Đề tài Chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI thực trạng và giải pháp

Mục lục LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI 3 1.1 Khái quát về chuyển giao công nghệ 4 1.1.1 Khái niệm và nội dung của chuyển giao công nghệ 4 1.1.2 Tính tất yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ nói chung và chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI nói riêng 5 1.1.3 Đặc điểm và tác động của việc chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI 6 1.1.4 Một số vấn đề cần chú ý khi tiếp nhận công nghệ qua các dự án FDI 11 1.2 Lý thuyết lựa chọn công nghệ 14 1.2.1 Sự cần thiết phải lựa chọn công nghệ 14 1.2.2 Mô hình lý thuyết lựa chọn công nghệ 15 1.2.3 Những tiêu chuẩn rút ra từ ba mô hình lý thuyết 22 CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM 24 2.1 Quản lý nhà nước đối với hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án fdi 25 2.1.1 Ban hành các qui định pháp lý và thực hiện bảo hộ đối với các công nghệ được chuyển giao 25 2.2.2 Đưa ra các giải pháp để bảo vệ lợi ích của Bên chuyển giao và Bên tiếp nhận 26 2.2 Khái quát tình hình thu hút fdi vào việt nam thời gian qua. Mối liên hệ với chuyển giao công nghệ 29 2.2.1 Tình hình thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài 29 2.2.2 Đối tác đầu tư 30 2.2.3 Cơ cấu đầu tư 31 2.2.4 Hình thức đầu tư 33 2.3 Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua 34 2.3.1 Các kênh chuyển giao công nghệ vào Việt Nam 34 2.3.2 Nguồn gốc và các hình thức chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI 35 2.3.3 Đối tác cung cấp công nghệ 38 2.3.4 Đặc điểm chuyển giao công nghệ theo lĩnh vực 40 2.3.5 Vấn đề lựa chọn công nghệ của Việt Nam và chuyển giao công nghệ của nước ngoài 50 2.3.6 Ứng dụng công nghệ được chuyển giao 53 2.4 Đánh giá chung về thực trạng chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thời gian qua 59 2.4.1 Những kết quả đạt được 59 2.4.2 Những tồn tại và nguyên nhân 60 CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ CÁC CÔNG NGHỆ ĐƯỢC TIẾP NHẬN QUA CÁC DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM 62 3.1 Quan điểm, phương hướng chỉ đạo của nhà nước 63 3.2 Các mục tiêu trong công tác tiếp nhận công nghệ 63 3.2.1 Mục tiêu chung 63 3.2.2 Mục tiêu theo ngành 65 3.3 Các giải pháp nhằm tăng cường thu hút và sử dụng có hiệu quả hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI tại Việt Nam 70 3.3.2 Giải pháp từ phía Nhà nước 70 3.3.3 Giải pháp từ phía doanh nghiệp FDI 73 TÀI LIỆU THAM KHẢO 78 Danh mục bảng biểu, hình vẽ

doc98 trang | Chia sẻ: lvcdongnoi | Lượt xem: 3617 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6.8 9.5 9.5 13.5 24.3 23.3 20.5 27.4 26.0 24.7 28.8 27.0 23.0 39.2 17.6 43.2 37.0 21.9 31.5 35.6 38.4 32.4 35.1 25.7 32.4 13.7 20.5 6.9 16.4 12.3 11.0 13.5 13.5 5.4 6.8 0.0 1.5 0.0 1.4 0.0 Ghi chú: (1) phạm vị nhỏ nhất, (5) phạm vi rộng nhất, (F) dự án đầu tư nước ngoài, (D) dự án đầu tư trong nước. Nguồn: Lyles, 1998. 2.4. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ THỰC TRẠNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI VÀO VIỆT NAM THỜI GIAN QUA. 2.4.1. Số lượng và chủng loại công nghệ chuyển giao vào Việt Nam Chuyển giao công nghệ thông qua FDI vào Việt Nam thời gian qua đã diễn ra khá đa dạng phong phú. Nhiều công nghệ mới, hiện đại được du nhập vào nước ta nhất là trong các lĩnh vực dầu khí, hoá chất, viễn thông, điện tử, tin học, ô tô... Nhiều ngành nghề, sản phẩm mới được tạo ra với công nghệ hiện đại, chất lượng tạo tiêu chuẩn quốc tế, góp phần tăng đáng kể năng lực sản xuất và khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Hiện nay, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 100% sản lượng khai thác dầu thô, sản xuất ô tô, các sản phẩm điện dân dụng, thiết bị văn phòng, máy tính..., ngoài ra còn chiếm 60% sản lượng về cán thép và khoảng 30% về xi măng, 33% về sản xuất máy móc thiết bị điện - điện tử. Nói chung công nghệ chuyển giao thông qua các dự án FDI đã đóng góp quan trọng cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên do Nhà nước cũng như doanh nghiệp chưa chủ động trong vấn đề lựa chọn công nghệ nên số lượng công nghệ được chuyển giao chưa đáp ứng được đầy đủ yêu cầu của quá trình phát triển kinh tế. Một số ngành quan trọng như điện tử, ô tô, dệt may giày dép chủ yếu là gia công cho nước ngoài nên giá trị gia tăng không cao, lợi nhuận thu về ít. Bên cạnh đó đầu tư trực tiếp nước ngoài lại tập trung lớn vào lĩnh vực công nghiệp nặng, dầu khí, bất động sản nên chưa tận dụng được lực lượng lao động đông đảo của đất nước. Đến nay khu vực đầu tư nước ngoài mới chỉ thu hút được trên 66,5 vạn lao động, một con số rất thấp so với tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội. 2.4.2. Trình độ công nghệ chuyển giao Nhìn chung các công nghệ chuyển giao vào Việt Nam được đánh giá là thuộc loại công nghệ trung bình trên thế giới. Nếu xét theo từng lĩnh vực thì mức độ cũng khác nhau. Các công nghệ hiện đại tiên tiến được chuyển giao vào những lĩnh vực kinh tế then chốt như dầu khí, viễn thông, điện tử, ô tô. Các công nghệ sử dụng ít vốn nhiều lao động được chuyển giao vào các lĩnh vực dệt may, giày dép tận dụng được nguồn nhân lực dồi dào của đất nước. Còn những lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng thì tiếp nhận được những công nghệ không chỉ trung bình mà cả tiên tiến. Như vậy về cơ bản nó đáp ứng được yêu cầu của đất nước trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên đây đều là những công nghệ đã và đang được sử dụng phổ biến ở các nước bản quốc. Bởi vậy sản phẩm của các công nghệ này thường không thể cạnh tranh được trên thị trường thế giới (trừ một số ngành tận dụng được chi phí nhân công giá rẻ như dệt may, giày dép và tận dụng được nguồn tài nguyên quý giá của đất nước như ngành dầu khí). Vì chúng đều tiên tiến hơn so với các công nghệ đã có tại Việt Nam nên các sản phẩm này vẫn cạnh tranh được trên đất Việt Nam. 2.4.3. Công tác ứng dụng phát huy hiệu quả của công nghệ được chuyển giao Chuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI đã góp phần quan trọng trong việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ của đất nước. Nhờ được đào tạo khi làm việc trong các doanh nghiệp FDI nên người lao động không chỉ tiếp thu được kiến thức, kỹ năng hiện đại mà còn rèn luyện được tác phong làm việc có kỷ luật và kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Điều này có ý nghĩa to lớn trong việc xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến phục vụ cho công cuộc xây dựng đất nước. Cùng với đầu tư trực tiếp nước ngoài thì công nghệ thông tin - biểu hiện của nền kinh tế tri thức cũng được du nhập và ứng dụng phổ biến trong đời sống kinh tế xã hội. Với đặc tính tiếp nhận và xử lý thông tin một cách toàn diện, công nghệ thông tin đóng một vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của mọi lĩnh vực quản lý, giáo dục, y tế, văn hoá… Đây cũng là con đường quan trọng đưa đất nước tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực trên đây thì việc ứng dụng công nghệ của chúng ta còn nhiều hạn chế. Thứ nhất là việc tiếp thu học hỏi công nghệ cũng như kinh nghiệm quản lý của cán bộ Việt Nam trong quá trình hợp tác với nước ngoài còn chưa đạt được kết quả đáng kể. Thứ hai là việc khai thác (nghiên cứu và phát triển) công nghệ chuyển giao để xây dựng năng lực công nghệ trong nước còn nhỏ bé, manh mún. Thứ ba là công suất của một số ngành chưa được khai thác hiệu quả (ví dụ 10% đối với ngành ô tô)… 2.4.4. Hình thức chuyển giao Trong các hình thức chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI vào Việt Nam thì hình thức mua trực tiếp bằng tiền chiếm tỷ trọng lớn (khoảng 50%). định. Hình thức này có ưu điểm là làm tăng tính hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm giữa các công ty, nhưng nhiều khi đó là do sức ép về giá trị công nghệ chuyển giao mà luật Việt Nam quy định. Theo quy định của Việt Nam giá trị góp vốn bằng toàn bộ công nghệ không quá 8% tổng vốn đầu tư (trong trường hợp đặc biệt có thể lên đến 10% tổng vốn đầu tư) và không quá 20% vốn pháp định. Do đó trong nhiều trường hợp, các nhà đầu tư nước ngoài áp dụng phương thức thanh toán trả kỳ vụ theo tỷ lệ phần trăm lợi nhuận sau thuế, hoặc phần trăm giá bán tịnh thay vì phương thức góp vốn bằng giá trị công nghệ. Trong trường hợp này quy định về phương thức góp vốn bằng công nghệ nhằm cho phép nhà đầu tư nước ngoài giảm bớt giá trị góp vốn bằng tiền mặt khi thực hiện hợp tác liên doanh với các đối tác trong nước đã không đem lại lợi ích cho các nhà đầu tư nước ngoài, do đó không có tác dụng khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài trong việc chuyển giao công nghệ. 2.4.5. Công tác quản lý công nghệ của Nhà nước. Công tác quản lý công nghệ của Nhà nước ta hiện nay còn nhiều bất cập làm hạn chế hiệu quả của quá trình chuyển giao công nghệ. Cụ thể là: 2.4.5.1. Cơ quan giám định công nghệ Ở nước ta hầu như không có cơ quan nào cung cấp loại dịch vụ này. Ngay Văn phòng thẩm định các dự án đầu tư và Môi trường (nay là Bộ Khoa học và Công nghệ) cũng không đủ người và chuyên môn để thực hiện chức năng giám định. Việc tổ chức giám định cũng gặp nhiều khó khăn bởi trong nhiều lĩnh vực công nghệ chuyên sâu, cán bộ đầu ngành của ta có khi còn không biết công nghệ đó chào bán như thế nào, chứ chưa nói gì đến việc giám định công nghệ đó. Lợi dụng tình trạng trên mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào nước ta máy móc thiết bị công nghệ lạc hậu, máy móc thiết bị cũ được tân trang lại, công nghệ gây ô nhiễm môi trường; định giá sai công nghệ… Pháp luật về chuyển giao công nghệ Pháp luật về chuyển giao công nghệ về Việt Nam còn nhiều điểm bất cập có tác động hạn chế hiệu quả của hoạt động chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI như: Quy định về thời hạn hợp đồng chuyển giao công nghệ và quy định giá trần cho công nghệ đem góp vốn đã hạn chế việc chuyển giao những công nghệ tiên tiến cho Việt Nam: Điều 15 Nghị định 45/1998-NĐ/CP quy định thời hạn tối đa của hợp đồng CGCN không quá 7 năm, và một số trường hợp thời hạn hợp đồng có thể kéo dài đến 10 năm. Nhiều nhà đầu tư và đối tác nước ngoài cho đây là một thách thức lớn với họ khi thực hiện chuyển giao các công nghệ mới và tiên tiến, những loại công nghệ có tốc độ thay đổi nhanh và hiệu quả của việc ứng dụng công nghệ đòi hỏi phải thực hiện những cải tiến liên tục. Có nhiều bằng chứng cho thấy, do thời hạn hợp đồng quá ngắn, các đối tác nước ngoài chỉ chuyển giao các bộ phận đơn giản và cung cấp các dịch hỗ trợ liên quan , chưa quan tâm đến việc chuyển giao các bộ phận quan trọng của công nghệ được chuyển giao. Quy định giá trị góp vốn bằng toàn bộ công nghệ không quá 8% tổng vốn đầu tư (trong trường hợp đặc biệt có thể lên đến 10% tổng vốn đầu tư) và không quá 20% vốn pháp định đã không khuyến khích chuyển giao các công nghệ tiên tiến và những bộ phận công nghệ quan trọng cho Việt Nam. Quy định về những điều khoản không được đưa vào hợp đồng Theo các quy định hiện hành, các nội dung sau không được đưa vào hợp đồng: Buộc Bên nhận phải mua hoặc tiếp nhận từ Bên giao hoặc từ Bên thứ ba do Bên giao chỉ định các đối tượng như nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, sản phẩm trung gian, quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp; Buộc Bên nhận phải chấp nhận một số hạn mức nhất định (quy mô sản xuất, số lượng sản phẩm, giá bán sản phẩm, chỉ định đại lý tiêu thụ cho Bên nhận); Hạn chế thị trường tiêu thụ sản phẩm, khối lượng và cơ cấu các nhóm sản phẩm được xuất khẩu của Bên nhận; Quy định Bên nhận không được tiếp tục nghiên cứu và triển khai công nghệ được chuyển giao hoặc không được tiếp nhận công nghệ tương tự từ các nguồn khác; Buộc Bên nhận phải chuyển giao vô điều kiện cho Bên giao quyền sử dụng các kết quả cải tiến, đối mới công nghệ do Bên nhận tạo ra từ các công nghệ được chuyển giao; Ngăn cấm Bên nhận tiếp tục sử dụng công nghệ đã được chuyển giao sau khi hết hạn hợp đồng (trừ các đối tượng sở hữu công nghiệp đang còn trong thời hạn bảo hộ tại Việt Nam). Nhiều chuyên gia cho rằng một số quy định trên đây của Việt Nam là hơi chặt, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hoá và tự do hoá và Việt Nam đang đẩy nhanh tiến trình hội nhập quốc tế. 2.4.6. Đóng góp đối với phát triển kinh tế xã hội. Thời gian qua, FDI đã đóng một vai trò quan trọng trong việc làm thay đổi bộ mặt của nền kinh tế Việt Nam. Thông qua FDI, chúng ta đã tiếp thu được một số công nghệ hiện đại trên thế giới góp phần xây dựng và phát triển một số ngành và khu vực có trình độ công nghệ cao và đưa lại giá trị kinh tế lớn cho đất nước như ngành dầu khí, điện tử, công nghiệp ô tô, xe máy… Đi liền với chuyển giao công nghệ là quá trình tiếp nhận kinh nghiệm quản lý tiên tiến trên thế giới và đào tạo được đội ngũ cán bộ lành nghề, có trình độ cao. Ngoài ra, chuỷên giao công nghệ còn góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống của nhân dân. Bên cạnh những mặt tích cực, chuyển giao công nghệ vào Việt Nam thông qua các dự án FDI vẫn bộc lộ một số hạn chế nhất định như còn tiếp nhận nhiều công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm môi trường, việc đánh giá giá trị thực của công nghệ chưa chính xác và thường là cao hơn giá trị của nó. Chuyển giao những công nghệ không đồng bộ, hạn chế nhiều khả năng của công nghệ, trong nhiều trường hợp do trình độ đàm phán của phía Việt Nam chưa cao nên gây ra những thiệt hại cho bên Việt Nam. Những hạn chế trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau đây: Chuyền giao công nghệ trong điều kiện đổi mới công nghệ lẻ tẻ, thiếu quy hoạch và chiến lược, thiếu sự gắn bó và phối hợp giữa những phương hướng đổi mới, chuyển giao công nghệ với chiến lược phát triển cũng như chiến lược kinh doanh. Năng lực tiếp nhận công nghệ của Bên Việt Nam còn yếu thể hiện ở việc thiếu những chuyên gia kinh tế, kỹ thuật và đội ngũ cán bộ, công nhân có trình độ công nghệ, tay nghề vững vàng. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ việc sử dụng công nghệ chưa được nâng cấp tới mức cần thiết, cụ thể là cơ sở hạ tầng phục vụ vận tải, việc cung ứng nguyên, vật liệu. Chưa giải quyết hài hoà giữa mục tiêu kinh tế – xã hội với lợi ích tài chính của doanh nghiệp. Do hạn chế về khả năng tài chính của Bên Việt Nam. Trình độ thẩm định công nghệ của phía Việt Nam còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng nâng giá công nghệ quá mức, gây ra thiệt hại trước mắt và lâu dài cho phía Việt Nam. Việc quản lý Nhà nước về chuyển giao công nghệ còn nhiều hạn chế. CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI VÀO VIỆT NAM. 3.1. QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG HƯỚNG CHỈ ĐẠO CỦA NHÀ NƯỚC. Yêu cầu đối với các công nghệ được chuyển giao, căn cứ vào các giai đoạn phát triển khác nhau của đất nước mà Nhà nước đưa ra các yêu cầu cụ thể cho phù hợp với điều kiện, trình độ của từng giai đoạn. Xuất phát từ điều kiện hiện nay của đất nước là năng lực công nghệ thấp, nguồn lao động dồi dào, nguồn tài nguyên phong phú nhưng trữ lượng không lớn ..., Nhà nước ta đã đặt ra các yêu cầu đối với các công nghệ được chuyển giao vào Việt Nam như sau: Là công nghệ tạo ra sản phẩm mới và cần thiết tại Việt Nam hoặc sản xuất ra hàng xuất khẩu. Cho phép nâng cao tính năng kỹ thuật, năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm. Tiết kiệm tài nguyên vật liệu, khai thác hợp lý và sử dụng có hiệu quả tài nguyên lao động, tạo công an việc làm. Không gây những tác hại làm ảnh hưởng như: ô nhiễm đất, nước, không khí, gây hại cho hệ thực vật và động vật; làm mất cân bằng sinh thái, ảnh hưởng xấu tới môi trường dân cư về mặt văn hoá và xã hội. Bảo đảm an toàn lao động, và điều kiện lao động cho người lao động. Nếu chưa bảo đảm phải trình bày chi tiết các giải pháp phòng ngừa cụ thể trong hợp đồng chuyển giao công nghệ. 3.2. CÁC MỤC TIÊU 3.2.1. Mục tiêu chung Trong giai đoạn từ nay đến năm 2010, nước ta cần tập trung phát triển có chọn lọc một số công nghệ trọng điểm bao gồm; những công nghệ tiên tiến, có tác động to lớn tới việc HĐH các ngành kinh tế – kỹ thuật, bảo đảm quốc phòng, an ninh; tạo điều kiện hình thành và phát triển một số ngành nghề mới, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; những công nghệ phát huy được lợi thế cuả nước ta về tài nguyên nông nghiệp nhiệt đới và lực lượng lao động dồi dào ở nông thôn, tạo sản phẩm xuất khẩu và việc làm có thu nhập cho các tầng lớp dân cư. Trong đó có 4 công nghệ nằm trong chương trình ưu tiên quốc gia dành cho “công nghệ cao” của Chính phủ bao gồm: Công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ tự động hoá. Công nghệ thông tin truyền thông Tập trung nghiên cứu và phát triển: Các công nghệ mới trong lĩnh vực truyền thông: Các dịch vụ băng thông rộng; các hệ thống chuyển mạch; các hệ thống truyền dẫn dung lượng lớn; các công nghệ truy nhập; hệ thống thông tin di động; mạng Internet thế hệ mới; CNTT vệ tinh; công nghệ quản lý truyền thông; công nghệ phát thanh và truyền hình số. Công nghệ phần mềm: Cơ sở dữ liệu, công nghệ nội dung, công nghệ đa phương tiện, hệ thống thông tin địa lý, đồ hoạ; phát triển phần mềm trên môi trường mạng; các giải pháp “quản lý nguồn nhân lực của các tổ chức”; phần mềm nguồn mở; quy trình sản xuất phần mềm; quy trình đánh giá, kiểm chứng và nâng cao chất lượng phần mềm; thiết kế xây dựng các hệ thống tin học ứng dụng. Nghiên cứu trí tuệ nhân tạo, chú trong những vấn đề đặc thù của Việt Nam: Nhận dạng chữ Việt, xử lý ảnh, nhận dạng tiếng Việt; công nghệ tri thức; hệ chuyên gia; dịch tự động. Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong một số lĩnh vực toán học: Toán học của tin học; một số hướng liên ngành chọn lọc như công nghệ nano, linh kiện điện tử thế hệ mới, làm cơ sở cho phát triển ứng dụng tin học cấp nano. Công nghệ sinh học Xây dựng và phát triển các công nghệ của CNSH đạt trình độ hiện đại trong khu vực gồm: Công nghệ gen (tái tổ hợp AND). Công nghệ vi sinh định hướng công nghiệp. Công nghệ enzym – protein phục vụ phát triển công nghiệp thực phẩm, dược phẩm. Công nghệ vật liệu (CNVL) tiên tiến Tập trung nghiên cứu, phát triển và ứng dụng có hiệu quả các hướng công nghệ sau: CNVL kim loại: Trên cơ sở tài nguyên trong nước, nghiên cứu lựa chọn công nghệ kim loại phù hợp như công nghệ lò điện, lò cao – lò chuyển khép kín, công nghệ phi cốc để sản xuất hợp kim chất lượng cao, các hợp kim có tính năng tổng hợp sử dụng trong các ngành cơ khí chế tạo, xây dựng, giao thông vận tải, hoá dầu, dầu khí, quốc phòng; nghiên cứu lựa chọn công nghệ sản xuất hợp kim nhôm dùng trong chế tạo máy và trong quốc phòng; công nghệ sản xuất các compozit nền kim loại sử dụng trong kỹ thuật điện, điện tử và y – sinh. CNVL polime và compozit: Nghiên cứu ứng dụng công nghệ công nghệ sản xuất vật liệu compozit nền nhiệt dẻo và nền nhiệt rắn gia cường bằng sợi thuỷ tinh, sợi bazan và sợi các bon phục vụ cho các ngành giao thông vận tải, nông nghiệp, thuỷ sản và quốc phòng; các polime compozit sử dụng cho kỹ thuật điện và điện tử trong điều kiện môi trường khắc nghiệt; các polime huỷ sinh học, polime xử lý ô nhiễm môi trường. CNVL điện tử và quang tử: Nghiên cứu ứng dụng các công nghệ sản xuất vật liệu và linh kiện điện tử và quang tử phục vụ cho lĩnh vực viễn thông, tự động hoá; sản xuất vật liệu từ tính cao cấp dạng khối, màng vô định hình và nano ứng dụng trong công nghiệp khai thác khoang sản, công nghiệp điện, điện tử và tự động hoá; sản xuất vật liệu và linh kiện cảm biến ứng dụng trong đo lường và tự động hoá. CNVL y – sinh: Nghiên cứu các công nghệ sản xuất một số loại vật liệu dùng trong y học để thay thế một số bộ phận của cơ thể con người: Các polime sinh học, compozit các bon, vật liệu điều tiết sinh lý, vật liệu điều tiết tăng trưởng, vật liệu các bon xốp, vật liệu bi-ô-xi-tan. CNVL nano: Nghiên cứu ứng dụng để sản xuất nano compozit nền polime và nề kim loại sử dụng trong các ngành kinh tế – kỹ thuật; xúc tác cấu trúc nano trong lĩnh vực dầu khí và xử lý môi trường. Nghiên cứu cơ bản định hướng ứng dụng trong một số hướng công nghệ nano có khả năng ứng dụng cao ở Việt Nam. Công nghệ tự động hoá Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tự động hoá nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, góp phần nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế: Ứng dụng công nghệ thiết kế và chế tạo với sự trợ giúp của máy tính (CAD/CAM) trong một số ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, như: Dệt, may, da giày và ngành cơ khí ) trong các lĩnh vực trọng điểm: Thiết bị toàn bộ; máy động lực, máy công cụ; cơ khí phục vụ nông – lâm – ngư nghiệp và công nghiệp chế biến; cơ khí xây dựng; đóng tàu; thiết bị điện - điện tử; cơ khí ô tô - cơ khí giao thông vận tải). Thiết kế, xây dựng phần mềm, lắp ráp, bảo trì vận hành các hệ thống điều khiển, giám sát, thu thập và xử lý số liệu (SCADA). Ứng dụng, phổ cập công nghệ điều khiển số bằng máy tính (CNC) trong các hệ máy móc cho các lĩnh vực gia công chế tạo, máy công cụ phục vụ nhu cầu sản xuất trong nước và xuất khẩu. Ứng dụng rộng rãi công nghệ công nghệ tự động hoá đo lường và xử lý thông tin phục vụ các ngành sản xuất, dự báo thời tiết và thiên tai, bảo vệ môi trường. Nghiên cứu ứng dụng và phát triển kỹ thuật rô bốt (đặc biệt là rô bốt thông minh và rô bốt song song). Để thực hiện được chương trình phát triển công nghệ cao của quốc gia có nhiều con đường khác nhau: hoặc là tự nghiên cứu triển khai, hoặc du nhập công nghệ từ nước ngoài. Tuy nhiên do năng lực công nghệ của Việt Nam còn thấp kém cùng với sự sẵn có của công nghệ hiện đại bên ngoài thì chúng ta nên tận dụng các nguồn lực bên ngoài để tiết kiệm thời gian và tiền bạc. Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài là một kênh quan trọng và cần phải hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào thực hiện 4 chương trình công nghệ trên. 3.2.2. Mục tiêu theo ngành 3.2.2.1. Ngành dầu khí Là một nước có tài nguyên dầu mỏ phong phú vậy mà nước ta vẫn phải nhập khẩu xăng dầu từ nước ngoài và xuất khẩu dầu thô đi các nước khác. Đây là sự lãng phí rất lớn làm giảm đáng kể nguồn lợi của đất nước. Trong khi đó, hầu hết các nước đều có công nghiệp lọc dầu. Ở khu vực Đông Nam Á, Thái Lan lọc 40 triệu tấn/năm, Malaysia 20 triệu tấn/năm, Indonesia 50 triệu tấn/năm... Ở Châu Á, nhiều nước không có dầu như Nhật Bản, Hàn Quốc cũng phát triển công nghiệp lọc dầu với công suất xấp xỉ đáp ứng nhu cầu nội địa. Trước tình hình trên Nhà nước đã quyết định cho xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 tại Dung Quất. Nhà máy lọc dầu số 1 được khởi công xây dựng vào ngày 1/8/1998 là liên doanh giữa Việt Nam và Liên bang Nga sử dụng công nghệ chế biến sâu để tạo ra các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước, đặc biệt là sản phẩm xăng dầu. Mục tiêu của chúng ta là từ nay đến năm 2010, nước ta sẽ xây dựng 2 nhà máy lọc dầu với tổng công suất14 triệu tấn/năm. Nhà máy lọc dầu số 1 đang được triển khai và Nhà máy lọc dầu số 2 đang ở giai đoạn chuẩn bị đầu tư. Dưới đây là một số thông tin cơ bản về Nhà máy lọc dầu số 1 (ở Dung Quất): Địa điểm: Dung Quất, huyện Bình Sơn, Quãng Ngãi. Công suất: 6,5 triệu tấn/năm, chế biến dầu thô Việt Nam và sau đó kết hợp chế biến dầu thô nhập từ Trung Đông để tăng chủng loại sản phẩm. Nhà máy sẽ cung cấp khoảng 60% nhu cầu về xăng dầu trong giai đoạn 2005-2010. Công nghệ: Chế biến sâu Sản phẩm: Propylen: 110.230 tấn/năm LPG: 258.055 tấn/năm Dầu hoả: 228.855 tấn/năm Nhiên liệu phản lực: 343.465 tấn/năm Dầu Diezen: 2.998.110 tấn/năm Dầu đốt lò: 83.585 tấn/năm Tổng vốn đầu tư: ước tính khoảng 1,3 tỷ USD (khoảng 20 nghìn tỷ đồng) Thời điểm dự kiến đưa vào sản xuất: năm 2005 Nhà máy lọc dầu số 2 sẽ được đặt tại Nghi Sơn – Thanh Hoá với công suất giai đoạn đầu 7 triệu tấn/năm gồm hàng chục loại sản phẩm phù hợp với nhu cầu trong nước. Bên cạnh mục tiêu đưa vào sử dụng công nghệ lọc dầu, chế biến sâu để có nhiều sản phẩm đáp ứng nhu cầu nhiên liệu lẫn nguyên liệu cho công nghiệp hoá dầu, ngành Dầu khí còn tiếp tục hoàn thiện công nghệ khai thác, thăm dò và chế biến dầu khí đã có, ứng dụng công nghệ tin học vào công tác quản lý an toàn, đưa các tiến bộ công nghệ áp dụng trong hoạt động phân phối, kinh doanh dầu thô, khí đốt và các sản phẩm dầu khí nhằm giảm hao tổn, thất thoát, bảo đảm an toàn, tiện dụng và bảo vệ môi trường. 3.2.2.2. Ngành công nghiệp điện tử Hiện nay đã có sự cơ cấu lại ngành sản xuất điện tử toàn cầu. Một thay đổi cơ bản trong ngành điện tử và thông tin quốc tế. Đặc biệt là từ đầu những năm 1990, các công ty điện tử quốc tế lớn (như IBM, Apple, NCR, Hewlett Packard, Digital, Eicsson, ...) đã bỏ những cơ sở sản xuất đại trà của mình. Họ chuyển sang ký hợp đồng thầu với các nhà sản xuất theo hình thức “chìa khoá trao tay” toàn bộ để sản xuất các sản phẩm cho mình, trong khi họ tập trung vào công tác tiếp thị, thiết kế sản phẩm và R&D. Kết quả là các nhà thầu sản xuất dạng chìa khoá trao tay trở thành tâm điểm của tiếp nhận công nghệ, công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu, và thâm nhập thị trường. Mạng lưới sản xuất hàng điện tử mới hiện đang phát triển. Đó là hệ thống sản xuất chìa khoá trao tay, bao gồm nhiều nhà chế tác hợp đồng mang tầm cỡ quốc tế, các nhà cung ứng và khách hàng của họ. Hầu hết những đầu tư mới vào nhà máy và thiết bị sản xuất trong ngành công nghiệp điện tử đều do các nhà chế tác hợp đồng đảm nhận. Họ mua các cơ sở hiện có của các công ty có nhãn hàng. Một số công ty có nhãn hàng đầu về điện tử đang bán cơ sở sản xuất của mình bằng cách ký hợp đồng sản xuất dài hạn với các nhà chế tác hợp đồng. Với nền công nghiệp điện tử còn chưa phát triển thì mục tiêu của Việt Nam hiện nay là dựa vào đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển năng lực công nghệ trong nước. Trong điều kiện hiện nay, Việt Nam có cơ hội khá tốt để thâm nhập vào mô hình phát triển “theo định hướng mạng”, tức là ngành công nghiệp điện tử tìm biện pháp cải tiến mạng lưới cung ứng ở cấp địa phương, cấp vùng và cấp quốc gia nhằm thu hút thêm các chức năng sản xuất chuyên môn hoá khi chúng đang được các tập đoàn xuyên quốc gia đưa ra ngoài. Một khi cơ sở cung ứng chìa khoá trao tay hàng điện tử đã được hình thành ở Việt Nam thì các công ty trong nước có thể tiếp cận được tới mạng lưới cung ứng hàng đầu, có được năng lực sản xuất sản phẩm riêng của họ và thậm chí còn có thể có được mạng lưới phân phối mới trong khu vực và những thị trường khác. Như vậy có thể thấy bước đi như sau: Phát triển mô hình “theo định hướng mạng” ban đầu phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp nước ngoài của các tập đoàn có công nghệ tiên tiến để đưa công nghệ hàng đầu vào trong nước và tạo ra mối liên kết với các thị trường mới. Ngay sau đó, cơ sở cung ứng trong nước có thể được nâng cấp bằng việc tích cực phục vụ các công ty nước ngoài. Một khi các cơ sở cung ứng theo định hướng kinh doanh tiên tiến được thành lập, các dịch vụ sản xuất chuyên môn hoá có thể được đưa ra trên thị trường thế giới cũng như cho các công ty trong nước. Cuối cùng, chiến lược phát triển “theo định hướng mạng” cần hướng tới mục tiêu tạo ra cơ sở cung ứng hàng đầu hỗ trợ sự phát triển của các công ty trong nước và tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chiến lược công nghiệp này phụ thuộc vào đầu tư trực tiếp nước ngoài để đạt được công nghệ sản xuất tiên tiến. Do đầu tư vào ngành điện tử dựa vào nguồn bên ngoài tăng lên, nên ít nhất nhà đầu tư nước ngoài cho sản xuất hàng điện tử chắc sẽ đạt được nhiều hơn nhờ dựa vào các hãng có hợp đồng toàn cầu nổi tiếng trên thế giới. Mô hình phát triển công nghiệp “theo định hướng mạng” nhằm khuyến khích phát triển cụm công nghiệp điện tử ở Việt Nam trong mối liên kết chặt chẽ với các đầu mối khác trong công nghiệp điện tử chứ không phải là xây dựng ngành công nghiệp quốc gia toàn diện từ cơ sở đi lên. Kết quả cuối cùng của sự thành công sẽ cao và bao gồm cả việc dễ tiếp cận với công nghệ cao và thị trường tiên tiến, cho phép tiếp tục nâng cấp năng lực sản xuất để đạt được trình độ hiện nay của ngành công nghiệp điện tử toàn cầu. 3.2.2.3. Ngành công nghiệp sản xuất ô tô và xe máy Tình trạng thiếu khả năng sinh lợi hiện nay trong công nghiệp ô tô ở Việt Nam là rất nghiêm trọng. Ở những công ty đa quốc gia lớn, việc vận hành không có lãi dễ dẫn đến việc cắt giảm đầu tư, bán hoặc đóng cửa công ty, đặc biệt là trong thời kỳ khó khăn về tài chính. Đây cũng là nguyên nhân mà trong số 14 dự án đầu tư sản xuất ô tô vào Việt Nam có 3 dự án không triển khai (Chysler, Nissan và Vietsin), 1 dự án tuy đã triển khai (đã đầu tư 16 triệu USD) nhưng tạm dừng không đầu tư tiếp (dự án Mercedes-Ben) và liên doanh Mê Kông đã ngừng sản xuất. Hơn nữa việc thiếu các nhà cung cấp phụ tùng ô tô trong nước không chỉ làm cho chi phí sản xuất tăng lên mà lợi ích mà nền kinh tế Việt Nam thu được cũng rất nhỏ nhoi vì công đoạn lắp ráp cuối cùng chỉ chiếm khoảng 10% chi phí. Với tình trạng công nghiệp ô tô như hiện nay thì mục tiêu cần đề ra là: mở rộng thị trường cho các phương tiện vận tải sản xuất trong nước và xây dựng cơ sở cung cấp phụ tùng ô tô trong nước. Nếu muốn công nghiệp ô tô phát triển, phải cải tạo mạnh nền tảng kết cấu hạ tầng đường bộ, cầu cống, đường cao tốc, phân phối xăng dầu, việc bán xe và các dịch vụ, bộ máy chính quyền địa phương quản lý việc sử dụng xe và các chương trình dạy đào tạo lái xe, tất cả phải được thu xếp để hỗ trợ cho việc sử dụng ô tô ở Việt Nam và vì vậy hỗ trợ cho sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô trong nước. Việc xây dựng cơ sở cung cấp phụ tùng trong nước đang gặp khó khăn do sự cạnh tranh gay gắt của các nước khác có chi phí lao động rẻ (Mehico, Philipin, Indonexia, Mianma). Để giải quyết vấn đề trên chúng ta có thể thu hút đầu tư của các nhà cung ứng hàng đầu thông qua chính sách thuế, các quy chế sở hữu nước ngoài... Đối với ngành sản xuất xe máy mục tiêu hiện nay là nâng cao tỷ lệ nội địa hoá. So với sản xuất ô tô thì tỷ lệ nội địa hoá đối với sản xuất xe máy cao hơn. Hiện đã có khoảng 20 nhà chế tạo phụ tùng đã được thành lập ở Việt Nam với tổng năng lực đầu tư khoảng 200 triệu USD, và một nhà sản xuất liên doanh – SYM – nhưng vẫn có ý kiến cho rằng, để nội địa hoá hơn 50% sản xuất các bộ phận thì số doanh nghiệp sản xuất phụ tùng có chất lượng vẫn còn thiếu. 3.2.2.4. Ngành Bưu chính, Viễn thông Trong những năm tăng tốc phát triển bưu chính, viễn thông, Việt Nam bưu chính viễn thông được phát huy với quy mô nhỏ, công nghệ cao, đã đáp ứng được trên 40% nhu cầu phát triển mạng lưới bưu chính, viễn thông Việt Nam, phát huy thế mạnh thị trường trong nước và đã có xuất khẩu. Nhưng nhìn chung, công nghiệp bưu chính, viễn thông, tin học sức cạnh tranh chưa cao, chủ yếu tiêu thụ trong nước, tỷ trọng xuất khẩu ra thị trường nước ngoài còn thấp, công tác tiếp thị, xúc tiến thương mại, xâm nhập thị trường quốc tế còn yếu kém. Chủ trương sắp tới là: Khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước tham gia phát triển công nghiệp bưu chính, viễn thông, tin học Việt Nam dưới mọi hình thức đầu tư và hợp tác kinh doanh, kể cả hình thức đầu tư trực tiếp 100% vốn nước ngoài. Hình thành một số đơn vị công nghiệp sản xuất thiết bị bưu chính viễn thông, tin học của Việt Nam hoặc liên doanh giữa Việt Nam và nước ngoài đạt ở nước ngoài. Phấn đấu tới năm 2010, 80% nhu cầu sử dụng thiết bị bưu chính, viễn thông, tin học trong nước phải do các cơ sở sản xuất công nghiệp Việt Nam cung cấp. Đẩy mạnh xuất khẩu, chú trọng phát triển công nghiệp phần mềm, trong đó ưu tiên đầu tư đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cho khu vực này. Phát triển cơ sở hạ tầng mạng lưới Bưu chính, Viễn thông quốc gia đảm bảo các yêu cầu sau: Công nghệ tiên tiến, hiện đại; Thích ứng với xu thế hội tụ viễn thông, tin học, phát thanh, truyền hình; Độ bao phủ rộng khắp kể cả vùng núi, biên giới, hải đảo; Bảo đảm hoạt động hiệu quả, an toàn, tin cậy trong mọ tình huống. Mục tiêu phấn đấu tới năm 2010 cả nước đạt mật độ điện thoại 15 –18 máy/100 dân; 100% số hộ gia đình ở khu vực thành thị và 60% số hộ trong cả nước nói chung có máy điện thoại; 30% số thuê bao có khả năng truy cập viễn thông, Internet băng rộng. Để thoả mãn các mục tiêu, yêu cầu nói trên, ở Việt Nam sẽ hình thành xa lộ thông tin quốc gia có dung lượng lớn, tốc độ cao; ứng dụng các phương thức truy cập băng thông rộng như Cáp quang, Vệ tinh và các phương thức Vô tuyến băng rộng khác tới cụm thuê bao, hộ tiêu dùng. Tới năm 2010, xa lộ thông tin quốc gia phải kết nối được tới các huyện và nhiều xã trong cả nước. Mạng thông tin chuyển mạch kênh hiện nay sẽ cơ bản chuyển sang mạng thế hệ mới NGN với đặc trưng cơ bản là dựa trên kỹ thuật chuyển mạch gói, chuyển mạch mềm và cho tất cả các loại dịch vụ. 3.2.2.5. Ngành dệt may, giày dép Từ nay đến 2010, ngành Dệt may cần tập trung đầu tư hiện đại hoá cả chiều sâu lẫn chiều rộng để vừa nâng cao được chất lượng sản phẩm, vừa mở rộng sản xuất. Mũi nhọn đầu tư là sản phẩm may chất lượng cao xuất khẩu và nguyên vật liệu cung ứng cho ngành May. Song song đó, cần củng cố, đổi mới công tác quản lý sản xuất, tăng năng suất lao động, ổn định chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh hoạt động tiếp thị để tăng năng lực cạnh tranh trên thị trường. Với mục tiêu tăng tỷ lệ nội địa hoá trong sản phẩm xuất khẩu lên 50% vào năm 2010 theo chỉ tiêu của ngành Dệt may, việc đầu tư tăng sản lượng vải có tính chất quyết định. Sản lượng vải dệt thoi thực hiện năm 2003 mới chỉ đạt 51o triệu m2, bằng 65,4% so với chỉ tiêu 780m2 năm 2005. Chính do việc đầu tư sản xuất vải dệt thoi, đặc biệt ở khâu in nhuộm, hoàn tất đòi hỏi nguồn vốn đầu tư lớn, trình độ công nghệ và quản lý kỹ thuật cao nên trong các năm gần đây các doanh nghiệp Việt Nam đều chưa thực hiện được nhanh. Do vậy, việc vận động các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này có tính chiến lược để thực hiện được việc tăng trưởng sản lượng vải sản xuất tại Việt Nam, tăng tỷ lệ nội địa hoá. Đối với ngành Giày dép Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2010, phải biết kết hợp lợi thế số lao động đông, giá nhân công rẻ để nhận chuyển giao các công nghệ hiện đại. Giải pháp này gồm hai hướng chính: Ứng dụng CAD cho công tác tạo mẫu sản phẩm: Công tác tạo mẫu trong công nghiệp giầy là cả một hệ thống công việc từ ý tưởng sáng tạo mẫu cho đến triển khai mẫu vào sản xuất. Như vậy, nếu công tác tạo mẫu hoàn toàn thủ công, cho dù bắt đầu từ giai đoạn nào trong hệ thống công việc cũng làm tăng chi phí lao động lẫn vật tư, không chuẩn xác trong sản xuất nên phải sửa chữa nhiều lần, ảnh hưởng rất lớn đến thời gian, chất lượng và giá thành. Tuy nhiên hiện nay, lĩnh vực tạo mẫu của ngành Giầy Việt Nam còn qua nghèo nàn, lạc hậu, phụ thuộc hẳn vào nước ngoài và các công ty mẹ ở lãnh thổ. Vậy, sắp tới một số doanh nghiệp lớn, các doanh nghiệp ở khu công nghệ cao, sẽ tiếp nhận, nắm bắt và tạo điều kiện để thu hút đầu tư trang bị CAD 2D, theo lộ trình từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Riêng về hệ CAD 3D chỉ nên hạn chế thu hút đầu tư một số ít mô đun kết nối được với 2D, các hệ 3D cho số hoá các phom giầy đang có sẵn... Được như vậy, chắc chắn giá thành một đôi giầy xuất xưởng sẽ có khả năng cạnh tranh cao. Quản lý cơ sở dữ liệu: Hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu PDM (Product Data Management) là giải pháp tinh giản biên chế gián tiếp nhanh gấp 5 lần mức tác nghiệp thủ công; số liệu sản xuất kinh doanh được phản ánh nhanh, rõ ràng, chính xác; các công nhân viên ở các bộ phận khác nhau gắn kết trong một “thư viện thông tin” về kế hoạch – kỹ thuật – sản xuất – tài chính của doanh nghiệp. Cần khuyến khích thu hút đầu tư vào lĩnh vực này để tiến kịp trình độ quản lý sản xuất kinh doanh hiện nay trong cộng đồng giầy thế giới, đưa đến hiệu quả rất cao trong sản xuất kinh doanh. Việt Nam hiện đang rất yếu kém về mặt hàng da giày nên phải đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài, chuẩn bị cho bước phát triển sau 2005, nhất là sau 2010 nó phải trợ lực được cho các loại giầy xuất khẩu khác. Vấn đề đặt ra không đơn giản, bởi vì đầu tư công nghệ vào lĩnh vực này đòi hỏi tốn nhiều công sức tiền của. Hơn nữa do tính đặc thù của mặt hàng này cũng đòi hỏi công nghệ thích nghi cho sản xuất giầy da ở Việt Nam phải ở mức cơ giới hoá, tự động hoá và ứng dụng công nghệ điện tử, tin học; tổ chức chu trình sản xuất ở mức cao hơn để hài hoà giữa chất lượng, số lượng, giá thành với lợi thế giá nhân công, tiết kiệm da đắt tiền , nhưng không kéo theo sự chi phí đào tạo quá khả năng. Ở đây, sau 2005, có thể xem xét đầu tư hệ “Rink” nhỏ sản xuất giầy da để có sức bật sau 2010. Các ý tưởng này sẽ phải dựa chủ yếu vào các nhà đầu tư nước ngoài giàu kinh nghiệm, có tiềm năng thị trường. 3.2.2.6. Ngành công nghiệp hoá chất Nhiệm vụ đặt ra cho ngành Hoá chất Việt Nam trong thời gian tới là: Trên cơ sở khai thác triệt để cơ sở vật chất hiện có, kết hợp với đầu tư chiều sâu, cải tiến, cải tạo và đầu tư mới các công trình trọng điểm, nhất là ngành hoá dầu nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội và các ngành kinh tế quốc dân khác như: phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, săm, lốp ô tô, xe máy, xe đạp, chất giặt rửa, pin, ắc quy... Những mục tiêu đó là: Đẩy mạnh ngành hoá chất hữu cơ dựa trên dầu khí nhằm khắc phục tình trạng không đồng bộ trong cơ cấu ngành, tiến tới xây dựng một ngành công nghiệp hoá chất có cơ cấu tương đối hoàn chỉnh, bao gồm cả sản xuất tư liệu sản xuất và sản xuất hàng tiêu dùng. Ngành công nghiệp Hoá chất tương lai phải bảo đảm khai thác được lợi thế của Việt Nam về các tài nguyên, lao động có trình độ văn hoá cao, và vị trí địa lý thuận lợi trên trường quốc tế. Đẩy mạnh khai thác và đầu tư phát triển nguồn tài nguyên trong nước; Tiến tới chỉ xuất khẩu các nguyên liệu hoá chất đã qua chế biến. Công nghệ phải đạt trình độ tiên tiến thế giới, nhằm đảm bảo các yêu cầu cạnh tranh về chất lượng và giá cả trên thị trường trong và ngoài nước và yêu cầu bảo vệ môi trường. 3.3. CÁC GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG THU HÚT VÀ SỬ DỤNG CÓ HIỆU QUẢ CỦA HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIAO CÔNG NGHỆ QUA CÁC DỰ ÁN FDI TẠI VIỆT NAM. 3.3.1. Giải pháp từ phía Nhà nước 3.3.1.1. Hoàn thiện hệ thống luật pháp chính sách nhằm thu hút FDI và khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào khoa học công nghệ Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đem lại cho chúng ta những công nghệ hiện đại tiên tiến đem lại sự thay đổi cho nền kinh tế đất nước. Do đó chúng ta cần tiếp tục thu hút đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các dự án đầu tư kèm theo chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó cần chú trọng vào một số ngành, lĩnh vực đang rất cần thu hút đầu tư để phát triển một cách toàn diện. Chẳng hạn, ngành công nghiệp điện tử cần tích cực thu hút đầu tư của các tập đoàn có công nghệ tiên tiến nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng công nghiệp điện tử Việt Nam và thực hiện chiến lược phát triển “theo định hướng mạng”. Ngành công nghiệp sản xuất ô tô cần thu hút đầu tư nước ngoài vào việc cung ứng phụ tùng trong nước nhằm giảm chi phí sản xuất và nâng cao tỷ lệ nội địa hoá. Ngành dệt may giày dép cần thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực sản xuất nguyên phụ liệu và thiết kế để tạo ra những sản phẩm có mẫu mã đa dạng phong phú, chi phí thấp nhằm nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước... Để làm được điều này chính phủ Việt Nam cần tập cải thiện hơn nữa môi trường đầu tư theo một số hướng sau: Áp dụng các công cụ chính sách tài chính ưu đãi để khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào khoa học công nghệ, đặc biệt là các công nghệ được ưu tiên. Mở rộng phạm vi quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với quy định của WTO và các Điều ước quốc tế đã ký kết. Cải cách một số quy định về chuyển giao công nghệ như thời gian chuyển giao, giá trị công nghệ đem góp vốn… Đẩy nhanh lộ trình áp dụng cơ chế một giá và cắt giảm một số chi phí sản xuất nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh và xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Tập trung tháo gỡ khó khăn vướng mắc cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhằm thúc đẩy triển khai dự án, hỗ trợ các doanh nghiệp có vốn FDI hoạt động kinh doanh có hiệu quả, qua đó nâng cao uy tín của môi trường đầu tư ở nước ta. Thực hiện vận động xúc tiến đầu tư tại các địa bàn có trọng điểm trong đó có Nhật Bản, Hoà Kỳ, Đài Loan… dưới nhièu hình thức khác nhau như tổ chức các đoàn đi vận động đầu tư, tổ chức gặp và làm việc với các tập đoàn lớn đã có dự án đầu tư hoặc văn phòng đại diện tại Việt Nam, tăng cường thông tin về đầu tư nước ngoài qua Internet và các phương tiện thông tin đại chúng, nhanh chóng tăng cường đại diện của Việt Nam ở nước ngoài về xúc tiến đầu tư kết hợp với cơ quan ngoại giao để tăng cường vận động đầu tư. Kiến nghị Chính phủ hàng năm trích 1% khoản thu ngân sách từ các doanh nghiệp có vốn FDI dể trang trải kinh phí vận động xúc tiến đầu tư. Triển khai nhanh và có hiệu quả các Nghị định mới của Chính phủ như Nghị định 27/2003/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 24/2001/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Nghị định 38/2003/NĐ-CP về chuyển đổi một số doanh nghiệp FDI sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần. Phát triển toàn diện nhân tố con người Trong hơn một thập kỷ qua, thay đổi công nghệ đã gây ra tình trạng giảm cầu đối với lao động rẻ tay nghề thấp. Như vậy Việt Nam đang mất dần đi lợi thế cạnh tranh về lao động giá rẻ của mình nếu chúng ta không có chiến lược phát triển nguồn nhân lực có trình độ tay nghề cao. Bên cạnh đó cũng cần nâng cao trình độ độ ngũ cán bộ khoa học công nghệ nhằm nâng cao năng lực tiếp nhận công nghệ được chuyển giao. Chúng ta nên tập trung vào những vấn đề sau: Đẩy mạnh việc tuyển chọn và gửi học sinh, sinh viên, cán bộ KH&CN đi đào tạo một cách đồng bộ ở các nước có trình độ KH&CN tiên tiến, trước mắt trong một số lĩnh vực KH&CN trọng điểm quốc gia. Phối hợp chặt chẽ giữa việc đào tạo với cơ quan sử dụng cán bộ KH&CN. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng nhân tài, các nhà bác học, các tổng công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề, hình thành các tập thể KH&CN mạnh, đủ sức giải quyết những nhiệm vụ KH&CN quan trọng . Điều chỉnh cơ cấu đào tạo công nhân kỹ thuật (đặc biệt công nhân có tay nghề cao) cho các ngành đang thu hút đầu tư nước ngoài. Nâng cao nội dung về mặt thực tiễn trong các chương trình giáo dục và đào tạo cũng như trong giáo trình. Dành các biện pháp khuyến khích và đối xử đặc biệt đối với các công ty nước ngoài hiện đang làm việc và tham gia vào đào tạo trình độ cao, chuyển giao công nghệ và hoạt động nghiên cứu triển khai ở Việt Nam. Tăng cường nguồn vốn tài trợ cho hoạt động R&D để ứng dụng trong sản xuất. Hình thành các mối liên hệ giữa các trường đại học, các viện R&D trong nước với các đối tác được lựa chọn ở nước ngoài. 3.3.1.3. Cải tạo nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật Như chúng ta đã biết cơ sở hạ tầng kỹ thuật đóng vai trò rất quan trọng trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài nói chung và đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài vào những ngành có công nghệ cao. Muốn tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghệ cao chúng ta cần tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế bao gồm viễn thông, điện, cảng biển và cảng hàng không; hạ tầng thương mạ gồm kho tàng, chợ đầu mối ở nơi giao nhau của các tỉnh. Xây dựng các khu công nghệ cao, khu công nghiệp để di dời các doanh nghiệp gây ô nhiễm trong thành phố, thị trấn, thị xã; xây dựng khu công nghiệp nhỏ cho làng nghề và doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tập trung xây dựng hạ tầng phục vụ cho các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, trước mắt là cho khu công nghệ cao Hoà Lạc (Hà Nội) và Quang Trung (TP. Hồ Chí Minh). Mở rộng các hình thức thu hút vốn của nhân dân như xây dựng vận hành chuyển giao (BOT), xây dựng chuyển giao (BT); liên doanh, phát hành chứng khoán trên thị trường chứng khoán trong nước và quốc tế. 3.3.2. Giải pháp từ phía doanh nghiệp 3.3.2.1. Các doanh nghiệp Việt Nam nên chủ động trong việc lựa chọn những công nghệ thích hợp vừa mang lại hiệu quả cao, vừa phù hợp với chủ trương chính sách của Nhà nước. Như trên đã phân tích, công tác lựa chọn công nghệ thích hợp của Việt Nam hiện nay còn kém. Các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao công nghệ do sức ép của thị trường chứ không phải do chủ động theo kế hoạch. Hơn nữa, những công nghệ chuyển giao phần lớn là do phía nước ngoài giới thiệu chứ không phải tự các doanh nghiệp của ta tìm kiếm hoặc tự nghiên cứu, thiết kế. Do đó, để lựa chọn được công nghệ thích hợp, chúng ta cần nắm được thông tin. Từ đó trên cơ sở nhu cầu của doanh nghiệp, chúng ta chủ động tìm bên cung cấp công nghệ. Các lĩnh vực thông tin liên quan đến bên cung cấp công nghệ và bên công nhận công nghệ thường là lịch sử và kinh nghiệm, địa vị hiện tại, chiến lược và kế hoạch của doanh nghiệp. Khi tìm kiếm công nghệ chúng ta có thể dựa vào các cách như con đường phi chính thức, con đường qua hội chợ thương mại, con đường thông qua các ấn phẩm và các nhà tư vấn, con đường thông qua dịch vụ thông tin của Chính phủ và con đường thông qua đấu thầu. Hội chợ thương mại là một cơ hội tuyệt vời để tiếp xúc với các đối tác cung cấp công nghệ. Các công ty tham gia hội chợ có mong muốn bán được hàng, các công nghệ mới nhất được trưng bày; Trong một lĩnh vực thay đổi nhanh chóng như tự động hoá văn phòng, những thay đổi từ năm này đến năm sau một cách nhanh chóng làm cho các ý tưởng trở nên lỗi thời. Vấn đề là ở chỗ biết được khi nào và ở đâu người ta tổ chức hội chợ. UNDIO đã giải quyết vấn đề này băng việc phát hành một cuốn niên giám về gặp gỡ, hội chợ, triển lãm và hội thảo. mục đích của cuốn niên giám này là: “Thông tin cho các doanh nghiệp, các nhà đầu tư và công nghiệp; các nhà lập kế hoạch, nhân sự ở các nước đang phát triển về cơ hội nhận được thông tin về các thiết bị và các công nghệ không phổ biến ở nhiều nơi”. Trên thế giới, nhiều ấn phẩm cung cấp các thông tin về thị trường công nghệ như cuốn “Những cơ hội công nghệ” của Techtrade. Ấn phẩm này xuất bản mỗi năm một lần bao gồm hai phần “Chào hàng” và “Hỏi hàng”. Các công ty Châu Âu hay đưa ra lời chào bán công nghệ. Mỗi một lời “Chào hàng” như vậy khoảng một trang bao gồm các thông tin chủ yếu như mô tả về công nghệ, ưu điểm chính, ứng dụng chính của công nghệ, giai đoạn phát triển của công nghệ, dữ liệu kỹ thuật (giá cả…), chào hàng thương mại (giấy phép, phân phối, hợp tác kỹ thuật…)… 3.3.2.2. Chú trọng đào tạo đội ngũ cán bộ lao động. Đội ngũ lao động của Việt Nam có ưu điểm là giá rẻ, nhưng trình độ và tay nghề lại thấp. Đội ngũ lao động làm công tác quản lý có trình độ văn hoá cao nhưng không được rèn luyện nhiều trong môi trường kinh doanh nên khả năng làm việc còn kém. Đội ngũ lao động trực tiếp tham gia sản xuất nhiều khi chưa được qua trường hợp đào tạo, hoặc có qua đào tạo thì chất lượng cũng không đảm bảo. Hơn nữa tính chất công việc, trình độ công nghệ và máy móc thiết bị của từng công ty cũng khác nhau. Do đó để nâng cao hiệu quả hoạt động của công ty, nâng cao khả năng sử dụng công nghệ và bảo dưỡng máy móc thiết bị thì mỗi doanh nghiệp FDI đều nên tiến hành đào tạo đội ngũ lao động. Việc đào tạo có thể được thực hiện theo nhiều hình thức, như gửi người đi đào tạo tại cơ sở ở nước ngoài, đào tạo tại chỗ, đào tạo trong quá trình làm việc, qua trao đổi với chuyên gia nước ngoài… Việc đào tạo có thể là một phần của hợp đồng chuyển giao công nghệ, nhưng cũng có thể chỉ là hoạt động cần làm vì lợi ích của chính doanh nghiệp. 3.3.2.3. Khuyến khích sáng tạo, cải tiến kỹ thuật trong quá trình sử dụng công nghệ. Các công nghệ chuyển giao từ nước ngoài vào Việt Nam đều là công nghệ hiện đại hơn so với các công nghệ hiện có tại Việt Nam. Tuy nhiên khi được phát minh và triển khai ở nước bản quốc thì họ lại tính đến những yếu tố như thu nhập, sở thích, điều kiện cơ sở hạ tầng, thời tiết khí hậu… của chính nước đó. Do đó khi tiến hành đầu tư tại Việt Nam thì mỗi doanh nghiệp FDI đều nên tính đến các điều kiện đặc thù của Việt Nam để cải tiến cho phù hợp. Ví dụ như thu nhập của đa số người dân Việt Nam đều thấp thì các doanh nghiệp sản xuất xe máy nên thiết kế ra các sản phẩm giá rẻ mà vẫn đảm bảo chất lượng (như trường hợp xe máy Wavea); đường xá Việt Nam gồ ghề thì nên cải tiến sao cho giảm độ ồn, rung của động cơ… Có như vậy thì mới vừa tạo ra uy tín cho doanh nghiệp, vừa tăng sức tiêu thụ của sản phẩm. Khi chuyển giao công nghệ vào Việt Nam các nhà đầu tư nước ngoài không nên chỉ dừng lại ở việc sử dụng công nghệ mà còn nên phát triển công nghệ thêm những tầm cao mới. Như chúng ta đã biết tri thức khoa học không chỉ có mặt ở nước phát minh công nghệ mà còn cả ở nước tiếp nhận công nghệ. Hơn nữa con người Việt Nam vốn rất thông minh, dễ tiếp thu cái mới và khả năng tư duy sáng tạo cao. Do vậy các doanh nghiệp FDI cũng nên tận dụng đội ngũ trí thức sẵn có này để sáng tạo ra sản phẩm mới, phương thức sản xuất mới nhằm tiết kiệm nguyên liệu, nâng cao năng suất lao động đem lại lợi ích lớn cho doanh nghiệp. Muốn vậy mỗi doanh nghiệp FDI nên nghĩ đến việc đặt thêm một cơ sở nghiên cứu và phát triển sản phẩm để khai thác chất xám của lực lượng lao động trong nước, tạo ra công nghệ để bán ra nước ngoài. KẾT LUẬN Trong những năm qua chuyển giao công nghệ qua các dự án FDI đã đem lại cho nước ta sự đổi mới về chất trong nền kinh tế. Các ngành đều được bổ sung thêm những năng lực sản xuất tuyệt vời và tạo ra được các sản phẩm chất lượng cao, không chỉ đáp ứng nhu cầu trong nước mà còn xuất khẩu ra nước ngoài. Công nghệ chuyển giao từ nước ngoài đã góp phần đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp văn minh. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu đạt được thì chúng ta vẫn gặp phải một số khó khăn. Lợi dụng tình trạng kém hiểu biết của các cán bộ Việt Nam nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã đưa vào những công nghệ cũ kỹ lạc hậu gây ô nhiễm môi trường, định giá cao công nghệ so với giá trị thực tế làm cho đất nước phải gánh chịu những khoản thiệt hại lớn. Sản phẩm sản xuất ra thường kém sức cạnh tranh. Ngoài lĩnh vực dầu khí, dệt may, giày dép thì những ngành như điện tử, viễn thông, hoá chất, ô tô đều là những ngành có công nghệ cao nhưng không cạnh tranh được với các nước ngay cả các nước trong khu vực ASEAN. Do đó việc chúng ta cần làm trong thời gian tới việc chúng ta cần làm là phải nâng cao trình độ khoa học công nghệ trong nước nhằm giảm bớt rủi ro thiệt hại và nâng cao hiệu quả của hoạt động chuyển giao công nghệ, không ngừng học hỏi tiếp thu công nghệ nước ngoài để xây dựng công nghệ cho chính đất nước mình. Tiếp tục thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, đặc biệt là đầu tư công nghệ cao vì FDI hiện nay vẫn là sự lựa chọn số 1 của chúng ta để du nhập công nghệ nước ngoài. TÀI LIỆU THAM KHẢO Sách, giáo trình, báo cáo 55 năm ngành công nghiệp Việt Nam, NXB Thống kê, Hà Nội 2000. Bộ KH&ĐT (3/2004), Báo cáo tình hình và giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong giai đoạn tới. Bộ Khoa học và công nghệ (2003), Công nghệ và phát triển thị trường công nghệ ở Việt Nam, NXB Khoa học và Kỹ thuật. Công nghiệp dầu khí và nguồn nhân lực, NXB Thanh Niên 2001 Chính sách công nghiệp trong các nền kinh tế thị trường phát triển, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội 1994. GS, TS. Trần Văn Thọ (1997), Công nghiệp hoá Việt Nam trong thời đại Thái Bình Dương, NXB TP. Hồ Chí Minh. GVC.TS. Nguyễn Thị Hường (2000), Quản trị dự án đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, NXB Thống kê. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, NXB Khoa học và Xã hội, Hà Nội 2002. MPI/DSI (2001), Việt Nam hướng tới 2010, NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội. Phùng Xuân Nhạ (2001), Đầu tư quốc tế, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. Tổng quan về cạnh tranh công nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia 1999. Tiềm năng Việt Nam thế kỷ 21, NXB Thế giới 12/2002. Trường đại học KTQD (2002), Quản trị dự án và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - FDI, NXB Thống kê. Trung tâm KHXH và Nhân văn Quốc gia (2003), Các công ty xuyên quốc gia. Khái niệm, đặc trưng và những biểu hiện mới, NXB Khoa học Xã hội. TS. Nguyễn Trọng Xuân (2002), Đầu tư trực tiếp nước ngoài với công cuộc CNH, HĐH ở Việt Nam. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, UNDP (2003), Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, NXB Giao thông vận tải. Viện Nghiên cứu Thương Mại (10/2003), Báo cáo nghiên cứu thị trường hàng điện tử. Báo, tạp chí Chiến lược phát triển Khoa học và Công nghệ Việt Nam đến 2010, Tạp chí Hoạt động Khoa học số 2/2004. Hoàng Quân, “Da” vẫn chưa đi đôi với “Giầy”, Tạp chí Công nghiệp 9/2003. Hoàng Văn Dụ, Tổng công ty Điện tử và Tin học Việt Nam với việc thực hiện chương trình sản phẩm công nghiệp trọng điểm, Tạp chí Việt Nam 1/2004. Lê Thành Đồng, Thu hút vốn FDI - Làm thế nào để gió đổi chiều trong mùa xuân mới, Tạp chí Công nghiệp 1/2004. Lỗ Thị Nhụ, Cần một hệ thống chính sách đồng bộ cho sự phát triển ngành sản xuất ô tô Việt Nam, Tạp chí Công nghiệp số 17/2003. Nguyễn Kinh Luân, Khoa học và Công nghệ song hành, hội nhập, thúc đẩy sản xuất, Tạp chí công nghiệp 1/2004. Nguyễn Văn Tài, Các giải pháp thu hút đầu tư nước ngoài: Chuyển giao công nghệ cho ngành Da Giầy Việt Nam đến năm 2010, Tạp chí Công nghiệp Việt Nam 10/2001. Các nguồn khác Vinaseek, 2/2002, “Newpage 2”. Vinaseek, 2003, “Ứng dụng công nghệ thông tin: Một năm nhìn lại”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docChuyển giao công nghệ thông qua các dự án FDI Thực trạng và Giải pháp.doc
Luận văn liên quan