Với vai trò là cầu nối đầu tiên giữa sản xuất và tiêu dùng, không những
trong nước mà cả trên phạm vi quốc tế, thương nghiệp bán buôn Việt Nam đã
tạo ra những giá trị thúc đẩy to lớn và đang dần trở thành bộ phận không thể
tách rời của sản xuất trong nước. Sự phát triển đa dạng và ngày càng hoàn
thiện của hệ thống bán buôn, sự kết hợp của các mô hình bán buôn truyền
thống với các phương thức kinh doanh hiện đại là một trong những nhân tố
quan trọng để xây dựng và gia tăng giá trị của sản xuất trong nước, không chỉ
đối với lĩnh vực công nghiệp mà cả sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên thương 
nghiệp bán buôn Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, trong nhiều
trường hợp đã kìm hãm sản xuất phát triển. Những xu hướng phát triển mới
của hoạt động bán buôn cùng những thay đổi trong môi trường kinh doanh 
trong nước và quốc tế đang tạo ra những thách thức lớn đòi hỏi phải có những
giải pháp phù hợp để cải thiện hoạt động bán buôn, biến bán buôn thực sự trở
thành lực đẩy đối với sản xuất.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 86 trang
86 trang | 
Chia sẻ: lylyngoc | Lượt xem: 2467 | Lượt tải: 0 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong sản xuất, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 trong quản lý 
và kinh doanh thấp (chiếm trên 90% lực lƣợng thƣơng nhân cả nƣớc), vốn ít, 
cơ sở vật chất kỹ thuật lạc hậu, khả năng liên kết và tổ chức thị trƣờng yếu 
kém. Hệ thống phân phối trong nƣớc chƣa có khả năng phản ứng thích hợp để 
hạn chế các tiêu cực trƣớc sự biến động của thị trƣờng thế giới, chƣa tạo đƣợc 
tiền đề để “tiếp nhận” nhanh sự can thiệp của Nhà nƣớc vào thị trƣờng. Kết 
cầu hạ tầng thƣơng mại vẫn còn yếu kém lạc hậu; khối lƣợng hàng hoá lƣu 
thông qua các loại hình kinh doanh hiện đại còn chiếm tỉ trọng nhỏ, qua các 
loại hình kinh doanh truyền thống, lạc hậu vẫn là chủ yếu và mang tính phổ 
biến. Trật tự thị trƣờng và văn minh thƣơng mại còn nhiều hạn chế. 
Những hạn chế trên đƣợc đánh giá là xuất phát từ những nguyên nhân 
chủ yếu nhƣ: nền sản xuất của nƣớc ta chƣa phát triển, về cơ bản vẫn là một 
nền sản xuất hàng hoá nhỏ, phân tán lạc hậu, trình độ phân công lao động xã 
hội thấp, nhiều nhà sản xuất còn tự tổ chức lấy kênh phân phối để tiêu thụ sản 
phẩm, ngƣợc lại, nhiều nhà buôn lại đầu tƣ vào sản xuất để tự tạo lấy nguồn 
hàng; Quan điểm, nhận thức chung về vị trí vai trò của hoạt động thƣơng mại 
trong nƣớc đối với nền kinh tế quốc dân chƣa đầy đủ và sâu sắc, quan niệm 
thƣơng mại là khâu trung gian, không tạo ra sản phẩm hàng hoá, do đó không 
cần khuyến khích ƣu đãi còn tác động đến tƣ duy và hành động của nhiều cấp 
quản lý; Công tác quản lý Nhà nƣớc về thƣơng mại xét trên một chỉnh thể từ 
quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển đến tổ chức và quản lý kinh doanh 
bị phân tán, làm cho hiệu quả quản lý Nhà nƣớc bị hạn chế; Lực lƣợng kiểm 
tra kiểm soát thị trƣờng không đủ mạnh, tổ chức phấn tán, hoạt động chồng 
chéo, không có khả năng tạo ra áp lực lớn trong việc đấu tranh chống các 
hành vi kinh doanh trái phép, xác lập trật tự, kỷ cƣơng thị trƣờng và văn minh 
thƣơng mại. 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 60 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
Những hạn chế trên là hạn chế của toàn bộ hoạt động thƣơng mại trong 
nƣớc cũng nhƣ thƣơng nghiệp bán buôn, trong đó một số hạn chế là nhân tố 
có tính kìm hãm mạnh mẽ đối với hoạt động bán buôn trong nƣớc từ đó tác 
động tiêu cực đối với hệ thống sản xuất. Mặc dù đặc trƣng của ngành thƣơng 
nghiệp là không đòi hỏi vốn đầu tƣ quá nhiều và tốc độ quay vòng vốn nhanh 
nhƣng do đặc thù kinh doanh hàng hoá với quy mô lớn, các doanh nghiệp bán 
buôn thƣờng yêu cầu một lƣợng vốn lớn hơn rất nhiều so với bán lẻ, đặc biệt 
là vốn lƣu động. Đến năm 2004 bình quân một doanh nghiệp ở nƣớc ta có 72 
lao động và 24 tỉ đồng tiền vốn, trong đó doanh nghiệp của ngành thƣơng mại 
lại có quy mô nhỏ nhất: 18 lao động và 6 tỉ vốn. Nhƣ vậy quy mô trung bình 
của các doanh nghiệp thƣơng mại chỉ bằng ¼ các doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực khác. Điều này gây ra một sự cản trở lớn cho hoạt động của 
nhà bán buôn, làm giảm khả năng cung ứng hàng cũng nhƣ khả năng cấp tín 
dụng cho nhà sản xuất và nhà bán lẻ để thúc đẩy tiêu thụ. Do qui mô nhỏ, vốn 
ít nên mua bán phải qua nhiều tầng nấc, chồng chéo khiến cho chi phí giao 
dịch và giá hàng hoá tăng lên, làm mất đi những lợi thế quan trọng của bán 
buôn là cung cấp với lƣợng lớn, giá rẻ. Đồng thời do có quá nhiều đầu mối dễ 
dẫn đến sự cạnh tranh lẫn nhau giữa các đơn vị thành viên của cùng một 
doanh nghiệp. Khả năng kiểm soát toàn bộ hệ thống từ nhà sản xuất, nhập 
khẩu qua bán buôn đến bản lẻ trở nên khó khăn và thiếu tính liên kết, do vậy 
không tạo ra sức mạnh chung trong việc nghiên cứu thị trƣờng, tập trung đơn 
hàng, định hƣớng cho sản xuất và hƣớng dẫn cho tiêu dùng. Trong nhiều 
trƣờng hợp, nhà bán buôn còn quá coi trọng lợi nhuận của bản thân doanh 
nghiệp mình mà thiếu tính liên kết với nhà sản xuất. Khi hàng hoá khan hiếm 
thì nhà bán buôn cũng nhanh chóng tăng giá bất chấp việc nhà sản xuất đã cố 
gắng để duy trì mức giá ổn định cho thị trƣờng. Do vậy thị trƣờng nƣớc ta 
thƣờng chịu ảnh hƣởng từ những biến động giá nhiều hơn các nƣớc khác, đặc 
biệt đối với hàng nhập khẩu. 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 61 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
Hoạt động mua bán buôn hiện nay chủ yếu thông qua phƣơng thức giao 
dịch, mua bán theo kiểu truyền thống nhƣ các chợ bán buôn, chợ đầu mối, hay 
các công ty sản xuất trực tiếp bản thẳng. Các phƣơng thức kinh doanh tiến bộ 
nhƣ liên kết “chuỗi”, các loại hình giao dịch nhƣ sàn giao dịch, trung tâm đấu 
giá, mua bán trên mạng chỉ mới manh nha hình thành, chƣa nhiều và chƣa 
mạnh. 
Trong dịch vụ bán buôn loại hình doanh nghiệp chuyên làm nhiệm vụ 
phân phối có quy mô chƣa lớn và chƣa làm tốt đƣợc vai trò định hƣớng cho 
các doanh nghiệp sản xuất, dẫn đến tình trạng doanh nghiệp sản xuất thì tự tổ 
chức lấy hệ thống tiêu thụ, còn doanh nghiệp thƣơng mại lại tự đầu tƣ vào sản 
xuất. Bên cạnh đó, tính chuyên nghiệp của các nhà bán buôn chƣa cao, thể 
hiện trong trình độ tổ chức quản lý công ty, trình độ nắm bắt và dự đoán xu 
hƣớng thị trƣờng, trình độ kinh doanh xuất nhập khẩu. Với tình trạng cơ sở hạ 
tầng yếu kém và cơ cấu lạc hậu nhƣ hiện nay, nếu không có sự cải thiện thì 
chỉ trong một vài năm tới, dịch vụ phân phối Việt Nam khó có thể vƣơn lên 
trở thành một lĩnh vực chủ chốt trong nền kinh tế, cũng nhƣ không thể cạnh 
tranh đƣợc với sự xâm nhập của các nhà phân phối nƣớc ngoài vào thị trƣờng 
trong nƣớc. 
Hoạt động bán buôn xuất khẩu cũng tồn tại những yếu kém nhất định 
nhƣ: thị trƣờng xuất khẩu và mặt hàng xuất khẩu còn hạn chế, chủ yếu dựa 
trên một số thị trƣờng chính nhƣ Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc, Ấn Độ,.. các mặt 
hàng xuất khẩu chủ lực chỉ giới hạn trong năm bảy mặt hàng và khả năng khai 
thác nguồn hàng và tìm kiếm thị trƣờng của các doanh nghiệp xuất khẩu 
không cao; trình độ tổ chức và quản lý của các doanh nghiệp xuất khẩu còn 
hạn chế, đặc biệt là trình độ về kinh doanh quốc tế và thị trƣờng quốc tế, 
khiến cho các doanh nghiệp Việt Nam thƣờng phải chịu thiệt khi có tranh 
chấp. Qui mô hoạt động nhỏ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam cũng 
là một hạn chế trong việc thu hút và tạo sự tin cậy của các đối tác nƣớc ngoài 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 62 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
trong giao dịch mua bán. Những hạn chế đó đã kìm hãm không chỉ bản thân 
hoạt động xuất khẩu mà còn làm cho sản xuất trong nƣớc mất đi cơ hội tiếp 
cận với thị trƣờng thế giới, tăng cƣờng cung ứng và mở rộng sản xuất. 
Cùng với việc gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới, Việt Nam đã cam 
kết mở cửa thị trƣờng phân phối nói chung và dịch vụ bán buôn nói riêng. Với 
một thị trƣờng có mức tiêu thụ cao nhƣ Việt Nam, sẽ nhanh chóng thu hút các 
nhà phân phối nƣớc ngoài tham vào thị trƣờng phân phối trong nƣớc. Nếu các 
doanh nghiệp thƣơng mại trong nƣớc không có sự cải biến sâu sắc trƣớc khi 
có sự xâm nhập này thì các doanh nghiệp nƣớc ngoài với tiềm lực kinh tế 
cũng nhƣ trình độ kinh doanh cao hơn rất nhiều so với các doanh nghiệp trong 
nƣớc, sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh thị trƣờng phân phối và từ thị trƣờng phân 
phối sẽ đi đến chi phối sản xuất trong nƣớc. 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 63 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
 CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THƢƠNG NGHIỆP 
BÁN BUÔN, NÂNG CAO CHỨC NĂNG PHỤC VỤ SẢN XUẤT 
1. Mục tiêu và định hƣớng phát triển chung cho hoạt động thƣơng mại 
Trƣớc thực trạng của thƣơng nghiệp trong nƣớc và sức ép tạo ra từ phía 
các nhà phân phối nƣớc ngoài, việc cải tạo và nâng cao năng lực, chất lƣợng 
của hoạt động thƣơng mại nói chung, hoạt động bán buôn nói riêng là một 
vấn đề cấp thiết cần đặt ra. Các cơ quan ban ngành đã bƣớc đầu có những 
nghiên cứu và chỉ đạo phƣơng hƣớng phát triển hoạt động thƣơng mại nhƣ 
việc xây dựng Đề án “Phát triển thƣơng mại trong nƣớc giai đoạn 2006-2010, 
định hƣớng đến 2020”, trong đó chỉ ra mục tiêu tổng quát của nƣớc ta đối với 
hoạt động mua bán thƣơng mại trong nƣớc trong thời gian tới là: “Xây dựng 
một nền thƣơng mại trong nƣớc phát triển vững mạnh và hiện đại, dựa trên 
một cấu trúc hợp lý các hệ thống và các kênh phân phối với sự tham gia của 
các loại hình tổ chức và các thành phần kinh tế, vận hành trong môi trƣờng 
cạnh tranh có sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nƣớc. Coi trọng phát triển 
các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh doanh, đồng thời khuyến khích và 
thúc đẩy quá trình hình thành các doanh nghiệp lớn thông qua quá trình tích tụ 
và tập trung, xác lập sự liên kết giữa doanh nghiệp lớn và doanh nghiệp nhỏ 
trong việc tổ chức thị trƣờng, tạo sức mạnh để hợp tác và cạnh trạnh có hiệu 
quả với các tập đoàn nƣớc ngoài sẽ vào khi Việt Nam mở cửa thị trƣờng dịch 
vụ phân phối. Trên cơ sở đó, phát huy vai trò và vị trí của thƣơng mại trong 
nƣớc trong việc định hƣớng và thúc đẩy sản xuất phát triển, định hƣớng và 
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú, đa dạng của nhân dân, tạo 
mối quan hệ chặt chẽ với thị trƣờng thế giới thông qua xuất khẩu và nhập 
khẩu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng trƣởng GDP, tạo tiền đề để 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 64 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
chủ động hội nhập kinh tế - thƣơng mại quốc tế một cách sâu rộng và thành 
công”. Để thực hiện mục tiêu đó, định hƣớng phát triển chung đƣợc chỉ ra là: 
1. Phát triển đa dạng các loại hình doanh nghiệp với nhiều qui mô 
khác nhau, tăng về số lƣợng, mới về phƣơng thức hoạt động theo phƣơng 
hƣớng hiện đại và chuyên nghiệp, phù hợp với quy luật của lƣu thông hàng 
hoá nhƣ: tập đoàn, công ty mẹ con kinh doanh hàng hoá chuyên ngành; tập 
đoàn công ty mẹ con kinh doanh hàng hoá tổng hợp; công ty thƣơng mại bán 
buôn hiện đại; các hộ kinh doanh; công ty kinh doanh dịch vụ logistics hiện 
đại, công ty (hoặc HTX) quản lý và kinh doanh chợ,… 
2. Phát triển đa dạng các loại hình kết cấu hạ tầng thƣơng mại (chợ 
nông thôn, chợ biên giới, chợ đầu mối, sàn giao dịch, trung tâm đấu giá, trung 
tâm thƣơng mại, siêu thị, trung tâm logistics, tổng kho bán buôn, chợ ảo,…), 
kết hợp hài hoà giữa thƣơng mại truyền thống với thƣơng mại hiện đại, phù 
hợp với tính chất và trình độ phát triển của thị trƣờng trên từng địa bàn. 
3. Phát triển các mô hình tổ chức lƣu thông theo từng thị trƣờng 
ngành hàng (nông, lâm, thuỷ sản, công nghiệp tiêu dùng,…), phù hợp với tính 
chất và trình độ của sản xuất, xu hƣớng và phƣơng thức thoả mãn của tiêu 
dùng, đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nƣớc. 
Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phân phối cũng bắt đầu có 
những động thái nhằm cải thiện tình hình và chuẩn bị cho sự cạnh tranh với 
các doanh nghiệp nƣớc ngoài, điển hình là dự án liên kết giữa Hapro, Coop 
Mart, Phú Thái nhằm thành lập một tập đoàn phân phối và logistics. Tuy 
nhiên cải biến vào nâng cao thƣơng nghiệp bán buôn Việt Nam là cả một quá 
trình khó khăn, đòi hỏi cả vốn đầu tƣ cũng nhƣ trình độ con ngƣời trong khi 
thời gian thì không còn dài nữa. Nó đòi hỏi sự phối hợp của các doanh nghiệp 
kinh doanh và các cơ quan quản lý Nhà nƣớc và toàn bộ nền kinh tế. 
Dự đoán về xu hƣớng phát triển của dịch vụ phân phối trong của Việt 
Nam trong thời gian tới, ông Nguyễn Hồng Thanh (Vụ đa biên, Bộ Thƣơng 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 65 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
mại- nay là Bộ Công thƣơng) cho rằng dịch vụ phân phối ở nƣớc ta trong thời 
gian tới sẽ phát triển theo 4 đặc điểm chính là: 
– Các rào cản về việc gia nhập và rút khỏi hệ thống phân phối sẽ 
dần đƣợc loại bỏ theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế. 
– Sự thâm nhập ngày càng nhiều các tập đoàn đa quốc gia trên thị 
trƣờng Việt Nam tạo nên một bức tranh đa dạng trong hệ thống phân phối 
trong nƣớc. Hệ thống phân phối không còn là mảnh đất độc quyền của các 
doanh nghiệp trong nƣớc, buộc các doanh nghiệp này phải động não chủ động 
tham gia nếu không muốn bị loại bỏ. 
– Quá trình tích tụ và tập trung sẽ diễn ra mạnh mẽ giữa các nhà 
phân phối trong nƣớc tạo thành các chuỗi liên kết với các nhà sản xuất, các 
ngân hàng để tăng cƣờng sức cạnh tranh (đại lý phân phối độc quyền cho 
thƣơng hiệu Việt Nam, đặt các điểm giao dịch, máy ATM tại các siêu thị, 
chợ…). Một số nhà phân phối có tiềm lực sẽ mở rộng hoạt động phân phối ra 
nƣớc ngoài thông qua liên doanh, liên kết các tập đoàn phân phối nƣớc ngoài 
hoặc thông qua các trung tâm giới thiệu sản phẩm, trung tâm thƣơng mại của 
Việt Nam ở nƣớc ngoài. Lực lƣợng ngƣời Việt Nam kinh doanh ở Nga và các 
nƣớc Đông Âu cũng sẽ trở thành những mắt xích quan trọng trong hệ thống 
dây phân phối hàng sản xuất tại Việt Nam nhƣng mang thƣơng hiệu quốc tế 
thay vì hàng Trung Quốc nhƣ hiện nay. Nhiều doanh nghiệp, các hộ nông 
dân, ngƣ dân, làng nghề truyền thống do không đủ khả năng xây dựng hệ 
thống phân phối riêng sẽ tìm cách vƣơn ra thị trƣờng thế giới bằng hình thức 
giao dịch điện tử. 
– Phƣơng thức phân phối truyền thống, mua đứt bán đoạn vẫn tồn 
tại song song với các hình thức phân phối hiện đại nhƣng sẽ dần thu hẹp và 
suy yếu, các nhà phân phối trong nƣớc sẽ trƣởng thành và học hỏi đƣợc nhiều 
kinh nghiệm tổ chức quản lý và hiện đại hoá hệ thống của các nhà phân phối 
nƣớc ngoài để tự củng cố hệ thống của mình. Trƣớc mắt, các tập đoàn phân 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 66 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
phối nƣớc ngoài sẽ tập trung vào mở các siêu thị bán buôn và bán lẻ, nhƣng 
dần dần họ sẽ mở rộng sang các hình thức bán lẻ không có cửa hàng. Các 
công ty sản xuất trong nƣớc, đặc biệt là các công ty sản xuất và xuất khẩu 
nông thuỷ sản sẽ phân phối qua thị trƣờng nƣớc ngoài dƣới các hình thức mới 
nhƣ hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tƣơng lại, hợp đồng quyền chọn,…19 
2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng thƣơng nghiệp bán buôn Việt Nam 
2.1. Hoàn chỉnh thể chế quản lý Nhà nước đối với hoạt động mua bán 
Thể chế quản lý Nhà nƣớc là một trong những yếu tố đầu tiên và có tác 
động mạnh nhất tới môi trƣờng kinh doanh. Một thể chế quản lý Nhà nƣớc 
thông thoáng, hợp lý và minh bạch sẽ tạo ra một môi trƣờng kinh doanh công 
bằng, thúc đẩy các nhà kinh doanh mở rộng hoạt động buôn bán. Ngƣợc lại, 
một thể chế quản lý tồi sẽ tạo ra một thị trƣờng kém phát triển, thiếu công 
bằng và không thể kích thích các nhà đầu tƣ, hoạt động kinh doanh có thể 
đình trệ hoặc phát triển lệch lạc. 
a) Hoàn chỉnh hệ thống pháp luật quản lý và điều chỉnh hoạt động mua bán. 
Để hoàn chỉnh hệ thống quản lý Nhà nƣớc trƣớc hết phải hoàn chỉnh hệ 
thống pháp luật điều chỉnh các hoạt động mua bán và các dịch vụ phụ trợ nhƣ 
vận tải, bảo hiểm, ngân hàng. Sự ra đời của Luật Thƣơng mại 2005 đã tạo tiền 
đề tốt cho sự phát triển của hoạt động thƣơng mại trong nƣớc nói chung, và 
hoạt động mua bán nói riêng. Bên cạnh đó sự ra đời của Luật cạnh tranh 
2005, Luật sửa đổi và bổ sung luật Hải quan, Luật Thƣơng mại điện tử,… 
cũng góp phần tạo một hành lang pháp lý thống nhất cho hoạt động mua bán. 
Tuy nhiên do thiếu các văn bản hƣớng dẫn dƣới luật nên các luật này vẫn khó 
áp dụng vào thực tế. Các cơ quản quản lý cần nhanh chóng ban hành các văn 
bản hƣớng dẫn, giúp các doanh nghiệp nắm vững luật và có thể tiến hành kinh 
19 NCIEC, Xu hướng phát triển ngành dịch vụ phân phối ở Việt Nam, 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 67 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
doanh theo quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống 
pháp luật bằng cách nội luật hoá các công ƣớc, điều ƣớc, hiệp ƣớc quốc tế đa 
phƣơng và song phƣơng để nội luật tƣơng thích với ngoại luật, đảm bảo 
quyền lợi cho các nhà kinh doanh trong nƣớc đồng thời thu hút các nhà đầu tƣ 
nƣớc ngoài trong quá trình hội nhập. 
Để có thể gia tăng nhanh số lƣợng doanh nghiệp thành lập mới nhằm 
gia tăng lực lƣợng bán buôn trong nƣớc, huy động tối đa các nguồn lực của xã 
hội tham gia vào hoạt động thƣơng mại nói chung và hoạt động bán buôn nói 
riêng, tạo ra một lực lƣợng thƣơng nhân đông đảo, phủ rộng khắp thị trƣờng 
cả nƣớc, nhất là các vùng nông thôn, miền núi hải đảo, hệ thống các quy định 
pháp luật phải đƣợc xây dựng trên cơ sở xoá bỏ hoặc đơn giản hoá các điều 
kiện gia nhập hoặc rút khỏi thị trƣờng. 
Trong quá trình hoàn chỉnh các cơ chế ƣu đãi về đầu tƣ, Nhà nƣớc cần 
khuyến khích các doanh nghiệp 100% nƣớc ngoài sử dụng hệ thống phân phối 
trong nƣớc, tăng cƣờng liên kết với các công ty thƣơng mại của trong nƣớc 
thông qua các cơ chế ƣu đãi về thuế, thị trƣờng tiêu thụ. 
Đối với một số mặt hàng quan trọng hoặc đặc thù nhƣ: xăng dầu, khí 
đốt, rƣợu, thuốc lá, xi măng, sắt thép, phân bón, dƣợc phẩm,…Nhà nƣớc cần 
sớm xây dựng các qui chế quản lý đồng bộ từ sản xuất, nhập khẩu, phân phối 
đến tiêu dùng nhằm đảm bảo sự ổn định thị trƣờng, quản lý và điều tiết về giá 
cả. Đối với các mặt hàng khác, ngoài các quy định có tính chất chung nhất, 
Nhà nƣớc không nên có những can thiệp quá sâu vào thị trƣờng bằng các biện 
pháp trực tiếp nhƣ điều chỉnh giá, quy định lƣợng,…Phƣơng thức điều tiết vĩ 
mô phải theo những nguyên tắc tôn trọng quy luật của thị trƣờng, phát huy 
tính tự chủ và trách nhiệm với cộng đồng của doanh nghiệp của ngƣời tiêu 
dùng. 
Bên cạnh các văn bản pháp luật cơ quan quản lý Nhà nƣớc cũng phải 
nhanh chóng triển khai và phê duyệt quy hoạch phát triển tổng thể thƣơng mại 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 68 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
trong nƣớc và hệ thống kết cấu hạ tầng thƣơng mại, làm cơ sở cho các tỉnh, 
thành phố ban hành các quy hoạch phù hợp với địa phƣơng. Nội dung quy 
hoạch này phải là định hƣớng phát triển cho tất cả các doanh nghiệp kinh 
doanh thƣơng mại trong nƣớc. Khi đã đƣa ra quy hoạch thì phải kiên quyết 
không cho phép các hoạt động không phù hợp với quy hoạch, đồng thời có 
biện pháp thúc đẩy kịp thời đối với các hoạt động phù hợp với quy hoạch. 
b) Hoàn chỉnh cơ chế quản lý, cơ chế phối hợp và củng cố tổ chức bộ 
máy quản lý Nhà nƣớc; 
Mặc dù hiện tƣợng cửa quyền tại các cơ quan quản lý Nhà nƣớc nhƣ 
dƣới thời cơ chế xin cho đã không còn nhƣng nhiều cơ quan quản lý vẫn 
chậm chạp trong việc giải quyết các vụ việc cho các doanh nghiệp, kéo dài 
thời gian tác nghiệp không cần thiết khiến nhiều nhà kinh doanh lo ngại, đặc 
biệt là các nhà kinh doanh nƣớc ngoài. Để xoá bỏ hạn chế này, Nhà nƣớc cần 
có quy định cụ thể thời hạn tác nghiệp của các cơ quan quản lý chức năng, 
quản lý chặt chẽ để đảm bảo những quy định này đi vào thực tế, đồng thời có 
thông báo rõ ràng để các doanh nghiệp biết và bảo vệ đƣợc quyền lợi của 
mình. Nhà nƣớc cũng cần tiến hành cải tổ hệ thống cơ quan quản lý theo 
hƣớng đổi mới tổ chức và hoạt động. Các cơ quan quản lý chủ yếu tập trung 
cho các công tác qui hoạch và chính sách phát triển, xử lý và cung cấp thông 
tin, các hoạt động xúc tiến thƣơng mại, kiểm tra kiểm soát thị trƣờng, tạo điều 
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh. Bên cạnh đó cũng cần tiến 
hành đổi mới đội ngũ nhân lực trong các cơ quan quản lý, chỉ duy trì một số 
lƣợng cán bộ vừa đủ nhƣng phải là những ngƣời có cả phẩm chất đạo đức 
cũng nhƣ năng lực quản lý thực sự. Cần trang bị các thiết bị hiện đại nhƣ máy 
vi tính, mạng Internet, .. tạo điều kiện thuận lợi cho công tác quản lý. Đặc biệt 
thúc đẩy nhanh việc thực hiện dự án Nhà nƣớc điện tử, tạo điều kiện các 
doanh nghiệp dễ dàng tra cứu thông tin, tiến hành các thủ tục hành chính 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 69 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
thông qua mạng Internet, hình thành các mô hình G2B (chính phủ - doanh 
nghiệp). 
Đặc biệt cần đẩy mạnh hoạt động và vai trò của Cục quản lý cạnh tranh 
(đƣợc thành lập tháng 6 năm 2006). Tuy Cục quản lý cạnh tranh đã có đầy đủ 
nhiệm vụ và quyền hạn trong việc điều tra các vụ việc cạnh tranh, kiểm soát 
quá trình tập trung kinh tế, thụ lý hồ sơ đề nghị miễn trừ và đặc biệt đƣợc 
quyền xử lý xử phạt các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nhƣng do mới 
đi vào hoạt động nên hầu nhƣ chƣa phát huy đƣợc tác dụng. 
Trong quá trình quản lý, các cơ quan quản lý cần có sự phối hợp chặt 
chẽ, tham gia điều tiết vĩ mô thị trƣờng theo hƣớng hiện đại và chuyên 
nghiệp. Bộ Công thƣơng phối hợp với Bộ xây dựng để quản lý hệ thống hạ 
tầng thƣơng mại, Bộ Kế hoạch và đầu tƣ để quản lý các dự án kinh doanh 
thƣơng mại, Bộ Tài chính để quản lý chính sách tín dụng đối với các dự án 
đầu tƣ vào kết cấu hạ tầng thƣơng mại, chính sách tín dụng, chính sách ƣu đãi 
về thuế đối với các doanh nghiệp thƣơng mại, ngoài ra còn các bộ khác nhƣ 
Bộ Tài nguyên môi trƣờng, Bộ nông nghiệp,…Hoạt động giữa các cơ quan 
của các bộ ngành phải tạo ra một thể chế quản lý thống nhất, phối hợp nhịp 
nhàng, tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời kinh doanh. 
2.2. Khuyến khích thành lập doanh nghiệp bán buôn lớn, hình thành các 
hiệp hội bán buôn, tăng cường các mối liên kết dọc và liên kết ngang 
a) Thúc đẩy thành lập một số doanh nghiệp bán buôn lớn 
Tập trung hoá hệ thống phân phối ngày càng cao là một trong những xu 
hƣớng phát triển chung của hệ thống phân phối diễn ra ở các nƣớc từ những 
năm giữa thập kỷ 90 đến nay. Sự xuất hiện của các doanh nghiệp lớn trong 
lĩnh vực phân phối làm cho mối quan hệ giữa nhà sản xuất, bán buôn, bán lẻ 
ngày càng chặt chẽ và mật thiết, tạo ra một hệ thống phân phối hàng hoá 
chuyên nghiệp, liên hoàn, ngày càng hiệu quả. Trƣớc sự cạnh tranh của các 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 70 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
tập đoàn thƣơng mại lớn trên thế giới đang từng bƣớc xâm nhập và thiết lập vị 
trí trên thị trƣờng phân phối ở Việt Nam, các doanh nghiệp Việt Nam cần 
thiết lập đƣợc một số nhà phân phối lớn nhằm tạo nên thế đối trọng cân bằng 
giữa nhà phân phối trong nƣớc và nhà phân phối nƣớc ngoài. Thực tế không 
thể phủ nhận hiện nay là các doanh nghiệp bán buôn Việt Nam vẫn chỉ là các 
doanh nghiệp nhỏ, lạc hậu, một số doanh nghiệp đƣợc coi là có quy mô tƣơng 
đối lớn trong nƣớc thì vẫn chỉ là quy mô nhỏ so với mức phát triển chung của 
thế giới và chƣa thể xứng tầm cạnh tranh với các tập đoàn lớn của nƣớc ngoài. 
Do đó để có thể thành lập các doanh nghiệp bán buôn có quy mô lớn, có đủ 
sức cạnh tranh với các tập đoàn nƣớc ngoài khi vào Việt Nam, bên cạnh sự tự 
liên kết mở rộng và hợp tác của các doanh nghiệp, Nhà nƣớc cần khuyến 
khích một số doanh nghiệp lớn hiện nay hợp tác với nhau để thành lập một 
vài doanh nghiệp bán buôn lớn dƣới hình thức tập đoàn, công ty mẹ - con 
kinh doanh hàng hoá chuyên ngành hoặc tập đoàn, công ty mẹ - con kinh 
doanh hàng hoá tổng hợp, thông qua những ƣu đãi về thuế, đất đai, tài 
chính,…nhƣ cho các dự án xây dựng hạ tầng cơ sở thƣơng mại hiện đại vay 
vốn với lãi suất ƣu đãi; tạo điều kiện cho các tập đoàn này đƣợc sử dụng 
những diện tích đất tại các vị trí thuận tiện cho giao thông, mua bán, tại các 
cửa ngõ vào các thành phố lớn những vùng đông dân cƣ, hoạt động thƣơng 
mại sầm uất nhƣ Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, thành phố Hồ Chí 
Minh,...Các công ty lớn này sẽ đóng vai trò dẫn dắt thị trƣờng bán buôn trong 
cả nƣớc, đặc biệt đóng vai trò quan trọng trong việc đi tiên phong và phát 
triển các loại hình bán buôn hiện đại, tạo nên thế cân bằng với các công ty 
phân phối nƣớc ngoài tham gia vào thị trƣờng bán buôn Việt Nam. 
b) Thúc đẩy thành lập hiệp hội bán buôn 
Việc thành lập hiệp hội nhằm giúp các hội viên chia sẻ kinh nghiệm, 
trao đổi thông tin, tìm kiếm cơ hội, tạo mối liên doanh, liên kết, hỗ trợ công 
tác xúc tiến thƣơng mại đẩy mạnh hoạt động xây dựng và quảng bá thƣơng 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 71 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
hiệu, đồng thời các doanh nghiệp kinh doanh thƣơng mại có thể thông qua 
hiệp hội để duy trì mối quan hệ với cơ quan quản lý Nhà nƣớc, kiến nghị và 
tham gia vào quá trình xây dựng chính sách. Việc xây dựng các hiệp hội cần 
phải dựa trên nguyên tắc tự nguyện, có thể lấy các nhà phân phối lớn làm nền 
tảng nhƣng cần tránh việc biến hiệp hội thành công cụ chi phối trong tay 
những nhà phân phối lớn này. Chú trọng thu hút các hộ kinh doanh vào hiệp 
hội. Đây là những tổ chức kinh doanh có qui mô nhỏ lẻ nhƣng lại đang chiếm 
vị trí quan trọng trong hệ thống phân phối nƣớc ta. Cần tuyên truyền để họ 
thấy rõ vai trò quan trọng của việc thành lập hiệp hội các nhà bán buôn bán lẻ, 
khuyến khích họ tham gia góp tiếng nói vào các hiệp hội này. 
Trong khi Hiệp hội các nhà bán buôn chƣa đƣợc thành lập cần phải có 
các biện pháp tuyên truyền, xúc tiến thành lập hiệp hội, bên cạnh đó chủ động 
tăng cƣờng mối liên kết giữa các doanh nghiệp bằng cách tổ chức thƣờng 
xuyên các hội chợ, triển lãm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tự quảng bá, 
gặp gỡ trao đổi, tìm kiếm cơ hội kinh doanh, tổ chức các hội thảo nhằm lấy ý 
kiến các nhà doanh nghiệp. 
c) Khuyến khích thành lập các mối liên kết ngang và liên kết dọc 
Sự hình thành các mối liên kết ngang trong việc kinh doanh các nhóm, 
mặt hàng có mối liên quan trong tiêu dùng và mối liên kết dọc từ sản xuất, 
nhập khẩu đến bán buôn, bán lẻ nhằm tạo ra một thị trƣờng quy mô, có kết 
cấu hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho cả ngƣời mua và ngƣời bán, ngƣời sản 
xuất và trung gian phân phối. 
Hình thành các mối liên kết ngang bằng việc khuyến khích các doanh 
nghiệp lớn mở rộng kinh doanh đa dạng các nhóm, mặt hàng có mối liên hệ 
trong tiêu dùng nhƣ xi măng- sắt thép- vật liệu xây dựng; phân bón- thuốc bảo 
vệ thực vật- giống cây, con,… để giảm chi phí lƣu thông của doanh nghiệp và 
giảm chi phí của xã hội nhờ tiết kiệm đƣợc thời gian mua sắm. Liên kết ngang 
các khâu trong bán buôn đƣợc tăng cƣờng thông qua lập chung các trung tâm 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 72 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
giao dịch, hệ thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logistics là nơi 
mua bán tập trung nhiều nhóm hàng. Nhà nƣớc phải là ngƣời tiên phong, chủ 
động xây dựng cơ sở hạ tầng cho các trung tâm giao dịch này trong một quy 
hoạch tổng thể thống nhất với định hƣớng phát triển chung của hoạt động 
thƣơng mại trong cả nƣớc. Bên cạnh đó khuyến khích các doanh nghiệp có đủ 
tiềm lực tham gia xây dựng và kinh doanh các tổng kho bán buôn, các trung 
tâm logistics bằng các ƣu đãi về điều kiện đầu tƣ, thuế, đất đai,… 
Mối liên kết dọc cũng cần đƣợc hình thành giữa nhà sản xuất, nhập 
khẩu- bán buôn- bán lẻ - ngƣời tiêu dùng nhằm gắn cả 2 quá trình cung ứng 
thiết bị, nguyên, nhiên, phụ liệu phục vụ cho sản xuất với tổ chức các kênh 
tiêu thụ. Từ đó có thể tăng cƣờng sự linh hoạt và liên hoàn trong hệ thống 
phân phối. Các kênh tiêu thụ định hƣớng cho sản xuất phù hợp nhu cầu tiêu 
dùng. Nhà sản xuất và ngƣời nhập khẩu có thể tăng cƣờng sự kiểm soát giá cả 
đối với các khâu phân phối sau. Đặc biệt đối với các ngành, nhóm hàng quan 
trọng nhƣ sắt thép, xi măng, lƣơng thực, phân bón, dƣợc phẩm, hoặc đặc thù 
nhƣ rƣợu - bia, thuốc lá, chất nổ, hoá chất độc hại, có tác động lớn đến sản 
xuất, đời sống sức khoẻ ngƣời dân, môi trƣờng sinh thái, cần thiết lập và phát 
triển mối liên kết dọc có quan hệ gắn kết chặt chẽ, ổn định ràng buộc trách 
nhiệm trên từng công đoạn của quá trình lƣu thông. Để hình thành hệ thống 
kinh doanh này, cần phát huy vai trò định hƣớng và tổ chức thị trƣờng của các 
doanh nghiệp lớn (mà nòng cốt là các doanh nghiệp Nhà nƣớc) tạo điều kiện 
cho các doanh nghiệp khác thuộc mọi thành phần kinh tế, kể cả các doanh 
nghiệp có vốn đầu tƣ nƣớc ngoài tham gia, nhằm tạo ra một thị trƣờng ngày 
càng mang tính cạnh tranh. 
2.3. Phát triển đa dạng các mô hình tổ chức bán buôn theo từng thị trường 
ngành hàng, phù hợp tính chất và trình độ sản xuất 
a) Đối với hàng hoá nông sản 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 73 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
Xây dựng các chợ đầu mối, chợ bán buôn chuyên doanh ở vùng sản 
xuất nông sản tập trung nhằm tiêu thụ nông sản thông qua bán buôn để 
chuyển cho thị trƣờng khu vực khác, cho cơ sở chế biến và cho xuất khẩu. 
Đồng thời xây dựng các kho hàng, trung tâm logistics để bảo quản và sơ chế, 
bao gói chung chuyển làm tăng giá trị sản phẩm và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng 
cao cấp đƣợc thực hiện tại các siêu thị và cho xuất khẩu. Hàng nông sản là 
một trong những mặt hàng chủ lực của nƣớc ta với lƣợng tiêu thụ hàng năm 
không nhỏ, kim ngạch xuất khẩu đạt trên vài tỷ USD, tuy nhiên hiệu suất của 
ngành này lại không lớn. Giá trị thu lại đƣợc chƣa tƣơng xứng với công sức 
mà ngƣời nông dân phải bỏ ra, chủ yếu là do khâu phân phối chƣa hợp lý, 
ngƣời nông dân thƣờng xuyên bị các thƣơng nhân ép giá, sản phẩm sản xuất 
cũng chƣa phù hợp với nhu cầu thị trƣờng, hơn nữa do khâu bảo quản không 
tốt nên sản phẩm thƣờng xuyên bị hƣ hỏng, giảm giá trị trong quá trình bảo 
quản và vận chuyển. Việc hình thành các chợ bán buôn đầu mối giúp ngƣời 
nông dân có thể bán sản phẩm của mình dễ dàng hơn ngay tại vùng sản xuất, 
các nhà buôn cũng thuận tiện hơn trong việc thu gom hàng, đồng thời làm gia 
tăng tính thị trƣờng cho thị trƣờng hàng nông sản. Các nhà bán buôn có thể 
liên hệ mật thiết hơn với nông dân sản xuất thông qua các hợp tác xã nông 
nghiệp nhằm định hƣớng ngay từ đầu cho sản xuất nông nghiệp xu hƣớng của 
thị trƣờng, giảm thiểu tình trạng hàng hoá sản xuất không phù hợp nhu cầu 
của thị trƣờng. Các chợ đầu mối, chợ chuyên doanh có thể phân thành chợ 
cấp vùng thuộc hạng một I và các chợ có quy mô nhỏ hơn thuộc hạng II. 
Trƣớc mắt, cả nƣớc cần tập trung xây dựng khoảng 5 đến 7 chợ cấp vùng 
thuộc hạng I tại các tỉnh thành nhƣ: Cần Thơ, Lâm Đồng, Đắc Lắc, Ngệ An, 
Hải Dƣơng, ngoại vi Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, là những nơi hàng 
hoá tập trung, ổn định, có vị trí và điều kiện giao thông thuận lợi, gắn liền với 
các đầu mối xuất khẩu. Mỗi tỉnh thành phố trực thuộc trung ƣơng còn lại có 
thể xây dựng từ 1 đến 3 chợ địa phƣơng thuộc hạng II. Tại các khu vực gần 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 74 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
các chợ chuyên doanh, chợ đầu mối cần xây dựng các kho bảo quản, các 
trung tâm logistics để bảo quản và sơ chế, chế biến hàng hoá. 
b) Nhiên, nguyên vật liệu cho sản xuất công nghiệp, sản phẩm công nghiệp 
Bên cạnh việc cung ứng thiết bị vật tƣ theo các hình thức tổ chức 
truyền thống cần thiết lập và phát triển các trung tâm giao dịch, bán buôn, các 
“chợ” công nghệ, “chợ” nguyên, phụ liệu…tại các đô thị lớn, khu công 
nghiệp, khu kinh tế, khu chế xuất, khu kinh tế cửa khẩu gắn với hoạt động 
xuất nhập khẩu nhằm ổn định việc cung cấp thiết bị, vật tƣ, nguyên, nhiên, 
phụ liệu cho sản xuất công nghiệp. 
Đối với các chợ đầu mối, chợ chuyên doanh, trung tâm giao dịch kể 
trên, cần căn cứ vào nhu cầu của địa bàn và khả năng phát triển, hiệu quả hoạt 
động để lựa chọn và tập trung củng cố, tiếp tục đầu tƣ nâng cấp thêm cho một 
số chợ, trung tâm trở thành các sàn giao dịch, các trung tâm đấu giá ứng dụng 
các phƣơng thức hoạt động tiên tiến, hiện đại dựa trên cơ sở của công nghệ 
thông tin và thƣơng mại điện tử. 
c) Các ngành hàng thuộc diện quan trọng đặc thù 
Đối với các ngành, nhóm hàng thuộc diện quan trọng, đặc thù có tác 
động lớn đến đời sống dân sinh và môi trƣờng sinh thái nhƣ sắt thép, xi măng, 
xăng dầu, phân bón, thuốc lá, hoá chất công nghiệp, hoá chất độc hại,…cần 
thiết lập một hệ thống phân phối có quan hệ chặt chẽ, ổn định, và ràng buộc 
trách nhiệm trên từng công đoạn của quá trình lƣu thông, từ sản xuất, nhập 
khẩu đến bán buôn, bán lẻ, đảm bảo quản lý đƣợc giá cả, luồng hàng. Bản 
thân các doanh nghiệp kinh doanh các ngành, nhóm hàng thuộc diện này phải 
nâng cao ý thức cộng đồng, các doanh nghiệp bán buôn không thể chỉ vì chạy 
theo lợi nhuận mà nâng giá quá cao khi hàng khan hiếm, hoặc cung cấp không 
đúng đối tƣợng đƣợc phép kinh doanh ngành, nhóm hàng này. Các doanh 
nghiệp sản xuất, nhập khẩu phải nâng cao trách nhiệm để củng cố mối liên kết 
dọc đồng thời ràng buộc các nhà bán buôn bằng các hợp đồng mua bán, hợp 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 75 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
đồng đại lý quy định chặt chẽ, rõ ràng trách nhiệm của các nhà bán buôn. Bên 
cạnh đó, thiết lập hệ thống phân phối trên cơ sở xây dựng và phát triển hệ 
thống tổng kho bán buôn, hệ thống trung tâm logistics, bố trí theo khu vực thị 
trƣờng để tiếp nhận hàng hoá từ sản xuất, nhập khẩu và cung ứng hàng hoá 
cho mạng lƣới bán buôn trên địa bàn. 
d) Phát triển thƣơng mại điện tử 
Phát triển thƣơng mại điện tử, đặc biệt là loại hình thƣơng mại điện tử 
B2B (doanh nghiệp- doanh nghiệp) trên cơ sở ứng dụng các tiến bộ của khoa 
học về công nghệ thông tin. Thƣơng mại điện tử đã phát triển mạnh mẽ trên 
thế giới trong một vài thập kỷ trở lại đây. Nó không chỉ đƣợc ứng dụng tại các 
vùng đô thị lớn mà ngay tại các vùng sản xuất nông nghiệp cũng có thể áp 
dụng thƣơng mại điện tử trong kinh doanh, tạo điều kiện thuận lợi cho cả nhà 
sản xuất và nhà kinh doanh thƣơng mại, giúp các doanh nghiệp thu hẹp 
khoảng cách về địa lý, rút ngắn thời gian cũng nhƣ chi phí giao dịch không 
chỉ trong nƣớc mà trên cả phạm vi quốc tế. Với loại hình thƣơng mại điện tử 
B2B, nhà sản xuất hoặc nhà bán lẻ có thể xem xét danh mục tƣ liệu sản xuất 
hay sản phẩm tiêu dùng của nhà bán buôn thông qua trang Web của nhà bán 
buôn, hoặc nhà bán buôn có thể xem danh mục hàng hoá của nhà sản xuất 
thông qua Website của nhà sản xuất, sau đó đặt hàng bằng thƣ điện tử. Nhà 
bán buôn hoặc nhà sản xuất sau khi nhận đƣợc đơn đặt hàng (thông thƣờng 
chỉ vài phút sau khi đơn đặt hàng đƣợc gửi đi) tiến hành xem xét và có thể gửi 
hàng đi ngay lập tức. Tuy nhận thức đƣợc vai trò và xu hƣớng phát triển tất 
yếu của thƣơng mại điện tử song các doanh nghiệp nƣớc ta vẫn chƣa có nhiều 
ứng dụng đối với loại hình này. Một số công ty đã xây dựng đƣợc Website 
nhƣng chủ yêu sử dụng để quảng cáo về công ty, các nội dung trên website ít 
đƣợc cập nhật và hầu nhƣ chƣa có hoạt động đặt hàng qua website. Việc phát 
triển thƣơng mại điện tử cũng đòi hỏi các công ty có sự đầu tƣ nhất định cho 
cơ sở vật chất và công nghệ thông tin. Vì vậy hầu hết các doanh nghiệp vẫn 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 76 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
gặp khó khăn trong việc bắt đầu và điều hành kinh doanh qua mạng. Các cơ 
quan quản lý có thể phối hợp các cơ quan chuyên ngành công nghệ thông tin, 
hƣớng dẫn tập huấn cho các doanh nghiệp, giúp họ chuẩn bị các điều kiện cơ 
bản để xây dựng thƣơng mại điện tử. 
2.4. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống các dịch vụ phụ trợ cho hoạt động 
kinh doanh thương mại 
Hoạt động bán buôn cũng không tồn tại một cách độc lập mà gắn kết 
với nhiều hoạt động và dịch vụ khác nhƣ vận tải, bảo hiểm, ngân hàng,…Nhà 
bán buôn muốn đƣa hàng hoá từ kho của nhà sản xuất về kho của mình hoặc 
từ kho của mình đến kho của nhà bán lẻ thì phải sử dụng đến hệ thống vận tải. 
Trong quá trình vận tải, bảo quản dự trữ hàng hoá, nhà bán buôn có thể gặp 
không ít rủi ro: bão lũ, thiên tai, mất mát do trộm cắp, hƣ hỏng hàng hoá,… 
do đó họ cần mua bảo hiểm cho hàng hoá. Trong hoạt động kinh tế hiện đại, 
các bên cũng không mua bán theo hình thức tiền hàng trao tay mà chủ yếu 
thanh toán qua hệ thống ngân hàng. Các dịch vụ thanh toán tiện ích qua ngân 
hàng nhƣ chuyển tiền bằng điện, séc, hối phiếu, kỳ phiếu, thƣ tín dụng khiến 
cho quá trình thanh toán trong các giao dịch nhanh hơn và an toàn hơn. Bên 
cạnh đó, các ngân hàng còn thƣờng xuyên cung cấp tín dụng cho các thƣơng 
nhân, đảm bảo đủ nguồn vốn lƣu động cho kinh doanh, giúp nhà kinh doanh 
nhanh chóng nắm bắt và tận dụng đƣợc thời cơ. 
Hiệu quả của hoạt động bán buôn rõ ràng phụ thuộc rất nhiều vào mức 
độ phát triển của các dịch vụ phụ trợ kể trên. Khi vận tải có sự góp mặt của 
máy bay chuyên chở cỡ lớn, tàu biển có trọng tải lên đến vài trăm nghìn MT, 
hệ thống giao thông đƣờng bộ đƣợc hoàn thiện với những con đƣờng trên 
chục làn xe, tốc độ vận tải đƣợc cải thiện rõ rệt thì tốc độ lƣu thông hàng hoá 
cũng tăng lên. Việt Nam có đƣờng bờ biển dài 3260km, hiện có 160 bến cảng, 
305 cầu cảng, tổng chiều dài tuyến biển là 36.164km với công suất bốc xếp 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 77 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
hàng hoá khoảng 130 triệu tấn/năm. Tổng khối lƣợng hàng hoá vận chuyển 
bằng đƣờng sắt, đƣờng bộ, đƣờng sông và đƣờng biển của Việt Nam năm 
1990 là 132.576.300 tấn thì đến năm 1999 đã đạt 223.310.000 tấn, tăng 1,68 
lần, trong đó vận tải đƣờng bộ và đƣờng sông chiếm tỷ trọng lên tới trên 
80%
20
. Tuy nhiên hệ thống vận tải đƣờng bộ vẫn chƣa hoàn chỉnh, chất lƣợng 
đƣờng nhiều nơi còn xấu, làm giảm tốc độ vận chuyển hàng hoá. Vận chuyển 
bằng máy bay không chiếm tỷ trọng nhiều do cƣớc phí đắt. Đội tàu biển của 
nƣớc ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong vận tải đƣờng biển do đội tàu của 
Việt Nam còn yếu kém, các doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu mua hàng với 
điều kiện CIF và bán với điều kiện FOB. Trong giai đoạn phát triển tiếp theo 
cần đẩy mạnh xây dựng và hiện đại hoá các cảng Cái Lân, Sài Gòn (mới), 
Quy Nhơn, Đà Nẵng, Nha Trang, Hải Phòng, xây dựng các phƣơng án vận 
chuyển hàng hoá bằng đƣờng hàng không nhằm gia tăng tốc độ cũng nhƣ 
năng lực vận tải. 
Đến cuối những năm 80 mạng lƣới bảo hiểm cũng đã phủ khắp các tỉnh 
thành trong cả nƣớc với các sản phẩm bảo hiểm phong phú và đa dạng trên thị 
trƣờng. Công ty bảo hiểm Việt Nam đƣợc chuyển thành Tổng công ty Bảo 
hiểm Việt Nam (gọi tắt là Bảo Việt) vào năm 1989, doanh trong năm này đạt 
94 tỷ VND. Trong giai đoạn từ 1989 đến 1994 tốc độ gia tăng doanh thu là 
35-40%. Tuy nhiên lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá của các công ty bảo hiểm 
trong nƣớc chƣa phát triển tƣơng xứng với tốc độ phát triển của hoạt động 
mua bán, tỷ lệ các lô hàng xuất nhập khẩu mua bảo hiểm từ các công ty bảo 
hiểm nƣớc ngoài vẫn còn cao. Các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm trong 
nƣớc cần tăng cƣờng liên kết bảo hiểm, đa dạng hoá các loại hình bảo hiểm và 
hoàn chỉnh cơ chế thanh toán bảo hiểm, tăng cƣờng tính cạnh tranh đồng thời 
đảm bảo quyền lợi cho các doanh nghiệp mua bảo hiểm. 
20 Trƣờng Đại học ngoại thƣơng, bộ môn “Vận tải và bảo hiểm” (2005), Giáo trình Vận tải và giao nhận 
trong ngoại thương, NXB chính trị. trang 21 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 78 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
Ngành ngân hàng ở nƣớc ta cũng có tốc độ phát triển nhanh chóng với 
sự góp mặt của nhiều ngân hàng liên doanh có tiềm lực lớn mạnh, phƣơng 
thức kinh doanh hiện đại, dịch vụ thuận tiện và nhanh chóng. Tuy nhiên dịch 
vụ ngân hàng là lĩnh vực mới mở cửa của nƣớc ta vì vậy cơ chế hoạt động còn 
chƣa ổn định, đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ từ các cơ quan chức năng, nhƣng 
phải đảm bảo không làm mất đi tính cạnh tranh theo các quy luật kinh tế cơ 
bản của thị trƣờng. Tất cả những yếu tố đó đang tạo nên một cơ sở cho hoạt 
động thƣơng mại nói chung và hoạt động bán buôn nói riêng ngày càng phát 
triển. 
2.5. Phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động mua bán trong nước 
và xuất khẩu 
Hiện nay, vai trò của nguồn nhân lực ngày càng đƣợc khẳng định trong 
tất cả các lĩnh vực của kinh tế xã hội kể cả các đơn vị sản xuất, kinh doanh. 
Nhà nƣớc cần khai thác tối đa các nguồn vốn trong và ngoài nƣớc để hỗ trợ 
cho công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực cho ngành thƣơng mại, đầu tƣ 
để nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao đội ngũ giáo viên và đổi mới giáo trình 
về lĩnh vực phân phối thông qua các trƣờng đại học, cao đẳng và trung học 
chuyên nghiệp đào tạo về lĩnh vực này nhƣ trƣờng Đại học Kinh tế quốc dân, 
Đại học Ngoại thƣơng, Đại học Thƣơng mại,... để đào tạo cán bộ quản trị 
cung vận, quản trị chuỗi cung ứng, trung tâm logistics, đào tạo các nhân viên 
có kỹ năng hiện đại trong các khâu bán hàng, thanh toán, nghiệp vụ kho hàng. 
Trong đó cần chú trọng đào tạo cán bộ quản lý và thực hiện kinh doanh. Bên 
cạnh việc đào tạo tập trung tại các trƣờng đại học cần tổ chức các các lớp đào 
tạo ngắn hạn về kinh doanh quốc tế, thị trƣờng quốc tế nhằm nâng cao trình 
độ và hiểu biết thực tế cho các cán bộ quản lý và nhân viên thừa hành trong 
lĩnh vực xuất nhập khẩu. Đào tạo tại nƣớc ngoài cũng là một trong những vấn 
đề cần đƣợc quan tâm nhằm nâng cao trình độ nguồn nhân lực trong nƣớc, rút 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 79 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
ngắn khoảng cách giữa nguồn nhân lực trong nƣớc và nguồn nhân lực quốc tế. 
Bên cạnh việc tăng đầu tƣ cho hoạt động đào tạo cán bộ tại nƣớc ngoài từ 
nguồn vốn Nhà nƣớc, cần tạo điều kiện cho các tổ chức đào tạo quốc tế hoạt 
động tại thị trƣờng Việt Nam, phát triển các chƣơng trình liên kết đào tạo giữa 
các trƣờng đại học Việt Nam và các trƣờng đại học trên thế giới nhằm thúc 
đẩy du học tự túc và du học tại chỗ. Bên cạnh việc đào tạo cần có chế độ sử 
dụng và đãi ngộ hợp lý nhằm thu hút nguồn nhân lực có chất lƣợng làm việc 
tại các công ty trong nƣớc, giảm thiểu tình trạng chảy máu chất xám nhƣ hiện 
nay. 
Cán bộ thƣơng nghiệp cũng cần chủ động không ngừng tự nâng cao 
năng lực kinh doanh của bản thân, ngoài những kiến thức thực tế từ thƣơng 
trƣờng có thể tham gia các khoá học dài hạn hoặc ngắn hạn do các trƣờng đại 
học hoặc Bộ Công thƣơng tổ chức, đặc biệt cần chú trọng việc tìm hiểu hệ 
thống pháp luật trong nƣớc cũng nhƣ quốc tế. Những sinh viên hiện tại đang 
ngồi trên ghế nhà trƣờng nhƣng cũng phải nhận thấy đƣợc tầm quan trọng của 
ngành kinh tế thƣơng nghiệp, không ngừng học hỏi, nắm bắt những kiến thức 
cần thiết, không chỉ trong nƣớc mà cả ở nƣớc ngoài, có thể tham gia nghiên 
cứu hoặc tham gia những công việc thích hợp nhắm tích luỹ kinh nghiệm thực 
tiễn. Nhƣ Lênin từng viết: “Trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa Xã hội và 
bảo vệ tổ quốc vai trò của ngành thƣơng nghiệp càng vô cùng quan trọng. 
Nhƣng muốn phát huy tốt nhất vai trò và sức mạnh của mình, thƣơng nghiệp 
lại cần có một đội ngũ cán bộ “vừa hồng vừa chuyên”. Bởi vì hoạt động 
thƣơng nghiệp là một công tác khó khăn và phức tạp, nó đòi hỏi cán bộ, công 
nhân viên trong ngành chẳng những phải có nhiệt tình cách mạng và tinh thần 
trách nhiệm cao mà còn phải có trình độ nghiệp vụ, chuyên môn vững 
vàng”21. 
21 VI Lênin toàn tập, tập 45. NXB Tiến Bộ, Matxcơva 1978 trang 98-99 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 80 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
 KẾT LUẬN 
Với vai trò là cầu nối đầu tiên giữa sản xuất và tiêu dùng, không những 
trong nƣớc mà cả trên phạm vi quốc tế, thƣơng nghiệp bán buôn Việt Nam đã 
tạo ra những giá trị thúc đẩy to lớn và đang dần trở thành bộ phận không thể 
tách rời của sản xuất trong nƣớc. Sự phát triển đa dạng và ngày càng hoàn 
thiện của hệ thống bán buôn, sự kết hợp của các mô hình bán buôn truyền 
thống với các phƣơng thức kinh doanh hiện đại là một trong những nhân tố 
quan trọng để xây dựng và gia tăng giá trị của sản xuất trong nƣớc, không chỉ 
đối với lĩnh vực công nghiệp mà cả sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên thƣơng 
nghiệp bán buôn Việt Nam vẫn tồn tại những hạn chế nhất định, trong nhiều 
trƣờng hợp đã kìm hãm sản xuất phát triển. Những xu hƣớng phát triển mới 
của hoạt động bán buôn cùng những thay đổi trong môi trƣờng kinh doanh 
trong nƣớc và quốc tế đang tạo ra những thách thức lớn đòi hỏi phải có những 
giải pháp phù hợp để cải thiện hoạt động bán buôn, biến bán buôn thực sự trở 
thành lực đẩy đối với sản xuất. Các cơ quan quản lý Nhà nƣớc cần nhanh 
chóng hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh hoạt động mua bán, hoàn 
thiện cơ chế quản lý và tổ chức bộ máy quản lý Nhà nƣớc. Cần khuyến khích 
thành lập các doanh nghiệp lớn, nhanh chóng thành lập hiệp hội bán buôn, 
tăng cƣờng các mối liên kết dọc và liên kết ngang trong chuỗi phân phối hàng 
hoá. Bên cạnh đó phải phát triển đa dạng các loại hình bán buôn, kết hợp các 
loại hình truyền thống và hiện đại, huy động sức mạnh từ tất cả các thành 
phần kinh tế. Cần đặc biệt quan tâm yếu tố con ngƣời, đầu tƣ phát trỉên nguồn 
nhân lực. Đây là một số biện pháp có tính định hƣớng chung mà trong quá 
trình thực hiện đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ của các cơ quan quản lý nhà nƣớc, 
các doanh nghiệp kinh doanh bán buôn, các doanh nghiệp sản xuất, trong 
từng giai đoạn, từng thời kỳ cần có sự điều chỉnh đề phù hợp với môi trƣờng 
và điều kiện kinh doanh. 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 81 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
Đại học Ngoại thƣơng là một trong số các trƣờng đại học tại Việt Nam 
với các chuyên ngành đào tạo về kinh tế nhƣ kinh tế ngoại thƣơng, quản trị 
kinh doanh,… Cùng các trƣờng nhƣ Đại học kinh tế quốc dân, Đại học 
Thƣơng mại, đây là nguôn cung cấp nhân lực chính cho ngành thƣơng nghiệp 
trong nƣớc. Đặc biệt với chuyên ngành kinh tế và kinh doanh quốc tế, Đại học 
Ngoại thƣơng có thế mạnh về đào tạo cán bộ kinh doanh quốc tế, cán bộ xuất 
nhập khẩu. Vì vậy, cán bộ giáo viên và sinh viên của trƣờng cần thấy rõ đƣợc 
vai trò của mình trong việc tham gia và thúc đẩy nền kinh tế nói chung và 
hoạt động thƣơng nghiệp của đất nƣớc nói riêng, chủ động học hỏi từ lý 
thuyết đến thực tế, không những chỉ kiến thức trong nƣớc mà cả kiến thức về 
kinh tế thế giới, góp phần rút ngắn khoảng cách giữa nguồn nhân lực trong 
nƣớc và nƣớc ngoài, góp phần phát triển hoạt động bán buôn nói riêng và hoạt 
động thƣơng mại nói chung, thúc đẩy sản xuất mở rộng, phát triển nền kinh 
tế.. 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 82 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
 Danh mục tài liệu tham khảo 
1. Ban công tác về gia nhập WTO của Việt Nam (2006), Phần II- Biều 
cam kết cụ thể về dịch vụ Danh mục miễn trừ đối xử Tối huệ quốc theo 
Điều II. 
2. Bộ Thƣơng mại (2005), Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch thương 
mại- dịch vụ năm 2005. 
3. Bộ thƣơng mại (2005), Đề án “Phát triển thương mại trong nước giai 
đoạn 2006-2010, định hướng đến 2020”. 
4. D.Treharne Williams (1975), Commerce, Sheck Wah Tong, Hong 
Kong, chapter 21 
5. Dƣơng Bá Phƣợng (1995), Mối liên kết kinh tế giữa sản xuất và thương 
mại trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, Luận án PTS 
KHKT. 
6. Hội đồng Bộ trƣởng (1988), Bản quy định về tổ chức kinh doanh bán 
buôn hàng tiêu dùng ở thị trường trong nước, (Ban hành kèm theo 
Quyết định số 318-CT ngày 23-12-1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ 
trưởng). 
7. Jean Guiony - dịch và biên soạn Phƣơng Hà (1995), Cạnh tranh bằng 
giảm tối đa phí tổn thương mại, NXB Tp Hồ Chí Minh. 
8. Luật Thƣơng mại Việt Nam, 2005 
9. Nghiêm Văn Trọng (1996), Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp 
thương mại trong cơ chế thị trường, Luận án PTS KHKT. 
10. Nguyễn Mại (1985), Giáo trình kinh tế thương nghiệp Việt Nam, NXB 
Thống Kê 
11. Philip Kotler (2003), Quản trị Marketing, NXB Thống kê, chƣơng 20-
21. 
12. Vụ Thƣơng mại và dịch vụ, Bộ Thƣơng mại (2005), Báo cáo tình hình 
thực hiện kế hoạch thương mại và dịch vụ năm 2005. 
 PHỤ LỤC 
Trích biểu cam kết cụ thể về dịch vụ - Danh mục miễn trừ đối xử Tối huệ quốc theo Điều II-Phụ lục của nghị định thƣ gia nhập WTO của 
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Phần cam kết đối với dịch vụ phân phối 
Các biện pháp áp dụng cho toàn bộ các phân ngành trong dịch vụ phân phối: 
Thuốc lá, xì gà, sách báo và tạp chí, vật phẩm đã ghi hình , kim loại quý và đá quý, dƣợc phẩm, thốc nổ, dầu thô và dầu đã qua chế biến, 
gạo, đƣờng, mía và đƣờng củ cải đƣợc loại trừ khỏi phạm vi cam kết 
Phƣơng thức cung cấp: (1) Cung cấp quan biên giới (2)Tiêu dùng ở nƣớc ngoài (3) Hiện diện thƣơng mại (4)Hiện diện của thể nhân 
Ngành và phân ngành Hạn chế tiếp cận thị trƣờng Hạn chế đối xử quốc gia Cam kết bổ sung 
A. Dịch vụ đại lý hoa hồng 
(CPC 621,61111,6113,6121) 
B. Dịch vụ bán buôn 
(CPC 622,61111,6113,6121) 
C. Dịch vụ bán lẻ 
(CPC 631+632, 61112, 
6113,6121) 
(1) Chƣa cam kết, ngoại trừ 
không hạn chế đối với: 
Phân phối các sản phẩm phục vụ 
nhu cầu cá nhân; 
Phân phối các chƣơng trình phần 
mềm máy tính hợp pháp phục vụ 
nhu cầu cá nhân hoặc vì mục 
đích thƣơng mại 
(2) Không hạn chế 
(3) Không hạn chế, ngoại trừ: 
Phải thành lập liên doanh với đối 
tác Việt Nam và tỷ lệ góp vốn 
của phía nƣớc ngoài không đƣợc 
(1) Chƣa cam kết, ngoại trừ 
các biện pháp đã nêu tại 
phƣơng thức 1 cột tiếp cận thị 
trƣờng. 
(2) Không hạn chế 
(3) Không hạn chế 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 84 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
vƣợt quá 49%. Kể từ ngày 
1/1/2008, hạn chế vốn góp 49% 
sẽ đƣợc bãi bỏ. kể từ ngày 
1/1/2009, không hạn chế. 
Kể từ ngày gia nhập, công ty có 
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trong lĩnh 
vực phân phối sẽ đƣợc cung cấp 
dịch vụ đại lý hoa hồng, bán 
buôn và bán lẻ tất cả các sản 
phẩm sản xuất tại Việt Nam và 
các sản phẩm nhập khẩu hợp 
pháp vào Việt Nam, ngoại trừ: xi 
măng và clinke; lốp (trừ lốp máy 
bay); giấy; máy kéo; phƣơng tiện 
cơ giới; ô tô con và xe máy; sắt 
thép; thiết bị nghe nhìn; rƣợu; và 
phân bón 
Kể từ ngày 1/1/2009, công ty có 
vốn đầu tƣ nƣớc ngoài trong lĩnh 
vực phân phối sẽ đƣợc phép cung 
cấp dịch vụ đại lý hoa hồng, bán 
buôn, bán lẻ máy kéo; phƣơng 
Chức năng của thương nghiệp bán buôn trong phục vụ sản xuất 
Nguyễn Thuỳ Linh 85 Trung 1 Khoá 42 KTNT 
tiện cơ giới; ôtô con và xe máy. 
Trong vòng 3 năm kể từ ngày gia 
nhập, công ty có vốn đầu tƣ nƣớc 
ngoài trong lĩnh vực phân phối sẽ 
đƣợc phép cung cấp dịch vụ đại 
lý hoa hồng, bán buôn và bán lẻ 
tất cả các sản phẩm sản xuất tại 
Việt Nam và nhập khẩu hợp pháp 
vào Việt Nam. 
Việc thành lập các cơ sở bán 
lẻ(ngoài cơ sở thứ nhất) sẽ đƣợc 
xem xét trên cơ sở kiểm tra nhu 
cầu kinh tế (ENT) 
(4) Chƣa cam kết trừ các cam kết 
chung 
(4) Chƣa cam kết trừ các cam 
kết chung 
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 3644_236.pdf 3644_236.pdf