng trong quy trình đào tạo. Sinh viên sư phạm học nghề không chỉ từ những kiến thức trên ghế giảng đường mà còn thông qua tiếp xúc với thực tế, rèn nghề với các hoạt động thực hành, thực tập. Bên cạnh việc thực hành, luyện tập thường xuyên ngay tại trường sư phạm (bao gồm cả trường phổ thông thực hành, trực thuộc), phải thật sự coi trọng công tác thực tập sư phạm. Những năm qua, các trường sư phạm chưa thật sự coi trọng chất lượng đích thực của công tác này. Quá trình quản lý thực tập sư phạm còn lỏng lẻo khó tránh khỏi những tiêu cực phát sinh, không phản ánh khách quan kết quả thực tập của sinh viên. Công tác thực tập cần được chú trọng hơn, tăng thời lượng, nâng cao về chất lượng. Số tiết thực giảng trên lớp cần nhiều hơn giúp sinh viên có cơ hội tiếp xúc với thực tế có hiệu quả.
Tích cực đổi mới dạy học trong các trường sư phạm về mọi mặt chính là chăm lo cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo từ cái gốc. Điều này chỉ có thể được tiến hành khi có sự đổi mới ngay trong tư duy của các nhà lãnh đạo giáo dục. Đó là đòn bẩy hữu hiệu và kỳ diệu để nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo nước nhà.
2.2.2 Xây dựng môi trường sư phạm lành mạnh với những hoạt động ngoại khóa, phong phú mang màu sắc sư phạm
Thường xuyên tổ chức những buổi tham quan, dã ngoại đến các trường ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, các trung tâm giáo dục thanh thiếu niên hư để sinh viên có dịp tiếp cận và làm quen. Từ đó khơi dậy tình cảm và sự cảm thông đối với các thầy cô đang công tác tại đó, sinh viên được tiếp thêm sức mạnh, niềm tin vào nghề mình đã chọn. Các thầy cô giáo là tấm gương sư phạm mẫu mực để sinh viên học tập và noi theo, thể hiện qua những giờ lên lớp, tác phong sư phạm. Đặc biệt là kiến thức chuyên môn và khả năng sư phạm. Biện pháp này rất quan trọng và cần thiết đối với sinh viên trong thời kỳ hội nhập. Thời nào cũng vậy, người thầy giáo là đại diện cho nền văn minh, sự tiến bộ, là đại diện cho sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các thời kỳ lịch sử của mỗi dân tộc. Đội ngũ thầy giáo là người có hiểu biết rộng, biết tiếp thu tri thức, kinh nghiệm của lịch sử loài người, có khả năng truyền thụ tri thức cho thế hệ trẻ và có khả năng đưa ra nhiên, xã hội và mối quan hệ giữa chúng.
2.2.3. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua việc giảng dạy đặc biệt các môn học khoa học xã hội đạo đức nhà giáo
Thực chất giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm không được xếp thành môn học chính khóa trong trường sư phạm nhưng nó được lồng ghép và tích hợp thông qua nhiều hoạt động khác, mà trong đó giảng dạy các môn là hoạt động không thể thiếu được. Các môn học này đã cung cấp cho sinh viên những tri thức đạo đức, sinh viên có được những chuẩn mực đạo đức của người thầy giáo tương lai. Nhờ đó, sinh viên hiểu được ý nghĩa tác dụng của việc thực hiện các chuẩn mực đạo đức đó, hiểu được mục đích của hành động, hiểu được thái độ cần phải có, nhiệm vụ bổn phận cần phải làm cũng như phương thức hành vi phù hợp với từng tình huống cụ thể. Từ đó, sinh viên có khả năng định hướng đúng trong cuộc sống và tự giác cao trong các hoạt động của mình.
Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là hoạt động bao gồm nhiều vấn đề, nhiều khía cạnh khác nhau. Tính đặc trưng của rèn luyện nghiệp vụ sư phạm là biến những điều đã nghe thấy, trông thấy thành những sản phẩm riêng kết tinh năng lực sư phạm của chính bản thân mỗi sinh viên. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm tạo điều kiện cho sinh viên rèn luyện thuần thục những kĩ năng, kĩ xảo cần thiết cho hoạt động nghề nghiệp. Trên cơ sở đó, hình thành những phẩm chất đạo đức cần thiết như: Lòng yêu trẻ, yêu nghề, lòng nhân ái, tinh thần trách nhiệm, lương tâm nghề nghiệp…
2.2.4 Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua công tác giáo dục tư tưởng chính trị, các buổi tọa đàm và thảo luận,hoạt động của Đoàn thanh niên và hội sinh viên.
Đây là nhiệm vụ hàng đầu trong nhà trường. Quá trình hội nhập và phát triển kinh tế xã hội hiên nay đang tạo ra cho chúng ta những thời cơ đáng kể. Song mặt trái của cơ chế thị trường cũng đang tác động đến văn hóa, lối sống, hành vi đạo đức của nhiều tầng lớp xã hội, đặc biệt là học sinh, sinh viên đã khiến cho đạo đức truyền thống tốt đẹp của dân tộc có nguy cơ bị xâm hại nghiêm trọng. Vì vậy công tác giáo dục tư tưởng chính trị cho sinh viên nói chung và sinh viên sư phạm nói riêng là biện pháp quan trọng cung cấp cho họ những tri thức, những hiểu biết về quan điểm, đường lối giáo dục của Đảng và Nhà nước. Giúp họ nhận thức và lựa chọn đúng các giá trị phù hợp với yêu cầu xã hội.
Không chỉ giáo dục đạo đức mà còn tổ chức các buổi tọa đàm, thảo luận về đạo đức của sinh viên sư phạm và về nghề dạy học trong giai đoạn hiện nay. Biện pháp này được xem như là biện pháp giáo dục có tác động trực tiếp đến nhận thức, tình cảm và thái độ của sinh viên. Thông qua các buổi tọa đàm, thảo luận sẽ giúp sinh viên thấy được những ưu điểm để phát huy và hạn chế những khuyết điểm của bản thân.Từ đó rút ra được bài học quý báu cho mình để hoàn thiện mình hơn.
Hoạt động của Đoàn thanh niên có ảnh hưởng rất lớn tới chất lượng đào tạo của nhà trường sư phạm nói chung và tới việc hình thành những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp nói riêng. Vì vậy, tổ chức các hoạt động đa dạng phong phú với những hình thức phù hợp hấp dẫn thu hút sự tham gia tích cực của sinh viên. Chuẩn bị cho họ những kĩ năng tổ chức hoạt động sau này ở nơi công tác và kĩ năng sống cho chính họ
2.2.5. Giáo dục đạo đức nghề nghiệp thông qua giáo dục truyền thống nghề nghiệp
Truyền thống giáo dục là những chuẩn mực đạo đức thể hiện trong học tập, trong giáo dục và quan hệ giao tiếp giữa thầy và trò nhằm truyền đạt lại những kinh nghiệm để làm người. “Tôn sư trọng đạo” là truyền thống tốt đẹp của dân tộc, ngày nay được thể hiện ở sự khiêm nhường học hỏi của trò, thể hiện ở “Tất cả vì học sinh thân yêu” của thầy giáo. Giáo dục truyền thống nghề nghiệp nhằm khơi dậy ở sinh viên sư phạm lòng tự hào về nghề nghiệp mà mình đã chọn, tạo ra động lực phấn đấu cho bản thân.
2.2.6. Thông qua việc kết hợp với các tổ chức xã hội trong việc ngăn chặn và chống các tệ nạn xã hội đang ngày càng có nguy cơ lây lan vào học đường
Thường xuyên tổ chức những sân chơi bổ ích lành mạnh, thu hút học sinh, sinh viên tham gia: Tổ chức các câu lạc bộ thể dục thể thao, câu lạc bộ văn hóa văn nghệ, câu lạc bộ bộ môn…
- Cần làm cho sinh viên chủ động tích cực chống lại những biểu hiện sai trái về đạo đức, trái với lối sống lành mạnh. Đề cao ý thức và tự rèn luyện, tự hoàn thiện bản thân.
- Thành lập văn phòng tư svấn về các vấn đề trong đời sống của học sinh, sinh viên…
- Phối hợp chặt chẽ giữa gia đình, nhà trường và xã hội trong việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho học sinh, sinh viên.
- Cần tạo dư luận lành mạnh ủng hộ, khuyến khích các hành vi mang tính đạo đức và lên án những hành vi mang tính phi đạo đức, lệch chuẩn của học sinh sinh viên. Khi dư luận xã hội lên tiếng mạnh thì các hành vi lệch chuẩn, phi đạo đức sẽ không có thời cơ xuất hiện
KẾT LUẬN
Tâm là một trong những giá trị cần có của con người. Có tâm sẽ giúp con người ta sống thanh thản, có trách nhiệm với công việc của mình hơn. Đặc biệt hơn, nghề giáo viên là một trong những nghề cần chữ tâm ở vị trí hàng đầu. Người giáo viên là những người đưa đò qua sông. Nhân cách, sự thành bại của một con người chủ yếu là do người giáo viên.Vậy nên, Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm là nhiệm vụ vô cùng quan trong và rất cần thiết. Đây là vấn đề lớn trong chiến lược con người mà Đảng và Nhà nước ta xác định phải quan tâm trong thời kì đổi mới, thời kì công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước. Cần giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên theo hướng kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống với những giá trị đạo đức mới trong nền kinh tế thị trường. Cần đa dạng hóa các loại hình giáo dục đạo đức cho sinh viên mà quan trọng là kết hợp giáo dục giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Song nhà trường phải giữ vai trò chủ đạo trong tất cả các biện pháp nhằm tạo ra sự thống nhất cho mọi hoạt động. Khi lựa chọn các biện pháp cần dựa vào mục đích, nội dung từng hoạt động và dựa vào đặc điểm tâm lí sinh viên, phong tục tập quán của từng địa phương, điều kiện cơ sở vật chất của nhà trường
Vậy nên để thực hiện tốt khẩu hiệu “giáo dục cho mọi người và mọi người cho giáo dục” nhà trường ngoài việc trang bị những kiến thức chuyên môn cho sinh viên sư phạm, cần chú trọng chữ tâm đến giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên sư phạm. Ta đã chọn nghề dạy học không chỉ cần có tri thức và kĩ năng trong sư phạm mà cần có chữ tâm trong nghề :
Ta đã chọn làm nghề dạy học
Cần có lòng yêu nghề mến trẻ
Cần chuyên môn kiến thức giỏi
Có lòng tận tụy, đức hi sinh
Ta đã chọn làm nghề dạy học
Dạy các em biết đối mặt thất bại
Biết vươn lên nỗ lực không ngừng
Vì ngày mai tươi sáng
Rồi nơi đó chân trời như rộng mở
Đàn chim non tung cánh trên trời cao
Ong bướm kia lượn vòng trong nắng ấm
Những bông hoa thơm ngát bên đồi xanh
Ta đã chọn làm nghề dạy học
Cần hội tụ những phẩm chất cao quý
Ngoài tri thức và tài năng sư phạm
Cần chữ tâm trong sự nghiệp
Huỳnh Thị Kim Tâm- GV trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm- Phú Ninh
Vậy nên là một sinh viên sư phạm khi còn đang ngồi trên ghế nhà trường cần phải hội tụ những yếu tố đó là say mê nghề nghiệp, có ý thức đoàn kết tập thể, tôn trọng đồng đội, giúp đỡ bạn bè, tuân thủ hiến pháp, pháp luật. Biết cống hiến và hy sinh, có tinh thần đấu tranh với những tiêu cực trong học tập và rèn luyện, lối sống. Đó là hội tụ tất cả những phẩm chất tốt đẹp thuộc về đạo đức của sinh viên mà người thầy cần phải truyền đạt cho mỗi sinh viên trong quá trình đào tạo tại các nhà trường.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]PH.N Gônôbôlin (1979), Những phẩm chất tâm lý của người giáo viên, NXB giáo dục
[2] Phạm Khắc Chương, Hà Nhật Thăng (2001), Đạo đức học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
[3] Phạm Minh Hạc (1995), Chương VIII tâm lý học về người thầy giáo. Tâm lý học, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội.
[4] Lê Văn Hồng, Lê Ngọc Lan, Nguyễn Văn Thàng (2001), Tâm lý học lứa tuổi và tâm lý học sư phạm, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội.
[5] Phạm Hùng (1995), Giáo dục tình cảm nghề nghiệp trong sinh viên sư phạm, Kỷyếu Hội thảo khoa học Khoa Tâm lý giáo dục.
[6] Bùi Văn Huệ, Bản sắc sư phạm trong quá trình đào tạo giáo viên, Nghiên cứu giáo dục 3/1993.
[7] Nguyễn Quang Uẩn (1998), Xây dựng lối sống và đạo đức mới cho sinh viên đại học sư phạm phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, NXB Giáo dục, Hà Nội.
[8] Nguyễn Thạc, Phạm Thành Nghị( 1992), Tâm lí học đại học, NXB giáo dục
[9] Một số trang web
-
[10] Trương Lập Văn ( chủ biên) (1999),Tâm, NXB khoa học Xã hội Nhân văn, Hà Nội
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- de_tai_nghien_cuu_khoa_hoc_thu_hien_3__9441.doc