LỜI NÓI ĐẦU
Với sự phát triển của nền kinh tế, quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ
khiến nhu cầu nhà ở, văn phòng, đất thương mại tăng cao trong khi nguồn
cung hạn chế. Bên cạnh đó, vốn đầu tư cho các dự án bất động sản là rất lớn và
được tài trợ chủ yếu từ hệ thống ngân hàng (chiếm đến 70-80% giá trị công
trình). Tuy nhiên, nhu cầu vốn của các doanh nghiệp bất động sản phần lớn là
các nguồn trung và dài hạn nhưng nguồn huy động của các ngân hàng lại là vốn
ngắn hạn vì thế rất dễ gây ra rủi ro cho các ngân hàng. Do đó các ngân hàng
cũng chỉ có thể cân đối một phần tín dụng của mình cho các dự án bất động sản.
Trong khi lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân rất lớn nhưng việc thu hút đầu tư
vào thị trường bất động sản vẫn còn hạn chế là bởi sản phẩm bất động sản có giá
trị lớn trong khi vốn nhàn rỗi thường là vốn nhỏ lẻ nên khó có thể tham gia vào
được. Để giải quyết những bất cập trên thị trường bất động sản, chúng ta cần có
những hướng giải quyết mới và trong đề tài của mình, nhóm nghiên cứu giới
thiệu đến công cụ chứng khoán hoá.
Chứng khoán hoá các khoản cho vay bất động sản sẽ giải quyết vướng
mắc trên khi nó sẽ chia dự án thành nhiều chứng chỉ có mệnh giá phù hợp để
người dân, các nhà đầu tư có thể tham gia vào thị trường. Hơn nữa, thị trường
các chứng chỉ được chứng khoán hoá sẽ là kênh đầu tư hấp dẫn đối với nhiều
quỹ đầu tư xã hội, bảo hiểm, công ty tài chính, chứng khoán và ngân hàng tạo sự
liên thông giữa thị trường vốn – tiền tệ - bất động sản.
Vai trò huy động vốn và tạo sự liên thông trên thị trường tài chính là
không thể phủ nhận, nhưng bản chất của nó thể hiện ở việc đã tách bạch được
nhu cầu đầu tư và nhu cầu sở hữu. Chúng ta có thể hiểu chứng khoán bất động
sản là một loại chứng khoán đặc biệt kết hợp giữa hai hình thức đầu tư chứng
khoán và đầu tư bất động sản, được đảm bảo bằng giá trị bất động sản mà nó đại
diện, đồng thời cho phép các nhà đầu tư kiếm lời trên biến động giá trị của bất
động sản này nhưng không nắm giữ quyền sở hữu trực tiếp một phần hay toàn
bộ bất động sản đó trong quá trình sở hữu chứng khoán. Các chứng khoán bất
động sản này sẽ được giao dịch và chuyển nhượng tự do trên các sàn giao dịch
để tạo tính thanh khoản và đến khi toàn bộ dự án hoàn thành sẽ được bán đấu
giá và chia cho các nhà đầu tư theo tỷ lệ nắm giữ chứng khoán bất động sản. Khi
đó những người có nhu cầu thực sự sẽ là những người sở hữu nhà.
Đi cùng với việc chứng khoán hoá sẽ kèm theo yêu cầu về minh bạch
thông tin. Việc cần thiết là hoàn thiện các tổ chức đánh giá xếp hạng tín dụng
đối với các chủ thể tham gia quá trình. Thông tin về các dự án bất động sản phải
được công khai và các bước tiến hành công bố thông tin tương tự như các doanh
nghiệp khi muốn niêm yết trên sàn chứng khoán, các dự án sẽ phải có bản giới
thiệu chi tiết về mục đích, quy mô dự án, tiến độ hoàn thành, nhu cầu vốn và các
chế tài đối với doanh nghiệp khi không hoàn thành đúng hẹn hoặc thông tin
công bố không chính xác từ phía cơ quan quản lý, tổ chức giám sát, tổ chức bảo
lãnh phát hành.
Với những nội dung đã trình bày về mặt yêu cầu và lợi ích của hoạt động
chứng khoán hoá các khoản cho vay thế chấp bất động sản, đề tài sẽ được bố trí
với bố cục như sau:
Chương I: Tổng quan về chứng khoán hoá các khoản cho vay bất động
sản.
Chương II: Triển vọng áp dụng chứng khoán hoá các khoản cho vay thế
chấp tại Việt Nam.
Chương III: Các giải pháp, kiến nghị nhằm ứng dụng công cụ chứng
khoán hoá các khoản cho vay bất động sản ở Việt Nam.
Với bố cục đề tài như trên chương I nhằm mục đích giải thích về chứng
khoán hoá và lợi ích cũng như rủi ro của chứng khoán hoá, đồng thời cũng đưa
ra một số bài học từ một số quốc gia. Chương tiếp theo là tổng quan về thị
trường bất động sản, hoạt động tín dụng bất động sản và một số hình thức áp
dụng công cụ này tại Việt Nam. Và nội dung cuối cùng sẽ là một số giải pháp,
kiến nghị đối với cơ quan quản lý nhằm tạo hành lang pháp lý và cơ chế chính
sách thuận lợi cho công cụ này phát triển.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thành đề tài song do nhận thức còn hạn chế nên
đề tài không tránh khỏi sai sót, các thành viên của đề tài rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp của hội đồng xét duyệt.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 85 trang
85 trang | 
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3435 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chứng khoán hoá các khoản cho vay bất động sản - Giải pháp mới ở thị trường bất động sản Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ấy là giá dù giảm 
nhưng vẫn đứng ở mức cao và hầu như không có giao dịch. Sau các chu kỳ trầm 
lắng, mức cao "kẹt giao dịch" đó tiếp tục là mặt bằng để đẩy tiếp giá thị trường 
sang điểm mất cân bằng trong một cơn sốt mới. 
III. Các mô hình áp dụng tại Việt Nam 
 Trong điều kiện các kênh tín dụng đều nghẽn mạch như hiện nay, thì chứng 
khoán hóa bất động sản là một giải pháp tốt có thể giúp các doanh nghiệp kinh 
doanh bất động sản có thêm nguồn vốn mới một cách linh động nhất. Việc 
chuyển chứng khoán hóa tín dụng bất động sản là một hình thức chuyển các thể 
thức tín dụng thành thể thức chứng khoán, phát hành ra công chúng và tạo điều 
kiện thuận lợi cho người nhà đầu tư. Khi đã được chứng khoán hóa thì nguồn 
vốn đầu tư này rất linh động, có tính thanh khoản cao và có thể thu hút được 
thêm vốn của các nhà đầu tư nhỏ lẽ mà các hình thức tín dụng khác bị hạn chế. 
Chứng khoán hóa bất động sản có nhiều hình thức, trong giới hạ
xin đề cấp đến 4 hình thức sau: 
 + Chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp cầm cố; 
 + Phát hành trái phiếu công trình; 
 + Chứng chỉ bất động sản; 
 + Mô hình quỹ đầu tư uỷ thác. 
1. Chứng khoán hóa các khoản cho vay thế chấp cầm cố. 
Ở mức độ tổ chức thị trường cao hơn, các khoản cho vay thế chấp cầm cố 
được chứng khoán hoá tại thị trường tài chính tạo tính thanh khoản cho tín dụng 
thế chấp cầm cố. 
Chứng khoán hóa (chuyển thành chứng khoán) là quá trình tập hợp và tái 
cấu trúc các tài sản thiếu tính thanh khoản nhưng lại có thu nhập cao bằng tiền 
trong tương lai như các khoản phải thu, các khoản nợ chuyển đổi thành trái 
phiếu, hay gọi chung là chứng khoán và đưa ra giao dịch trên thị trường. Nói 
cách khác, chứng khoán hóa là một quá trình huy động vốn bằng cách sử dụng 
các tài sản tài chính sẳn có trên bảng cân đối kế toán làm tài sản đảm bảo cho 
việc phát hành các chứng khoán nợ. Theo đó, các nhà đầu tư mua chứng khoán 
  57 
nợ chấp nhận rủi ro liên quan đến danh mục tài sản được đem ra làm tài sản đảm 
bảo. 
Thông thường kỹ thuật chứng khoán hóa các khoản tín dụng được thực 
hiện trên hai nhóm tài sản chủ yếu: các khoản vay được thế chấp bằng bất động 
sản và các tài sản tài chính không được thế chấp bằng bất động sản; và từ đó 
hình thành tương ứng hai loại chứng khoán tương ứng: các chứng khoán dựa 
trên thế chấp bất động sản (Mortgage backed securites) và các chứng khoán tài 
sản tài chính (Asset backed secuirities), gọi tắt là ABS. 
Chứng khoán dựa trên thế chấp bất động sản (Mortgage backed 
securities) được hình thành từ chuyển đổi các khoản vay có tài sản thế chấp, khi 
đó công ty phát hành, chủ nợ thứ nhất, sẽ chuyển giao toàn bộ giấy tờ thế chấp 
cho nhà đầu tư mua trái phiếu này. Loại trái phiếu này tuy có độ an toàn cao 
hơn, vì có vật đảm bảo khoản vay, nhưng lãi suất lại thấp hơn so với chứng 
khoán tài sản tài chính. Thực chất với những trái phiếu gắn liền với tài sản thế 
chấp này thì có đủ điều kiện để xem đó là một thương vụ bán tài sản. Người bán 
không còn chịu rủi ro thua lỗ từ số tài sản sau khi đã chuyển đổi và không phải 
chịu trách nhiệm với người mua vì người vay bị vỡ nợ hay có sự thay đổi giá thị 
trường về tài sản đó. 
Sau đây là quy trình thực hiện chứng khoán hoá: 
  58 
103
Quy trình chứng khoán hóa
SPV
Tài sản Nguồn vốn
Cơ quan xếp 
hạng tín nhiệm
Đơn vị quản 
lý tài sản
Nhà Bảo 
lãnh
Tổ chức 
phát hành Nhà đầu tư
Đại lý dịch vụ Tổ chức tín thác
Nhà tài 
trợ
Mua bán 
tài sản
Tiền
Quyền 
đòi nợ
Tiền
Quyền 
đòi nợ
Tập hợp các 
khoản thanh 
toán
Kiểm tra
Hình 16: Quy trình chứng khoán hoá. 
Sau khi cho vay thế chấp cầm cố ở thị trường cho vay thế chấp cầm cố sơ 
cấp, các tổ chức tín dụng trực tiếp tập hợp các khoản cho vay này thành một 
danh mục và bán chúng cho một công ty có chức năng đặc biệt, chức năng mua 
bán nợ. Quá trình chứng khoán hóa bắt đầu được thực hiện ở giai đoạn này. Các 
công ty mua bán nợ này đặc biệt không có vốn chủ sở hữu, mà nguồn vốn của 
công ty này sẽ được huy động bằng phát hành trái phiếu, đây là điểm mấu chốt 
của quá trình chứng khoán hóa. Các trái phiếu này được bảo đảm bằng danh 
mục các tài sản thế chấp cầm cố của các khoản cho vay ở thị trường cho vay thế 
chấp cầm cố thứ cấp. 
Thông thường, các trái phiếu này sẽ được phân thành nhiều gói, được định 
mức tính nhiệm với hệ số khác nhau, có mức độ rủi ro khác nhau và lãi suất 
cũng khác nhau. Ví dụ: gói 1, gói 2 và gói 3. Gói 1 có hệ số tín dụng cao nhất 
được thanh toán toàn bộ gốc đầu tiên, và dĩ nhiên lãi suất cũng thấp nhất, Sau 
khi thanh toán hết gói 1 sẽ đến gói 2 và sau cùng là gói 3. Gói 3 là gói đặc biệt 
không định được mức tín nhiệm, có mức độ rủi ro cao nhất. Và khi toàn bộ danh 
mục tín dụng hoạt động tốt thì gói 3 là gói hưởng nhiều lợi nhuận nhất và ngược 
lại. Qua cách phân gói như trên các nhà đầu tư có nhiều cơ hội để lựa chọn các 
  59 
gói trái phiếu phù hợp với sở thích rủi ro của mình. Điều này kích thích các nhà 
đầu tư vào các trái phiếu dựa trên thế chấp bất động sản. 
 Thông qua cơ chế này, các khoản cho vay thế chấp cầm cố đã trở thành các 
chứng khoản nợ phát hành rộng rải ra công chúng, làm tăng tính thanh khoản 
của các khoản cho vay. Cũng thông qua cơ chế này, các khoản rủi ro về tín dụng 
đã được chuyển một cách hiệu quả từ các tổ chức cho vay tín dụng trực tiếp 
sang các nhà đầu tư trái phiếu. Các tổ chức tín dụng giờ không còn bị hạn chế 
cho vay bởi nguồn huy động trực tiếp nữa, bởi khi cần họ có thể bán các khoản 
cho vay thế chấp cấm cố và thu tiền về phục vụ nhu cầu hoạt động của các tổ 
chức này. 
 Khi tiến hành chứng khoán hóa thì số lượng các nguồn vốn cho vay không 
chỉ bó hẹp ở khuôn khổ các tổ chức tín dụng nửa, mà qua quá trình này sẽ có rất 
nhiều đối tượng khác tham gia cung cấp vốn như: các nhà đầu tư nhỏ lẽ, các tổ 
chức bảo hiềm, các quỹ của xã hội. Tuy nhiên để mô hình này có thể hoạt động 
thì các cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước phải ban hành các quy định để tạo 
hành lang pháp lý cho các công ty mua bán nợ này hoạt động, cũng như cần có 
luật pháp để bảo vệ các nhà đầu tư tham gia vào quá trình này. Và để có thể thực 
sự triển khai hiệu quả kỹ thuật chứng khoán hóa ở Việt Nam thì chúng ta còn 
khá nhiều việc phải chuẩn bị như tiếp tục hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về thị 
trường tài chính, phát triển các thị trường phụ trợ như thị trường mua lại (Repo), 
thị trường các sản phẩm phái sinh (derivaties), hình thành các tổ chức xếp hạng 
tín nhiệm có uy tín và năng lực. 
2. Trái phiếu công trình 
Khi hai kênh tín dụng là ngân hàng và các tổ chức tín dụng và kênh 
khách hàng đang bị thu hẹp lại, thì với hành lang pháp lý hiện có thì phát hành 
trái phiếu công trình là một giải pháp về vốn cho các công ty bất động sản có thể 
thực hiện ngay. Tuy nhiên, dù thị trường chứng khoán Việt Nam đã phát triển 
đến một trình độ nhất định nhưng thị trường trái phiếu lại không khởi sắc, chưa 
  60 
thật sự hấp dẫn nhà đầu tư. Để phát hành trái phiếu bất động sản thành công thì 
các chủ đầu tư phải đưa ra các điều kiện hấp dẫn các nhà đầu tư như: 
- Các dự án huy động vốn phải là các dự án tốt, thì sản phẩm nhà đất phải 
thực sự hấp dẫn và nguồn cung sản phẩm phải đảm bảo, nghĩa là dự án khả thi 
và được triển khai đúng tiến độ; 
- Có cam kết chặt chẽ khi mua trái phiếu để bảo hộ quyền lợi cho các trái 
chủ khi có tranh chấp xảy ra, để các trái chủ sẽ bị thiệt thòi quyền lợi; 
- Cần kết hợp với các tổ chức bảo lãnh phát hành chuyên nghiệp, có uy 
tín và có đủ năng lực tài chính; 
- Đưa ra các sản phẩm phụ trợ hấp dẫn như: phát hành trái phiếu chuyển 
đổi kèm với quyền mua căn hộ với một tỷ lệ chiết khấu tương đối. Nhưng khi 
phát hành trái phiếu chuyển đổi chủ đầu tư phải tính đến việc cổ phiếu bị pha 
loảng sau khi chuyển đổi; cũng như khả năng kiểm soát công ty của các cổ đông 
hiện hữu; cơ cấu vốn công ty sẽ bị thay đồi nên tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sẽ 
thay đổi. 
Trái phiếu sau khi được phát hành sẽ được giao dịch tập trung trên Sở giao 
dịch chứng khoán để tạo tính thanh khoản cho các nhà đầu tư và tăng tính hấp 
dẫn của thị trường trái phiếu công ty. Đồng thời trong quá trình thực hiện công 
ty phải liên tục công bố định kỳ về tình hình và tiến độ dự án được huy động 
vốn từ trái phiếu. 
Hình 17: Quy trình phát hành trái phiếu công trình của công ty. 
TỔ CHỨC 
PHÁT HÀNH 
NGÂN HÀNG 
GIÁM SÁT 
TỔ CHỨC XẾP 
HẠNG TÍN 
DỤNG 
  61 
Theo quy trình này thì sẽ bao gồm những bước cơ bản sau: 
Bước 1: Chủ đầu tư dự án sẽ đưa ra một bản cáo bạch, trong đó có thông 
tin đầy đủ, rõ ràng, chính xác về tình hình tài chính của chủ đầu tư dự án, chi tiết 
dự án. 
Bước 2: Tổ chức đánh giá tín nhiệm sẽ đánh giá và xếp hạng tín dụng cho 
công ty theo các tiêu chí tài chính, tình hình kế hoạch phát triển trong tương lai, 
tình hình của ngành và chính sách của Nhà nước với lĩnh vực này. 
Bước 3: Tổ chức bảo lãnh và tổ chức phát hành sẽ nên kế hoạch huy động 
vốn, lãi suất thông qua nhu cầu vốn, xếp hạng tín dụng và các chính sách của 
công ty phát hành. Sau đó trình hồ sơ phát hành lên Uỷ ban chứng khoán Nhà 
nước để xin phép thực hiện. 
Bước 4: Làm hồ sơ đăng ký phát hành và lưu ký trên Sở giao dịch chứng 
khoán và đăng ký lưu ký tại Trung tâm lưu ký. Đồng thời công bố thông tin trên 
các phương tiện thông tin đại chúng. 
Bước 5: Tổ chức phát hành sẽ thực hiện quá trình phát hành trái phiếu và 
đưa lên giao dịch trên sàn chứng khoán. Tiền thu được sẽ chuyển qua ngân hàng 
giám sát và ngân hàng này sẽ có trách nhiệm giám sát, giải ngân trong quá trình 
thực hiện dự án, tránh việc sử dụng sai mục đích của chủ đầu tư. 
Bước 6: Công ty sẽ trả lãi và thanh toán gốc thông qua ngân hàng giám sát. 
Nếu công ty phát hành không có khả năng thanh toán thì tổ chức bảo lãnh phải 
có trách nhiệm thanh toán cho nhà đầu tư. 
3. Chứng chỉ bất động sản 
NHÀ ĐẦU 
TƯ 
TỔ CHỨC 
BẢO LÃNH, 
PHÁT HÀNH 
  62 
 Chứng khoán hóa theo mô hình phát hành chứng chứng chỉ đầu tư bất 
động sản, là mô hình theo đó chứng khoán được đảm bảo trị giá bằng bất động 
sản, cho phép nhà đầu tư kiếm lời trên biến động giá trị của bất động sản sau 
này mà không nhất thiết phải sở hữu trực tiếp một phần hay toàn bộ bất động 
sản đó trong suốt quá trình sở hữu chứng khoán. 
Chứng chỉ bất động sản là một loại chứng khoán đặc biệt, kết hợp giữa 
hình thức đầu tư chứng khoán và đầu tư bất động sản. Giá trị được đảm bảo 
bằng bất động sản mà nó đại diện, đồng thời cho phép nhà đầu tư kiếm lời trên 
biến động giá trị của bất động sản này, nhưng không nhất thiết nắm giữ quyền 
sở hữu trực tiếp một phần hay toàn bộ bất động sản đó trong suốt quá trình sở 
hữu chứng khoán. 
Cơ chế chuyển hóa thành chứng khoán của hình thức này: là toàn bộ bất 
động sản tham gia sẽ được chia nhỏ thành những chứng chỉ có giá trị như nhau 
sau phát hành ra công chúng. Quá trình phát hành này không cần thông qua các 
định chế tài chính trung gian. Hay nói một cách khác, một doanh nghiệp có 
nguồn thu trong tương lai có thể chuyển giao quyền sở hữu nguồn thu này cho 
các nhà đầu tư để đổi lấy một khoản tiền mặt ngay tại thời điểm thông qua việc 
phát hành chứng khoán. 
 Các chủ thể tham gia kinh doanh chứng chỉ bất động sản này bao gồm: đơn 
vị phát hành (chủ đầu tư dự án), đơn vị phân phối, ngân hàng giám sát và các 
nhà đầu tư. Tại thời điểm phát hành chứng khoán sẽ được phát hành rộng rãi cho 
mọi đối tượng quan tâm không giới hạn số lượng hay khối lượng tham gia. 
Trong quá trình thực hiện dự án, chứng khoán bất động sản sẽ được tự do 
chuyển nhượng. Theo đó tính thanh khoản của sản phẩm này là rất cao cho 
người năm giữ chứng chỉ. 
Hình 18: Quy trình thực hiện phát hành chứng chỉ bất động sản 
TỔ CHỨC 
PHÁT HÀNH 
  63 
 Bước1: Tại thời điểm phát hành thì tất cả các thông tin liên quan đến dự án 
phải được công bố một cách công khai, minh bạch và được đặt dưới sự giám sát 
của một tổ chức trung gian làm ngân hàng giám sát. Chủ đầu tư dự án sẽ đưa ra 
một bản cáo bạch, trong đó có thông tin đầy đủ, rõ ràng, chính xác về tình hình 
tài chính của chủ đầu tư dự án, chi tiết dự án, các điều khoản về quyền lợi và 
trách nhiệm của hai bên, cảnh báo những rủi ro có thể xảy ra, cam kết về tiến độ 
thực hiện dự án và việc bồi thường cho nhà đầu tư vào chứng chỉ bất động sản 
khi dự án gặp phải những sự cố do lỗi của nhà đầu tư dự án đó. Điều này đảm 
bảo cho dự án đầu tư được hoàn thành đúng tiến độ và chất lượng đã cam kết, 
hạn chế hiện tượng tiêu cực trong giao dịch bất động sản cũng như hạn chế được 
rủi ro cho tổ chức phát hành. Ngoài ra, việc công khai thông tin này sẽ phần nào 
hạn chế hiện tượng đầu tư bất động sản. 
Bước 2: Tổ chức xếp hạng tín dụng sẽ đánh giá và xếp hạng cho tổ chức 
phát hành, đồng thời tổ chức phát hành dựa trên kế hoạch dự án, những cam kết 
của công ty thực hiện và kết quả mà tổ chức xếp hạng để làm hồ sơ phát hành 
trình cơ quan quản lý. 
Bước 3: Sau khi được chấp nhận của cơ quan có thẩm quyền, tổ chức 
phát hành công bố thông tin và thực hiện các thủ tục có liên quan sau khi phát 
hành như niêm yết chứng chỉ lên sàn giao dịch và trung tâm lưu ký. 
NHÀ ĐẦU 
TƯ 
TỔ CHỨC 
BẢO LÃNH, 
PHÁT HÀNH 
NGÂN HÀNG 
GIÁM SÁT 
TỔ CHỨC XẾP 
HẠNG TÍN 
DỤNG 
  64 
Bước 4: Tiền thu được từ đợt phát hành chứng chỉ này sẽ được ngân hàng 
giám sát giải ngân theo từng hạng mục thực hiện dự án. Đồng thời trong quá 
trình dự án, công ty phải công bố thông tin thường xuyên để đảm bảo tính minh 
bạch. 
Bước 5: Tại thời điểm kết thúc dự án đầu tư bất động sản, toàn bộ dự án 
được bán đấu giá, người mua sản phẩm bất động sản sẽ là người có nhu cầu thực 
sự, do đó sẽ tránh được hiện tượng đầu cơ bất động sản. Còn các nhà đầu tư sẽ 
được chia lãi dựa trên lợi nhuận thu được từ việc đấu giá dự án đã hoàn thành. 
Việc chia nhỏ sản phẩm bất động sản cũng là một ưu điểm của chứng chỉ 
đầu tư bất động sản, sẽ tăng tính thanh khoản cho bất động sản và mở rộng cho 
các nhà đầu tư ít vốn mặc dù không có khả năng sở hữu hoàn toàn một bất động 
sản, vẫn có thể tham gia đầu tư vào thị trường này, thị trường mà từ trước tới 
nay chỉ dành riêng cho những nhà đầu tư nhiều vốn. Bên cạnh đó việc tách 
quyền sở hữu và quyền sử dụng bất động sản ra sẽ có thêm nhiều đối tượng 
tham gia vào thị trường như các công ty tài chính, bảo hiểm, các quỹ đầu tư, các 
nhà đầu tư nước ngoài, kiều bào … Đến đây, chứng chỉ bất động sản đã thực 
hiện được việc gắn kết ở mức cao giữa thị trường tài chính và thị trường bất 
động sản. 
 So với hình thức trái phiếu công trình thì chứng chỉ bất động sản an toàn 
hơn vì nhà đầu tư có thể kiểm soát được việc sử dụng vốn đúng mục đích thông 
qua sự kiểm soát và giải ngân theo tiến độ triển khai dự án của ngân hàng. Nếu 
mua trái phiếu công trình, nhà đầu tư không kiểm soát được việc sử dụng vốn 
của đơn vị phát hành trái phiếu 
 Phát hành chứng chỉ bất động sản tạo điều kiện giảm chi phí huy động vốn 
so với huy động vốn qua các tổ chức tín dụng. Tuy nhiên, khi huy động vốn 
dưới hình thức chứng chỉ bất động cũng có một số bất cập về chi phí gián tiếp 
cho việc thực hiện các giao dịch cũng như những trở ngại trong việc công bố 
thông tin theo yêu cầu của cơ quan quản lý. 
 Để cho mô hình chứng chỉ bất động sản có thể đưa vào áp dụng tại Việt 
Nam thì thị trường chứng khoán phát triển đủ mạnh để tạo ra môi trường thuận 
  65 
lợi cho việc phát hành, niêm yết và giao dịch chứng chỉ bất động sản. Để thị 
trường chứng khoán Việt Nam phát triển, cần hội đủ 4 yếu tố: cung, cầu, tổ chức 
tài chính trung gian và hệ thống văn bản pháp lý. Ngoài ra, còn yêu cầu thị 
trường bất động sản phải phát triển đến trình độ nhất định, phải minh bạch, lành 
mạnh và ổn định thì lúc đấy chứng chỉ bất động sản mới thực sự trở thành công 
cụ huy động vốn có sức hút với các nhà đầu tư chứng khoán. 
4. Mô hình công ty tín thác bất động sản 
REIT (Real Estate Investment Trust) là tên gọi của Quỹ tín thác đầu tư bất 
động sản là một loại hình công ty đầu tư chuyên mua, phát triển, quản lý và bán 
bất động sản dựa trên việc quản lý chuyên nghiệp danh mục đầu tư bất động sản. 
Đây là một hình thức đầu tư kinh doanh trên thị trường bất động sản thông qua 
các loại tài sản sở hữu hoặc tài sản đảm bảo nợ mà các tổ chức và cá nhân có thể 
tham gia bằng cách mua hoặc bán cổ phần. Ta có thể hiểu mô hình áp dụng 
thông qua sơ đồ sau: 
Trước hết, công ty quản lý quỹ sẽ thực hiện phát hành chứng chỉ quỹ ra 
công chúng để thực hiện việc huy động vốn đầu tư. Chứng chỉ quỹ được phát 
hành sẽ được giao dịch trên sở giao dịch chứng khoán và được lưu ký tại Trung 
tâm lưu ký. 
Tiền thu được từ phát hành chứng chỉ quỹ, công ty sẽ đầu tư vào các dự án 
để thu lại lợi nhuận. Lợi nhuận từ hoạt động của công ty quản lý quỹ sẽ được 
chia cho các nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ đó và tỷ lệ này do công ty quyết định 
tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng vốn trong các năm tiếp theo. Ngân hàng giám 
sát có chức năng theo dõi việc thực hiện đầu tư của công ty để đảm bảo quyền 
lợi và mức độ an toàn của quỹ. Đồng thời công ty quản lý quỹ phải thường 
xuyên công bố tình hình tài sản và các dự án thực hiện để nâng cao độ minh 
bạch. 
NGÂN HÀNG 
GIÁM SÁT 
  66 
Hình 19: Quy trình quản lý công ty tín thác bất động sản. 
Khi phát triển REIT mang đến một số lợi ít sau: 
 - Lợi ích đối với nhà đầu tư: REIT có lợi thế tránh bị đánh thuế chồng 
trong đầu tư và không giới hạn mức đầu tư tối thiểu, REIT mang lại cho nhà đầu 
tư thu nhập trong hiện tại ổn định và hấp dẫn. Một nhân tố khác hấp dẫn nhà đầu 
tư là sự vận hành của REIT được giám sát dựa trên khuôn khổ pháp lý, bởi ban 
giám đốc độc lập, các chuyên gia phân tích, kiểm toán, các phương tiện truyền 
thông chuyên về kinh doanh và tài chính. 
 - Lợi ích đối với nền kinh tế: 
 + Mở ra nhiều cơ hội đầu tư: REIT cung cấp nguồn vốn dài hạn từ 
việc huy động vốn rộng rãi để hình thành một loại hình đầu tư có khả năng đáp 
ứng nhu cầu vốn rất lớn cho các dự án bất động sản và cũng đồng thời hỗ trợ các 
ngân hàng và những công ty phát triển bất động sản sơ cấp trong việc thu hồi 
vốn đã bỏ ra để đầu tư cho dự án khác. Chứng chỉ đầu tư của REIT với mệnh giá 
nhỏ có thể mang lại nhiều cơ hội đầu tư cho bất kỳ ai có thể tham gia vào thị 
trường bất động sản. 
 + Tạo ra các điều kiện an toàn và chuyên nghiệp hơn cho hoạt động 
đầu tư kinh doanh bất động sản: Các chính sách đầu tư và cấu trúc của REIT 
được giám sát theo quy định pháp luật nhằm đảm bảo an toàn đầu tư và thu nhập 
ổn định. Phần lớn REIT sử dụng tiền vốn của REIT để mua các tài sản đã hoàn 
thiện sau đó đem cho thuê lại. Tiền thuê là nguồn thu nhập chính của các REIT. 
REIT thường không được phép cho vay hoặc vay tiền. Những hạn chế này được 
cởi bỏ một phần hoặc toàn bộ đối với các công ty trực thuộc REIT. 
 + Hỗ trợ cung cấp nhiều sản phẩm đa dạng cho thị trường bất động sản, 
đặc biệt là đối với thị trường tài sản cho thuê mua: hoạt động chủ yếu của REIT 
CÔNG TY 
QUẢN LÝ 
QUỸ 
CÁC DỰ ÁN 
BẤT ĐỘNG 
SẢN 
CÁC NHÀ 
ĐẦU TƯ 
  67 
là nắm giữ tài sản để cho thuê và thu nhập chủ yếu của REIT là từ cho thuê tài 
sản. REIT có thể mua lại nhiều loại tài sản như khách sạn, trường học, bệnh 
viện, kho hàng, khu mua sắm,… từ bất kỳ cá nhân hoặc tổ chức nào không có 
đủ kinh nghiệm quản lý, bị thua lỗ, gặp khó khăn trong việc xử lý …, sau đó 
REIT có thể thuê một công ty quản lý tài sản chuyên nghiệp để thu lợi từ các tài 
sản mua được. 
+ Giúp phát triển các lĩnh vực chuyên môn và các chương trình phát triển 
kinh tế xã hội. 
IV. Cơ chế giám sát quản lý đối với công cụ mới này 
1. Xây dựng chỉ số bất động sản 
Việc xây dựng chỉ số này mang tính toàn diện sẽ rất là thiết thực cho nhà 
đầu tư, bởi vì nhà đầu tư chỉ có thể nắm bắt thông tin ở một số khu vực, một số 
dự án mang tính cục bộ. Yêu cầu đặt ra là chúng ta cần phải có một chỉ số chung 
để nhà đầu tư có thể nắm bắt được diễn biến thị trường. Hơn nữa, khi có được 
một chỉ số thì thông tin trên thị trường sẽ minh bạch hơn rất nhiều và đó là cơ sở 
để chúng ta phát triển thị trường bất động sản một cách lành mạnh, tránh hiện 
tượng đầu cơ. Đặc biệt chỉ số này sẽ là chỉ báo để các cơ quan quản lý nắm bắt 
được thị trường và đưa ra những chính sách và điều chỉnh hợp lý giúp thị trường 
này ngày càng minh bạch hơn. Lợi ích của việc xây dựng chỉ số này đã thấy 
được ngay trước mắt, tuy nhiên việc xây dựng như thế nào và mức độ tin cậy 
đến đâu để nhà đầu tư thực sự thấy được đây là chỉ số cần thiết và quan trọng. 
Với những vấn đề đã nêu trên, nhóm đề tài khuyến nghị đưa ra một nhóm các 
chỉ số cho thị trường như sau: 
REMI Vietnam Real Estate Composite Index: Chỉ số tổng hợp thị trường bất 
động sản Việt Nam 
REMI Hanoi Real Estate Index: Chỉ số bất động sản Hà Nội 
REMI Hochiminh City Real Estate Index: Chỉ số bất động sản Hồ Chí Minh 
REMI Vietnam Office Index: Chỉ số bất động sản phân khúc văn phòng 
REMI Vietnam Apartment Index: Chỉ số bất động sản phân khúc chung cư 
REMI Vietnam Retail Index: Chỉ số bất động sản phân khúc bán lẻ 
  68 
REMI Vietnam Warehouse Index: Chỉ số bất động sản phân khúc đất nền. 
Tuy vậy, tùy thuộc yêu cầu của tình hình thị trường này chúng ta sẽ xây 
dựng chỉ số ở từng phân khúc cho từng địa bàn, tại các tỉnh thành phố khác và 
xây dựng các chỉ số theo vùng miền. Thực tế hiện nay, một số công ty đã xây 
dựng chỉ số bất động sản cho riêng mình nhưng những chỉ số này chỉ mang tính 
cục bộ bởi phạm vi hoạt động của các công ty đó là giới hạn và chỉ tập trung vào 
một số phân khúc nhất định. Thí dụ như chỉ số BDSI của công ty Metvuong chỉ 
xác định theo các quận trung tâm ở TP.HCM và tập trung vào những căn hộ 
dành để bán, còn Vinaland tập trung chủ yếu các giao dịch ở Đông và Nam Sài 
Gòn. Chính vì thế mà bộ xây dựng Việt Nam đã xây dựng thí điểm chỉ số bất 
động sản ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh, hai thành phố có thị trường bất động 
sản lớn nhất nước. 
1.1 Phương pháp tính chỉ số bất động sản (Real Estate Market Index: 
REMI) 
1.1.1 Thành phần cấu thành REMI (Real Estate Market Index: REMI) 
Chỉ số này phản ánh tình hình thị trường hiện tại và sẽ dựa trên các giao 
dịch đã hoàn thành. Chỉ số bất động sản sẽ kết hợp ba yếu tố: giá trung bình 
(Price), khối lượng giao dịch (Sales), số ngày tồn tại bình quân trên thị trường 
(median days on market: DoM). Khi thị trường nóng thì giá tăng và khối lượng 
giao dịch tăng đồng thời số ngày tồn tại trên thị trường giảm xuống. Ngược lại, 
khi thị trường đóng băng thì giá và khối lượng giao dịch giảm xuống và số ngày 
tồn tại trên thị trường tăng lên. Như thế có nghĩa là chỉ số sẽ đồng biến với giá 
và khối lượng giao dịch và nghịch biến với số ngày tồn tại trên thị trường. 
REMI(t) = W1*I(price) + W2*I(sales) – W3* I(DoM) 
1.1.2 Tỷ trọng của các thành phần cấu thành REMI 
 Xác định được tỷ trọng của các thành phần cấu tạo REMI là điều cực kỳ 
khó khăn và khó có thể mang tính chính xác cao. Tùy thuộc vào ưu tiên cho 
thành phần nào phản ánh đúng tình hình thị trường mà ưu tiên tỷ trọng cao. 
Trong các chỉ số thị trường nào thì yếu tố gía luôn có vai trò cao, tuy nhiên 
trong chỉ số bất động sản của Việt Nam thì theo ý kiến của nhóm đề tài nên 
  69 
giảm bớt vai trò của yếu tố giá đi do hoạt động đầu cơ trên thị trường cao và 
mang tính cục bộ, nếu yếu tố giá chiếm tỷ trọng lớn sẽ gây sai lệch về tình hình 
thị trường và dẫn đến nhìn nhận không đúng đắn từ phía nhà đầu tư. 
Một số tỷ trọng cấu thành REMI theo thứ tự: Price/ Volume/ DoM 
- 100/0/0: Trong tỷ lệ này thì giá đại diện cho thị trường và tỷ lệ này không 
phản ánh chính xác tình hình thị trường. 
- 50/30/20: Tỷ lệ này giá chiếm 50%, khối lượng giao dịch chiếm 30%, số 
ngày giao dịch bình quân chiếm 20%. Trong trường hợp này đã giảm bớt vai trò 
của yếu tố giá, tăng vai trò của các yếu tố khối lượng giao dịch và số ngày giao 
dịch bình quân trên thị trường. 
- 40/40/20: Tỷ lệ này giá chiếm 40%, khối lượng giao dịch chiếm 40%, số 
ngày giao dịch bình quân chiếm 20%. Yếu tố giá tiếp tục bị giảm bớt vai trò, 
tăng vai trò của yếu tố khối lượng giao dịch thành công và giữ nguyên tỷ trọng 
của DoM. 
- 33/33/33: Tỷ trọng bằng nhau đối với các yếu tố, so với các tỷ trọng 
trước thì yếu tố gía giảm xuống ngang bằng với các yếu tố khác, tỷ trọng yếu tố 
khối lượng giao dịch thành công tăng lên, và đặc biệt là DoM chiếm tỷ trọng 
bằng với các yếu tố còn lại. 
Theo quan điểm của nhóm đề tài thì nên lựa chọn trong vùng hai tỷ lệ 50/30/20 
đến 40/40/20. Theo đó dịch chuyển tỷ trọng yếu tố giá dao động trong tỷ lệ từ 
50% xuống 40% và yếu tố khối lượng giao dịch từ 30% lên 40%. Bởi vì tại thị 
trường bất động sản Việt Nam rất dễ xảy ra hiện tượng đầu cơ, làm giá nếu tỷ 
trọng của yếu tố giá cao sẽ dẫn tới phản ánh sai lệch thị trường vì thế phải có 
mức độ cân bằng nhất định giữa yếu tố giá với yếu tố khối lượng giao dịch. Còn 
tỷ trọng yếu tố DoM nên giữ ở mức 20% là hợp lý. 
1.1.3 Cách tính chỉ số 
 Bước thứ nhất: 
+Tính giá trung bình trong ngày ( tháng/ quý/ năm) 
 +Tính số ngày trung bình trên thị trường của các giao dịch thực hiện 
trong ngày. 
 +Số lượng các giao dịch thành công. 
  70 
 Bước thứ hai: Tiêu chuẩn hoá các tiêu chí bằng hệ thống chỉ số 
 + Chỉ số giá: Iprice(t) = Price(t)/ Price(1) 
 + Chỉ số khối lượng: Isales(t) = Sales(t)/ Sales(1) 
 + Chỉ số DoM: IdoM(t) = DoM(t)/DoM(1) 
 Bước thứ ba: Tính chỉ số 
 REMIt = 100*( W1*Iprice(t) + W2* Isales(t) – W3* IdoM(t))/ REMI(1) 
 Trong đó W1, W2, W3 lần lượt là tỷ trọng từng yếu tố trong chỉ số. 
1.2 Thực tế việc xây dựng chỉ số bất động sản ở Việt Nam 
Hiện tại Bộ xây dựng đang thí điểm việc triển khai xây dựng hệ thống chỉ 
số bất động sản tại TP Hồ Chí Minh và Hà Nội thông qua việc cập nhật dữ liệu 
từ các công ty môi giới bất động sản. Về mặt phương pháp và cách tính cũng 
được triển khai tương tự như cách tính đã đề cập ở trên. Thời kỳ gốc để bắt đầu 
xây dựng chỉ số này sẽ là vào năm 2010 khi mà chỉ số CPI sẽ được điều chỉnh 
và trong thời kỳ từ nay đến 2010 là thời gian thí điểm. Dưới đây là biểu đồ về 
các chỉ số bất động sản được thí điểm: 
Hình 20: Chỉ số đất nền tại TP HCM. 
  71 
Hình 21: Chỉ số đất nền tại Hà Nội. 
Ưu điểm: 
- Ba yếu tố này sẽ phản ánh chính xác mức độ của thị trường hơn việc chỉ 
dùng chỉ số giá do có thể vấp phải yếu tố đầu cơ, chỉ số REMI sẽ phản ánh cả 
tính lỏng của thị trường. 
- Chỉ số giá bất động sản là một công cụ giúp khách hàng, đặc biệt là chủ 
đầu tư có thể theo dõi được diễn biến chung và xu hướng của thị trường. Từ đó 
có một cái nhìn tổng thể và hệ thống về thị trường. 
Những khó khăn gặp phải khi tiến hành xây dựng chỉ số này: 
- Công việc thu thập dữ liệu: Dữ liệu sẽ được thu thập chủ yếu từ phía các 
công ty môi giới bất động sản, không lấy dữ liệu của các công ty đầu tư bất 
động sản vì họ sẽ cung cấp dữ liệu sai để nhằm mục đích riêng. Và việc thu thập 
dữ liệu có thể xảy ra sai sót. 
- Việc chọn tỷ trọng trong tính chỉ số là vấn đề tương đối phức tạp. 
2. 
Báo cáo Môi trường kinh doanh 2005, do tập đoàn Ngân hàng Thế giới 
thực hiện trên cơ sở so sánh chất lượng môi trường kinh doanh ở hơn 150 nước, 
cho rằng thiết lập các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân là một trong ba cải 
cách chính mà Việt Nam cần tiến hành. Công tác thông tin tín dụng ở Việt Nam 
còn hạn chế là càn trở cho sự phát triển kinh tế. Một khi thông tin tín dụng được 
  72 
đáp ứng thì nhu cầu nguồn vốn của các thành phần trong nền kinh tế sẽ được 
đáp ứng là động lực giúp nền kinh tế phát triển. Hơn nữa cổng thông tin tín dụng 
ra đời sẽ có chức năng giám sát hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời nhà 
đầu tư sẽ nắm bắt rõ hơn về tình hình doanh nghiệp. Vì thế yêu cầu đặt ra là cần 
phải có một tổ chức xếp hạng tín nhiệm tư nhân để có thể khách quan trong việc 
đánh giá chính xác các doanh nghiệp. 
Thực trạng ngành xếp hạng tín nhiệm ở Việt Nam: Hiện nay ở Việt Nam 
cũng có một số công ty xếp hạng tín nhiệm như: Công ty Xếp hạng tín nhiệm 
doanh nghiệp Việt Nam (CRV), Công ty Thông tin tín nhiệm và xếp hạng DN 
(C&R), Trung tâm Thông tin tín dụng (CIC) thuộc Ngân hàng Nhà nước, Công 
ty Cổ phần báo cáo đánh giá Việt Nam (Vietnam Report)… Nhưng các công ty 
này trong thời gian qua chưa đưa ra công bố một bản danh sách xếp hạng đúng 
với khái niệm của xếp hạng tín nhiệm DN. 
Trong hai năm qua, Vietnam Report kết hợp với báo điện tử VietNamNet 
đã công bố bảng xếp hạng top 500 doanh nghiệp lớn nhất về doanh thu 
(VNR500) theo mô hình của Fortune 500. Đơn vị tổ chức mong muốn sẽ duy trì 
một bảng xếp hạng có uy tín theo chuẩn mực quốc tế. Hàng năm, thông qua số 
liệu điều tra về doanh nghiệp trên toàn quốc của Tổng cục Thống kê như: tổng 
tài sản, doanh thu, lợi nhuận, tốc độ tăng trưởng, số lao động… kết hợp với điều 
tra của Vietnam Report và số liệu cung cấp từ các DN, các DN sẽ được đánh 
giá, xếp hạng thông qua các tiêu chí được công bố công khai, đảm bảo tính khoa 
học, khách quan và độc lập. 
Chương trình Phát triển của Liên hiệp quốc (UNDP) có đưa ra danh sách 
xếp hạng top 200 DN Việt Nam. Các chuyên gia UNDP đã công bố một bản báo 
cáo chi tiết nêu rõ quá trình điều tra xây dựng cơ sở dữ liệu đánh giá top 200 DN 
hàng đầu cũng như các câu chuyện đằng sau cuộc nghiên cứu. Mục tiêu của bản 
báo cáo nhằm tìm hiểu xem DN và các tập đoàn đang thích ứng ra sao với môi 
trường kinh doanh đang biến đổi, đồng thời xác định được họ đến từ đâu, chiến 
lược tăng trưởng của họ là gì và những hạn chế họ gặp phải. Có thể nói, báo cáo 
của UNDP là một cuộc điều tra nghiên cứu DN đầu tiên để đưa ra danh sách xếp 
  73 
hạng 200 DN hàng đầu tại Việt Nam. Các chuyên gia của UNDP đã kết hợp 3 
chỉ tiêu doanh số, tài sản và số lao động để đánh giá giống như mô hình của 
Forbes. Ngoài ra, UNDP còn tiến hành đồng thời điều tra phỏng vấn trực tiếp 
các DN thuộc phạm vi nghiên cứu để đưa ra bức tranh tổng thể về thứ hạng 200 
doanh nghiệp hàng đầu. 
CIC cũng đưa ra thông sẽ công bố thông xếp hạng các doanh nghiệp đang 
niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán năm 2007 và 2008. Ngân hàng Nhà 
nước đã cho phép CIC cung cấp bản báo cáo phân tích, xếp hạng tín dụng DN. 
Đối tượng được nhận các bản báo cáo xếp hạng tín dụng DN là các đơn vị thuộc 
Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng, không cung cấp cho các đối tượng 
khác. Và mới đây nhất, CIC đã được chính thức thực hiện nghiệp vụ phân tích, 
xếp hạng DN. 
Như vậy, việc các tổ chức xếp hạng ở Việt Nam chỉ mang tính tự phát, kể 
cả trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước. Chúng ta đã không có một 
chiến lược hoàn thiện để phát triển thị trường tài chính. Muốn thị trường tài 
chính có thể phát triển được thì phải có sự hiểu biết giữa doanh nghiệp, nhà đầu 
tư, trung gian tài chính. Và trong nội dung của đề tài, thì xếp hạng tín nhiệm các 
doanh nghiệp là điều thực sự cần thiết. Bởi lẽ các sản phẩm được phát hành ra 
cần phải có sự đánh giá nhất định về chất lượng mà thực tế thì chưa có một tổ 
chức nào đủ khả năng công khai đứng ra đánh giá và điều này vô hình trung đã 
làm hạn chế khả năng tiếp cận thông tin của nhà đầu tư. Yêu cầu đặt ra là phải 
hoàn thiện công tác xếp hạng tín nhiệm.Vậy chức năng của tổ chức xếp hạng tín 
dụng tư nhân này là gì? 
Chức năng chính của công ty sẽ là phân tích, xếp hạng tín nhiệm các tổ 
chức tín dụng, các doanh nghiệp; đánh giá và xếp hạng cổ phiếu, trái phiếu 
doanh nghiệp. Công ty sẽ nắm giữ những vai trò quan trọng trong việc cung cấp 
thông tin cho các đối tượng. 
  74 
Thứ nhất, đối với các tổ chức tín dụng: nhằm hỗ trợ các tổ chức tín dụng 
trong việc ra quyết định cấp tín dụng, giám sát và đánh giá khách hàng, kiểm 
soát rủi ro hiệu quả hơn... 
Thứ hai, đối với các nhà đầu tư và thị trường chứng khoán là nhằm giúp họ 
có cơ sở để tham khảo, đối chiếu kỹ càng trước khi ra quyết định đầu tư cuối 
cùng, giảm bớt rủi ro khi đầu tư; giúp cho các công ty chứng khoán lựa chọn 
một danh mục đầu tư tốt nhất; tạo điều kiện huy động vốn trên thị trường chứng 
khoán thực hiện được dễ dàng, thuận lợi hơn. 
Thứ ba, công ty này sẽ giúp các doanh nghiệp Việt nam xây dựng hình ảnh 
và độ tín nhiệm của mình trong sản xuất, kinh doanh cũng như trong quá trình 
hội nhập quốc tế; và thứ tư là sẽ giúp cho các cơ quan quản lý Nhà nước đánh 
giá được đối tượng quản lý của mình, có cơ sở để đưa ra những giải pháp thích 
hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế nói chung. 
Vấn đề trên đã được giải quyết, vậy mô hình đánh giá như thế nào sẽ phù 
hợp với Việt Nam? Do Việt Nam có những điều kiện đặc biệt nên áp dụng một 
phương pháp phù hợp tránh áp dụng cứng nhắc và rập khuôn là một điều đáng 
suy nghĩ. Với hiện trạng hiện nay của Việt Nam, một mô hình như Forbes 500 
hay Fortune 500 (tất nhiên không rập khuôn), cũng là điều nhiều nhà đầu tư 
đang mong mỏi. Tuy vậy, áp dụng mô hình hiện đại như vậy không phải là điều 
dễ dàng. Chẳng hạn, nếu theo mô hình Forbes 500 và chỉ dựa trên những chỉ 
tiêu hiện tại để đánh giá như: doanh thu, tài sản, tốc độ tăng trưởng, lợi nhuận và 
số lao động thì vẫn gặp nhiều hạn chế như: tài sản của các DN nhà nước rất khó 
xác định và thường không tính đủ (vấn đề về sở hữu đất đai, vấn đề cấp phát vốn 
của Nhà nước, vấn đề công nợ của các DN nhà nước…) hoặc sự mất cân bằng 
giữa lao động trong các ngành như dệt may và tài chính ngân hàng… đồng thời 
cả sự hạn chế về hệ thống cơ sở dữ liệu, sự không thống nhất trong mô hình 
quản lý hạch toán của các tổng công ty nhà nước và các đơn vị thành viên. 
Bên cạnh đó, nền kinh tế đang trong giai đoạn chuyển đổi, do vậy sẽ gây 
khó khăn cho việc xác định mô hình sở hữu cũng như tổng hợp dữ liệu. Về tổng 
  75 
thể, vẫn có thể đưa ra bức tranh tổng quát về xếp hạng DN, tuy nhiên, kết quả 
đưa ra sẽ có nhiều sai lệch. Theo nhìn nhận của nhóm đề tài thì với hiện trạng cơ 
sở dữ liệu cũng như tình hình thực tế các DN hiện nay, mô hình đánh giá của 
Standard & Poors, Moodys… là phù hợp nhất vì nó dung hoà được các yếu tố. 
Đối với ngành xếp hạng tín nhiệm DN tại Việt Nam, câu khẩu hiệu: Độc lập, 
khách quan, trung thực mới chỉ là điều kiện cần. Đó là lý do đặt ra là chúng ta 
phải xây dựng một quy trình đánh giá khoa học, bài bản sát thực phù hợp với 
điều kiện hoàn cảnh thực tiễn. Đồng thời chúng ta cũng cần sự tham vấn của các 
chuyên gia tài chính hàng đầu trong và ngoài nước và liên tục chỉnh sửa để 
không ngừng hoàn thiện quy trình đó. 
3. Cải thiện và tăng cƣờng giám sát hệ thống tài chính 
 Chứng khoán hoá là công cụ thông minh song để nó thực sự phát huy được 
vai trò của mình thì cần có sự giám sát và quản lý chặt chẽ để có thể phát triển 
bền vững. Vì thế cần có sự giám sát các bên tham gia trong giao dịch chứng 
khoán hoá và có sự đảm bảo các sản phẩm được tạo ra có tính thanh khoản. 
Hiện tại hệ thống giám sát tài chính của Việt Nam còn tồn tại nhiều điểm yếu, vì 
thế để quá trình chứng khoán hoá sớm được triển khai thì vấn đề quan trọng là 
chúng ta cũng phải hoàn thiện cơ chế và tổ chức của bộ máy giám sát hệ thống 
tài chính. Nó là điều kiện tiên quyết và cũng là cơ bản để phát triển không chỉ 
thị trường các công tài chính mà là để chúng ta có nền tài chính ổn định và lành 
mạnh. Câu hỏi đặt ra là: vậy hệ thống tài chính của Việt Nam được giám sát như 
thế nào? 
Định chế tài chính trung gian là các tổ chức thực hiện chức năng dẫn vốn 
từ người có vốn tới người cần vốn. Các định chế tài chính trung gian có thể là 
các ngân hàng, các công ty chứng khoán, các hiệp hội cho vay, các liên hiệp tín 
dụng, các công ty bảo hiểm, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính (gọi tắt 
là ngân hàng, chứng khoán và bảo hiểm). Như vậy, hệ thống tài chính của Việt 
Nam có sự hiện diện của hầu hết các loại hình định chế tài chính trung gian, do 
đó, hoạt động giám sát tài chính quốc gia bao trùm lên tất cả các định chế này. 
  76 
Hiện tại, việc kiểm tra, giám sát các định chế tài chính này đang được phân 
chia cho các cơ quan khác nhau. Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm kiểm 
tra, thanh tra và giám sát hoạt động của các tổ chức tín dụng. Ủy ban Chứng 
khoán Nhà nước chịu trách nhiệm thanh tra, quản lý và giám sát hoạt động của 
các công ty chứng khoán và thị trường chứng khoán nói chung. Bên cạnh đó, 
hoạt động của các công ty bảo hiểm được giám sát bởi Bộ Tài Chính. Một điểm 
đáng lưu ý trong mô hình hiện tại là việc các cơ quan này vừa thực hiện chức 
năng cấp phép, ban hành cơ chế chính sách vừa thực hiện chức năng hướng dẫn, 
triển khai thực hiện và kiêm luôn vai trò kiểm tra, thanh tra và giám sát (theo sự 
phân cấp trên). Mô hình này dẫn tới sự thiếu liên thông trong vấn đề thực hiện 
giám sát cả hệ thống tài chính. Gần như các cơ quan chức năng chưa phát hiện 
được bất cứ mối liên hệ, hay nói thẳng ra là các giao dịch bất minh giữa ba 
nhóm đối tượng này. Mô hình giám sát tài chính của Việt Nam còn bộc lộ nhiều 
bất câp và yếu kém, cụ thể ở các điểm sau: 
Điểm yếu thứ nhất là sự thiếu phối hợp điều tiết giữa các cơ quan chức 
năng trong việc xử lý các vấn đề tài chính, xảy ra tình trạng giẫm chân nhau 
trong hệ thống giám sát tài chính. 
Điểm yếu thứ hai là sự yếu kém trong quá trình theo dõi và giám sát, bao 
gồm tính thiếu minh bạch và chất lượng các báo cáo. Sự phát triển, đổi mới của 
hệ thống tài chính tạo ra những sản phẩm lai ghép, do đó, công tác giám sát 
cũng gặp khó khăn hơn. 
Sự không tương thích giữa các tiêu chuẩn Việt Nam và tiêu chuẩn thế 
giới trong việc giám sát dựa trên rủi ro đã góp phần làm bộc lộ tính yếu kém của 
công tác điều tiết và giám sát. Ngoài ra, cơ chế cảnh báo và giám sát hệ thống 
sớm cũng là một điểm yếu của hệ thống điều tiết hiện nay. 
Điểm yếu thứ ba là năng lực phát hiện, xử lý vi phạm còn hạn chế, trong 
khi chế tài xử lý vi phạm chưa đủ mạnh. 
Thứ tư là yếu kém trong việc giám sát dòng vốn có yếu tố nước ngoài. 
  77 
Chính vì thế mà tháng 3-2008, Ủy ban Giám sát Tài chính quốc gia 
(NFSC) được thành lập với nhiều chức năng và nhiệm vụ quan trọng như: điều 
phối hoạt động giám sát thị trường tài chính quốc gia, kiến nghị cơ chế giám sát, 
giám sát chuyên ngành; giám sát chung thị trường tài chính, giám sát điều kiện 
được cấp phép; phân tích, dự báo, cảnh báo mức độ an toàn hệ thống và nguy cơ 
rủi ro đối với thị trường tài chính quốc gia. Tuy nhiên, đến thời điểm này, hoạt 
động của cơ quan này vẫn chưa thực sự khởi sắc, ngoài việc tổ chức một số hội 
thảo và đối thoại giữa chính phủ, các cơ quan chức năng và các trí thức, học giả. 
NFSC nên tập trung vào triển khai một số công việc cụ thể: 
(i) rà soát hệ thống tài chính, đưa ra khuyến nghị chính sách về việc 
thành lập thêm các định chế tài chính mới, đặc biệt là ngân hàng và công ty 
chứng khoán; 
(ii) kiểm tra, phân tích và đánh giá các sản phẩm dịch vụ đang được cung 
cấp hiện nay để nhận diện rủi ro, đặc biệt là việc triển khai cung ứng các công 
cụ tài chính của các định chế tài chính (như repo, tiết kiệm linh hoạt, tiết kiệm 
bảo đảm...); 
(iii) xem xét và đánh giá khách quan về việc thực hiện phân loại nợ và 
trích lập đủ dự phòng đối với các tổ chức tín dụng (hoạt động chiếm tới trên 
50% tổng tài sản và hàm chứa rất nhiều rủi ro); 
(iv) kiểm tra khoản mục đầu tư giấy tờ có giá, chú trọng phân tích giao 
dịch giữa ngân hàng và công ty. 
Tuy nhiên vẫn cần thời gian để hoàn thiện và cơ cấu tổ chức cũng như mô 
hình hoạt động, nhưng với sự ra đời của Uỷ ban giám sát tài chính quốc gia thì 
thị trường tài chính của Việt Nam sẽ hoạt động tốt hơn và là kênh dẫn vốn hiệu 
quả cho nền kinh tế. 
  78 
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM ỨNG DỤNG CHỨNG 
KHOÁN HOÁ CÁC KHOẢN CHO VAY BẤT ĐỘNG SẢN VÀO THỊ 
TRƢỜNG BẤT ĐỘNG SẢN VIỆT NAM 
1. Ban hành các văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý để thị trƣờng 
phát triển lành mạnh 
 “
kinh t
 Đối với nền kinh tế nói chung và thị trường bất động sản nói riêng, Nhà 
nước có hai chức năng cơ bản: chức năng điều khiển (duy trì và trọng tài trong 
với tất cả các hoạt động của thị trường bất động sản); chức năng thứ hai là chức 
năng phát triển (thông qua các hoạt động đầu tư tạo lập bất động sản tại các dự 
án, khu đô thị mới, các chương trình trọng điểm quốc gia v.v..) của các doanh 
nghiệp bất động sản của nhà nước). Để thực hiện được các vai trò nói trên của 
mình, Nhà nước phải sử dụng một hệ thống các công cụ quản lí vĩ mô để điều 
khiển, tác động vào thị trường bất động sản như công cụ luật pháp, tài chính, 
thuế, quy hoạch v.v.. nhằm giải quyết hài hoà các mối quan hệ kinh tế giữa các 
chủ thể tham gia hoạt động trên thị trường bất động sản cũng như giải quyết 
được mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế bất động sản và đảm bảo công bằng 
xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế bất động sản với giữ gìn môi trường sinh 
  79 
thái…Vai trò của Nhà nước đối với thị trường bất động sản được thể hiện trên 
các mặt chủ yếu sau: 
- Tạo lập môi trường pháp lý cho thị trường bất động sản; 
- Thực hiện các công cụ vĩ mô như quy hoạch (Quy hoạch xây dựng, quy 
hoạch sử dụng đất, quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội), tài chính, thuế... thống 
nhất quản lí bất động sản theo pháp luật; 
- Cung cấp dịch vụ công như thẩm định giá, tư vấn pháp luật v.v.. 
- 
  80 
- 
- –
- 
- 
2. Cải thiện chất lƣợng đào tạo nhân lực trong ngành bất động sản. 
Để có thể áp dụng công cụ chứng khoán hoá các khoản cho vay thế chấp 
bất động sản thì yêu cầu cần thiết được đặt ra là phải định giá chính xác được 
giá trị các bất động sản được thế chấp. Đây là bài toán khó khi mà số lượng 
nhân lực được đào tạo bài bản ra còn ít và thiếu kinh nghiệm được cọ xát với 
thực tế, còn số khác được đào tạo dưới dạng chứng chỉ thì được đào tạo trọng 
trong thời gian ngắn không thể đảm bảo được chất lượng. Bài toán ở đây là cần 
phải cải thiện nguồn nhân lực cả về chất lượng và số lượng. 
Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nên nguồn 
tài nguyên đất đai sẽ được sử dụng mạnh mẽ. Theo đó, nguồn nhân lực cho thị 
trường bất động sản sẽ cần rất nhiều, nhất là nhân lực có chuyên môn, chuyên 
nghiệp trong định giá, quản lý sàn. Ngoài các công ty trực tiếp kinh doanh trong 
lĩnh vực bất động sản, nhu cầu còn có từ các ngân hàng, công ty chứng khoán, 
quỹ đầu tư, các tổng công ty lớn… Tại một số ngân hàng thương mại, các 
  81 
chuyên viên tín dụng phụ trách mảng khách hàng liên quan đến bất động sản 
cũng buộc phải có chứng chỉ nói trên. Đây cũng là yêu cầu có ở nhiều quỹ đầu 
tư, đặc biệt là trình độ về khả năng thẩm định. 
Hiện nay việc đào tạo và cấp các chứng chỉ này còn lỏng lẻo, để có được 
chứng nhận đào tạo về môi giới, định giá hay quản lý sàn bất động sản, các học 
viên chỉ mất trên dưới hai tháng, với học phí từ 4 - 5 triệu đồng/khóa. Trong khi 
đó, đào tạo chính quy chuyên sâu theo bậc đại học, thời gian đào tạo là 4 năm, 
trong đó có 2 năm học các môn chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực bất động 
sản. Với việc đào tạo đại trà như hiện nay chắc chắn sẽ không đảm bảo được 
chất lượng cao và đồng đều. Hơn nữa, chất lượng của các chương trình đào tạo 
hiện nay còn thiếu yếu tố thực tế. Chính học viên cũng chỉ được đào tạo một 
kiến thức chung chung, kiến thức chay mà chưa được thực hành, cọ xát với sàn 
mẫu, sàn thật nên còn thiếu tính thực hành và chưa phát huy được hết khả năng. 
Nếu xét về sự chuyên sâu kiến thức trong lĩnh vực kinh doanh bất động sản, chỉ 
với thời lượng trên dưới hai tháng chất lượng đào tạo khó đảm bảo tương xứng. 
Với những bất cập đã nêu trên thì vấn đề đặt ra Nhà nước nên có chính 
sách cụ thể đối với việc đào tạo nhân lực ngành này. Theo nhóm đề tài kiến nghị 
một số giải pháp cụ thể như sau: 
- Cho phép các trường đại học thuộc ngành kinh tế và xây dựng được 
phép đào tạo nhân lực ngành bất động sản hệ chính quy. Nội dung liên quan đến 
chương trình đào tạo này phải được các chuyên gia và cơ quan có liên quan 
thẩm định, đồng thời phải cân đối được yếu tố lý thuyết và yếu tố thực tế. 
- Chấn chỉnh các cơ sở đào tạo chứng chỉ bất động sản, loại bỏ những 
cơ sở chưa đạt yêu cầu và đưa ra một khung giáo trình thống nhất cho các cơ sở 
đào tạo này. 
- Đưa ra một khung tiêu chuẩn, tiêu chí đối với nhân lực trong lĩnh vực 
này và muốn được cấp chứng chỉ thì phải thông qua kỳ thi quốc gia trong lĩnh 
vực này. 
- Ban hành khung pháp lý cụ thể đối với chính sách đào tạo nhân lực 
ngành này, trong nghị định hướng dẫn 153 còn chung chung và chưa cụ thể. 
3. Giám sát việc minh bạch hoá thông tin 
  82 
Để công cụ chứng khoán hoá được đưa vào vận hành tốt ở Việt Nam thì 
yêu cầu cấp thiết được đặt ra là cần phải có được sự minh bạch cao điều đó sẽ 
tạo được sự tin tưởng của nhà đầu tư. Vì vậy theo các thành viên đề tài thì Chính 
phủ nên ban hành nghị định về việc công bố thông tin với các tổ chức liên quan 
đến hoạt động trên thị trường tài chính, bất động sản, hoạt động đầu tư vì điều 
này là cần thiết tránh sự bất cân xứng thông tin giữa các bên, làm kìm hãm sự 
luôn chuyển của dòng vốn cũng chính giảm hiệu quả của nền kinh tế. Hiện nay 
chúng ta mới có thông tư số 38/2007/TT-BTC, tuy nhiên thông tư này còn thiếu 
tính thực tế và mang nặng tính hình thức, chưa quy định cụ thể rõ ràng. Có thể 
thấy được những bất cập và hạn chế được thể hiện đó là: 
Thứ nhất, Thông tư chưa bao quát được hết các đối tượng phải công bố 
thông tin. Theo quy định, các đối tượng phải công bố thông tin đã bao gồm hầu 
hết các thành viên có hoạt động đầu tư, kinh doanh chứng khoán, nhưng còn 
một thành viên lớn trên thị trường với chức năng đầu tư tài chính, kinh doanh 
vốn là Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) lại không nằm 
trong các đối tượng phải công bố thông tin. Sự bỏ sót về đối tượng phải công bố 
thông tin này có thể gây ra sự thiếu minh bạch mà hậu quả là sự không công 
bằng giữa các thành viên khi tham gia đầu tư kinh doanh chứng khoán theo quy 
luật thị trường, ảnh hưởng đến quyền lợi của các nhà đầu tư. 
Thứ hai, Thông tư còn có nhiều quy định chung chung, chưa rõ ràng 
khiến các đối tượng phải công bố thông tin có thể rơi vào tình trạng lúng túng, 
nhiều khi không biết mình có phải công bố thông tin hay không do không có đủ 
cơ sở và thông tin cho việc công bố thông tin. 
Yêu cầu đặt ra đối với một thông tư hướng dẫn thi hành là phải cụ thể 
hóa, làm rõ các các đối tượng, các trường hợp và các nội dung phải công bố 
thông tin; tránh gây hiểu nhầm, hiểu sai hay bỏ sót các đối tượng, các nội dung 
phải công bố thông tin; đảm bảo hiệu quả thực thi sau khi được ban hành. Vậy 
với những nội dung liên quan đến đề tài thì cần công bố thông tin ở nhóm đối 
tượng nào? Thì theo nhóm đề tài đề xuất một số văn bản cần thiết liên quan đến 
nội dung đề tài: 
  83 
- Văn bản pháp luật liên quan đến công bố thông tin trong lĩnh vực đầu tư 
bất động sản. 
- Văn bản hướng dẫn đối với các đối tượng tham gia quá trình chứng 
khoán hoá; 
- Văn bản hướng dẫn của NHNN, BTC về quản trị rủi ro đối với các tổ 
chức tín dụng, bảo lãnh, bảo hiểm, tổ chức phát hành sản phẩm tài chính. 
- Hoàn thiện hơn văn bản pháp luật công bố thông tin trên thị trường 
chứng khoán mà cụ thể ở đây là Thông tư 38; 
Với những nội dung văn bản trên cần ban hành thì đó quả là quá trình cần 
có sự tìm hiểu và tham khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác đồng thời hoàn 
thiện những văn bản pháp luật hiện có sao cho những văn bản này có hiệu lực 
đáng kể và thực hiện chức năng của nó. 
KẾT LUẬN 
 Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế nói chung và thị trường bất động sản nói 
riêng đã đạt những bước phát triển nhất đinh. Tuy nhiên, thị trường bất động sản 
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế và bất cập như mất cân bằng cung cầu ở một số 
phân khúc, nguồn vốn huy động còn hạn chế, hành lang pháp lý còn nhiều 
khiếm khuyết… Để thị trường bất động sản có thế phát triển bền vững, minh 
bạch, có tác động tốt đến sự phát triển của nền kinh tế thì chúng ta cần có các 
biện pháp hỗ trợ và điều chỉnh, trong đó hổ trợ tín dụng có vai trò rất quan 
trọng. Vì vậy, trong đề tài của mình nhóm nghiên cứu đề xuất công cụ chứng 
khoán hoá các khoản cho vay bất động sản, một kênh khơi thông tín dụng đã 
được nhiều nước trên thế giới áp dụng và phát triển như: Mỹ, Nhật, Úc, 
Singapore… 
Với những phân tích ở trên, nhóm nghiên cứu đã đưa ra ưu, nhược điểm 
của công cụ chứng khoán hoá, thực tiễn của thị trường bất động sản cũng như 
hoạt động tín dụng bất động sản, và đề xuất các giải pháp để áp dụng công cụ 
mới này. Việt Nam chưa từng áp dụng công nghệ mới này vào thị trường bất 
  84 
động sản, tuy nhiên với những bài học kinh nghiệm của các nước đi trước, 
chúng ta hoàn toàn có khả năng áp dụng thành công. 
Để có thể áp dụng hiệu quả công cụ này vào thị trường bất động sản thì 
cần có sự p
sự minh bạch thông tin trên thị trường tài chính, thành lập các tổ chức tài chính 
tham gia điều tiết thị trường. Đồng thời cũng tăng cường công tác đào tạo nguồn 
nhân lực chất lượng cao có khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường. 
 Nhóm nghiên cứu cũng rất hy vọng và cũng có niềm tin rằng, trong một 
tương lai không xa, Việt Nam có thể áp dụng thành công công nghệ chứng 
khoán hoá và giải quyết được các bất cập còn tồn tại trong thị trường bất động 
sản, để thị trường bất động sản phát triền bền vững và góp phần hơn nữa vào 
công cuộc phát triển của đất nước. 
Danh mục tài liệu tham khảo. 
1. Các luật, bộ luật: Đất đai 2005, Luật bất động sản 2005, Bộ Luật dân sự 2005, 
Luật đầu tư 2005. 
2. Thông tư số 38/2007/TT-BTC của Bộ Tài chính về công bố thông tin trên 
TTCK, Nghị định 153/2007/NĐ-CP của Chính phủ về việc quy định chi tiết và 
hướng dẫn thi hành Luật Kinh doanh bất động sản. 
3. PGS.TS Nguyễn Văn Tiến, Giáo trình quản trị rủi ro trong ngân hàng thương 
mại, NXB Thống kê. 
4. Administrator of National Banks, Comptroller’s Handbook, November 1997. 
5.  
6.  
7.  
8.  
  85 
9.  
10.  
11.  
12.  
13.  
14.  
15. 
a=PORTAL. 
16. 
a=PORTAL. 
17.  
18.  
            Các file đính kèm theo tài liệu này:
 Chứng khoán hoá các khoản cho vay bất động sản - giải pháp mới ở thị trường bất động sản Việt Nam -.pdf Chứng khoán hoá các khoản cho vay bất động sản - giải pháp mới ở thị trường bất động sản Việt Nam -.pdf