MỞ ĐẦU
Năm 2007, một năm sau khi Việt Nam chính thức là thành viên thứ 150 của WTO đã đánh dấu bước phát triển vượt bậc của nền kinh tế Việt Nam nói chung và của ngành dệt may nói riêng. Giá trị sản xuất toàn ngành tăng một cách nhanh chóng, xuất khẩu hàng dệt may vượt qua dầu thô vươn lên vị trí số 1trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Một năm dệt may Việt Nam bước ra biển lớn, có điều kiện cạnh tranh một cách công bằng với các quốc gia và vùng lãnh thổ khác đã đưa Việt Nam vào top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới.
Đồng thời, cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam cũng có nhiều chuyển biến. Thị trường xuất khẩu chủ lực là ba thị trường: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Ngoài ra, dệt may Việt Nam cũng đã mở rộng thị trường sang khu vực châu Phi, Nga, Thổ Nhĩ Kỳ, châu Đại Dương, Đông Nam Á, Ukraina, Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam là cần thiết và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế thế giới. Vì vậy, em đã lựa chọn đề tài: “Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam- Thực trạng và giải pháp”. Mục đích nghiên cứu nhằm xác định cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, tổng hợp, phân tích, và đưa ra các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu theo hướng có lợi nhất cho hàng dệt may xuất khẩu, tận dụng tối đa các lợi thế mà Việt Nam vốn có như: sản phẩm, uy tín, quan hệ ngoại giao, quan hệ kinh tế quốc tế Từ đó, giúp dệt may Việt Nam tránh và giảm bớt những tác động do khó khăn trên thị trường thế giới nói chung và tại các thị trường chủ lực nói riêng mang lại.
Em xin chân thành cảm ơn sự chỉ bảo tận tình của GS-TS Đặng Đình Đào đã giúp em nhận thức vấn đề một cách rõ ràng hơn và hoàn thành Đề án này. Trong bài viết của em còn nhiều thiếu sót do chưa có kinh nghiệm, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy để em có thể hoàn thiện Đề án hơn nữa.
Nếu có thắc mắc gì về bài viết bạn liên hệ tới số ***********
49 trang |
Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 2760 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Hàn Quốc… đã khẳng định chất lượng sản phẩm áo thun của Việt Nam được các bạn hàng ưa chuộng và tin dùng.
1.2 Quần dài
Kim ngạch xuất khẩu quần dài trong những năm gần đây vẫn luôn vững vàng ở trong top những mặt hàng dệt may xuất khẩu chính. Đây là mặt hàng có tốc độ tăng khá đều qua các năm, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Năm 2006, kim ngạch xuất khẩu mặt hàng quần dài đạt 1.063.976.168 USD, tăng khoảng 27.10% so với năm 2005, chiếm khoảng 18.24% tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Năm 2007, xuất khẩu quần dài chiếm vị trí thứ hai trong các mặt hàng dệt may xuất khẩu, sau mặt hàng áo thun. Giá trị xuất khẩu của mặt hàng quần dài đạt 1.351.295.436 USD, tăng khoảng 27% so với năm 2006, chiếm tỷ trọng khoảng 17.37%.
1.3 Áo jacket
Kim ngạch xuất khẩu áo jacket của Việt Nam trong năm 2007 đạt khoảng 1.2 tỷ USD, tăng 30% so với năm 2006, trở thành mặt hàng đạt kim ngạch cao thứ ba (sau quần và áo thun), chiếm 15% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.Giá xuất khẩu trung bình áo jacket năm 2007 đạt 12,5 USD/chiếc, tăng 8% so với năm 2006 (11,8 USD/chiếc). Năm 2007, áo jacket của Việt Nam đã được xuất khẩu tới 55 thị trường trên khắp thế giới.
Xuất khẩu áo jacket của Việt Nam trong năm 2007 sang thị trường Mỹ đạt gần 620 triệu USD, tăng 37.78% so với năm 2006, chiếm tới 52% tổng kim ngạch xuất khẩu áo jacket của Việt Nam. Cùng thời gian này xuất khẩu sang EU cũng tăng khá mạnh, đạt 350 triệu USD, tăng 47.5%, trong đó xuất sang 3 thị trường Đức, Tây Ban Nha và Anh chiếm trên 57% tổng kim ngạch xuất khẩu áo jacket sang khối EU, đạt kim ngạch lần lượt 110.4 triệu USD; 50 triệu USD và 40.2 triệu USD. Mỹ và EU là hai thị trường xuất khẩu áo jacket chủ yếu của Việt Nam trong nhiều năm qua với lượng xuất khẩu tăng khá theo từng năm, đồng thời cũng là hai thị trường khó tính nhất. Vì vậy, sự tăng trưởng khả quan xuất khẩu mặt hàng áo jacket của Việt Nam trong thời gian qua đã khẳng định được phần nào khả năng cạnh tranh của loại sản phẩm này của Việt Nam trên thị trường quốc tế.
1.4 Áo sơ mi
Trong năm 2007, kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi của nước ta đạt 465,21 triệu USD, tăng 11,52% so với năm 2006, cao hơn mức tăng 5,09% của năm 2006. Áo sơ mi là chủng loại hàng dệt may xuất khẩu lớn thứ 4 của Việt Nam trong năm 2007, chiếm 5,98% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may,
Bảng 8: Kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi trong năm 2007
(ĐVT:triệu USD)
Trong năm 2007, áo sơ mi của nước ta được xuất khẩu tới 95 thị trường trên thế giới. Thứ hạng các thị trường nhập khẩu áo sơ mi của Việt Nam không có biến động đáng kể nào so với năm 2006.
Mỹ là thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn nhất của Việt Nam, đạt kim ngạch 204,25 triệu USD, tăng 18,67% so với năm 2006 và chiếm 43,9% kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi của cả nước. Giá xuất khẩu áo sơ mi sang thị trường Mỹ năm 2007 giảm nhẹ so với năm 2006 đạt trung bình 4,6 USD/chiếc, thấp hơn 1,92 USD/chiếc so với giá xuất khẩu trung bình sang Đức và thấp hơn 2,16 USD/chiếc so với giá xuất khẩu trung bình sang thị trường Nhật Bản.
Năm 2007, kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi sang Đức và Nhật Bản, thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn thứ 2 và thứ 3 của Việt Nam, đạt kim ngạch 54,56 triệu USD và 49,69 triệu USD, tăng nhẹ so với năm 2006. Giá xuất khẩu áo sơ mi sang 2 thị trường này khá cao, phổ biến ở mức 6-7 USD/chiếc.
Trong 10 thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn nhất của Việt Nam năm 2007, xuất khẩu sang thị trường Tây Ban Nha có tốc độ tăng trưởng cao nhất 40,87% so với năm 2006. Tây Ban Nha là thị trường nhập khẩu áo sơ mi lớn thứ 4, chiếm 3,82% kim ngạch xuất khẩu áo sơ mi của Việt Nam.
Năm 2007, xuất khẩu áo sơ mi tới một số thị trường như Hồng Kông, Thổ Nhĩ Kỳ, Thuỵ Điển, CH Séc...tuy đạt kim ngạch thấp nhưng lại có tốc độ tăng trưởng kim ngạch rất cao. Năm 2008, các doanh nghiệp cần đẩy mạnh xúc tiến thương mại để tăng kim ngạch xuất khẩu sang những thị trường này
2.THỰC TRẠNG CÁC THỊ TRƯỜNG CHÍNH
Năm 2007 là năm thành công của ngành dệt may Việt Nam trên thương trường quốc tế với việc đem về 7,8 tỷ ngoại tệ và lọt vào Top 10 “đại gia” xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới. Đây là cơ sở để Bộ Công thương đặt ra chỉ tiêu 9,5 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may cho năm 2008. Mặc dù tự nhận mục tiêu này khả thi nhưng năm 2008 vẫn được dự báo là năm “căng thẳng” với ngành dệt may khi khó khăn đã “lộ diện” ở cả ba thị trường chủ chốt.
“Việt Nam đang đứng trong top 10 trong số 56 nước sản xuất, xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới. Dự tính, năm 2010, kim ngạch xuất khẩu dệt may Việt Nam sẽ đạt 25 tỷ USD, lọt vào top 5 các nhà xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới” - Thứ trưởng Bộ Công thương Bùi Xuân Khu
Hoa Kỳ: Lơ lửng “lưỡi gươm” giám sát. Với 55% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành năm 2007, tốc độ tăng trưởng đều hàng năm, Hoa Kỳ đã và sẽ luôn thị trường số 1 trong mọi mục tiêu, kế hoạch của các doanh nghiệp xuất khẩu dệt may.
Tuy nhiên, Hoa Kỳ không phải là thị trường tự do. Suốt năm 2007, Bộ Thương mại Hoa Kỳ đã duy trì Chương trình Giám sát hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam và nhiều khả năng sẽ tiếp tục đến hết năm 2008. Tuy chỉ là giám sát số liệu và chưa phát hiện được vấn đề gì nhưng chương trình này đã thực sự khiến nhiều nhà nhập khẩu e dè, thậm chí rút lại đơn hàng đã đặt trước, chuyển sang nước khác ít bị rủi ro hơn. Bằng chứng là số lượng đơn hàng đã giảm mạnh khi Hoa Kỳ chính thức áp dụng cơ chế giám sát đặc biệt lên 5 năm nhóm hàng bao gồm: quần, áo sơmi, đồ lót, đồ bơi và áo len.
Trong năm nay, “lưỡi gươm giám sát” càng trở nên đáng lo ngại hơn khi tốc độ tăng trường dệt may đã dồn dập lên đến 30-40% trong 6 tháng cuối năm 2007. Đó là tốc độ gây chú ý, rất dễ dẫn đến khả năng Bộ Thương mại Hoa Kỳ có những động thái kìm hãm số lượng nhập khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ.
Nguy cơ lơ lửng trên đầu tất cả các doanh nghiệp. Vì thế, Bộ Công thương và Hiệp hội Dệt may đang ra sức kêu gọi doanh nghiệp tránh những “chiếc bẫy giá thấp”. Thực tế, những đơn hàng lớn nhưng có giá trị thấp dễ trở thành cơ sở để Hoa Kỳ khởi động một vụ kiện chống bán phá giá. Thậm chí một chuyên gia còn cho rằng, Việt Nam tăng trưởng bao nhiêu, hàng dệt may xuất khẩu bao nhiêu không quan trọng bằng việc duy trì một mức giá cao, tránh mức giá thấp để Hoa Kỳ có cớ “siết” chặt thị trường.
EU: Nguy cơ về tay Trung Quốc. Xếp thứ hai trong các thị trường xuất khẩu chính của dệt may Việt Nam là EU. Hiện nhu cầu dệt may của EU khá đa dạng, các doanh nghiệp Việt Nam đã có nhiều bạn hàng quen thuộc.
Tuy nhiên, mọi sự sẽ không còn thuận lợi như trước bởi kể từ năm nay EU sẽ chính thức bỏ hoàn toàn việc áp dụng hạn ngạch với hàng dệt may Trung Quốc. Khi “công xưởng dệt may” lớn nhất và rẻ nhất thế giới được “tháo cũi sổ lồng” cũng là lúc các nhà xuất khẩu dệt may khác trong đó có Việt Nam phải lo ngại. Bởi Trung Quốc không chỉ là quốc gia có nguồn nhân lực khổng lồ, năng suất lao động cao mà còn tự chủ được hầu hết nguyên vật liệu và có khả năng “ôm” những đơn hàng lớn. Trung Quốc cũng là nhà xuất khẩu dệt may có khả năng “bao thầu” được hết các phẩm cấp hàng hóa từ bình dân đến cao cấp.
Ông Tổng giám đốc Tập đoàn Dệt may Vinatex Vũ Đức Giang lo ngại khi nhắc đến thị trường EU: “Tuy chỉ chiếm 20% tổng kim ngạch nhưng nếu không làm tốt thì các đơn hàng sẽ “quay về” với người Trung Quốc”.
Nhật Bản: Sức ép “hai công đoạn”. Mặc dù chiếm tỉ trọng khiêm tốn nhưng Nhật Bản vẫn là thị trường chính thứ 3 của ngành dệt may Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam đã xây dựng được mối quan hệ lâu dài với các đối tác và gây dựng được niềm tin đối với khách hàng Nhật. Nhưng cũng như EU, thị trường Nhật Bản đang mở ra nhiều cơ hội tốt hơn cho các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam.
Nguyên do là Nhật Bản đã ký với 6 nước ASEAN bao gồm Singapore, Malaysia, Philippines, Inodnesia, Brunei và Thái Lan một hiệp định trong đó họ chỉ phải chịu mức thuế 0% nếu đạt được hai công đoạn “sản xuất tại các nước đã ký Hiệp định” và có 20% nguyên phụ liệu cũng xuất xứ từ các nước trên. Như vậy trong khi hàng dệt may Việt Nam vẫn bị đánh thuế 10% thì các đối thủ của ta lại chẳng mất đồng thuế nào.
Rõ ràng bất lợi thuộc về các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Hiện Chính phủ đang nỗ lực đàm phán để Việt Nam được tham gia thỏa thuận này, khả năng sẽ kết thúc trong năm 2008. Nhưng câu chuyện không dễ dàng đến thế. Bởi ngay cả khi đạt được thỏa thuận thì việc Việt Nam có đạt tiêu chuẩn hay không lại là chuyện khác. Vì muốn được tham gia “Hiệp định 0%” đó, hàng dệt may Việt Nam phải thỏa mãn “hai công đoạn” nói trên. Và tới đây, nhược điểm bao năm của ngành dệt may đã bộc lộ rõ rệt. Đó là phần lớn nguyên vật liệu dệt may của Việt Nam phải nhập khẩu trong đó có tới trên 80% ngoài Nhật và ASEAN.
Nhưng dù đạt được tiêu chuẩn hai công đoạn hay không thì trước mắt, ít nhất là trong suốt năm 2008, hàng dệt may Việt Nam sẽ phải chịu sự cạnh tranh không công bằng với 6 đối thủ đến từ ASEAN.
Tổng hợp thực trạng từ 3 thị trường xuất khẩu chủ chốt có thể thấy rõ những nguy cơ trên thực chất chỉ biến thành nguy cơ bởi những tồn tại từ chính ngành dệt may trong nước. Thứ nhất là dù đã xác định mục tiêu hướng đến các đơn hàng có phẩm cấp trung bình trở lên song nhiều doanh nghiệp dệt may vẫn không tránh được “chiếc bẫy giá rẻ”, ham những đơn hàng đơn giản, giá thấp. Đó là lý do chúng ta lo ngại “lưỡi gươm giám sát”.
Thứ hai là dù đã hô hào hàng năm nay song các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn bị phụ thuộc quá lớn vào nguyên phụ liệu nhập khẩu. Để có thể xuất được số hàng dệt may trị giá 7,8 tỉ USD, chúng ta đã phải chi tới 5,2-5,3 tỉ USD nhập nguyên phụ liệu sản xuất. Như vậy, giá trị mà ngành dệt may tạo ra chỉ khoảng 25-30% kim ngạch xuất khẩu, trong đó phần lớn là cái “giá” mồ hôi-sức lao động của nhân công, giá trị thặng dư thực thu của ngành dệt may quá nhỏ.
Do vậy, đáp án của cả ba nguy cơ vẫn là câu trả lời đã có từ lâu: tăng tỷ lệ nội địa hoá và tập trung vào các đơn hàng trung cao cấp. Hiện ngành dệt may đang có hai chương trình: Sản xuất 1 tỷ mét vải phục vụ xuất khẩu trong vòng 5 năm tới và chương trình tăng trưởng bông nội địa. Nếu làm tốt việc này thì khả năng đáp ứng tỷ lệ 20% nguyên liệu từ nội khối các nước ký “Hiệp định 0%” vào thị trường Nhật Bản sẽ khả thi.
Trong một nỗ lực khác, để tránh bị phía Hoa Kỳ siết thị trường, một mặt Bộ Công Thương đang phối hợp với Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán Việt Nam tại Hoa Kỳ tiếp tục làm việc với Hoa Kỳ nhằm giảm bớt tác động, ảnh hưởng tiêu cực của chương trình giám sát hàng dệt may. Ở trong nước, Bộ đã lập Tổ kiểm tra cơ động hàng dệt may xuất khẩu nhằm ngăn ngừa các hành vi gian lận thương mại, gian lận xuất xứ hàng hóa và có dấu hiệu cạnh tranh không lành mạnh. Danh sách 16 doanh nghiệp xuất khẩu dệt may đơn hàng có giá trị thấp, có thể ảnh hưởng đến “vận mệnh” chung của toàn ngành năm qua cũng đã bị nêu tên. Đó là các công ty Thuận Thiên, Tân Phú Cường, Kim Đô, Kolam Việt Nam, Việt Vương, Cholimex, Thuận Phương, Việt Phương, Nam Định, Á Châu, Mimi, Wellfat, Nhật Tân, Nhà Bè, Đức Thành, Sông Tiền.
Có thể nói, đáp án đã có, thậm chí được đưa ra từ vài năm trước nhưng thực hiện được hay không và đến đâu lại phụ thuộc vào thực lực cũng như tầm nhìn của mỗi doanh nghiệp.
Mục tiêu xuất khẩu dệt may năm 2008:
Kim ngạch xuất khẩu 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so 2007
Thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3-5,5 tỷ USD( có thể đạt tới 6,1 tỷ USD)
Thị trường EU ước đạt 1,6-1,8 tỷ USD
Thị trường Nhật Bản ước đạt 800 triệu USD.
IV. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ XUẤT KHẨU DỆT MAY VÀ CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU DỆT MAY CỦA VIỆT NAM
Dệt may Việt Nam những năm gần đây đã đạt được những thành tích rất đáng khích lệ. Tổng kim ngạch xuất khẩu không ngừng gia tăng qua các năm, tốc độ tăng kim ngạch khoảng 20%/năm. Dệt may Việt Nam đã từng bước khẳng định vị thế của mình trên trường thế giới, năm 2007 Việt Nam nằm trong top 10 nước và vùng lãnh thổ xuất khẩu dệt may lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, dệt may Việt Nam vẫn tồn tại nhiều hạn chế: giá trị xuất khẩu thấp, phụ thuộc vào nguồn nguyên phụ liệu nước ngoài (nhập 70% nguyên phụ liệu ), công tác thời trang-thiết kế-thương hiệu yếu, sản phẩm chủ yếu là gia công cho các đối tác nước ngoài. Những hạn chế này đã có từ rất lâu nhưng ngành dệt may đến nay trước áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt mới bước đầu khắc phục.
Cơ cấu thị trường xuất khẩu chưa thực sự khoa học, khi mà kim ngạch xuất khẩu dệt may sang Hoa Kỳ chiếm 55% tổng kim ngạch. Thị trường quen thuộc như EU, Nhật Bản tăng trưởng rất chậm, các thị trường tiềm năng khác như: Nga, Nam Phi và châu Phi, châu Đại Dương, Canada… chưa được chú trọng mặc dù có mức tăng trưởng rất cao. Việc chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may Việt Nam bắt đầu diễn ra sau khi BTA có hiệu lực nhưng theo hướng tập trung vào thị trường Hoa Kỳ, mà không chú trọng các thị trường khác.
CHƯƠNG III
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU
THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY
VIỆT NAM
I. PHƯƠNG HƯỚNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG DỆT MAY XUẤT KHẨU
1. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT HÀNG DỆT MAY Ở VIỆT NAM
Phát triển ngành Dệt May theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm tạo ra bước nhảy vọt về chất và lượng sản phẩm. Tạo điều kiện cho ngành Dệt May tăng trưởng nhanh, ổn định, bền vững và hiệu quả. Khắc phục những điểm yếu của ngành Dệt May là thương hiệu còn yếu, mẫu mã thời trang chưa được quan tâm, công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, cung cấp nguyên phụ liệu vừa thiếu, vừa không kịp thời.
Lấy xuất khẩu làm mục tiêu cho phát triển của ngành, mở rộng thị trường xuất khẩu, đồng thời phát triển tối đa thị trường nội địa. Tập trung phát triển mạnh các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, sản xuất nguyên phụ liệu, giảm nhập siêu, nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm trong ngành.
Phát triển ngành Dệt May phải gắn với bảo vệ môi trường và xu thế dịch chuyển lao động nông nghiệp nông thôn. Di chuyển các cơ sở gây ô nhiễm môi trường vào các Khu, Cụm Công nghiệp tập trung để tạo điều kiện xử lý môi trường. Chuyển các doanh nghiệp Dệt May sử dụng nhiều lao động về các vùng nông thôn, đồng thời phát triển thị trường thời trang Dệt May Việt Nam tại các đô thị và thành phố lớn
Đa dạng hoá sở hữu và loại hình doanh nghiệp trong ngành Dệt May huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước để đầu tư phát triển ngành Dệt May Việt Nam. Trong đó chủ động kêu gọi những nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào những lĩnh vực mà các các nhà đầu tư trong nước còn yếu và thiếu kinh nghiệm
Phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng cho sự phát triển bền vững của ngành Dệt May Việt Nam; Trong đó, chú trọng đào tạo cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân lành nghề nhằm tạo ra đội ngũ doanh nhân giỏi, cán bộ, công nhân lành nghề, chuyên sâu.
Về mục tiêu tổng quát: Phát triển ngành Dệt May trở thành một trong những ngành công nghiệp trọng điểm, mũi nhọn về xuất khẩu; Đáp ứng nhu cầu ngày càng cao nhu cầu tiêu dùng trong nước, tạo nhiều việc làm cho xã hội; Nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập vững chắc kinh tế thế giới.
Về mục tiêu cụ thể:
Tốc độ tăng trưởng
Giai đoạn 2008-2010
Giai đoạn 2011-2020
- Tăng trưởng sản xuất hàng năm
16- 18%
12- 14%
-Tăng trưởng xuất khẩu hàng năm
20%
15%
Các chỉ tiêu chủ yếu trong chiến lược phát triển ngành Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng dến năm 2020 như sau:
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Thực hiện năm 2006
Mục tiêu toàn ngành đến
2010
2015
2020
1. Doanh thu
Triệu USD
7.800
14.800
22.500
31.000
2. Xuất khẩu
Triệu USD
5.834
12.000
18.000
25.000
3. Sử dụng lao động
Nghìn người
2.150
2.500
2.750
3.000
4. Tỷ lệ nội địa hoá
%
32
50
60
70
5. Sản phẩm chính:
- Bông xơ
- Xơ, sợi tổng hợp
- Sợi các loại
- Vải
- Sản phẩm may
1.000 tấn
1000 tấn
1000 tấn
Triệu m2
Triệu SP
8
-
265
575
1.212
20
120
350
1.000
1.800
40
210
500
1.500
2.850
60
300
650
2.000
4.000
Một số chỉ tiêu kế hoạch năm 2008 của Dệt may Việt Nam Kim ngạch xuất khẩu là 9,5 tỷ USD, tăng 21,8% so với ước thực hiện, trong đó dự kiến: thị trường Hoa Kỳ ước đạt 5,3-5,5 tỷ USD, thị trường EU đạt khoảng 1,6-1,8 tỷ USD, Nhật Bản đạt khoảng 800 triệu USD. Cụ thể : - Sợi toàn bộ là 100 nghìn tấn, tăng 8,7% so với ước thực hiện 2007. - Vải lụa thành phẩm là 683 triệu m2 , tăng 9,1% so với ước thực hiện 2007. - Quần áo dệt kim là 188,5 triệu sản phẩm tăng 8,1% ước thực hiện 2007. - Quần áo may sẵn là 1.591triệu sản phẩm, tăng 16,6% ước thực hiện 2007.
2. ĐỊNH HƯỚNG CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
Dự kiến, đến năm 2010 xuất khẩu hàng dệt may sẽ đạt kim ngạch 10 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 15,8%/năm.
Đối với mặt hàng này, bên cạnh yếu tố nâng cao giá trị tăng thêm của sản phẩm, việc mở rộng qui mô sản xuất và tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu là yếu tố cơ bản để có thể tăng kim ngạch xuất khẩu trong thời gian tới.
Theo Textile Intelligence Lmt., thị trường hàng dệt may thế giới sẽ tăng bình quân 13%/năm trong giai đoạn 2000-2010, chủ yếu là nhờ sản xuất và nhu cầu gia tăng tại các nước châu Á trong khi nhập khẩu tăng mạnh tại Tây Âu, Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc và Đài Loan sẽ ảnh hưởng đến sản lượng nội địa của các khu vực này. Cơ cấu thị trường sẽ có những thay đổi đáng kể từ sau khi Hiệp định dệt may (ATC) hết hiệu lực thực hiện từ năm 2005 sẽ tạo điều kiện cho các nước đang phát triển tăng cường xuất khẩu hàng dệt may, đặc biệt là những nước có lợi thế cạnh tranh như Trung Quốc. Sự gia nhập vào EU của các nước Đông Âu cũng tạo điều kiện cho các nước này tăng cường xuất khẩu hàng dệt may sang các nước trong khu vực cũng như thu hút đầu tư từ các nước EU-15 cho sự phát triển của ngành dệt may nội địa.
Thị trường xuất khẩu đối với mặt hàng này cần hướng tới vẫn là các nước phát triển có sức mua lớn như Hoa Kỳ, EU, Canađa, Nhật Bản, Hàn Quốc, Australia và các thị trường nhỏ lẻ nhưng đóng vai trò là trung tâm mua sắm của các khu vực như Hồng Kông, Singapore, Thụy Sĩ, Anh… Các thị trường mục tiêu được lựa chọn dựa trên cơ sở sau đây:
Hoa Kỳ: nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng 78 tỷ USD/năm, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 vào Hoa Kỳ chỉ chiếm 3,3% kim ngạch nhập khẩu của nước này, phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ này lên trên 5% (đạt kim ngạch trên 4 tỷ USD).
EU: nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng trên 168 tỷ USD/năm, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 vào EU chỉ chiếm 0,5% kim ngạch nhập khẩu của khu vực này, phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ này lên gần 5% (đạt kim ngạch trên 1,5 tỷ USD).
Nhật Bản: nhu cầu nhập khẩu những năm gần đây khoảng 20 tỷ USD/năm, xuất khẩu của Việt Nam năm 2005 vào Nhật Bản chỉ chiếm 2,8% kim ngạch nhập khẩu của nước này, phấn đấu đến 2010 nâng tỷ lệ này lên trên 5% (đạt kim ngạch khoảng 1 tỷ USD).
3. ĐỊNH HƯỚNG CƠ CẤU HÀNG DỆT MAY XUẤT KHẨU
Muốn thực hiện kế hoạch năm nay và lộ trình đã nêu, ngoài những việc phải làm như phát triển công nghiệp phụ trợ để tăng giá trị xuất khẩu, triển khai kế hoạch 1 tỷ mét vuông vải xuất khẩu…thì một điều mà ngành dệt may Việt Nam phải làm là tổ chức thiết kế thời trang. Chỉ có chuyển mạnh sang thiết kế trang phục, ngành dệt may Việt Nam mới có thể “giã từ” cương vị của một người gia công khổng lồ và trở thành ngành thời trang thực sự. Đây không chỉ là chuyện tăng thêm giá trị và lọt vào các thị trường hẹp mà chính là sự thay đổi về chất trong công nghiệp dệt may.
Kinh nghiệm của tất cả các nước và các công ty, các hãng thời trang thành công trên thế giới đều gắn với việc tổ chức thiết kế, tạo mẫu. Trung Quốc vượt qua giai đoạn “gia công” rất nhanh để trở thành một trung tâmthời trang quốc tế có kim ngạch xuất khẩu dệt may hàng trăm tỷ USD chính là nhờ chuyển nhanh sang thiết kế. Người giàu nhất Tây Ban Nha, ông Armancio Oitega vốn là thợ học nghề may đã thành công nhờ lập nên chuỗi cửa hàng bán sản phẩm may theo mô hình khép kín trọn gói từ khảo sát, thiết kế, sản xuất cho đến bán lẻ trực tiếp…Doanh thu của tập đoàn nhà Ortega đã đạt 4 tỷ euro và có mặt tại 1600 cửa hàng ở 50 quốc gia. Cái làm nên thành công và phát triển nhanh của Armamcio Ortega chính là tổ chức tốt khâu thiết kế. Tập đoàn này có cả một trung tâm thiết kế mẫu với 250 nhà thiết kế. Và quan trọng nữa là từ khi ra mẫu đến khi có hàng bán chỉ 11 ngày. Cứ hai lần mỗi tuần, các cửa hàng trong hệ thống lại có những mẫu hàng mới. Chính vì thế tập đoàn của Armancio Oitega luôn khuấy động thị trường may mặc và cuốn người tiêu dùng vào cuộc săn lùng các mẫu mới.
Bộ Công Thương Việt Nam cho rằng, thị trường này vẫn tiềm ẩn những rủi ro do Chương trình giám sát vẫn được duy trì và sẽ tiếp tục đánh giá số liệu 6 tháng tiếp theo vào tháng 3/2008. Bộ Thương mại Hoa Kỳ chưa đưa ra bất kỳ một hành động cụ thể nào nhằm giảm bớt tác động tiêu cực của Chương trình giám sát đối với hàng dệt may xuất khẩu của Việt Nam như không giảm bớt mặt hàng trong diện bị giám sát và cũng không nêu các tiêu chí điều kiện cụ thể làm cơ sở tự khởi kiện điều tra chống bán phá giá hàng dệt may Việt Nam. Khả năng cơ chế giám sát của Hoa Kỳ được duy trì cho đến hết năm 2008. Vì vậy các DN cần hợp tác chặt chẽ với các nhà nhập khẩu lớn Hoa Kỳ, thực hiện các đơn hàng có chất lượng và giá cao, lưu ý tránh nhận những đơn hàng đơn giản, giá trị thấp làm ảnh hưởng đến mức giá bình quân của cả nước, là cơ sở để phía Hoa Kỳ tự khởi kiện chống bán phá giá.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CỦA HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM
1. VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC
1.1 Hoàn thiện cơ chế chính sách về xuất khẩu dệt may
Mở cửa thị trường dịch vụ, cho phép sự tham gia một cách mạnh mẽ hơn nữa của các doanh nghiệp nước ngoài vào hoạt động kinh doanh cung ứng các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu tại Việt Nam như dịch vụ logistics, dịch vụ vận tải đa phương thức, dịch vụ giao nhận, kho vận...; từng bước xoá bỏ tình trạng độc quyền trong kinh doanh ở một số lĩnh vực dịch vụ như bưu chính viễn thông, điện, kinh doanh cảng biển... để nâng cao hiệu quả hoạt động trong những lĩnh vực này và từ đó giảm chi phí kinh doanh cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đồng thời giúp các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu giao hàng nhanh chóng, bảo đảm hợp đồng.
Xây dựng và thực hiện chương trình hiện đại hoá và cải cách thủ tục hải quan, lộ trình rút ngắn thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu để phấn đấu đến năm 2010 giảm thời gian tiến hành các thủ tục hải quan cho hàng hoá xuất - nhập khẩu của Việt Nam xuống đạt mức trung bình của khu vực ASEAN thông qua việc tăng cường áp dụng các biện pháp để tiến hành hải quan điện tử, hải quan một cửa...
Sớm triển khai ký kết các thỏa thuận về thanh toán quốc tế qua ngân hàng với một số thị trường xuất khẩu của Việt Nam hiện còn đang gặp khó khăn trong giao dịch và bảo đảm thanh toán như Nga và các nước Trung Đông, châu Phi; để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong việc thanh toán.
Có chính sách để thúc đẩy sự hình thành các trung tâm cung ứng nguyên - phụ liệu, đóng vai trò là đầu mối tổ chức nhập khẩu và cung ứng nguyên - phụ liệu cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu trong nước, đặc biệt là trong lĩnh vực như sản xuất hàng dệt may nhằm nâng cao khả năng cung ứng nguyên liệu cho sản xuất một cách kịp thời và với chi phí thấp hơn. Điều đó, giúp nâng cao giá trị của hàng dệt may xuất khẩu đồng thời đáp ứng yêu cầu của một số thị trường khó tính về nguồn gốc, xuất xứ của hàng hóa trong việc giảm thuế nhập khẩu nhằm tăng khả năng cạnh tranh của hàng dệt may Việt Nam.
Về chính sách tỷ giá, trước mắt, cần thực hiện công tác điều hành tỷ giá theo hướng bảo đảm giữ ổn định tỷ giá, trong trường hợp cần thiết điều chỉnh thì chỉ điều chỉnh tỷ giá ở biên độ nhỏ và có thể theo hướng giảm giá đồng tiền Việt Nam.
1.2 Tổ chức tốt công tác xúc tiến thương mại
Tổ chức hoạt động xúc tiến thương mại để xây dựng hình ảnh ngành dệt may Việt Nam theo phương châm “chất lượng, nhãn hiệu, uy tín dịch vụ, trách nhiệm xã hội” thông qua việc: Áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế ISO 9001, ISO 14000, SA 8000; Tham gia các cuộc triển lãm hội chợ quốc tế; Xác định cấp tiêu chuẩn sản phẩm trên cơ sở tiêu chuẩn của các thị trường chính. Qua đó, xác định cơ cấu mặt hàng và định hướng cho các doanh nghiệp.
Tập trung các hoạt động xúc tiến thương mại của Nhà nước vào tổ chức các chương trình lớn nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia, đặc biệt là tới các thị trường nhập khẩu lớn như: Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, Canada, thị trường nhập khẩu có nhiều tiềm năng đối với hàng hoá của Việt Nam như: Nga, châu Đại Dương, châu Phi thông qua các kênh truyền thông lớn của quốc tế như CNN, BBC, The Economist... Sử dụng nguồn tài chính trước đây dành cho thưởng xuất khẩu và hỗ trợ lãi suất tín dụng xuất khẩu của Nhà nước nay theo cam kết trong WTO không được phép sử dụng để bổ sung kinh phí cho hoạt động xúc tiến thương mại nhằm mở rộng phạm vi hoạt động xúc tiến thương mại và nâng cao khả năng hỗ trợ từ phía nhà nước trong công tác xúc tiến thương mại.
Đổi mới phương thức hoạt động và tổ chức quản lý, sử dụng Quĩ Ngoại giao kinh tế nhằm phát huy tác dụng của Quĩ này trong hoạt động hỗ trợ xúc tiến xuất khẩu theo hướng chuyển giao việc quản lý Quĩ này từ Bộ Ngoại giao sang Bộ Công Thương (trước là Bộ Thương mại), tránh tình trạng người làm công tác xúc tiến thương mại trực tiếp là các tham tán thương mại thường phải bị động như hiện nay. Trên cơ sở đó, hàng năm Bộ Công Thương sẽ giao nhiệm vụ cho các cơ quan thương vụ của Việt Nam ở nước ngoài xây dựng chương trình xúc tiến xuất khẩu vào thị trường sở tại và báo cáo Đại sứ thông qua chương trình này trước khi báo cáo Bộ Thương mại để tổng hợp, phân bổ kinh phí chung cho các thị trường theo từng năm.
1.3 Tăng cường công tác dự báo thị trường, nhận biết và ứng phó với các chính sách bảo hộ mậu dịch và rào cản phi thuế quan trên thị trường nước ngoài
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may vẫn chưa thực sự chú trọng vào công tác dự báo thị trường, mà chỉ trông chờ vào sự trợ giúp của Nhà nước. Do vậy, Chính phủ cần có các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác dự báo thị trường. Mặt khác, hướng dẫn, tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả công tác này ở các doanh nghiệp
Hàng dệt may là mặt hàng rất nhạy cảm, kể cả ở các nước phát triển người ta vẫn phải chú trọng phát triển ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may. Nguyên nhân là vì ngành công nghiệp này sử dụng rất nhiều lao động, đặc biệt là lao động nữ, cho nên nó giải quyết được rất nhiều việc làm cho người lao động, giúp Chính phủ các nước giảm bớt được nhiều gánh nặng. Do vậy, Chính phủ các nước luôn có xu hướng bảo hộ ngành công nghiệp sản xuất hàng dệt may, ngay cả trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Họ sử dụng các chính sách bảo hộ mậu dịch và đặc biệt là các rào cản phi thuế quan như: quy định về xuất xứ và nhãn hiệu hàng dệt may, quy định về bao bì, đóng gói, trách nhiệm xã hội và tiêu chuẩn lao động, qui định về môi trường, qui định tiết kiệm... Chính phủ phải có giải pháp giúp các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu nhận biết và ứng phó kịp thời trước những rào cản này. Tránh tình trạng bị phía nước sở tại kiện hay áp dụng các biện pháp kiếm chế do vi phạm quy định của họ. Bản thân Chính phủ cần liên tục đàm phán nhằm đạt kết quả là nước sở tại sẽ bỏ áp đặt các biện pháp được coi là “phòng vệ chính đáng” với hàng dệt may nước ta.
1.4 Thành lập các Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may
Nguồn nhân lực cho ngành dệt may Việt Nam yếu cả về số lượng lẫn chất lượng. Số lượng công nhân có tay nghề cao thiếu trầm trọng, nhân lực cho các khâu của hoạt động xuất khẩu hàng dệt may cũng chưa thực sự đủ tầm. Thành lập Trung tâm đào tạo chuyên ngành dệt may nhằm đào tạo các chuyên viên cao cấp về: Thiết kế thời trang, cán bộ mặt hàng, tiếp thị hàng hoá, tổ trưởng - chuyền trưởng, quản lý chất lượng, quản lý kho hàng, quản lý xuất nhập khẩu. Những chuyên viên cao cấp này sẽ có đủ khả năng giúp dệt may Việt Nam nâng cao giá trị và chiếm lĩnh các thị trường. Nâng cao hiệu quả đào tạo kể cả thuê các chuyên gia nước ngoài, để đáp ứng nhu cầu tăng vọt về cán bộ quản lý và cán bộ kỹ thuật trong thời gian tới. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng các nhà thiết kế mẫu theo hướng mở các lớp tập huấn, mời các chuyên gia trong và ngoài nước giảng dạy và gửi đi đào tạo chính quy ở nước ngoài để có các nhà thiết kế mẫu chuyên nghiệp có đủ trình độ, năng lực đáp ứng cho nhu cầu sản xuất hàng xuất khẩu. Chú trọng đào tạo theo hướng tiêu chuẩn hóa các thao tác để nâng cao kỹ năng và hiệu suất sử dụng thiết bị của công nhân, để công nhân may Việt Nam có trình độ và năng suất lao động ngang tầm với các nước trong khu vực
Xây dựng kế hoạch cụ thể và tổ chức thực hiện các chương trình đào tạo nghề, giải quyết vấn đề thiếu hụt và nâng cao chất lượng nguồn lao động trong một số ngành sản xuất hàng xuất khẩu đang gặp khó khăn về nguồn lao động như lĩnh vực sản xuất hàng dệt may. Theo đó, ngoài yêu cầu đẩy mạnh xã hội hoá việc dạy nghề, hàng năm Nhà nước cần cân đối một nguồn ngân sách hỗ trợ đào tạo nghề cho một số danh mục nghề phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu theo các địa chỉ sử dụng cụ thể. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách, luật pháp của Nhà nước trong lĩnh vực lao động và việc làm nhằm tăng cường chăm lo, bảo vệ lợi ích cho người lao động, nâng cao mức thu nhập và điều kiện sống cho người lao động.
1.5 Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư phát triển các Cụm công nghiệp Dệt may
Trước mắt, nên đầu tư trọng điểm cho ngành dệt để có những dây chuyền thiết bị với công nghệ sản xuất hiện đại, tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh có chất lượng tốt, giá thành hạ, đủ khả năng cạnh tranh, cung cấp cho ngành may. Phấn đấu đến năm 2010, ngành dệt có thể cung cấp 60-70% nguyên liệu cho ngành may, chủ động được nguyên, phụ liệu, mà cụ thể là đẩy mạnh chương trình tăng tốc của ngành theo QĐ 55 của Thủ tướng Chính phủ. Đối với thiết bị sản xuất, biện pháp trước mắt là ngành dệt may Việt Nam phải làm tốt công tác nhập khẩu thiết bị phụ tùng sản xuất trong ngành, đặc biệt là công tác kiểm định hàng nhập khẩu, thẩm định chất lượng công nghệ để có thể nhập được những thiết bị phù hợp với yêu cầu của công cuộc đổi mới trong ngành tránh tình trạng biến Việt Nam thành bãi rác công nghệ của thế giới. Đối với nguồn nguyên phụ liệu, hiện nay, phần lớn nguyên, phụ liệu cho ngành dệt may Việt Nam như: bông, tơ, sợi tổng hợp, hóa chất, thuốc nhuộm... vẫn phải nhập khẩu. Điều này là không thỏa đáng. Việt Nam có điều kiện khí hậu thuận lợi nên hoàn toàn có thể phát triển vùng nguyên liệu bông. Để làm được điều này, Chính phủ cần có chính sách hỗ trợ người trồng bông, góp phần đảm bảo ngành dệt phát triển. Cụ thể, đầu tư để giải quyết vấn đề khoa học kỹ thuật như xác định mùa vụ thích hợp, tạo được các giống lai có năng suất cao, phẩm chất tốt đưa vào sản xuất, xây dựng phương thức tổ chức sản xuất; làm dịch vụ kỹ thuật đầu tư vật tư, bao tiêu sản phẩm ngay từ đầu vụ để người nông dân an tâm sản xuất; xây dựng các cơ sở chế biến bông tại các vùng trồng bông với công nghệ hiện đại, đáp ứng công suất chế biến, nâng cao chất lượng bông xơ.
Ngoài ra, nên đầu tư xây dựng một số nhà máy sản xuất tơ sợi tổng hợp, sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm, chất phụ trợ nhằm thay thế một phần nguyên, phụ liệu đang phải nhập khẩu để phục vụ ngành dệt may Việt Nam. Trong khi còn phải nhập khẩu nguyên liệu như hiện nay, để chủ động, cần thành lập các kho ngoại quan để các nhà cung cấp nguyên liệu nước ngoài dự trữ hàng có thể cung cấp kịp thời nguyên liệu sản xuất cho các doanh nghiệp may khi ký kết được hợp đồng sản xuất, bảo đảm tiến độ giao hàng. Đồng thời, cần xây dựng trung tâm nguyên, phụ liệu ở Hà Nội, Đà Nẵng và thành phố Hồ Chí Minh nhằm tạo sự chủ động về nguồn nguyên, vật liệu, đáp ứng nhu cầu cho các doanh nghiệp may trong cả nước. Các dự án đầu tư này cần được nghiên cứu, quy hoạch một cách tổng thể trong sự phát triển chung của các ngành công nghiệp khác, của nông thôn và miền núi và hoàn thiện áp dụng các luật về môi trường sinh thái.
Nguyên liệu cho ngành may là sản phẩm của ngành dệt, "may là lối ra cho dệt''. Với mục tiêu phát triển toàn ngành, ngành dệt Việt Nam phải tăng cường đầu tư sản xuất để đuổi kịp ngành may. Chúng ta phải tập trung đầu tư nhằm thay thế hết các loại máy dệt thoi cổ điển. Bên cạnh đó, cần tập trung vào lĩnh vực sản phẩm dệt kim đang được ưu chuộng. Ngành dệt may Việt Nam cũng phải chú ý đến phát triển ngành in hoa, nhuộm và hoàn tất, vì đây là công đoạn khó làm chủ nhất và quyết định nhiều nhất đến chất lượng và ngoại quan của vải.
2. VỀ PHÍA HIỆP HỘI DỆT MAY VIỆT NAM
Nâng cao vai trò và tăng cường hơn nữa chức năng hoạt động của Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) trong việc tổ chức thông tin kịp thời tình hình thị trường cho doanh nghiệp, tổ chức các hoạt động xây dựng hình ảnh tốt đẹp về ngành dệt may Việt Nam tại các thị trường xuất khẩu trọng điểm, xúc tiến xây dựng một số thương hiệu nổi tiếng mang tính quốc gia tại các thị trường xuất khẩu, tổ chức các hoạt động xâm nhập mạng lưới bán lẻ tại thị trường nước ngoài, đề xuất các chế độ, cơ chế, chính sách tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp trong ngành.
Trong thời gian tới, các hiệp hội ngành hàng cần tập trung vào công tác kiện toàn tổ chức bộ máy, đổi mới phương thức hoạt động để nâng cao hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người hỗ trợ doanh nghiệp, là đại diện và cầu nối hữu hiệu giữa cộng đồng doanh nghiệp với các cơ quan quản lý nhà nước cũng như với các doanh nghiệp nhập khẩu hàng dệt may . Để làm được điều này, các hiệp hội cần tích cực triển khai thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:
- Trên cơ sở Luật về Hội dự kiến sẽ được Quốc hội thông qua trong thời gian sắp tới, các hội và hiệp hội ngành nghề cần nghiên cứu và tổ chức triển khai phương án kiện toàn tổ chức bộ máy hiện có để thực sự trở thành những tổ chức nghề nghiệp có tính chuyên môn sâu và thực hiện tốt vai trò hỗ trợ cho doanh nghiệp.
- Tập trung làm tốt chức năng là người đại diện, bảo vệ lợi ích của các hội viên trước các vụ kiện từ phía nhà nhập khẩu quốc tế, đặc biệt là các vụ kiện về chống bán phá giá.
- Làm tốt công tác tổ chức thông tin ngành hàng và xúc tiến thương mại để nâng cao hiệu quả và vai trò của hiệp hội trong hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp định hướng sản xuất, tìm kiếm thị trường...
- Đẩy mạnh hoạt động hợp tác quốc tế với các tổ chức, hiệp hội ngành nghề trong khu vực và trên thế giới nhằm tranh thủ hỗ trợ về tài chính, kỹ năng chuyên môn, công nghệ và kinh nghiệm hoạt động.
3. VỀ PHÍA CÁC DOANH NGHIỆP XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY
3.1 Nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt may xuất khẩu
Hiện nay, theo đánh giá của nhiều chuyên gia dệt may thì hàng dệt may của Trung Quốc là sản phẩm có tính cạnh tranh cao nhất trên thế giới. Hàng dệt may của Trung Quốc tràn ngập khắp nơi trên thế giới và ngay tại một nước xuất khẩu nhiều hàng dệt may như nước ta. Để tồn tại và có thể phát triển các doanh nghiệp kinh doanh hàng dệt may xuất khẩu cần không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Trong xu hướng kinh doanh trên thế giới hiện nay, cuộc cạnh tranh về chất lượng sản phẩm dần dần lớn mạnh bên cạnh cuộc cạnh tranh về giá. Căn cứ vào việc phân tích rõ các dữ liệu về chi phí hán hàng, các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý các điểm sau:
Thứ nhất, nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến thương mại hơn nữa, tận dụng các thông tin từ các cơ quan đại diện, tận dụng tính linh hoạt và hiệu quả của các cơ quan đại diện Việt Nam tại nước ngoài. Tất cả nhằm tạo dựng uy tín cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam. Đồng thời, khai thông con đường buôn bán trực tiếp với các bạn hàng quốc tế.
Thứ hai, mỗi doanh nghiệp sản xuất kinh doanh hàng dệt may cần thiết kế mặt hàng với mẫu mốt phù hợp. Đặc biệt, mỗi đơn vị xây dựng phong cách, nhãn hiệu riêng và các bộ sưu tập theo từng mùa cho sản phẩm của mình. Việc này cần được tiến hành đồng thời với việc coi trọng công tác xây dựng, đăng ký nhãn mác, thương hiệu sản phẩm. Hơn thế nữa, cần trang bị đầy đủ các yếu tố để thực hiện xuất khẩu theo giá FOB, để dần dần thay thế các phương thức may gia công xuất khẩu. Quảng bá hoạt động của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới thông qua việc sử dụng và khai thác tốt các phương tiện thông tin hiện đại như Internet, tiến hành kinh doanh qua mạng (e - commerce).
Thứ ba, tăng cường đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt đầu tư vào thị trường Campuchia, để tận dụng lợi thế thị trường rộng lớn của một quốc gia thành viên WTO gần gũi về địa lý với Việt Nam, có nguồn nhân công dồi dào và rẻ, để tránh tình trạng bị động về thị trường. Song song với việc phát triển sang thị trường Campuchia, các doanh nghiệp dệt may nên tìm cửa ngõ qua thị trường Lào, đông bắc Thái Lan, thị trường Vân Nam, Côn Minh (Trung Quốc), để tạo thành một tổng thể thị trường giúp Việt Nam có vị thế vững chắc ngay gần sân nhà.
Thứ tư, "phân tán rủi ro", theo nguyên tắc kinh doanh "không bỏ tất cả trứng vào một giỏ". Để tránh quá tập trung vào một số ít các thị trường, ngành dệt may cần có nhũng biện pháp đa dạng hóa thị trường. Cụ thể là mở rộng tới các thị trường như: liên bang Nga, Đông Âu, Trung Cận Đông.
Thứ năm, trong bối cảnh hiện nay, việc kết hợp giữa các doanh nghiệp của chúng ta có nhu cầu xuất khẩu cũng như các doanh nghiệp của chúng ta có nhu cầu nhập khẩu trên cùng một khu vực thị trường nên là một vấn đề được ưu tiên, vì không phải ở mọi nước trên thế giới, những vấn đề thanh toán đối với hàng hóa xuất nhập khẩu đều được thực hiện dễ dàng. Do đó, việc đổi hàng hay việc thực hiện mậu dịch tam giác có thể giúp các sản phẩm của chúng ta thâm nhập được thị trường.
Thứ sáu, phân tích xu hướng tiêu dùng trong tương lai của khách hàng, giúp nhận thức cơ hội cho ngành dệt may để tổ chức sản xuất hiệu quả hơn. Đặc biệt, các doanh nghiệp nên nhận thức rằng, thái độ thân thiện hơn với môi trường sẽ chi phối hành vi mua sắm trong tương lai của khách hàng, đặc biệt khách hàng của những nước phát triển, khiến họ ưa thích sản phẩm may mặc làm từ chất liệu thiên nhiên như lụa, vải lanh, sợi bông...
3.2 Tăng cường đàm phán mở rộng thị trường, chủ động hội nhập
Các doanh nghiệp cần tiếp tục đa dạng hóa thị trường, giữ vững và duy trì các thị trường truyền thống như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản, tiếp tục đổi mới cơ cấu sản phẩm, tập trung sản xuất các sản phẩm có hàm lượng giá trị gia tăng cao, quan tâm đầu tư mẫu mã, thiết kế thời trang.
Tăng cường tìm kiếm bạn hàng và ký kết hợp đồng xuất khẩu trực tiếp trên cơ sở tăng cường năng lực thiết kế mẫu mã sản phẩm và gia tăng tỷ lệ nguyên phụ liệu trong nước tự đáp ứng được.
Tăng cường hợp tác với các doanh nghiệp ngoài nước để thiết lập quan hệ đối tác theo hướng chuyên môn hoá và tận dụng để mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng hoá của Việt Nam vào những thị trường này.
Giải pháp về thị trường yêu cầu tập trung mọi khả năng và cơ hội đàm phán mở rộng thị trường Dệt May trên thị trường quốc tế. Tăng cường công tác tư vấn pháp luật thương mại quốc tế, chuẩn bị kỹ việc chống các rào cản kỹ thuật mới của các nước nhập khẩu cho các doanh nghiệp xuất khẩu. Bên cạnh đó, tổ chức mạng lưới bán lẻ trong nước, đổi mới phương thức tiếp thị xuất khẩu, đồng thời quan tâm đến việc quảng bá thương hiệu sản phẩm, xây dựng hình ảnh của ngành Dệt May trên thị trường trong nước và quốc tế.
3.3 Khai thác thị trường ngách
Đẩy mạnh khai thác những thị trường ngách, thị trường nhỏ nhưng chấp nhận mức giá cao và ưa thích các sản phẩm đặc thù (ví dụ như các sản phẩm làm bằng tay)... Thị trường EU được đánh giá là thị trường có nhiều thị trường ngách nhất và cũng rất nhiều tiềm năng. Hiện nay, tại EU thị phần hàng dệt may Trung Quốc chiếm khoảng 75%, thị phần của hàng dệt may Việt Nam là rất nhỏ, không đáng kể. Do vậy, để cạnh tranh một cách có hiệu quả với hàng Trung Quốc, các doanh nghiệp xuất khẩu nên chú trọng vào các thị trường ngách mà phía Trung Quốc không với tới hoặc không có khả năng đáp ứng. Với EU-25 sự đa dạng về các nền văn hóa, tín ngưỡng, các yêu cầu rất nhiều và phong phú nên có nhiều thị trường ngách.
Mặt khác, EU-25 có sự tham gia của các quốc gia vùng Đông Âu là các quốc gia mà nước ta đã có quan hệ truyền thống và khẳng định được thương hiệu. Do đó, không khó với hàng Việt Nam tại các quốc gia này, đồng thời qua đó có thể coi khu vực này là cửa ngõ để hàng dệt may Việt Nam thâm nhập sâu hơn. Đặc biệt, qua Cộng hòa Czech( Séc ), quốc gia có quan hệ rất tốt và thân thiện với Việt Nam.
Điều cần chú ý khi khai thác các thị trường ngách tại EU là yêu cầu về sản phẩm có những nét đặc thù, rất khác biệt, nhưng lại có mức giá khá cao. Do đó, các doanh nghiệp xuất khẩu cần chú trọng vào khâu thiết kế, thời trang, và các sản phẩm mang tính thủ công, đòi hỏi độ phức tạp rất cao. Chỉ có không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao giá trị sản phẩm cuối cùng thì dệt may xuất khẩu mới thực sự có giá trị cao.
Ngoài ra, nên chú ý các thị trường nhỏ nhưng có mức tăng trưởng hàng năm cao như: Thổ Nhĩ Kỳ (năm 2007 tăng 563,8% so với năm 2006), Nam Phi (năm 2007 tăng 294,27% so với năm 2006), Ukraina(năm 2007 tăng 75% so với năm 2006)… Đây là các thị trường nhỏ nhưng rất giầu tiềm năng, trong thời gian tới cần đẩy mạnh xuất khẩu.
3.4 Ứng dụng thương mại điện tử và tổ chức tốt các hoạt động thông tin
Tổ chức tốt các hoạt động thông tin về thị trường, về đầu tư, về sản xuất, về nhập khẩu của ngành dệt may trên các trang website và các bản tin hàng tháng. Thành lập các trung tâm giao dịch tư vấn hỗ trợ dịch vụ, trung tâm giao dịch nguyên phụ liệu, trung tâm thương mại, nhằm giới thiệu sản phẩm, trực tiếp với người tiêu dùng và qua đó tìm các biện pháp để thâm nhập thị trường.
Ứng dụng ngày càng nhiều của thương mại điện tử đang tạo ra những lợi thế cạnh tranh nhất định. Sự phát triển của thương mại điện tử giúp các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng dệt may tiết kiệm nhiều chi phí và nhanh chóng trong vấn đề hợp tác kinh doanh trên trường quốc tế. Doanh nghiệp có thể quảng bá thương hiệu một cách rộng rãi, bởi theo các số liệu thống kê thì lượng người sử dụng Internet sẽ ngày càng gia tăng, chi phí quảng cáo trên Internet cũng thấp hơn nhiều so với quảng cáo trên các phương tiện khác như: tivi, báo chí, truyền thanh… Mặt khác, thương mại điện tử sẽ giúp các doanh nghiệp tìm kiếm, hợp tác đạt hiệu quả cao.
Nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may, các doanh nghiệp cần chú trọng ứng dụng công nghệ thông tin vào tổ chức quản lý và sản xuất nhằm giảm chi phí quản lý mà hiệu quả quản lý cũng cao hơn.
3.5 Thực hiện chuyên môn hoá các sản phẩm và xác định quy mô sản xuất của các doanh nghiệp lớn theo mô hình “công ty mẹ, công ty con”
Thực hiện chuyên môn hoá các sản phẩm và xác định quy mô sản xuất của các doanh nghiệp lớn theo mô hình “công ty mẹ, công ty con” đủ mạnh về tài chính, công nghệ, khả năng điều hành nhằm đảm bảo đạt tốc độ tăng trưởng cao, đồng thời chú trọng khuyến khích phát triển sản xuất của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngoài ra, tập trung nghiên cứu phát triển sản phẩm mới theo hướng đa dạng hoá (sản phẩm phổ biến với nhiều màu sắc, hoa văn kiểu cách, chủng loại vật liệu thích hợp), thực hiện cơ chế linh hoạt trong sản xuất nhằm thích nghi với sự thay đổi và biến động của thị trường như: thay đổi mẫu mã, sản xuất đơn hàng nhỏ, ứng dụng công nghệ mới và cải tiến kỹ thuật,… để tăng năng suất lao động và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
KẾT LUẬN
Sau một năm gia nhập WTO, ngành dệt may Việt Nam ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong cơ cấu các ngành kinh tế của Việt Nam, đặc biệt là xuất khẩu dệt may. Xuất khẩu dệt may của Việt Nam không ngừng vươn ra thế giới, khẳng định được vị thế trên trường thế giới, xuất khẩu tăng trên 33%, đưa Việt Nam vào danh sách 10 nước xuất khẩu dệt may hàng đầu thế giới, thị trường trong nước vẫn được giữ vững và phát triển. Đó là thành công đáng mừng xứng đáng với những nỗ lực của ngành dệt may nhằm mục đích phát triển hơn nữa, vươn xa hơn nữa.
Tuy nhiên, cũng còn rất nhiều vấn đề phải lo lắng, lo vì giá cả vật tư, tiêu dùng biến động mạnh, sẽ ảnh hưởng lớn đến sản xuất kinh doanh của các đơn vị, đến đời sống của người lao động. Và điều lo lắng nhất là cơ chế giám sát nhập khẩu và nguy cơ điều tra chống bán phá giá tại thị trường Hoa Kỳ vẫn còn hiện hữu với 2 lần công bố kết quả giám sát vào tháng 3 và tháng 9/2008 trong bối cảnh của năm bầu cử Tổng thống Mỹ có nhiều diễn biến phức tạp, không thể lường trước được. Do vậy, vừa phải đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu nhằm thực hiện mục tiêu 9,5 tỷ USD năm 2008 nhưng vừa phải hết sức thận trọng với các diễn biến tại thị trường Hoa kỳ. Bên cạnh đó là những băn khoăn về vấn đề xuất xứ của sản phẩm dệt may xuất khẩu tại thị trường Nhật Bản, và tác động tại thị trường EU khi tại thị trường này, trong năm 2008 Trung Quốc sẽ được bãi bỏ hạn ngạch dệt may.
Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về lao động, về thị trường, nhưng ngành dệt may Việt Nam đã đạt được kết quả hết sức ấn tượng. Xuất khẩu toàn ngành năm 2007 đạt sấp xỉ 7.8 tỉ USD, tăng 34.5% so năm 2006, chiếm 16% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Việt Nam đã lọt vào top 10 nước và vùng lãnh thổ có kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, để tăng trưởng bền vững trong giai đoạn hậu WTO, bên cạnh các biện pháp như: tự chủ nguồn nguyên phụ liệu, thời trang hóa ngành dệt may, tăng cường ứng dụng công nghệ,… ngành dệt may cần phải chú trọng tới vấn đề chuyển dịch cơ cấu thị trường nhằm có một cơ cấu thị trường khoa học, để hạn chế các tác hại sẽ xảy đến khi có những biến động tại các thị trường xuất khẩu chủ lực, đồng thời làm tăng cường khả năng sản xuất, xuất khẩu của hàng dệt may trong nước.
PHỤ LỤC
Bảng 1: Kim ngạch xuất khẩu một số chủng loại hàng dệt may của Việt Nam năm 2007
Chủng loại
Năm 2006 (USD)
So 06/05 (%)
Tỷ trọng KN 2006 (%)
Năm 2007 (USD)
So 07/06 (%)
Tỷ trọng 2007 (%)
áo thun
945.476.760
24,55
16,21
1.535.519.704
62,41
19,74
Quần dài
1.063.976.168
27,10
18,24
1.351.295.436
27,00
17,37
áo Jacket
870.361.651
17,18
14,92
1.120.698.284
28,76
14,40
áo sơ mi
417.138.945
5,09
7,15
465.213.343
11,52
5,98
áo khoác
289.504.178
30,26
4,96
368.240.225
27,20
4,73
Quần Short
241.002.398
49,79
4,13
354.994.563
47,30
4,56
Váy
197.064.826
35,09
3,38
321.211.458
63,00
4,13
Vải
205.245.350
65,05
3,52
297.425.968
44,91
3,82
áo loại khác
338.862.772
80,44
5,81
294.460.298
-13,10
3,78
Q.áo trẻ em
131.835.535
19,89
2,26
259.926.533
97,16
3,34
Đồ lót
172.060.977
6,95
2,95
204.004.648
18,57
2,62
Quần áo Vest
111.458.210
22,68
1,91
124.735.786
11,91
1,60
Q.áo loại khác
75.515.637
-56,24
1,29
123.406.276
63,42
1,59
Q.thể thao
70.292.612
44,31
1,20
103.296.782
46,95
1,33
Hàng may mặc khác
4.808.610
-95,83
0,08
91.763.578
1808,32
1,18
áo Kimono
92.358.438
-1,33
1,58
91.522.212
-0,91
1,18
Màn
82.878.395
233,89
1,42
83.201.759
0,39
1,07
áo len
63.307.965
7,98
1,09
76.093.081
20,20
0,98
Q.áo ngủ
40.727.559
25,97
0,70
69.466.457
70,56
0,89
Găng tay
28.989.316
70,49
0,50
60.056.841
107,17
0,77
Khăn bông
71.241.576
47,78
1,22
59.350.831
-16,69
0,76
Q.áo BHLĐ
37.313.410
91,11
0,64
41.227.617
10,49
0,53
Q.áo bơi
31.095.432
0,19
0,53
41.213.208
32,54
0,53
Khăn
12.446.153
-56,85
0,21
33.801.999
171,59
0,43
Quần Jean
11.340.717
-16,23
0,19
31.250.621
175,56
0,40
áo Ghilê
28.833.288
70,52
0,49
30.345.147
5,24
0,39
áo nỉ
16.619.893
-68,29
0,28
26.242.358
57,90
0,34
Khăn lông
24.227.708
-3,61
0,42
24.111.642
-0,48
0,31
Bít tất
7.525.782
16,34
0,13
14.899.711
97,98
0,19
Q.áo y tế
13.426.165
0,17
PL may
6.921.749
17,27
0,12
10.341.383
49,40
0,13
Q.áo Jacket
12.540.725
-11,96
0,21
9.154.847
-27,00
0,12
áo gió
11.410.674
-9,70
0,20
7.293.227
-36,08
0,09
Caravat
7.369.658
-13,29
0,13
6.772.916
-8,10
0,09
Q.áo thun
5.110.638
-17,79
0,09
6.213.564
21,58
0,08
BẢNG 2: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may tới một số thị trường
Thị trường
Năm 2006 (USD)
So 06/05 (%)
Tỷ trọng KN năm 2006
Năm 2007 (USD)
So 07/06 (%)
Tỷ trọng KN năm 2007
Mỹ
3.044.578.648
16,97
52,18
4.464.846.921
46.65
57,39
EU
1.243.802.232
37,46
21,32
1.489.358.989
19.74
19,14
Nhật Bản
627.631.744
3,93
10,76
703.846.323
12.14
9,05
Đài Loan
181.411.982
-0,95
3,11
161.137.224
-11.18
2,07
Canada
97.304.524
20,23
1,67
135.495.465
39.25
1,74
Hàn Quốc
82.900.300
67,55
1,42
84.962.558
2.49
1,09
Nga
62.438.296
30,33
1,07
79.040.130
26.59
1,02
Mêhicô
0,00
54.531.325
0,70
Trung Quốc
29.695.879
265,92
0,51
43.109.281
45.17
0,55
Thổ Nhĩ Kỳ
5.696.843
134,99
0,10
37.815.679
563.80
0,49
Hồng Kông
31.144.900
148,75
0,53
36.627.356
17.60
0,47
UAE
27.406.316
351,44
0,47
28.543.848
4.15
0,37
Campuchia
18.516.032
5,640
0,32
28.541.830
54.15
0,37
Malaysia
33.684.586
37,78
0,58
25.333.409
-24.79
0,33
Singapore
19.108.360
285,40
0,33
24.152.919
26.40
0,31
Inđônêxia
17.417.452
1.036
0,30
24.802.963
42.40
0,32
ả Rập Xê út
18.142.725
166,95
0,31
27.197.926
49.91
0,35
Ôxtrâylia
23.677.017
-4,54
0,41
24.169.316
2.08
0,31
Ukraina
12.232.452
284,32
0,21
21.430.912
75.20
0,28
Thái Lan
10.711.086
367,75
0,18
16.413.745
53.24
0,21
Nam Phi
3.372.915
124,38
0,06
13.298.430
294.27
0,17
Thụy Sỹ
10.826.785
31,97
0,19
11.345.936
4.80
0,15
Philipine
6.361.150
373,29
0,11
11.204.768
76.14
0,14
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế thương mại
Giáo trình Thương mại quốc tế
Dệt may Việt Nam- Cơ hội và thách thức. Nxb Thống kê 2005
Động thái và thực trạng KT-XH 2001-2005. Nxb Thống kê
Toàn cảnh kinh tế Việt Nam cho các ngành kinh tế. Nxb Thống kê 2007
Tạp chí thương mại: số 1,2,11,12/2005; 1,3,12/2006; 2,10,11,12/2007; 1,2,3/2008
Website Tổng công ty dệt may Việt Nam
Website Trung tâm thông tin thương mại
www.vnexpress.vn
www.vneconomy.com
www.vietnamnet.vn
www.detmay.com.vn
Đề án Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-2010
Chiến lược phát triển ngành Công nghiệp Dệt May Việt Nam đến năm 2015, định hướng đến năm 2020
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Chuyển dịch cơ cấu thị trường xuất khẩu của hàng dệt may xuất khẩu của VN - Thực trạng và giải pháp.DOC